CHĂN
TRÂU ĐỐT LỬA
MỘT
VÀI CẢM NHẬN
Chăn trâu đốt lửa
Chăn
trâu đốt lửa trên đồng
Rạ
rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải
mê đuổi một con diều
Củ
khoai nướng để cả chiều thành tro.
Đồng Đức Bốn
Bài thơ ngắn nhưng tứ thơ rất hay:
mê thả diều để củ khoai nướng, có thể là bữa ăn đạm bạc của trẻ chăn trâu, cháy
thành tro. Ngụ ý của tác giả là: nhiều khi chạy theo những cái viển vông, bay
cao tít trên trời mà quên đi những thứ thiết thực, gắn bó với cuộc sống, ngay
trên mặt đất. Nhưng cũng chẳng có gì nuối tiếc vì những thứ viển vông, cao tít
đó chính là thức ăn cho tinh thần, cho phần hồn của con người; đó chính là niềm
vui, hạnh phúc mà vật chất không thể tạo ra được.
Tứ thơ đã hay mà phếp ẩn dụ
cũng rất dễ cảm, dễ thương, chứng tỏ tác giả có cái nhìn về cuộc sống rất phóng
khoáng nhưng không kém phần sâu sắc. Tôi thích bài thơ một phần vì tác giả đã
chọn được tứ thơ bình dị mà lại độc đáo, phần khác là vì có dính dáng đến chút
riêng tư.
Số là cũng như thi sĩ Đồng Đức Bốn, tôi rất thích và cũng võ vẽ làm
thơ – cái thú tiêu khiển mà vợ tôi cho là “trò chơi vô bổ.” Bà ấy còn mạnh
miệng nói: “Nhà thơ như ông lúc nào hồn cũng vơ vẩn trên mây; thỉnh thoảng cũng
nên hạ chân xuống mặt đất để phụ giúp tôi kiếm thêm đồng tiền, bát gạo cho gia
đình chứ.” Tôi nhìn quanh thì quả thật đại đa số thi sĩ Việt Nam làm thơ là vì
cái “nghiệp,” cái thú, cái đam mê của họ chứ ít ai có thể dựa vào mấy câu thơ
để tự nuôi sống mình chứ đừng nói gì đến nuôi vợ nuôi con (ngoại trừ một số
“nhà thơ cung đình” làm thơ phục vụ chế độ, và dĩ nhiên, một vài thi sĩ thiên
tài.) Nhưng cái thú, cái nỗi đam mê ấy cứ đẩy tôi vào vòng tay của nàng thơ.
Mỗi tuần, mỗi ngày, sau thời gian trả nợ quỷ thần cho miếng cơm manh áo, hồn
tôi lại theo tiếng gọi của thơ bay lên chín tầng mây. Mặc kệ cuộc đời. Mặc kệ
mụ vợ sống thực tế, chân lúc nào cũng chạm đất. Tôi bay lên cao ôm lấy nàng
thơ, ôm lấy hạnh phúc đích thực của mình. Nếu thi sĩ Đồng Đức Bốn còn sống, hy
vọng ông sẽ không phản đối những lời bình này.
Sau
đây là một chút khuyết điểm của bài thơ.
Như
đã giới thiệu và phân tích ở phần trên, thi sĩ của chúng ta đã chọn được tứ thơ
hay, bây giờ xin mời độc giả (cùng tôi) thưởng thức cách tổ chức thế trận chữ
nghĩa của ông. Đạo quân chính trong trận Chăn Trâu Đốt Lửa - hồn cốt của bài thơ
(tứ thơ) - nằm trong 2 câu cuối:
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
Hai
câu đầu là phần dẫn nhập, cái cớ để tứ thơ xuất hiện, làm nhiệm vụ yểm trợ:
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều.
Trong
bài Lục Bát Và Chăn Trâu Đốt Lửa ông Nguyễn Lâm Cúc đã viết:
Khung
cảnh trong bài thơ là cánh đồng miền Bắc, nơi mà dù vụ gặt vừa mới xong rạ rơm
cũng không còn lại bao nhiêu, vì suốt cả một vùng đồng bằng dọc theo châu thổ
sông Hồng, người nông dân quí rạ không khác gì sản phẩm khác. Họ tận thu rơm rạ
để làm thức ăn cho trâu, bò; để đun nấu, để làm vách đất nữa. Vì vậy, cánh đồng
sau vụ gặt mùa Đông chỉ còn rất nhiều gió và cái lạnh thấu xương. http://nguyenlamcuc.vnweblogs.com/print/2509/129996
Trong
bài “Chăn Trâu Đốt Lửa”: Sâu Sắc Một Triết
Lý Nhân Sinh nhà phê bình Đức Thọ cũng đề cập đến sự hiếm hoi của rơm rạ sau vụ
gặt Đông:
Câu
thơ thứ hai nhà thơ khẳng định “Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều”. Đúng vậy,
trong mùa hanh heo mà đã gió đông thì khi thổi cháy bao nhiêu rơm rạ cho vừa. http://lucbat.com/news.php?id=3470
Trong đầu tôi tức khắc hiện ra câu hỏi:
Trong hoàn cảnh đó làm sao có đủ than lửa để củ khoai cháy thành tro được?
Tôi có điện thoại hỏi một ông chú họ xa ở ngoại
thành Hà Nội thì được cho biết: Nếu chịu
khó kiếm cành khô, củi mục ở nơi khác gom lại thì với chút ít rơm rạ còn sót ở
cánh đồng cũng có thể tạo được “bếp lửa” để nướng khoai nhưng phải chăm chút,
che chắn cẩn thận, chứ như thi sĩ của chúng ta “Mải mê đuổi một con diều” thì
chỉ chốc lát là rơm rạ đã bay tung tóe, lửa tắt, củ khoai chưa chắc đã chín chứ
làm gì có cái cảnh “Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.” Mà dù - cứ cho là với cái tài gầy bếp đặc biệt của trẻ
chăn trâu - củ khoai nướng đã thực sự thành tro thì theo tôi, câu thơ “Rạ rơm
thì ít, gió đông thì nhiều” cũng đã “đi ngược đường” với tứ thơ.
Trong
quân đội đôi khi có những người lính “vô tích sự”, cháu của ông Bộ Trưởng này,
con của ông Tổng Cục kia, có mặt ở Bộ Chỉ Huy, Bộ Tư Lệnh chỉ để làm vì, để bảo
vệ “chữ Thọ”, để khỏi phải lao vào chỗ sống chết nơi trận địa. Khi đụng chuyện
chẳng những không giúp ích được gì cho đơn vị mà có khi còn vướng chân, vướng
tay những người lính khác trong việc hoàn thành nhiệm vụ của họ. Đặc biệt hơn,
còn có những người lính làm nội gián cho địch để cản trở, để phá hoại việc thực
hiện nhiệm vụ của đơn vị.
Trong thơ, tôi đã gặp khá nhiều những câu thơ “vô tích
sự”. Có lẽ tôi sẽ đề cập đến những câu thơ “thừa” này vào một dịp khác. Riêng
trường hợp Chăn Trâu Đốt Lửa thì “Rạ rơm
thì ít, gió đông thì nhiều” chính là câu thơ nội gián. Không những nó không
giúp làm tăng độ khả tín, sức thuyết phục của tứ thơ mà ngược lại, đã trở thành
một chướng ngại vật ngăn cản hành trình qua đó độc giả tiếp cận tứ thơ để rồi đi
đến chỗ đồng cảm với tác giả.
Tạo
ra và dung dưỡng một câu thơ nội gián, theo tôi, là một lỗi nặng của thi sĩ. Tùy
mức độ khắt khe của độc giả, bài thơ có thể bị đánh giá là hỏng, giảm giá trị nghệ thuật hoặc chí ít cũng là không được hay đẹp trọn vẹn.
Với
tôi, Chăn Trâu Đốt Lửa là một bài thơ hay; tứ thơ là một triết lý sống lãng mạn,
cao đẹp, Nếu không có cái câu thơ nội gián ấy, bài thơ chắc đã được đặt vào một
vị trí trang trọng hơn rất nhiều.
Galveston
08/2015
Phạm
Đức Nhì