LỜI BÌNH NGẮN (TẬP 1)
Lời Nói Đầu
1/ Tô Đông
Pha Sửa Thơ Vương Thạch
2/ Chọn Thơ Để Bình
3/ Anh Bằng
Sửa Thơ Yên Thao 2/ Chọn Thơ Để Bình
4/ Ý Tưởng
Trong Thơ TTKH
5/ Ý Tưởng
Trong Bài Thơ Ngọn Cỏ 6/ Anh Em Trong Ngậm Ngùi
7/ Một Mong
Ước Thật Đáng Thương
8/ Phân Biệt
Tứ Và Ý
9/ Tiếc Cho
Nguyễn Bính
10/ Trạng Quỳnh
Nỡm Vua Xin nhắc các bạn trẻ - đối tượng chính của những bài viết như thế này – nên luôn để mắt vào Cái Đẹp Tổng Thể Của Bài Thơ. Có những câu thơ đứng riêng một góc trời thì rất hay, rất tuyệt. Nhưng khi đưa vào bài thơ thì lại không hợp, có khi còn trở thành vật cản đối với dòng chảy của tứ thơ. Nhận biết được một câu thơ, đoạn thơ hay là một bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, phải đặt câu thơ, đoạn thơ đó vào khung cảnh bài thơ, cân nhắc, xem xét những tiêu chí khác - đặc biệt là dòng chảy của tứ thơ, hơi thơ và hồn thơ - để sau cùng đi đến kết luận chung cuộc, có tính tổng hợp về giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Vương
An Thạch trong lúc du học ở đảo Hải Nam đã làm
một bài thơ trong đó có hai câu rất lạ:
Minh Nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm
Dịch nghĩa:
Trăng sáng hót đầu núi
Chó vàng nằm (trong) lòng hoa
Thi hào Tô Ðông Pha tình cờ đọc được, thấy “sai” (trăng sáng làm sao hót trên đầu núi và chó vàng làm sao nằm trong lòng hoa được) nên đã sửa lại hai chữ cuối cho đúng nghĩa hơn.
Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm
Dịch nghĩa:
Trăng sáng rọi đầu núi
Chó vàng nằm (dưới) bóng hoa
Chuyện sửa thơ đến tai Vương An Thạch (lúc ấy đang là Tể Tướng) nên họ Vương đã bổ nhiệm Tô thi hào một chức quan ở Hải Nam. Sau đó Tô Ðông Pha mới khám phá ra ở địa phương này có loại chim tên là Minh Nguyệt, hay hót trên đầu núi, và có một loại sâu tên là Hoàng Khuyển, chỉ thích nằm trong lòng hoa! Và người kể chuyện kết luận “Lúc ấy Tô Ðông Pha mới biết là mình xớn xác, bồng bột và thấy được cái thâm trầm của Vương An Thạch.”
Theo tôi, việc Tô Đông Pha sửa thơ không có gì là “xớn xác, bồng bột” hết. Người đọc thơ, bình thơ – trong thế giới thơ rộng lớn - không thể biết và không có bổn phận phải biết những chi tiết, sự việc chỉ có, chỉ xảy ra ở một địa phương nhỏ bé. Chính thi sĩ - để hoàn thành chức năng truyền thông của bài thơ - phải chú thích để người đọc biết, hiểu những chi tiết, sự việc có tính chất địa phương ấy. Lỗi và trách nhiệm ở đây nằm trên hai vai Vương An Thạch chứ không phải Tô Đông Pha.
Minh Nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm
Dịch nghĩa:
Trăng sáng hót đầu núi
Chó vàng nằm (trong) lòng hoa
Thi hào Tô Ðông Pha tình cờ đọc được, thấy “sai” (trăng sáng làm sao hót trên đầu núi và chó vàng làm sao nằm trong lòng hoa được) nên đã sửa lại hai chữ cuối cho đúng nghĩa hơn.
Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm
Dịch nghĩa:
Trăng sáng rọi đầu núi
Chó vàng nằm (dưới) bóng hoa
Chuyện sửa thơ đến tai Vương An Thạch (lúc ấy đang là Tể Tướng) nên họ Vương đã bổ nhiệm Tô thi hào một chức quan ở Hải Nam. Sau đó Tô Ðông Pha mới khám phá ra ở địa phương này có loại chim tên là Minh Nguyệt, hay hót trên đầu núi, và có một loại sâu tên là Hoàng Khuyển, chỉ thích nằm trong lòng hoa! Và người kể chuyện kết luận “Lúc ấy Tô Ðông Pha mới biết là mình xớn xác, bồng bột và thấy được cái thâm trầm của Vương An Thạch.”
Theo tôi, việc Tô Đông Pha sửa thơ không có gì là “xớn xác, bồng bột” hết. Người đọc thơ, bình thơ – trong thế giới thơ rộng lớn - không thể biết và không có bổn phận phải biết những chi tiết, sự việc chỉ có, chỉ xảy ra ở một địa phương nhỏ bé. Chính thi sĩ - để hoàn thành chức năng truyền thông của bài thơ - phải chú thích để người đọc biết, hiểu những chi tiết, sự việc có tính chất địa phương ấy. Lỗi và trách nhiệm ở đây nằm trên hai vai Vương An Thạch chứ không phải Tô Đông Pha.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
1/ Bài thơ có đủ hay, đủ tiếng tăm, đủ hấp
dẫn để có thể “mời gọi” độc giả đến với bài bình thơ của mình hay không?
2/ Bài bình thơ của mình – phân tích, giải
thích cái hay, cái dở (nếu có) của bài thơ dựa vào những Tiêu Chí thẩm định giá
trị nghệ thuật thơ ca - có đem lại điều gì mới, bổ ích (về thơ) cho độc giả hay
không? Lập luận của mình có đủ sức thuyết phục những độc giả hiểu biết, khó
tính và cả giới phê bình không? 3/ Nếu đã có những bài bình trước rồi thì liệu bài bình của mình có đem lại điều gì mới hơn những bài bình đó hay không?
Thơ được chọn
bình hầu hết là thơ hay (theo nhận định của người bình) hoặc ít nhất cũng có một
điểm gì đó nổi bật như tứ thơ, ý thơ mới lạ, khả năng diễn đạt ý tưởng của tác
giả điêu luyện, ngôn từ trong sáng, sang cả, hình ảnh đẹp, được đặt đúng chỗ,
đúng lúc làm tăng sức hấp dẫn của bài thơ. Bên cạnh đó có thể còn có sự xuất hiện
của những “cầu thủ siêu sao” – những câu, đoạn thơ độc đáo – cách kết thúc đầy ấn
tượng, phép ẩn dụ ý nhị, thủ pháp Show, Not Tell khéo léo, cảm xúc dạt dào. Đây
là chỗ mà người yêu thơ đọc đi, đọc lại để thưởng thức, còn người bình thơ giải
thích, phân tích để chia sẻ cái đẹp ấy với mọi người.
Đã bình thơ
là phải có khen chê. Dĩ nhiên, cũng có (nhưng rất ít) những bài thơ toàn bích,
còn thì đại đa số thơ được lưu hành thế nào tác giả cũng có một chút “không
khéo” ở chỗ này, chỗ khác; người bình thơ cũng phải chỉ ra để độc giả (trong đó
có rất nhiều thi sĩ khác) rút kinh nghiệm khi viết những bài thơ sau. Thấy khuyết
điểm mà lờ đi vì những lý do không liên quan đến thơ thì, theo tôi, là hành vi
“thiếu lương thiện trong văn chương”. Hơn nữa, bình thơ mà bài nào cũng khen tuốt
luột từ đầu đến chân thì, nói như nhà văn Châu Thạch, là “nịnh thơ” chứ không
phải bình thơ.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
Bên kia vùng giặc đóng
Khi phổ nhạc bài thơ nhạc sĩ Anh Bằng sửa lại:
Tôi đứng bên
này sông
Bên kia vùng lửa khói Hơn nữa, chi tiết làng tôi là “vùng giặc đóng” khiến việc đánh bật trại giặc để chiếm lĩnh mục tiêu trong một trận đánh có cả pháo binh sẽ rất nguy hiểm cho căn nhà và những người sống trong đó. Điều này làm nỗi lo của người lính thật hơn, khơi dậy nơi người đọc cảm xúc mạnh hơn. Anh Bằng đã làm tứ thơ dở đi rất nhiều khi thay cụm từ trên.
(Trích trong
bài Khả Năng Hiểu Cảm Câu Chữ, Phạm Đức Nhì, t-van.net)
4/ Ý TƯỞNG TRONG THƠ TTKH
Những bài thơ của TTKh đã đạp đổ cái luật lệ khắt khe bất nhân ấy, đã gột rửa lớp son phấn giả tạo của Khổng Giáo trên thân thể người phụ nữ, để lộ ra trước xã hội, trước cuộc đời một Con Người có trái tim, biết yêu thương, nhung nhớ, biết khổ đau. Ý tưởng của mấy bài thơ, lúc ấy, được coi là vô cùng táo bạo, không những thoát khỏi mà còn chảy ngược với dòng thơ phải đạo.
Tôi có mấy
nhận xét sau đây:
1/ Đối tượng của
CONK nhắm vào những cung nữ trong cung đình, chỉ là một bộ phận nhỏ trong cộng
đồng phụ nữ của dân tộc.
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không ...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không ...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Thể thơ mới phóng khoáng, tự do hơn nên
TTKh đã trải tâm sự của mình một cách thoải mái, đầy đủ, sâu sắc. Hơn nữa đội
quân chữ nghĩa của bà thế trận chặt chẽ hơn, chia thành 4 đạo quân bao kín trận
địa (4 bài thơ) và đã chinh phục hoàn toàn tim óc của người đọc thời bấy giờ.
Dưới cái nhìn của thơ ca hiện đại
thì mấy bài thơ của TTKh – dù nhỉnh hơn CONK và Cảnh Làm Lẽ - chỉ ở mức khá hoặc
trên khá một chút - nhưng nhờ có ý tưởng nhân bản và táo bạo – đòi lại quyền làm chủ trái tim mình cho toàn thể phụ
nữ - nên chúng, tuy chưa phải là tuyệt tác, vẫn có một vị trí đặc biệt trong
văn học sử, trở thành cột mốc quan trọng trên chặng đường tiến hóa của dân tộc.
Ý tưởng trong thơ của TTKH có thể xếp vào hạng 1 và hạng 2 - vừa nhân bản, vừa có giá trị lịch sử.
nhỏ giọt
trong bồn cầu tí tách
thứ nước ấm sóng sánh vàng
hổ phách
trong người tôi tuôn ra
hạng đàn bà đái không qua ngọn cỏ
Bây giờ
được
ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệtương lai không chừng tôi sẽ
to con mập phệ
tí tách như mưa
ngọn cỏ gió đùa.
(Nguyễn Thị Hoàng Bắc)
Bài thơ đóng góp một lời kêu gọi mạnh mẽ cho cuộc
cách mạng nữ quyền. Phụ nữ hãy vùng lên đòi quyền “đứng đái đàng hoàng” như nam
giới. Tứ thơ mới lạ một cách táo bạo. Kỹ thuật thơ vững, nhuyễn, thể thơ có thể
nói đã vượt qua thơ mới về số chữ trong câu, vần tự nhiên nhưng hơi “ngọt” (một
chút thôi). Tiếc là câu kết quá dở, “trật
bàn đạp”, ngược với dòng chảy của tứ thơ.
Riêng về Ý Tưởng Trong Thơ có thể xếp
vào hạng 1 và hạng 3.
(Trích ý trong bài Ngọn Cỏ: Một Bài Thơ
Hay?, Phạm Đức Nhì, t-van.net)Đến năm 2006 “trong chương trình âm nhạc cuối tuần của Đài RFA cũng như chương trình văn học nghệ thuật của Đài RFI, anh Hà Vũ (Cù Huy) khẳng định lại, bài thơ Ngậm Ngùi được viết cho người em gái ruột của nhà thơ mất khi còn nhỏ, độ tuổi trăng rằm, khi nhà thơ đến thăm mộ.” (1)
Và tôi đã viết lời bình cho đoạn cuối bài thơ:
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ
Hồn anh đã chin mấy mùa thương đau
Thế rồi bóng cây đã dài, trời đã sắp tối, nỗi đau thương trong hồn đã chín, trái sầu đã trĩu nặng, thi sĩ vẫn nán lại để cùng cô em gái “sống” một giấc mơ, một kỷ niệm sau cùng trước khi từ giã. Cảnh và tình kết hợp, quyện lẫn với nhau thành một bức tranh thơ rất buồn, rất đẹp.
Tay anh em hãy tựa đầu
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi
Và chàng mơ thấy em tựa đầu lên tay mình như ngày xưa còn bé, mắt nhắm, giấc ngủ bình yên. Ôi! Đúng lúc ấy trái sầu trĩu nặng trong hồn chàng bấy lâu bỗng đứt cuống rụng rơi, biến mất. Người chàng nhẹ nhàng bay bổng; hạnh phúc ập đến choáng ngợp tâm hồn. (1)
Em ở đây không phải người yêu mà là “hồn ma bóng quế” của đứa em gái trong tâm tưởng của nhà thơ. Cho nên khi nữ ca sĩ hát mà tự động hoán chuyển giới tính, thay “anh” bằng “em” thì … trật lất. Thế mà thỉnh thoảng xem TV các chị ca sĩ vẫn cứ ung dung “Tay em anh hãy tựa đầu”, chẳng cần biết “trời trăng mây nước” gì hết thì quả là đáng … sợ thật.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
Chú Thích:
1/ Ngậm Ngùi: Trái Sầu Trĩu Nặng, Phạm Đức Nhì, t-van.net
Nhà thơ Xuân Quỳnh rất cảm xúc khi nghe ca khúc “Thuyền Và Biển”. Chị chỉ mong ước giữ nguyên văn câu thơ: “Nếu phải cách xa anh, em chỉ còn bão tố!” Mong các ca sĩ đừng đổi lại: “Nếu phải cách xa em, anh chỉ còn bão tố”. Chị không muốn xóa đi kỷ niệm buồn đau của mình trong cuộc tình đã qua, và theo chị chắc gì nam giới đã có được tình yêu đằm thắm, đắm say và có lúc bão tố như phụ nữ” (http://vannghenamchau.net/thuyen-va-bien-moi-luong-duyen-giua-nhac-va-tho-huu-du/)
Tôi rất đồng cảm với Xuân Quỳnh về điều mong ước trên. Có điều theo tôi, tại sao lại để chị phải thốt ra những lời mong ước đó? Các ca sĩ nếu có một chút khả năng “hiểu cảm câu chữ”thì phải biết bản nhạc phổ thơ là tâm trạng của người phụ nữ trong chuyện tình của Thuyền Và Biển, thuyền là nam và biển là nữ. Bản nhạc này để nữ hát là đúng nhất, là hợp tình nhất. Nhưng nếu nam thích thì cũng vẫn có thể hát được, miễn là phải hiểu rằng “giọng nam của mình đang được mượn để chuyển tải tâm tình của một phụ nữ”nghĩa là phải hát đúng nguyên văn:
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố
Chứ nếu đổi lại:
Nếu phải cách xa em
Anh chỉ còn bão tố
thì sai bét. Anh là thuyền chứ có phải là biển đâu mà bão với tố!
Tôi đã vào Youtube nghe vài nam ca sĩ hát
Thuyền và Biển. Đáng buồn là nghe 5 ca sĩ hát thì cả 5 đều hát sai.(3) Rất mong
các nam ca sĩ xem lại để hát cho đúng. Trước hết, để tỏ lòng tôn trọng Xuân Quỳnh,
một nữ sĩ tài danh đã mất, thứ đến để chứng tỏ đẳng cấp nghệ sĩ của mình, có thể
hiểu, cảm tâm trạng của tác giả và thả hết tâm hồn vào lời ca, nốt nhạc chứ
không phải là người vô trách nhiệm, tự động sửa lời bản nhạc của người ta theo
ý mình, chẳng cần biết đúng sai, và cứ thế nhắm mắt hát bừa, hát bậy.
(https://www.youtube.com/watch?v=OlDLsnO4gIE, nam ca sĩ Nguyên Trường)
(https://www.youtube.com/watch?v=zKgiych7wPw, nam ca sĩ Quang Lý)
(https://www.youtube.com/watch?v=hseI9n78c9k, nam ca sĩ Trung Đức)
(https://www.youtube.com/watch?v=zrF1tNqLcvg, nam ca sĩ Cao Minh)
(https://www.youtube.com/watch?v=2-4yQ-EVlEY, nam ca sĩ Ngọc Sơn)
(Trích trong Thuyền Và Biển - Ngọt Bùi Cay
Đắng Của Tình Yêu, Phạm Đức Nhì, t-van.net)
Ý: Điều tác giả muốn nói đến
Tứ: Cách để tiếp cận, diễn đạt ý
Khi tác giả chọn cách nói trực tiếp, nói thẳng vảo điều muốn nói, bài thơ có ý và tứ giống nhau. Ý là tứ, tứ là ý, ý với tứ là một.
Thí dụ:
Anh Lái Đò của Nguyễn Bính
Ý và Tứ là một: Anh lái đò nói về mối tình tuyệt vọng của mình.
Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác
Ý và Tứ là một: Hào khí của một sĩ phu trước cảnh đất nước điêu linh
Khi tác giả không muốn nói trực tiếp, không muốn nói thẳng vào điều muốn nói mà mượn một hình ảnh khác, một sự kiện khác để thố lộ lòng mình, bài thơ có ý và tứ khác nhau. Ý là điều muốn nói; tứ là hình ảnh mượn để thố lộ lòng mình.
Thí dụ:
Ông Đồ của Vũ Đình Liên
Tứ: Ông đồ ngồi bên phố viết câu đối thuê cho khách du xuân. Nay xuân đến, không thấy ông đồ nữa, nhiều người tiếc nhớ.
Ý: Tác giả muốn nói đến nền nho học đang lụi tàn.
Nhớ Rừng của Thế Lữ
Tứ: Con hổ trong vườn bách thú tiếc nhớ những ngày còn là chúa sơn lâm, tự do vùng vẫy nơi rừng sâu núi cao- giang sơn của mình.
Ý: Tác giả mượn lời con hổ để nói đến hào khí, ước mơ của chính mình.
Giấc Mơ Anh Lái Đò
Năm xưa chở chiếc thuyền nàyCho cô sang bãi tước đay chiều chiều
Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
“Tước đay se võng nhuộm điều ta đi
“Tước đay se võng nhuộm điều ta đi
Tưng bừng vua mở khoa thi,
Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.”
Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.”
Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn…
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn…
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi!
Dẫu sao Giấc Mơ Anh Lái Đò vẫn là một bài thơ rất hay. Đặc biệt là 2 câu kết tuyệt vời, mở cửa đổ cả một dòng thác cảm xúc làm ướt đẫm tâm hồn người đọc và đã lưu lại trong lòng họ rất lâu cái cảm giác đau buồn tê tái của anh lái đò. Tuy không có tuyệt chiêu “thi hóa thân thành họa” như Ông Đồ của Vũ đình Liên nhưng bài thơ có những ưu điểm khác (đặc biệt là đoạn kết) tạo thành một thi phẩm độc đáo, góp phần đưa Nguyễn Bính vào hàng những nhà thơ được yêu mến nhất trong thời kỳ Thơ Mới.
Nói Với Các Bạn Trẻ Yêu Thơ
Show, not Tell là một thủ pháp nghệ thuật ở đó tác giả tránh không nói thẳng ý mình mà cung cấp dữ kiện, chi tiết để người đọc tự suy gẫm tìm ra. Nó tạo cho câu thơ, bài thơ cái vẻ đẹp “lung linh sương khói” và cho người đọc cơ hội tham gia tích cực vào tiến trình đọc và khám phá tứ, ý của bài thơ. Trong GMALĐ Nguyễn Bính đã áp dụng thủ pháp này một cách tài tình. Ông thành công ở 3 đoạn, nhưng ông đã đưa vào bài thơ chữ “to” rất vô duyên làm lộ ý của đoạn 3.
Đoạn kết của bài thơ hay tuyệt.
10/
TRẠNG QUỲNH NỠM VUA Có người giả chín quan tiền, lại thôi!
Dẫu sao Giấc Mơ Anh Lái Đò vẫn là một bài thơ rất hay. Đặc biệt là 2 câu kết tuyệt vời, mở cửa đổ cả một dòng thác cảm xúc làm ướt đẫm tâm hồn người đọc và đã lưu lại trong lòng họ rất lâu cái cảm giác đau buồn tê tái của anh lái đò. Tuy không có tuyệt chiêu “thi hóa thân thành họa” như Ông Đồ của Vũ đình Liên nhưng bài thơ có những ưu điểm khác (đặc biệt là đoạn kết) tạo thành một thi phẩm độc đáo, góp phần đưa Nguyễn Bính vào hàng những nhà thơ được yêu mến nhất trong thời kỳ Thơ Mới.
Nói Với Các Bạn Trẻ Yêu Thơ
Show, not Tell là một thủ pháp nghệ thuật ở đó tác giả tránh không nói thẳng ý mình mà cung cấp dữ kiện, chi tiết để người đọc tự suy gẫm tìm ra. Nó tạo cho câu thơ, bài thơ cái vẻ đẹp “lung linh sương khói” và cho người đọc cơ hội tham gia tích cực vào tiến trình đọc và khám phá tứ, ý của bài thơ. Trong GMALĐ Nguyễn Bính đã áp dụng thủ pháp này một cách tài tình. Ông thành công ở 3 đoạn, nhưng ông đã đưa vào bài thơ chữ “to” rất vô duyên làm lộ ý của đoạn 3.
Đoạn kết của bài thơ hay tuyệt.
Ông Trạng mời vua đến nhà chờ ăn món mầm đá rồi sau cùng khi vua thật đói thì đưa ra đĩa rau muống luộc và một cái lọ sành. Vua hỏi thì Trạng Quỳnh trả lời: Đó là món “đại phong”.
Đại phong là gió lớn
Gió lớn thì đổ chùa
Đổ chùa thì tượng lo
Tượng lo là lọ tương.
Và vua ăn cơm với rau muống chấm tương ngon lành.
Tôi có lần kể cho vài người bạn Mỹ nghe thì họ phán thẳng thừng: “Stupid joke.”(truyện cười ngu xuẩn).
Chúng ta thử xem cách liên tưởng của Trạng Quỳnh.
1/ Đại phong là gió lớn: đúng, không có gì bàn cãi.
2/ Gió lớn thì đổ chùa: gió lớn có thể gây ra hàng trăm thứ thiệt hại. Lý lẽ nào bắt óc liên tưởng của người đọc dừng ở chỗ “đổ chùa”?
3/ Đổ chùa thì tượng lo: đổ chủa cũng có hảng trăm hậu quả. Lý lẽ nào để bắt óc liên tưởng của người đọc dừng ở chỗ “tượng lo”?
4/ Tượng lo liên tưởng đến lọ tương thì tạm hợp lý, có thể chấp nhận.
Tôi không hiểu sao cái truyện cười vô lý và ngờ nghệch đến thế mà vẫn được truyền tụng trong nhân gian từ đó đến nay.
Nếu thi sĩ ở đoạn kết của bài thơ có thể mở ra trước mắt người đọc một khoảng không gian rộng lớn để mỗi người có thể nhờ óc tưởng tượng của mình “thả hồn vào mênh mông” – thì, với tôi, là hạnh phúc lớn cho người đọc, cho thi ca. Nhưng để đến được cái chỗ có thể như Nguyễn Khắc Phước:
… chép giấc mơ vào con thuyền giấy
thả trôi vào mênh mông (Mắt Bồ Câu, Nguyễn Khắc Phước, Văn Nghệ Quảng Trị)
cho hồn thi sĩ bềnh bồng theo dòng nước ra tận tít mù khơi, người đọc phải “vịn” vào mỗi câu thơ để tìm đường đi. Khi bài thơ chưa đến đọan kết, đừng tạo quá nhiều ngã rẽ mà không có lời chỉ dẫn kỹ càng. Xin đừng gợi trí tưởng tượng của người đọc qua những liên tưởng quái đản kiểu Trạng Quỳnh:
Gió lớn thì đổ chùa
Đổ chùa thì tượng lo
có hai điểm dừng, mỗi điểm có hàng trăm ngã rẽ. Người đọc chắc chắn sẽ đi lạc – không bắt được tứ thơ – và bài thơ thất bại. Viết kiểu đó người biết chuyện sẽ cười vào mũi thi sĩ cũng như người ta (có cả người ngoại quốc) đã cười vào mũi Trạng Quỳnh.
Phạm Đức Nhì
Blog
Chuyên Về Bình Thơ
Phamnhibinhtho.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.