Thứ Năm, 27 tháng 2, 2020

“I AM NOT YOURS” - DẤU HIỆU CỦA MỘT CUỘC TÌNH TAN VỠ


             “I AM NOT YOURS” - DẤU HIỆU CỦA MỘT CUỘC TÌNH TAN VỠ   
          

Lời Nói Đầu

Vào 2 thập niên đầu của thế kỷ 20, trong khi phụ nữ Việt Nam đang phải đeo trên cổ cái gông “tam tòng tứ đức” của đạo Khổng, phải chấp nhận sống cảnh “chồng chúa vợ tôi”, thì ở Mỹ Sara Teasdale cũng đã phải đau đớn thốt lên với người đàn ông mình yêu: “Em không phải là vật sở hữu của anh” (I Am Not Yours).

Dĩ nhiên, nếu không nhờ tài thơ của tác giả thì dù ý tưởng có hay, có cấp tiến đến đâu chăng nữa I AM NOT YOURS cũng không thể “sống lâu lên lão làng” và còn được người yêu thơ ở Mỹ (và cả trên thế giới) yêu mến và trọng vọng đến ngày hôm nay.

Xin chia sẻ đến những người yêu thơ Việt Nam, đặc biệt là chị em phụ nữ, tâm tình của một nữ sĩ người Mỹ đầy cá tính.


I AM NOT YOURS

I am not yours, not lost in you
Not lost, although I long to be
Lost as a candle lit at noon
Lost as a snowflake in the sea

You love me, and I find you still
A spirit beautiful and bright
Yet I am I, who long to be
Lost as a light is lost in light

Oh plunge me deep in love – put out
My senses, leave me deaf and blind
Swept by the tempest of your love
A taper in a rushing wind

Sara Trevor Teasdale (1884-1933)


EM KHÔNG PHẢI LÀ (VẬT SỞ HỮU) CỦA ANH


Em không (vật sở hữu) của anh, không mất trong anh
Không mất, mặc dù em ao ước được
Mất như ngọn nến cháy lúc giữa trưa
Mất như bông tuyết trong biển cả

Anh yêu em, và em nhận thấy anh vẫn còn
Một tâm hồn đẹp và trong sáng
Nhưng emem, người khao khát được
Mất như một tia sáng bị mất trong ánh sáng

Ôi! Hãy nhận em chìm sâu trong tình yêu - lấy đi
Các giác quan, để em thành điếc và mù
Được cuốn theo cơn bão của tình anh
Như cây nến mảnh mai (1) giữa cơn gió mạnh
(Tự dịch)


Vài Nét Về Tác Giả Tác Phẩm

Sara Teasdale sinh ngày 08/08/1884 tại St. Louis, Missouri, USA, là con út trong một gia đình trung lưu. Do thể chất yếu đuối, bệnh hoạn nên từ nhỏ cho đến trưởng thành mọi việc sinh hoạt thường nhật cũng như học hành đều phải có người ở sát bên chăm sóc giúp đỡ.

Mọi người trong gia đình xem bà như một “đứa bé suốt đời” (everlasting child), không phải động móng tay để tự chăm sóc chính mình chứ đừng nói đến phụ giúp việc vặt trong nhà hoặc lăn lóc mưu sinh. Mãi đến 10 tuổi mới được đi học ở một ngôi trường gần nhà; tốt nghiệp bậc trung học ở Hosmer Hall năm 19 tuổi (1903).

Năm 30 tuổi (1914) nghĩ đến việc lập gia đình thì Sara Teasdale có 2 lựa chọn. Một là Vachel Lindsay, không giầu có nhưng cũng là thi sĩ và yêu bà say đắm; hai là Ernst Filsinger, một người ngưỡng mộ thơ bà và có cơ sở kinh doanh vững chắc, tài chánh dồi dào. 

Muốn có một cuộc sống ổn định về tinh thần, tài chánh, hơn nữa, còn được sự tán đồng của cha nên bà đã chọn Ernst Filsinger. Hai người tổ chức đám cưới vào ngày 19/12/1914 (2).  Để vợ khỏi “động chân, động tay” Ernst Filsinger đã dọn đến một “residential hotel” – khách sạn được thiết kế đặc biệt để khách có thể ở (lâu dài) như nhà riêng của mình.

Họ sống với nhau không được suôn sẻ lắm. Chỉ trong nửa đầu năm 1918 bà đã bỏ nhà đi 5 lần (3). Những năm sau đó, do đòi hỏi của công việc Ernst Filsinger thường phải đi xa dài ngày, bỏ bà ở nhà cô đơn với chứng bệnh trầm cảm.

 Năm 1929 hai người ly dị. Năm 1931 người tình cũ Vachel Lindsay của bà tự tử; năm 1933 bà cũng tìm cái chết bằng thuốc ngủ, thọ 48 tuổi.

Bà làm thơ và được người đọc công nhận, khen ngợi thi tài từ lúc còn trẻ. I AM NOT YOURS được đưa vào tuyển tập Rivers To The Sea (Sông Ra Biển) xuất bản năm 1915.  Đó là tập thơ bán rất chạy, được tái bản nhiều lần.  Năm 1917 bài thơ được tuyển chọn in trong tập Love Songs (Thơ Tình - phổ thành ca khúc) và năm 1918 tập thơ này đã giúp bà đoạt giải Pulitzer (về thơ), một giải Văn Học Nghệ Thuật cao quý nhất nước Mỹ. Sinh thời, kể cả Sông Ra Biển và Thơ Tình, bà đã xuất bản tổng cộng 7 tập thơ.

Mới đây (27/03/2017) Hillary J. Ridgley đã bảo vệ thành công luận án Tiến Sĩ tại Khoa Âm Nhạc, Đại Học Tiểu Bang Florida (4). Trong luận án đó tác giả phân tích có chú giải về cấu trúc nhạc hợp xướng từ 71 bài thơ của Sara Teasdale.

Bài I AM NOT YOURS của bà được ít nhất 5 nhà soạn nhạc (composer) soạn thành nhạc hợp xướng (5) và được nhiều dàn nhạc hợp xướng nổi tiếng trình diễn.

Nói thế để thấy rằng thơ của Sara Teasdale nói chung và bài IAM NOT YOURS nói riêng, ở thời điểm này vẫn được cả giới hàn lâm lẫn công chúng Mỹ yêu chuộng và ca ngợi.


Qua Giọng Điệu Cảm Nhận Tứ Thơ

Ngay ở câu đầu của bài thơ tác giả đã biểu lộ tâm trạng bất mãn, pha chút cay đắng và buồn bực của mình.

Em không (vật sở hữu) của anh, không mất trong anh
Không mất, mặc dù em ao ước được
Mất như ngọn nến cháy lúc giữa trưa
Mất như bông tuyết trong biển cả

và ở đoạn thơ thứ 2:

Anh yêu em, và em nhận thấy anh vẫn còn
Một tâm hồn đẹp và trong sáng
Nhưng em là em, người ao ước được
Mất như một tia sáng bị mất trong ánh sáng

Bà không muốn bị đối xử như một món đồ, một vật sở hữu của người khác, không muốn vì hôn nhân mà phải đánh mất chính mình (không mất trong anh). Bà sẵn sàng chịu mờ khuất như ngọn nến cháy lúc giữa trưa, như một tia sáng “bị mất” trong “vùng ánh sáng khác” (một “tia đèn pin nhỏ” lẫn trong vùng ánh sáng của đèn pha chẳng hạn). 

Nếu ánh nắng mặt trời bị che khuất, “vùng ánh sáng khác” bị dời đi thì ngọn nến vẫn có sức nóng và độ sáng của riêng mình, tia sáng (của đèn pin) vẫn có khả năng tỏa sáng – Sara Teasdale vẫn giữ được bản sắc, cá tính riêng. Đây là thông điệp của bài thơ.

Nhưng tại sao bà lại bất mãn và buồn bực?

Vào tháng 8/1914 bà đã lên tiếng chấp nhận tình yêu của Ernst Filsinger và sau đó viết bài thơ JOY (VUI MỪNG) (6) để bày tỏ niềm vui được yêu và cũng để đẹp lòng chàng. Dĩ nhiên sau đó phải có những cuộc trao đổi, bàn luận về cuộc sống chung vợ chồng giữa một “đứa bé suốt đời” và một thương gia giầu có. Lúc ấy, không phải “ga lăng” để lấy lòng bạn gái như trong thời gian tán tỉnh, chàng Ernst, với quyền lực của đồng tiền trong tay, thế nào chẳng ít nhiều lên giọng “chủ cả”.

Là một phụ nữ nhạy cảm, Sara Teasdale thấy được điều đó nhưng đã lỡ. Không đến nỗi như ”ván đã đóng thuyền” nhưng trong bối cảnh xã hội bảo thủ của Mỹ lúc bấy giờ vùng vẫy để thoát ra những ràng buộc mà bà đã dính líu cũng không phải dễ dàng.

Chính vì thế mà ngày 04/12/1914, 2 tuần lễ trước đám cưới, bà đã viết I AM NOT YOURS để giải tỏa nỗi bứt rứt, buồn bực và trình bày quan niệm của mình về vai trò của người phụ nữ trong tình yêu và hôn nhân. Thông tin về thời điểm sáng tác bài thơ (được Hilary J. Ridgley tra cứu kỹ lưỡng cho luận án của mình) sẽ giúp xác định rõ một điều: Bài thơ viết cho Ernst Filsinger - người chồng sắp cưới - chứ không phải cho anh chàng Vachel Lindsay – vì nghèo nên đành chịu thua trong cuộc chạy đua chinh phục người yêu.

 Bà cũng rất khéo léo dùng đoạn cuối như một thủ thuật ngoại giao kêu gọi chàng hãy yêu mình cuồng nhiệt và say đắm.

Ôi! Hãy nhận em chìm sâu trong tình yêu - lấy đi
Các giác quan, để em thành điếc và mù
Được cuốn theo cơn bão của tình anh
Như cây nến mảnh mai giữa cơn gió mạnh

Trước là để dịu lòng chàng qua 2 đoạn thơ “sẵng giọng”, không nể mặt.  Sau là bằng biện pháp tu từ ví von (simile) hỗ trợ cho 2 đoạn đầu, tăng thêm sức thuyết phục cho thông điệp của tứ thơ.

“Dù có được cơn bão tình của chàng cuốn đi bà cũng như thân cây nến mảnh mai - vẫn còn đó, nếu đốt lên vẫn có thể tỏa nhiệt, tỏa sáng cho cuộc đời”.

Khoảng Cách Tình Cảm Giữa “Anh, Tôi” Và “Anh, Em”

Trong tiếng Anh, đại từ để xưng hô giữa mình với “ngôi thứ hai” - người đang đối thoại với mình, bất kể ông bà cha mẹ, chú bác, cô dì, già trẻ, lớn bé, xa lạ hay thân quen… tất tật, đều xưng “I” và gọi người kia là “YOU”. 

Với tiếng Việt, khi chọn đại từ để xưng hô là đã kín đáo bày tỏ sự tôn trọng hay coi thường, thân mật, gần gũi hay xã giao, xa cách. Vì thế trong bài thơ này, trên văn bản tôi đều dịch là “em, anh” để phù hợp với ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, nhưng dựa vào cảm xúc trong giọng điệu, tôi đã hiểu là “tôi, anh” ở đoạn đầu,  “em, anh” ở phần đầu đoạn 2 và đoạn cuối. Riêng nhóm chữ “Yet I am I” ở câu 3 đoạn 2, theo tôi, hiểu là “Nhưng tôi là tôi” (sẵng giọng) thì hợp cảnh, hợp tình hơn.


Thể Thơ

Bài thơ gồm 12 câu, không nhất khí liền mạch, được chia làm 3 đoạn, mỗi đoạn 4 câu – là một ý nhỏ riêng biệt, độc lập về mặt cấu trúc (structure). Tiếng Anh thuộc loại đa âm nên xét về âm tiết thì, mặc dù số chữ khác nhau, mỗi câu đều có 8 âm tiết, đọc lên nghe giống “Thơ Mới” trường thiên, mỗi câu 8 chữ của Việt Nam. Độc giả có thể nghe đọc diễn cảm bài thơ theo link sau đây: https://www.youtube.com/watch?v=znKv62NgGUw

Độc giả cũng có thể nghe I AM NOT YOUR được phổ thành nhạc hợp xướng theo links dưới đây:
https://www.youtube.com/watch?v=9d4chzQOLa0 (David And Childs/Ypsilanti Community Choir)
https://www.youtube.com/watch?v=i5YXjzA9KKY (Z.Randall Stroope, The NUSChoir)

Vần

 Trong hai đoạn đầu, câu 2 vần với câu 4, đoạn 3 không gieo vần. Cả bài 96 âm tiết (syllables) chỉ có hai cặp vần (be, sea – bright, light). Không có vần nối kết hai đoạn liên tiếp. Như vậy, xét về âm điệu thì vần -  theo cách nhìn của người thưởng thức thơ Việt Nam – hơi bị nhạt. Đặc biệt khi đọc xong đoạn cuối (không vần), sự trở về chủ âm của giai kết hoàn toàn trong tính nhạc không được “êm” lắm.

Ngôn Ngữ Thơ

Ngôn ngữ thơ đơn giản, tượng hình, dễ hiểu, khéo léo đặt đúng chỗ nên ý nghĩa sâu sắc.

Biện Pháp Tu Từ

Bài thơ sử dụng 4 phép so sánh (simile), trong đó tác giả - một phụ nữ sắp bước vào hôn nhân – đã ví mình như:

1/ Ngọn nến thắp giữa trưa.
2/ Bông tuyết (tan) trong biển cả
3/ Tia sáng trong (một vùng) ánh sáng.
4/ Thân cây nến mảnh mai được “cơn bão tình” của người yêu cuốn đi.

Phép so sánh thứ 2 - ví mình như “bông tuyết trong biển cả” - sẽ bàn đến ở phần khuyết điểm. Còn 3 phép so sánh kia có thể nói là tuyệt vời vì rất tương hợp, ý nhị, sâu sắc và độc đáo. Đó là những bông hoa tươi đẹp giúp chiếc áo hình thức của bài thơ đẹp lộng lẫy. 


Cảm Xúc

Cảm xúc tầng 1 (khoái cảm mang đến cho độc giả bằng khả năng sử dụng câu chữ và các biện pháp tu từ): Tác giả đã rất thành công, đặc biệt là những câu ví von đã đưa cái đẹp của thơ ca lên đến đỉnh cao. Cảm xúc tầng 1 rất mạnh.

Cảm xúc tầng 2 (khoái cảm từ thế trận chữ nghĩa): Bố cục của bài thơ tương đối hợp lý. Cảm xúc tầng 2 khá mạnh.

Cảm xúc tầng 3 (cảm xúc đưa vào bài thơ nhờ sự rung động mạnh mẽ của tác giả trong lúc làm thơ): Sara Teasdale viết I AM NOT YOURS lúc tâm trạng bất mãn, bứt rứt, buồn bực dâng cao. Khối cảm xúc mạnh mẽ ấy cứ bám chặt lấy bà trong suốt thời gian viết bài thơ.

Ba đoạn thơ có hình tượng ví von khác nhau nhưng tuy ba mà một, đều bóng gió nói đến bản sắc, cá tính của người phụ nữ mà bà không muốn đánh mất trong hôn nhân. Đặc biệt hơn nữa, đây là bài thơ toàn bộc lộ, không chỗ nào kể lể giải thích, cả 96 chữ, chữ này nối tiếp chữ kia, đều nhắm vào chàng Ernst Filsinger mà xông tới. Nhờ thế cảm xúc cứ lững lờ trôi theo dòng ý tưởng của tứ thơ, chậm nhưng không đứt đoạn.

Khối cảm xúc “cao cấp” ấy tỏa hơi nóng không phải từ câu chữ mà từ đâu đó giữa những hàng kẻ, chỉ có thể nhận biết bằng sự nhạy cảm của tâm hồn. Đây là cảm xúc làm độc giả khoái nhất, sướng nhất. Do cấu trúc của thể thơ, cảm xúc tầng 3 khá mạnh nhưng vì không có cao trào nên chưa lên đến đỉnh điểm, chưa có hồn thơ. Nói đúng hơn là hồn thơ mới mon men xuất hiện nhưng chưa rõ nét.

Câu Thơ “Tréo Cẳng Ngỗng”

Khuyết điểm chính của bài thơ là câu:

“Lost as a snowflake in the sea”
(Mất như bông tuyết trong biển cả)

Bông tuyết khi rơi xuống mặt nước biển, chỉ một lúc sau sẽ tan thành nước. Nước từ bông tuyết có thể là loại nước ngọt chứ không mặn như nước biển, nhưng với một lượng quá nhỏ bé hòa lẫn với khối nước biển mênh mông cái chất ngọt ấy sẽ trở thành con số không và biến mất.

(Với tiếng Việt nếu dịch là “Mất như bông tuyết trên mặt biển” thì “dễ nghe” hơn, nhưng ở đây tôi dịch sát nghĩa để chữ “Mất” “rõ ràng” hơn theo đúng ý của tác giả).

Với bài thơ mang thông điệp “Đừng xem tôi như vật sở hữu của anh; hãy tôn trọng tôi, bởi tôi có bản sắc, cá tính riêng” mà đưa vào câu thơ “Mất như bông tuyết trong nước biển” – tôi hoàn toàn tan mất trong anh - thì đúng là “ông nói gà, bà nói vịt”. Đây là lỗi kỹ thuật rất nặng, làm giảm giá trị của bài thơ rất nhiều. 

Có điều hơi lạ là đọc khá nhiều bài “phân tích” I AM NOT YOURS trên mạng, tôi chưa thấy ai nhắc đến điều này. Ngay cả KellyrFineman, người bình thơ trong trang kellyrfineman,livejournal.com cũng viết:

I especially love her lines about wanting to be lost:
(Tôi đặc biệt yêu thích những câu thơ của bà về “muốn bị mất”) (tôi dịch là câu thơ - chứ không là “dòng” - để gần với văn Việt hơn)
. . . I long to be
Lost as a candle lit at noon,
Lost as a snowflake in the sea.

………..

Man, haven't we all been there at one point in time, so wrapped up in the emotion that we are lost? (Or didn't we at least want to be?) (7)
(Bạn ơi, chúng ta ai chẳng từng một lần như thế, để cảm xúc phủ mờ lý trí? Hay ít nhất chúng ta cũng đã muốn như thế?)

Tôi tự hỏi “Ông ấy yêu thích câu thơ ‘Lost as a snowflake in the sea’ nhưng không biết ông ấy có thấy nó ‘tréo cẳng ngỗng’ với tứ thơ hay không?” Bởi hình ảnh bông tuyết tan mất trong nước biển có thể sẽ rất sinh động, rất hay với một ý thơ khác, nhưng trong ngữ cảnh của I AM NOT YOURS thì lại không hợp, mà có thể nói là sai rất nặng.


Tóm lại, I AM NOT YOURS là một bài thơ xuất sắc. Ngoài lỗi kỹ thuật ở trên bài thơ đã thành công về nhiều mặt:
1/ Tứ thơ nhân bản, kêu gọi tôn trọng nữ quyền trong tình yêu và hôn nhân.
2/ Cách ví von tương hợp, ý nhị, sâu sắc và độc đáo.
3/ Ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu, cấu trúc thơ mạch lạc, hợp lý.
4/ Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 mạnh.
5/ Toàn bộc lộ, không kể nên cảm xúc khá đậm ở tầng 3. Hồn thơ đã mon men xuất hiện.

Kết Luận

Nếu đọc kỹ giữa hai hàng kẻ, I AM NOT YOURS đã bộc lộ 4 điểm (không có trên văn bản):

1/ Ernst Filsinger, trong thời gian (4 tháng) chuẩn bị đám cưới và cuộc sống tương lai của 2 người, đã lên mặt “chủ cả”.
2/ Sara Teasdale bất mãn và buồn bực về điều này.
3/ Ernst yêu Sara nhưng chưa đến mức nàng mong muốn.
4/ Nàng cũng chưa yêu Ernst hết lòng.

Dựa vào 4 điểm trên, tôi nghĩ mình sẽ không lầm khi cho rằng I AM NOT YOURS xuất hiện như dấu hiệu của một cuộc tình tan vỡ.

PHẠM ĐỨC NHÌ
nhidpham@gmail.com


CHÚ THÍCH:

1/ A taper (slender candle – cây nến mảnh mai): Ở đây tác giả muốn nói đến “thân cây nến” chứ không phải “ánh sáng của cây nến”. Một số người dịch là “ngọn nến nhỏ nhoi” hay “cây nến nhỏ bập bùng”, thì theo tôi, không hợp với bài này.

2/ “An Annotated Analysis of the Choral Settings of Sara Teasdale's Literary 'Songs'
(Phân Tích Có Chú Giải Về Cấu Trúc Nhạc Hợp Xướng Phổ Từ Thơ Của Sara Teasdale)
(Hilary J. Ridgley, Trang 70, dòng 14)

3/ Hilary J. Ridgley, sách đã dẫn, trang 19 dòng 13)

4/An Annotated Analysis of the Choral Settings of Sara Teasdale's Literary 'Songs' Hillary J. Ridgley

5/

           Tựa /         Nhà Soạn Nhạc /             Ban Hợp Xướng

I Am Not Yours      Chatman, Stephen  /    SATB, SSAA, TTBB ECS Publishing
I Am Not Yours      Childs, David N.      /     SATB, SSAA SBMP
I Am Not Yours       Dickau, David C.   /      SSAATTBB Walton Music
I Am Not Yours       Johnson, Victor C.  /    SSA Choristers Guild
I Am Not Yours      Stroope, Z. Randall  /   SSATBB Walton Music

(Hilary J. Ridgley, sách đã dẫn, trang 251, dòng 35-39)

6/

Một đoạn của Joy:

JOY
I am wild, I will sing to the trees,
I will sing to the stars in the sky,
I love, I am loved, he is mine,
Now at last I can die!

Dịch sát nghĩa:

Tôi như hoang dại, sẽ hát cho cây cỏ nghe
Sẽ hát cho sao trên trời
Tôi yêu, tôi được yêu, anh ấy là của tôi
Bây giờ cuối cùng tôi có thể chết được rồi

 (Hilary J. Ridgley, sách đã dẫn, trang 79, dòng 1-5)

7/ (Kellyrfineman, I am Not Yours by Sara Teasdale, Livejournal) (https://kellyrfineman.livejournal.com/592051.html)



THAM KHẢO:

Sara Teasdale – Poetry Foundation (Hội Thơ Và Thi Sĩ)

An Annotated Analysis of the Choral Settings of Sara Teasdale's Literary 'Songs'
(Phân Tích Có Chú Giải Về Cấu Trúc Nhạc Hợp Xướng Phổ Từ Thơ Của Sara Teasdale)
(Hilary J. Ridgley)


Sara Teasdale - Wikkipedia Tiếng Việt (https://vi.wikipedia.org/wiki/Sara_Teasdale)


Academy of American Poets (Hội Thi Sĩ Mỹ)

Poem Analysis (phân tích, bình thơ)

I AM NOT YOURS – thivien.net

Trang Thơ Hoàng Nguyên Chương


Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2020

CÓ ĐÚNG LÀ "VĂN CHƯƠNG CÀNG HAY CÀNG XA SỰ THẬT"?







                           


Lời Nói Đầu
                      
Trong thời gian tra cứu để viết lời bình cho bài thơ Tan Vỡ của nhà thơ Dư Thị Hoàn tôi đọc được bài viết “Dư Thị Hoàn: Từng Có 'Tan Vỡ' Gây Chấn Động, Xuất Hiện Sau 10 Năm Đi Tu.” (1)

Trong bài viết có đoạn:

Ba năm trước, Dư Thị Hoàn tổ chức lễ “rửa tay chậu vàng”, có nhiều bạn bè văn chương chứng kiến, tuyên bố không viết, không tham gia văn đàn.
Trong một cuộc phỏng vấn, nhà thơ chia sẻ, thực ra quyết định “bẻ bút” có từ trước đó, khi bà đọc được câu “Văn chương càng hay càng xa sự thật”.

Vì là người làm thơ và bình thơ nên trong bài viết này tôi sẽ chỉ đề cập đến khía cạnh thơ của câu nói trên. Các thể loại văn học khác xin mời những cao nhân có kiến thức và kỹ năng thích hợp lên tiếng.


Thi Sĩ Có Xạo Không?

Câu trả lời là CÓ. Tuyệt đại đa số đều xạo. Có nhiều kiểu xạo, nhiều lý do để xạo.  

Sau đây là một số kiểu xạo trong thơ:

Dối Trá Đời Thường

 1/ Xạo vì hèn, vì “teo chim” - tham sống sợ chết, thích yên thân, sợ tù đày, sợ bị trù dập - sản sinh những câu thơ Nịnh.

 2/ Xạo vì tham lợi, tham danh - viết sai sự thật vì danh vọng, vì bả vinh hoa phú quý.

Đây là 2 kiểu xạo tệ nhất, làm đục, làm bẩn “dòng sông thơ ca”.

3/ Xạo vì tình riêng – thơ về cha mẹ, vợ chồng, họ hàng, bạn bè thân thuộc…

4/ Xạo vì xã giao - thơ đám ma, đám cưới, mừng sinh nhật, đỗ đạt, thăng quan tiến chức

Đây là 2 kiểu xạo mà người đọc dễ “thông cảm” cho qua, nhưng thơ thường được đánh giá thấp.

 5/ Xạo vì lập trường, quan điểm, đứng về một phía của một vấn đề hai mặt, chỉ nói một nửa sự thật.

“Ôi! Đẹp quá phe mình, còn phe bên kia
Phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu.” (2)

Thơ loại này đây đó cũng có bài hay nếu tác giả vững tay nghề và cao hứng.


    
Xạo Nghệ Thuật

 1/ Lối nói thậm xưng

Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” 

Thí dụ:

Trong bài thơ Muốn Gởi Cho Em của thi sĩ Phạm Hữu T (tặng Phượng Kim Ngọc Huỳnh) thì câu:

Muốn gởi cho em
chút gió biển Galveston

là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galveston (ở Mỹ) làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có lý trong nghệ thuật”.

Gió từ Mỹ gởi về:

để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.

Có lý quá đi chứ! Và hai câu kế tiếp:

nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát
rồi bồi hồi
nhớ nhớ thương thương.

vừa trữ tình vừa lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo Lụa Hà Đông -  lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ thật tuyệt vời. (3)

(Xin mở ngoặc nói thêm: Bài thơ là của Phạm Hữu T với cái tựa Muốn Gởi Cho Em; thí dụ trên được trích trong bài bình thơ Mối Tình Xuyên Lục Địa của tôi (PĐN)

Đây là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, nâng cao giá trị của bài thơ.


2/ Xạo vì “xê dịch kịch bản”

Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt. Nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện. Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết.

Thử đọc đoạn cuối của bài Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:

Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.

Tôi không tin là trong thực tế, con số chín hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn. (4)

Ở đây thủ pháp “gợi, không kể” được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết tuyệt vời.

Tuy nhiên, nếu kịch bản xê dịch quá nhiều thì cả bài thơ sẽ bị đánh giá là xạo, không những mất hẳn giá trị nghệ thuật mà tác giả còn bị chê bai, coi thường.

Mời đọc Một Kịch Bản Thơ Xạo theo link dưới đây.  



Xạo Vì Có Sự Can Thiệp Của Vô Thức


Để có thể hội nhập và thích ứng với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều. Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có hai cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: cái tôi đích thực và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là cái tôi văn hóa.

Tuổi đời càng cao cái tôi văn hóa càng mạnh, càng rõ nét và cái tôi đích thực càng yếu kém, mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia.

Lúc ấy, nói như Jean Paul Sartre (5) thì con người là một “kẻ vong thân” (đánh mất chính mình). Còn nói như Albert Camus (6) thì con người đích thực đã bất lực – để một “kẻ xa lạ” đến chiếm hữu thân xác mình. (6)

Những trải nghiệm, suy nghĩ, toan tính, dự định, ước mơ … của ta sau một thời gian xuất hiện trên bề mặt ý thức, đều tự động đi vào kho chứa - một cỗ máy vi tính khổng lồ nằm sâu kín trong tâm hồn ta từ “muôn kiếp trước” (Tây Phương hiểu “muôn kiếp trước” theo nghĩa "bóng" là từ lúc đứa bé có khả năng tiếp nhận thông tin từ xã hội để từng bước hình thành cái nhìn của mình về cuộc đời; hiểu “muôn kiếp trước” theo nghĩa đen là cách hiểu của đạo Phật). Cỗ máy tính khổng lồ đó chính là vô thức.

Nó không chỉ đơn thuần là một kho chứa mà còn làm công việc tổng hợp và chuyển hóa (process) những dữ kiện đó (trải nghiệm, suy nghĩ, toan tính, dự định, ước mơ …) thành một quan niệm, cách nhìn nhận, đánh giá con người, cuộc đời, kể cả những thành kiến, định kiến về truyền thống, đạo đức, niềm tin tôn giáo.

Mỗi khi đối diện với cảnh đời hiện tại, hồi tưởng về quá khứ hay thả hồn về hướng tương lai, và nếu cảm xúc của ta chưa trào dâng khiến ta ngây ngất đến mức lạc thần trí, thì vô thức sẽ thông qua lý trí, tác động vào tâm hồn ta, định hướng để tâm trạng của ta phù hợp với quan niệm, cách nhìn nhận của vô thức lúc ấy.

Có những bài thơ dù đọc kỹ cách mấy cũng không thể tìm ra dấu vết của sự dối trá. Tứ thơ dễ bắt, cảm xúc dạt dào. Có điều chỉ không có tín hiệu nổi điên đến mức lạc thần trí của thi sĩ, nghĩa là vẫn có bóng dáng của lý trí.

Khi bài thơ còn sự hiện diện của lý trí, vô thức sẽ có cơ hội can thiệp. Nó sẽ dùng lý trí làm cây cầu nối tác động vào tâm tình hoặc thái độ của thi sĩ. Lời thơ sẽ có chỗ này, chỗ kia bị “điều chỉnh” (mà thi sĩ hoàn toàn không biết) và sẽ không còn là tiếng nói chân thật của con tim.

Siêu Thực Trong Sứ Mệnh Giải Trừ Lý Trí

Theo Thụy Khuê thì Siêu Thực đi từ triết học phân tâm của Freud, coi vô thức như chủ thể của sáng tạo. Siêu Thực là hiện thân của mộng, đề cao vai trò của mộng.

Freud chia hoạt động tâm thần làm ba khu vực:

Vùng vô thức tức là cái đó (le ça trong tiếng Pháp, Es tiếng Đức) chứa đựng toàn bộ những nhu cầu bản năng bị dồn nén, cấm kỵ không được phát lộ ra ngoài.

Vùng ý thức tức cái tôi (le moi, ego), hay ý thức xã hội, cái tôi xã hội, chứa đụng những gì đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội, sẵn sàng trình làng.

Và cái siêu ngã (le sur moi) có trách nhiệm kiểm duyệt.

Theo Freud, cái vô thức mới là bộ mặt thật, là cái tôi đích thực của con người. Nó chi phối mọi hoạt động. Còn cái tôi ý thức chỉ là bộ mặt bề ngoài, giả dối và ngụy tạo.

Mơ, đối với Freud, là thực hiện những khát vọng bản năng bị dồn nén. Khi ngủ, cơ quan kiểm duyệt không làm việc, do đó chỉ trong mơ người ta mới thể hiện được những ham muốn bị dồn ép cấm kỵ lúc tỉnh.

Đề cao vai trò của Mộng trong thơ sẽ loại bỏ gông cùm của lý trí, sự phân tích logic, nguyên tắc đạo đức, niềm tin tôn giáo. (7)

Đưa Mộng Vào Thơ Thơ Sẽ Thành Lời Chân Thật?

Về lý thuyết thì đúng.

Những hình ảnh, cảnh tượng, sự việc xảy ra trong giấc mơ thường vắng mặt lý trí. Tuy nhiên, khi tỉnh giấc thi sĩ có nhớ đúng và đủ những gì đã xảy ra trong giấc mơ hay không lại là chuyện khác. Hơn nữa, chúng như câu chuyện kcủa người điên - “đầu Ngô mình Sở”, không theo một thứ tự nào; nếu đưa vào thơ thì chức năng truyền thông của bài thơ thất bại.

Chính vì thế, dù có nhớ đúng và đủ những gì xảy ra trong giấc mơ đi nữa thì khi đưa chúng vào thơ, thi sĩ – đang trong tình trạng tỉnh táo - thường không cưỡng lại được sự thèm muốn “thêm bớt, cắt xén”, nghĩa là “nêm nếm” một chút “tài thơ” riêng của mình để “điều chỉnh”, “hợp lý hóa” câu chuyện trong mơ.

Rốt cuộc cũng chẳng khác gì những người làm thơ “phi siêu thực”.

Giải Trừ Lý Trí Bằng Kỹ Thuật Thì Sao?

Mời độc giả đọc thử một đoạn trong bài Buồn Xưa của Nguyễn Xuân Sanh.

Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa

Tác giả đã đặt cạnh nhau những chữ hoặc nhóm chữ “xà bần”, chẳng có “dây mơ rễ má” gì với nhau nhằm mục đích cắt đứt sự liên tưởng, để lý trí “giơ hai tay đầu hàng” rồi bỏ đi.

Nhưng để có được kết quả đó ông đã phải trả một giá rất đắt - triệt tiêu chức năng truyền thông của bài thơ – làm mất sự giao cảm giữa thi sĩ và độc giả.

Cho nên nếu bảo rằng loại bỏ lý trí để được nghe, được đọc tâm tình chân thật phát xuất từ “cái tôi đích thực” của thi sĩ thì theo tôi, những nhà thơ siêu thực đã không làm được điều đó.


Hai Cách Giải Trừ Lý Trí “Phi Siêu Thực”


1/ Thơ Thiền

Thi sĩ tâm đã đối cảnh nhưng không “dấy động”, hoặc đã hoàn toàn buông bỏ chuyện tranh cạnh hơn thua của cuộc đời trần tục, lý trí không có chỗ bám víu. Trường hợp này ta có thơ thiền. Bài thơ là “chứng đạo ca” của một người đã ngộ, đã “thấy” được lý đạo. (Từ chỗ thấy Lý đến đưa Lý vào Sự để Lý Sự Dung Thông và rồi Sự Sự Vô Ngại còn một khoảng cách xa lắm)

Thí dụ 1

THƠ TRÊN CÁT

Viết bài thơ trên cát
Con sóng vỗ xóa đi
Vô tình đâu nhớ được
Mình viết bài thơ gì
(Viên Minh, nhận trực tiếp từ tác giả)

Bài thơ mới viết xong trên cát, con sóng tràn lên xóa mất mà thi sĩ vẫn không một chút bận tâm, đến mức chẳng còn nhớ mình đã làm thơ về cái gì. Sao lại thế được nhỉ? Người làm thơ bình thường như tôi (PĐN) sẽ cố nhớ lại vì nó là tài sản tinh thần của mình. Nếu quả thật đã quên thì chắc là sẽ ngẩn ngơ nuối tiếc.

Thái độ không bận tâm của tác giả đã khiến lý trí phải “đội nón ra đi”, vô thức không có chỗ bám víu để giở trò can thiệp, “điều chỉnh”. Thiền sư Viên Minh đã biểu lộ một khả năng buông bỏ rất đáng ngưỡng mộ. Ở đây không chỉ “thấy Lý” mà đã “Lý Sự dung thông”. Việc “thấy lý” của ông đã dẫn đến hành động (sự) – thái độ ung dung, bình thản khi nhận ra mình đã quên bài thơ.

Thí dụ 2

HÃY NHƯ MÂY TRẮNG

Mây trắng lang thang khắp đỉnh trời
Tùy duyên tan hợp dạo nơi nơi
Mây không hò hẹn không vương vấn
Thế giới ba ngàn mặc sức chơi
(Linh Như, nhận trực tiếp từ tác giả)

Tâm hồn của thi sĩ như mây trắng lang thang khắp trời, lúc tan, lúc hợp tùy duyên. Không hò hẹn, không vương vấn, không trói buộc. Lý trí không có chỗ tá túc, không có lý do để xuất hiện, đành phải “đi chỗ khác chơi”.

Trong 2 bài thơ thiền tâm hồn thi sĩ vắng lặng, không tư ý, tư dục; cái tôi nhỏ bé đã hòa nhập với vũ trụ vô biên nên sự vật, cảnh đời trước mắt họ, không qua lăng kính của vô thức, hiện ra như thị, như thực. Tâm hồn họ không chỉ gần sự thật mà chính là sự thật.

     2/ Thơ Thế Tục

Trái ngược với thơ thiền, trong thơ thế tục thi sĩ đắm say mùi đời đến độ điên cuồng, máu sôi lên vì yêu thương, căm hận... Làm thơ trong tâm cảnh này, nếu có thể thơ thích hợp, dòng chảy của tứ thơ thông thoáng, cảm xúc dâng lên như nước vỡ bờ, dễ tạo cao trào. Lúc ấy lí trí sợ hãi trốn biệt, thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ. Bài thơ xứng đáng bước vào Bến Bờ Thi Ca.

Thí dụ: Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương

Vũ Hoàng Chương trong cơn say – say rượu, say nhịp điệu nhạc trên sàn nhảy – đến lạc thần trí đã bộc lộ một “thành sầu” trong tâm hồn mình.

Đó là nỗi nhục của một sĩ phu bất lực trước cảnh quê hương, dân tộc đang bị ngoại bang dày xéo. Không những thế, chính mình lại sập bẫy của quân xâm lược, sa vào cảnh nghiện ngập - nghiện rượu, nghiện vũ trường, và đặc biệt là nghiện thuốc phiện – cái nghiện mà nếu vướng vào sẽ bị người đời coi rẻ, khinh khi. Nỗi nhục ấy, “thành sầu” ấy, đối với một người có thi tài và tâm hồn như Vũ Hoàng Chương là quá to lớn – “đất trời nghiêng ngửa” cũng không thể lung lay, sụp đổ.

 
Trong số những bài thơ xứng đáng được bước vào Bến Bờ Thi Ca thì theo tôi, Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương nổi trội nhất. Cơn điên dài, cảm xúc mạnh, hồn thơ lai láng, và lời thơ rất thật.

Độc giả có thể đọc cả bài thơ và lời bình qua link sau đây:

Sự Khác Biệt

 Những thiền sư đạt đạo, sau khi cao hứng viết bài thơ thiền - sự vật, cảnh đời xuất hiện như thị như thực trong câu chữ - lại ung dung trở về trạng thái tâm buông bỏ, thanh tịnh.

Ngược lại, trong bài thơ thế tục (Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương) tâm hồn thi sĩ còn chứa đầy những uất ức, thèm khát, bí mật phải che giấu nhưng nhờ cơn điên làm lý trí hoảng sợ trốn biệt nên “thành sầu” nguyên bản (thật, chưa qua điều chỉnh, thay đổi của vô thức) mới “bật ra”. 

Nhưng trạng thái nổi điên ấy chỉ đến bất chợt, có tính cách tạm thời. Ngay sau giây phút lạc thần trí đó ông sẽ lại “hoàn hồn” để trở về một Vũ Hoàng Chương “cũ”, có hàng trăm, hàng ngàn uẩn khúc khác chất chứa trong lòng không thể nói ra.

Theo tôi, đây là hai cách mời lý trí “đi chỗ khác chơi” hiệu quả mà vẫn có thể tâm tình với độc giả và giữ được nét đẹp trong sáng của thi ca.


Thơ Càng Hay Càng Gần Sự Thật

Những năm ở trung học nhà tôi nằm trong khu lao động. Đàn ông, sau thời gian làm lụng cực khổ suốt ngày, bữa cơm chiều thường tìm vui trong ly rượu. Mà khi “rượu vào” thì “lời ra”. Có ông lúc quá chén đã “buột miệng” nói ra chuyện dan díu với người đàn bà khác. Dĩ nhiên, vợ con nghe được, tình vợ chồng, cha con lạnh nhạt, hạnh phúc đội nón ra đi. Có trường hợp chỉ vì một câu nói “buột miệng” mà gia đình gẫy đổ, chồng một nơi, vợ một nẻo, con cái học hành lở dở, đánh mất tương lai.

Trong các phiên tòa hình sự ở Mỹ cả công tố viên lẫn luật sư biện hộ đều dùng nhiều thủ thuật tâm lý đẩy bị cáo hoặc nhân chứng (của cả 2 bên) vào thế tự ái, bực tức, tự “phun” ra những chi tiết lẽ ra phải che giấu để thắng kiện. Trong trạng thái nổi điên ấy những chi tiết bị “phun” ra thường được bồi thẩm đoàn tin và cho là sự thật. Họ sẽ dựa vào đó để phán xét có tội hoặc vô tội.


Với thơ, tôi có đôi lúc cao hứng nổi điên, câu chữ tuôn ra ào ạt, phải “chộp lại” bằng tốc ký. Lúc ấy lý trí trốn biệt, vô thức không có cầu nối nên không thể xen vào để bí mật “so đo hơn thiệt”, phán xét đúng sai, yêu cầu chỉnh sửa. Những đoạn thơ ấy, khi bình tâm đọc lại nghe rất “đã” vì nhiều cảm xúc, và dĩ nhiên, rất thật.

Nếu trong thời gian sáng tác, có nhiều đoạn thi sĩ cao hứng hoặc nổi điên thì bài thơ càng hay hơn nữa. Đặc biệt, nếu cơn điên kéo dài cho đến lúc viết xong bài thơ - hoặc ít nhất cũng xong đoạn tứ thơ lên đến cao trào - thì thi phẩm ấy không những cảm xúc sẽ dạt dào mà còn có nhiều cơ hội hồn thơ lai láng.

Nhưng xin đừng quên trạng thái cao hứng đến mức nổi điên của thi sĩ tuy là điều kiện rất cần nhưng chưa đủ để có hồn thơ. Bên cạnh đó thi sĩ phải có kỹ thuật thơ điêu luyện. Đặc biệt phải biết chọn (hoặc tự tạo ra) thể thơ có dòng chảy vừa nhất khí liền mạch vừa thông thoáng, dễ đưa tứ thơ và cảm xúc lên cao trào.

Nếu hồn thơ lai láng thì bài thơ sẽ đạt được mục đích cao cả nhất của người làm thơ là nói được tiếng Người (viết hoa) Chân Thật. Và sẽ đi vào Bến Bờ Thi Ca.

Kết Luận

Thi sĩ mượn thơ để bộc lộ, bày tỏ tâm trạng, để độc giả “nghe” được “tiếng lòng” của mình. Nhưng vì nhiều lý do, “tiếng lòng” của Ngài thường gian dối. Nếu bài thơ bằng cách nào đó loại bỏ được lý trí - dẫn đến loại bỏ được sự gian dối – có nghĩa là thi sĩ đã ban cho độc giả ân huệ được giao tiếp với Ngài bằng Tiếng Người Chân Thật.

Với một thế giới mà cái tôi văn hóa đã gần như hoàn toàn che lấp cái tôi đích thực như hiện nay thì đó là điều vô cùng cần thiết và quý giá. Và đó cũng là sứ mạng cao cả của thơ.

Nếu thi sĩ tâm có khả năng buông bỏ như các thiền sư đạt đạo thì không nói làm gì. Thơ của Ngài không có chỗ cho lý trí bám víu, sẽ là tâm tình chân thật.

Còn với những thi sĩ trần tục như tuyệt đại đa số những người làm thơ, trong đó có tôi, thì như đã trình bày ở trên, thơ càng nhiều cảm xúc (thứ cảm xúc từ trạng thái tâm của thi sĩ) càng gần sự thật và giá trị nghệ thuật càng cao.

Với những thể loại văn học khác thì tôi không dám bàn tới, nhưng với thơ, tôi có thể xác quyết câu nói “Văn chương càng hay càng xa sự thật” sai hoàn toàn.

Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com


CHÚ THÍCH:

1/ Báo Tiền Phong ngày 01/10/2019

2/ Yêu Thơ Nên Phải Hết Lòng Với Thơ, Phạm Đức Nhì, t-van.net

3/ Mối Tình Xuyên Lục Địa, Phạm Đức Nhì

4/ Giấc Mơ Anh Lái Đò hay Mối Tình Vô Vọng

5/ Triết gia người Pháp
     Tác phẩm tiêu biểu: L'Être et le Néant (Tồn Tại Và Hư Vô), La Nausée (Buồn Nôn)

6/ Triết gia người Pháp
     Tác phẩm tiêu biểu: L'Étranger (Kẻ Xa Lạ)

7/ Từ Lãng Mạn Đến Siêu Thực, Thụy Khuê