Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2017
HAI CÂU KẾT CỦA BÀI THƠ NGẬM NGÙI
Thứ Năm, 29 tháng 6, 2017
HIỂU CẢM CÂU CHỮ
CHỌN CHỮ HAY HƠN, ĐẸP HƠN, SÂU SẮC HƠN
(Trăng Lên, Lưu Trọng Lư)
Em ơi nhớ thương thương nhớ cả đêm
Làm so quên đuợc phút giây êm đềm
Cầu mong sao cho trời sáng
đúng giờ mình hẹn hò
là đời quên hết sầu lo.
(Phiên khúc 2)
Có người sửa lại:
Cầu mong sao cho trời sáng
đến giờ mình hẹn hò
Chữ nào cũng đúng cả. Nhưng theo tôi, chữ "đến" hay hơn chữ "đúng". Chữ "đến" cho người nghe cái cảm giác thời gian đang "đi từ từ" tới thời điểm "mình hẹn hò". Đây là thời gian của của đôi trai gái yêu nhau - dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển. Còn chữ "đúng" thì kim đồng hồ phải chỉ "đúng ngay chóc" một con số nào đó, cứ như thể đang chuẩn bị phóng phi thuyền lên không gian. Như thế quá cứng nhắc.
Sau đó có người sửa lại:
Như nước mắm nhĩ chấm lòng lợn thiu.
Theo tôi, đổi như vậy làm câu ca dao cân xứng và sáng hẳn lên. Trai tơ là “đồ xịn” mà chơi với nạ dòng là “đồ dởm” thì uổng, cũng giống như nước mắm nhĩ là “đồ xịn” mà đem chấm lòng lợn thiu là “đồ dởm” thì uổng phí quá.
(Xin cám ơn bạn Vu Hai đã góp ý để tôi sửa lại đoạn này cho đúng.)
Thứ Bảy, 24 tháng 6, 2017
MỐI TÌNH XUYÊN LỤC ĐỊA
Lời Nói Đầu
Chị Phuong Kim Ngoc Huynh,
một bạn Facebook, muốn nhờ tôi soi cặp kính chiếu yêu của người bình thơ vào
bài thơ Muốn Gởi Cho Em của anh Phạm Hữu T, một bạn FB của chị, xem có phải là
lời chân thật hay lại là những câu thơ xạo, chót lưỡi đầu môi.
Tôi chỉ là người làm thơ
và bình thơ, không có khả năng, và cũng không muốn, làm công việc “cắt hoặc nối
nhịp cầu tình yêu” cho những người tim đang rạo rực lửa tình. Hơn nữa, tôi rất
kỵ bình thơ theo yêu cầu mà chỉ bình những bài thơ tôi thích và nghĩ là có thể
đem lại một chút gì mới mẻ cho bạn đọc yêu thơ. Hơn nữa, bài thơ phải có gì đó
hấp dẫn, gợi hứng thì bình mới … đã.
Nhưng rồi đọc Muốn Gởi Cho
Em - bài thơ tình như một lời cầu hôn – tôi thấy khoái quá, chẳng cần biết chị
Phương Kim Ngoc Huynh có yêu cầu hay không yêu cầu, cứ “xắn tay áo” đưa bài thơ
lên bàn mổ.
MUỐN GỞI CHO EM
Muốn gởi cho em
chút gió biển Galveston
để dịu bớt cái nắng Sài
Gòn gay gắt
nhưng sợ người ta đang đi
mà chợt mát
rồi bồi hồi
nhớ nhớ thương thương.
Những bông hồng tươi thắm
trong vườn
muốn gởi cho em – thay những
nụ hôn nồng cháy
nhưng sợ lúc hoa tàn
em buồn tự hỏi
“tình mình có tàn nhanh
như hoa?”
Muốn chia sẻ với em những
ước mơ
nhưng sợ phải nghe
“Sao giống của tui quá ‘zậy’?”
rồi khi thơ mình nổi tiếng
tiền tác quyền người ta bắt
chia hai
Muốn gởi đến em một áng
mây
lại sợ sẽ mưa làm Sài Gòn
ngập nước
chưa kịp về nhà
người ta sũng ướt
mình ở xa
“con bệnh” ai chăm nom?
Còn nhiều thứ nữa muốn gởi
cho em
thứ nào cũng rất đẹp, rất
“hay”
nhưng vẫn … sợ
thôi thì anh sẽ bay về bên
đó
thể xác linh hồn này
giao hết cho em.
(Phạm Hữu T)
Đọc lướt qua độc giả dễ
dàng nhận ra đây là bài thơ tình – tác giả từ khu biển Galveston, tiểu bang
Texas (Mỹ) viết cho người yêu của mình, một cô gái Sài Gòn.
Tứ Thơ:
Bài thơ không có ẩn dụ
toàn bài nên ý với tứ là một.
Thương nhớ người yêu, tác
giả muốn gởi cho nàng mấy món quà nhưng món nào - nếu thực sự gởi - khi đến tay người nhận cũng gây ra “phản ứng
phụ không hay” nên thay vì gởi quà, chàng quyết định sẽ bay về Sài Gòn giao hết
thể xác và linh hồn cho nàng.
Dối Trá Đời Thường Và Lối Nói Thậm Xưng
Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối
nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những
điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời
thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (1)
Trong dối trá đời thường
tác giả xạo và luôn có ý che dấu hành vi, lời nói giả dối của mình. Độc giả
tinh ý, có thể bằng nhiều thủ thuật khác nhau, moi ra những điều không thật ấy.
Khi bằng chứng của sự giả dối được trưng ra, độ khả tín của bài thơ xuống rất
thấp, và bài thơ hoặc là chết yểu, hoặc sống lây lất để làm trò cười cho thiên
hạ.
Ngược lại, trong lối nói
thậm xưng, tác giả không có ý che dấu mà còn công khai biểu lộ cái xạo của mình
để độc giả càng dễ nhận ra càng tốt. Cái xạo ấy không nhằm mục đích lừa dối mà
muốn đưa vào bài thơ nét khôi hài, ý nhị - thoát khỏi cái “thường lệ” quá quen
thuộc, gây cảm giác buồn chán. Tác giả phải có tài tạo ra cái xạo đến mức phi
lý nhưng cái phi lý ấy phải được dẫn đến chỗ, hoặc trở thành, có lý trong nghệ
thuật.
Nghệ Thuật Xạo Trong “Muốn Gởi Cho Em”
Bài thơ có 5 đoạn thì 4 đoạn
- ở mức độ khác nhau – có dính dáng đến lối nói thậm xưng.
1/ Xạo tới bến
Muốn gởi cho em
chút gió biển Galveston
là một câu “xạo tới bến”
vì gió từ biển Galveston (ở Mỹ) làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của
đoạn thơ lại là những cái “có lý trong nghệ thuật”.
Gió từ Mỹ gởi về:
để dịu bớt cái nắng Sài
Gòn gay gắt.
Có lý quá đi chứ!
Và hai câu kế tiếp:
nhưng sợ người ta đang đi
mà chợt mát
rồi bồi hồi
nhớ nhớ thương thương.
vừa trữ tình lãng mạn -
khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo Lụa Hà Đông -
lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ mở đầu thật tuyệt vời.
2/ Xạo nhưng chưa “hết ga”
Những bông hồng tươi thắm
trong vườn
muốn gởi cho em – thay những
nụ hôn nồng cháy
Bông hồng trong vườn ở Mỹ
mà gởi về Việt Nam không phải là chuyện bất khả thi, nhưng chắc chỉ những tay
triệu phú, tỷ phú hoặc những nhân vật thích “chơi bạo lấy tiếng” mới ngông nghênh kiểu đó chứ người bình thường
ít ai làm như vậy. Theo tôi, đây cũng là 2 câu thơ xạo - nhưng chưa xạo đến “hết
ga”. Tuy vậy, khi kết hợp vời 2 câu sau:
nhưng sợ lúc hoa tàn
em buồn tự hỏi
“tình mình có tàn nhanh như
hoa?”
thì lại là một đoạn thơ
hay vì đưa trí tưởng tượng của độc giả đến một “phản ứng phụ” rất hợp tình, đầy
thương cảm và có duyên.
3/ Lời tâm tình pha chút xạo
Muốn chia sẻ với em
những ước mơ
Ở thời buổi truyền thông
bùng nổ như hiện nay, liên lạc bằng điện thư, điện thoại, messenger hay cả bằng
“video chat” rất dễ dàng và thường không tốn tiền thì có khó gì đâu việc chia sẻ
những ước mơ. Theo suy đoán của tôi, hai nhân vật trong bài thơ không phải mới
quen mà “đường tình chung lối” của họ đã có một chiều dài đáng kể.
Câu thơ:
nhưng sợ phải nghe
“Sao giống của tui quá vậy?”
gợi nhớ đến sự tích “chim
sợ cành cong”. Độc giả có thể nghĩ Phạm HữuT đang bị một nỗi ám ảnh trong quá
khứ nào đó nên giờ như con chim đã một lần bị bắn (hụt), hễ thấy cành cong lại
sợ. Theo tôi, nỗi sợ của chàng ở đây khác với nỗi sợ bình thường của người đời
mà là - một cách khéo léo - “khoe” sự “gần gũi” và ít nhiều đã tâm đầu ý hợp của
hai người. Cái hay, cái độc đáo của câu thơ là ở chỗ đó.
Nhưng đến 2 câu sau:
rồi khi thơ mình nổi tiếng
tiền tác quyền
người ta bắt chia hai
thì đúng là mùi phét lác
đã bốc lên khá cao - cứ làm như mình sắp trở thành thi sĩ nổi danh đến nơi rồi,
sợ người ta chia mất tiền tác quyền. Chúng đã kết hợp với hai câu đầu thành một
đoạn thơ xạo, khôi hài, đầy tính nghệ thuật và thật dễ thương.
4/ Lại xạo “mút chỉ”
Muốn gởi đến em một áng
mây
Cách nhau cả nửa vòng trái
đất mà “Muốn gởi đến em một áng mây” thì nếu không là bệnh nhân của nhà thương
Chợ Quán thì cũng là một tay nói dóc “một tấc đến giời”. Vậy mà thật lạ! Khi đọc
câu thơ xạo này – câu thơ đã thay đổi những cái hợp lý quá nhàm chán của đới
thường - độc giả lại cảm thấy thích thú, sảng khoái vì nó dẫn dắt họ vào một
cuôc phiêu lưu mà chưa biết điểm đến ở hướng nào.
Nhưng độc giả không phải gồng
mình, nhắm mắt “nhảy qua dòng sông nghệ thuật” với những câu thơ “tối như hũ
nút” theo yêu cầu của những người làm mới thơ quá lố hiện nay. Ba câu thơ sau ở
đây lại là hậu quả rất hợp lý của việc gởi áng mây đó:
lại sợ sẽ mưa làm Sài Gòn
ngập nước
chưa kịp về nhà
người ta sũng ướt
mình ở xa
“con bệnh”
ai chăm nom?
Mây làm mưa, mưa làm Sài
Gòn ngập nước, làm ướt người tình, và cuối cùng là “con bệnh ai chăm nom?” Cái
phi lý ban đầu đã trở thành cái hợp lý trong nghệ thuật.
Đoạn Kết Của Bài Thơ
Ở Mỹ, sau một thời gian hò
hẹn, tình yêu đã “chín” đến một mức độ nào đó, chàng trai không muốn cô gái tiếp
tục “lửng lơ con cá vàng” mà phải quyết định có chịu trở thành người yêu của
mình, thực sự thuộc về mình hay không. Chàng sẽ chọn một khung cảnh thích hợp,
quỳ dưới chân nàng, nắm bàn tay trái của nàng và hỏi” Will you marry me?” (Em
có lấy anh không?) Nếu nàng đồng ý, trả lời “Yes” chàng sẽ moi từ trong túi ra
một chiếc nhẫn kim cương (bí mật chuẩn bị sẵn) đeo vào ngón tay áp út của nàng.
Hai người hôn nhau và từ đó, trước mắt người đời, họ là một đôi tình nhân gắn
bó.
Sau 4 đoạn thơ xạo về ý định
gởi quà cho em - thật ra tác giả chỉ mượn đó làm cái cớ để, bằng một cách lãng
mạn, bày tỏ tình cảm của mình với cô gái - đoạn kết của bài thơ:
Còn nhiều thứ nữa muốn gởi
cho em
thứ nào cũng rất đẹp, rất
“hay”
nhưng vẫn … sợ
thôi thì mình sẽ bay về
bên đó
thể xác linh hồn này
giao hết cho em.
chính là lời câu hôn trang
trọng đó. Đơn giản, không nhẫn kim cương, không đám đông chứng kiến nhưng là lời
cầu hôn rất ấn tượng và rất đẹp.
Ngôn Ngữ, Hình Ảnh:
Ngôn ngữ bình dị, sắc sảo
nhưng dễ hiểu, dễ cảm, hình ảnh rất thơ nên độc giả đọc một cách thoải mái,
không bị khựng vì tứ thơ rất dễ bắt.
Thể thơ:
Bài thơ được viết theo thể
thơ mới với một vài phá cách. Số chữ trong câu thay đổi tùy tiện nhưng với biên
độ hẹp. Câu ngắn nhất 6 chữ:
rồi khi thơ mình nổi tiếng
câu dài nhất 10 chữ (10 âm
tiết thì chính xác hơn):
Muốn gởi cho em chút gió
biển Galveston (Gal – ves – ton)
và:
thứ nào cũng rất đẹp, rất
“hay” nhưng vẫn … sợ
Vần:
Vần liên tiếp, khá đều đặn.
Bài thơ 20 câu, gieo 8 cặp vần mà chỉ là thông vận nên vị ngọt của thơ vừa dịu.
Hơn nữa, ý của mỗi đoạn thơ lạ, đẹp và ý nhị, gây cảm giác thích thú cho người
đọc nên bài thơ hoàn toàn không có hội chứng nhàm chán vần.
Cảm Xúc Và Hồn Thơ
Cảm xúc tầng 1 và tầng 2:
Do ngôn ngữ đẹp, dễ cảm,
hình tượng rất thơ nên cảm xúc ở tầng 1 khởi đầu đã mạnh. Tác giả dùng 4 đoạn đầu
để thố lộ tình mình với người đẹp, đoạn sau như một lời cầu hôn. Thế trận như vậy
tương đối hợp tình hợp lý, tạo cảm xúc mạnh hơn nữa ở tầng 2. Thêm vào đó, hiệu
ứng của lối nói thậm xưng làm tâm hồn độc giả như bồng bềnh trên gió, trên mây,
rất sảng khoái.
Cảm xúc tầng 3 (hồn thơ)
Bài thơ gieo vần liên tiếp
nên – xét về phương diện thanh âm – câu này nối câu kia, đoạn sau nối đoạn trước,
cứ như ngựa phi bon bon trên đường vì không có mô gò cản trở. Với hình thức thơ
và cách gieo vần như thế, nếu tác giả đang cao hứng và tâm trạng tuôn chảy theo
chiều dọc, chúng ta ít nhiều cũng sẽ có cảm xúc ở tầng 3. (Nếu tác giả cao hứng
đến mức lạc thần trí, cảm xúc tầng 3 sẽ chính là Hồn Thơ.)
Khốn nỗi bài thơ lại chia
làm 5 đoạn, mỗi đoạn là một ý riêng biệt nên tâm trạng của thi sĩ không phát
triển theo chiều dọc mà trải rộng theo chiều ngang, không cùng hướng và cùng nhịp
với nhạc điệu của bài thơ. Không có sóng sau dồn sóng trước, chúng ta không có
hồn thơ.
Tóm lại, Muốn Gởi Cho Em
là bài thơ có nhiều điểm nổi bật.
Nó viết theo thể thơ mới
nhưng đã vươn tới cái vóc dáng tối ưu của thể thơ này. Số chữ trong câu thay đổi
tùy tiện không theo một quy luật nào nên tuy vần liên tiếp, vị ngọt của thơ
cũng chỉ ở mức độ vừa phải, không có hội chứng nhàm chán vần.
Bài thơ sử dụng lối nói thậm
xưng - một biện pháp tu từ rất khó nhai – không khéo, thay vì “xạo” nghệ thuật
lại biến thành giả trá đời thường. Ở đây bài thơ đã có hai đoạn thậm xưng tuyệt
vời thấm đẫm chất thơ.
Hai đoạn 2 và 3, tuy chưa
đạt hiệu ứng cảm xúc tối đa của lối nói thậm xưng (vì xạo chưa tới bến) - nhưng
chỉ ở ngữ nghĩa đời thường – đó vẫn là những đoạn thơ mới lạ, đầy ắp chữ tình,
gây cảm giác ấm áp, sảng khoái cho độc giả.
Nhắn Chị Phuong Kim Ngoc Huynh,
Thiệt tình tôi không biết
anh chàng Phạm Hữu T của chị mặt ngang mũi dọc ra sao, nhưng đọc bài thơ của hắn
thấy quá đã. Theo tôi, Muốn Gởi Cho Em “nặng” hơn một bài thơ tỏ tình; nó vừa tỏ
tình vừa lên tiếng cầu hôn – nghĩa là chàng muốn cùng chị đi “tới bến”. Quan trọng
nhất, đó là những lời chân thật - vì nếu không chân thật khó viết được những vần
thơ nhiều cảm xúc như thế.
Chuyện riêng của chị, chị
tự quyền quyết định, tôi không ý kiến. Dù sao đi nữa chị cũng tốt phước và đáng
hãnh diện tự hào, đã là nhân vật chính - được thương mến và trân trọng – trong
một bài thơ đặc sắc như Muốn Gởi Cho Em.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
CHÚ THÍCH:
1/ Diên Hồng Dương, Có Cái
Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ ‘Xạo’”
https://www.facebook.com/dienhong.duong.5/posts/986680141469017
Thứ Sáu, 16 tháng 6, 2017
LẠI BÀN VỀ KỊCH BẢN XẠO TRONG THƠ
Mà cô giáo dạy phải yêu?
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè
Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương có ai không nhớ...
Phụ Lục
_______________________________________
Hôm nay là sinh nhật con gái tôi. Đang post ảnh, tình cờ lướt qua face book đọc được một bài bình khá thú vị của nhà phê bình Phạm Nhi. Vấn đề là bàn đến bài thơ của nhà thơ Phạm Trung Dũng và có liên quan đến một phần bài bình thơ của tôi cho tác phẩm rất hay: " Tình yêu không lời". Tôi xin phép anh Phạm Nhi cho tôi góp vài lời nhận xét. Nếu có chi không hài lòng mong anh bỏ qua. Chúng ta cùng nhau xác định: góp ý là để tiến bộ cho việc cảm nhận văn chương trong sáng cả hai phía nhé!
Thứ nhất, tôi rất thích cách nói thẳng suy nghĩ của anh thể hiện ở tựa đề: " Một kịch bản thơ xạo". Tựa đề rất hút độc giả nha. Nếu ai đi qua mà không dừng lại thì đúng là vô cảm. Nó buộc người đọc phải tò mò đi vào bài viết và phải đọc đến hết bài xem kịch bản nào xạo? Tại sao xạo ? Và xạo như vậy có hại ai không? Nhân nói chữ Xạo thì tôi cũng chợt nhớ Vũ Bằng. Ông có viết một quyển sách nói về nghề Văn và người viết Văn qua kinh nghiệm của mình: " Bốn mươi năm nói láo", không biết anh Phạm Nhi đã đọc quyển này chưa? Nếu nhìn chữ láo, hay xạo theo quan điểm của Vũ Bằng thì cũng không có gì quá đáng, bởi lẽ Vũ Bằng xem việc hư cấu trong nghệ thuật xét cho cùng là không giống y chang cuộc đời. Thường một tác phẩm nghê thuật có giá trị cao bao giờ nó cũng gợi cho bạn đọc suy nghĩ, liên tưởng và có một cái nhìn đẹp và mở rộng về cuộc sống. Cuộc sống vốn dĩ mang lại cho người ta sự đơn điệu về vòng quay của thời gian 24h, hết ngày này qua ngày khác, hay đơn điệu về không gian theo kiểu đùa" Vân Tiên cõng mẹ trở ra... rồi cõng mẹ trở vô...", quanh quẩn đến chóng mặt... nên khi sáng tạo nghệ thuật, người ta dùng các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, khoa trương ( thậm xưng), nói giảm, ước lệ, tượng trưng... để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết về nỗi nhớ có câu:
" Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê"
Ba thu làm sao dọn lại trong một ngày? Thời gian này là thời gian phi lý tính, thời gian của tâm trạng, lấy ý từ một câu trong Kinh Thi: " Nhất nhật bất kiến như tam thu hề". Hổng lẽ đọc Truyện Kiều đến đây, phán cho Nguyễn Du một câu là miêu tả xạo? Thơ vốn dĩ cô đọng, đâu cần phải nói chi tiết đến từng mi li mét để làm rõ tại sao tác giả viết thế này mà không viết thế kia cho logic. Câu chuyện trong thơ cũng vậy, đâu phải nhất nhất phải theo kịch bản thực tế. Câu chuyện là cái cớ để bộc lộ tâm tình. Nó có thể hợp lý, có thể phi lý và lãng mạn đến bất thường vẫn chấp nhận được vì nó là nghệ thuật chứ không phải đời thực. Xem tranh cách điệu hổng lẽ phán cho một câu: " Họa sĩ vẽ thiếu nét?"Xem một vở diễn trên sân khấu thấy diễn viên cầm cái roi mà bảo con ngựa không lẽ cho diễn viên bị tâm thần? Mọi sự quy ước nằm trong ý tưởng của nghệ thuật nhằm diễn tả một hiện thực cách điệu mang tính nhân văn đi kèm sắc thái biểu cảm có giá trị thẩm mỹ cao.
Quay trở lại " Tình yêu không lời" của Phạm Trung Dũng, những vấn đề mà nhà phê bình Phạm Nhi thắc mắc tôi thấy anh quá chi li và cảm nhận quá đơn giản theo kiểu máy móc của Toán học, một cộng một phải luôn bằng hai. Đó là sự áp đặt xúc phạm đến sáng tạo cá nhân của nhà thơ Phạm Trung Dũng. Anh đã hiểu hết dụng ý người sáng tác chưa mà phán cho người ta là xạo? Bất kỳ ai khi họ viết một cái gì họ đều đủ trình độ phản biện những ai công kích họ. Tôi nghĩ về điều này nhà thơ Phạm Trung Dũng dư sức trả lời. Và cũng dễ trả lời bởi vì Phạm Trung Dũng rất giỏi về Lý luận văn chương. Hà cớ gì anh Nhi lại xâm phạm quyền tự do sắp xếp bố cục cho bài thơ anh Phạm Trung Dũng rồi bình là thời gian và tình tiết không hợp lý, nói nặng hơn là xạo ? Anh có chủ quan quá không vậy? Anh có nhớ một bài ca dao xưa: "lổ mũi em mười tám gánh lông..." không?
Thứ hai, anh cho rằng tôi dũng cảm khi bình bài thơ xạo là anh lại sai. Tôi yêu cái chất nhân văn của tình yêu không lời và tôi bình. Tôi hoàn toàn biết đó là kịch bản nghệ thuật mà anh. Và có lẽ anh không hiểu được nỗi khổ của người câm nên anh cho rằng bài thơ giống như chuyện yêu đương bình thường, chỉ khác chút nhân vật cô gái bị câm. Tôi từng sống gần người câm một thời gian dài mà không biết họ câm. Tôi dạy ở nhà máy Việt Nam Mộc bài, gặp nhiều cô câm được nhận vào làm. Các cô chỉ cười không nói... đến lúc sau này gọi đứng lên phát biểu thì mới bật ngửa... Họ không có tình yêu vì đâu có ai yêu người câm, dù họ rất đẹp, lại siêng nữa... Nên khi đọc bài thơ, tôi xúc động ở tình cảm thánh thiện của chàng trai. Đưa một người ngố đến với một người câm, sự cách điệu nghệ thuật đã tạo ra một đôi lứa lý tưởng và hoàn hảo.
Cảm ơn anh Phạm Nhi đã giúp tôi nhớ lại một bài thơ hay.
Thứ Hai, 12 tháng 6, 2017
MỘT KỊCH BẢN THƠ "XẠO"
Vì là thơ nên tác giả sẽ dồn hết sự chú ý vào cảm xúc, những xao động của tâm hồn trước cảnh đời. Cảm xúc muốn có cơ hội phát triển, lớn mạnh cần nương theo dòng chảy của tứ thơ. Và tứ thơ muốn chảy đúng hướng cần phải dựa vào kịch bản của bài thơ.
Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là một người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy. Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được.
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái nhành tim tím sang nhà em chơi
Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu...
Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi
Lặng yên... Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ.
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao thì cháy hết mình vẫn trao.
Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?
Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy, em ngồi lặng im.
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm.
Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ.
Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi.
(Phạm Trung Dũng)
Lần đầu tiên đọc thơ anh, tôi may mắn gặp ngay đề tài mình thích. Đề tài này ít người viết, ấy vậy mà vẫn rất thơ trong cõi thiếu thơ.
"Tình yêu không lời” của nhà thơ Phạm Trung Dũng là một khúc hát đồng quê, gợi hương nồng nàn, tim tím màu hoa khế của một mối tình hy hữu. Ngay nhan đề “ Tình yêu không lời” đã có sức gợi, kích thích sự tò mò, khám phá của người đọc về một nét mới, cách nhìn mới trong thơ tình: Khoảng lặng ngôn ngữ tình yêu giữa trùng trùng những lời nói có cánh, những ồn ào, sến sẩm khi đôi lứa bày tỏ cảm xúc trái tim trong những cung bậc âm thanh thơ nhạc.
Giao thoa với tự sự, bài thơ kể lại một kỷ niệm đẹp - mối tình trong sáng và thuần khiết của một chàng trai với cô hàng xóm dễ thương. Nàng ấy xuất hiện với nét đẹp của một cô gái không lời. Chính cái không lời, e ấp ban đầu là sức hút kỳ lạ đưa hai tâm hồn nên thơ tiếp cận, hữu duyên.
Câu chuyện thơ vào đề gợi nhớ môtip mở đầu của bài thơ " Cô hàng xóm" của Nguyễn Bính: " Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn". Nhưng ở đây hoàn cảnh khác, không gian khác, và cách xưng hô cũng khác, chỉ có cái hồn chung thú vị là dư ba ngọt ngào ngàn đời trong cách phối thanh của luật thơ lục bát:
" Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái chùm tim tím sang nhà em chơi"
Em và tôi, tuy gần mà xa. Không gian đâu có ngăn cách vậy mà trong " tôi" có cảm nhận giữa hai người là hai thế giới. Em chân quê, quen thuộc với hương mộc mạc của đồng nội ướp trong hơi thở của gió làm " tôi" ngất ngây. Nhưng em thu mình lại trong một khoảnh trời. Và "tôi " chỉ cảm nhận được em qua hơi thở xa xôi, mang máng, mát lành như cơn gió chợt đến, chợt đi... rất mơ hồ ! Câu thơ " Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa" là câu thơ đẹp và lạ, minh chứng cho nguồn thơ lục bát của tác giả dồi dào. Đồng thời cho thấy thể thơ lục bát tuy cổ điển, nhưng vẫn mênh mông khoảng trời sáng tạo cho nhiều cung bậc cảm xúc của người đương đại.
Thơ Phạm Trung Dũng rất cô đọng. Chỉ mới đọc khổ đầu, độc giả đã có thể mở ra trong suy tưởng những hình ảnh, những ý tình sâu sắc. Tình yêu là chuyện muôn đời nhưng nói về tình yêu, mỗi nhà thơ có điểm tựa riêng. Phạm Trung Dũng chọn điểm tựa mộc mạc, chân quê, gắn với mạch nguồn của dân tộc nhưng hồn thơ sắc sảo và hiện đại. Hình ảnh cây khế mấy mùa trổ hoa và "hái chùm tim tím" làm cớ sang chơi nhà nàng vừa cụ thể nhưng vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nó không chỉ gợi nhắc, khái quát tâm lý mà dân gian đúc kết: " giả đò mua khế bán chanh...", mà còn cho thấy thời gian "em" đến thuê trọ vẫn chưa quá lâu: "Chanh chua thì khế cũng chua/ Chanh chỉ một mùa, khế có cả ba". Tâm lý của tình yêu thường bắt đầu bằng sự rụt rè. Tác giả cũng không ngoại lệ. Anh đã tạo một lực nén cho câu thơ và sức nén đó khiến người đọc thấy thú vị khi tiếp cận thơ Phạm Trung Dũng.
" Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im.
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu.”
Những từ : " hào phóng", " thông thái" hoàn toàn là ngôn ngữ thành thị kết hợp với những cụm từ bình dị "pha trà rót nước", "nằm im trong đầu" rất hài hòa, có chút ngộ nghĩnh, phóng túng trong cách diễn đạt. Thế mà hay, cái hay của một hồn thơ không câu nệ, cũng không cần màu mè trang nhã để thi vị hóa tình yêu. Bản chất tình yêu vốn đẹp. Và trong tình yêu, con người càng chân thật thì càng đẹp bởi cái đẹp là sự gắn kết hài hoà của Chân- thiện - mỹ. Điều thú vị chính là: trong cách diễn đạt tự nhiên vẫn tồn tại những ánh trăng lung linh huyền ảo, ẩn sâu nhiều điều không lời. Người đọc rất thích lối ví von: " hồn tôi như mảnh trăng chìm". Hình tượng "mảnh trăng chìm " đẹp mong manh và tạo cảm giác " chới với" khi đắm mình trong biển tình. Còn hơn bị sét đánh. Nó khiến trái tim hoảng loạn đến nỗi mất luôn ngôn ngữ, mất sự thông thái. Và có lẽ chính sự im lặng đã tạo nên mối đồng cảm cho tình yêu của em? Câu chuyện tình dễ thương cứ hút người đọc. Và tiếp tục hấp dẫn cho đến khi tình huống bất ngờ xẩy ra trong không gian đặc nén, mọi việc tưởng như bế tắc:
"Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi"
Hành động quá bất ngờ. Không chỉ nhân vật "anh" trong bài thơ, mà người đọc cũng thấy vậy. Cái tình cảm bùng lên như lửa rơm ấy liệu có bền được không? Sẽ dẫn đến đâu? Người con gái ấy sao hành động khác lạ vậy? Tình yêu và tình dục đôi khi rất khó phân biệt ranh giới. Nó vừa bản năng vừa lý trí; vừa thánh thiện vừa hoang dại. Tác giả đã mô tả khéo léo quy luật phát triển tâm lý cái phần "người" và phần "con" trong những câu thơ tiếp:
"Lặng yên. Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao dẫu cháy hết mình vẫn trao".
Thơ mà cứ như tiểu thuyết! Rất hấp dẫn trong lối kể, cách tả. Tác giả dắt người đọc đi vào chuyện tình bằng những rung động hồn nhiên, chân thực và cuốn hút mạnh. Nếu cách đây một thế kỷ mà viết như vậy thế nào cũng bị người đời đóng cho con dấu: " Dâm thư". Nhưng đến thời điểm này mà kể chuyện yêu chỉ như vậy thì quá trong sáng, tế nhị. Cách diễn đạt đẹp, vừa cổ điển, vừa hiện đại. Tác giả không tả những hình ảnh cụ thể mang vẻ đẹp nhục cảm của em mà người đọc cảm nhận em rất đẹp trong bài thơ rất đời, rất người qua các hình ảnh gợi rất sâu: " làn môi khóa chặt làn môi", " bồng bềnh...", "sông mê- bến lú- thuyền tình", " cháy hết mình"... Dường như ở đây có một chút " lạc trôi" trên sông mê, bến lú mất rồi...
Tôi thích câu : “ Đã trao dẫu cháy hết mình vẫn trao" bởi nó mang ngữ điệu của một tính cách quyết liệt. Tình yêu thật sự là cháy bỏng, đam mê, trao dâng và bất chấp, dẫu biết thuyền tình chông chênh, đầy trắc trở trên bến lú sông mê nhưng nếu không cháy, không phiêu hết mình, có lẽ đó chỉ là nửa vời, sống không thật lòng với chính mình và với người yêu. Có thể bản năng con người khi yêu phải vậy, nhưng không hẳn, ai sống trong bản năng cũng biết cháy đúng nghĩa. Nhận phần “cháy” cho mình, quả là yêu đương thật mãnh liệt!
Sau cơn mưa tình ái, một khoảng lặng vô thanh xuất hiện. Cái nhu cầu được trao đổi bằng ngôn từ để sẻ chia, gắn kết trở nên hết sức cần thiết. Thế mà, chờ đợi mãi, em vẫn im lặng. Im lặng đến khó hiểu:
"Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?"
Hai chữ "người ơi" chưa hẳn đã là trách móc, hờn dỗi. Nhưng khao khát đợi chờ được nghe, được xác tín thì đã rõ. Thật bất ngờ:
"Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy em ngồi lặng im
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm".
Bốn câu thơ chỉ 28 chữ mà chứa bao tâm trạng, cảm xúc như những đợt sóng ngầm trong tâm hồn hai trái tim yêu. Nó dẫn dắt người đọc từ cực này sang cực khác. Chưa kịp hiểu vì sao "em" khóc, lại phải đặt câu hỏi trong mẩu giấy ấy nàng viết gì mà chàng trai buồn đến vậy? Chẳng lẽ không có tình yêu? Chàng trai vừa khát khao được nghe "em" nói đến cháy lòng, đã chuyển sang khẳng định: "Lời vô nghĩa hết!". Sự diễn biến tâm lý mang đầy kịch tính: Thắt - mở, mở - thắt, được đẩy lên tới cao trào trước một sự thật nghiệt ngã, bất ngờ:
"Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ".
"Tình yêu không lời" đã được lý giải, nhưng không dừng lại ở nhục cảm tầm thường. Hai câu vĩ thanh mới là điểm nhấn, thông điệp chính của bài thơ, giống như tiếng đàn Thạch Sanh vang lên hóa giải sự ngăn cách giữa tình yêu của người không lời và người nói được mà phải nghẹn lời bằng hai câu thơ đẹp và đằm sâu:
"Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi".
Hình ảnh “Trần nhà cánh nhện buông tơ” vừa ước lệ, tượng trưng vừa phác họa một bức tranh tả thực của không gian tĩnh lặng. Cảm xúc tình yêu dâng lên tuyệt đỉnh trong giờ phút giao hoan là nước mắt. Tôi yêu những giọt nước mắt hạnh phúc của sự cho và nhận. Động từ "ghì" được tác giả sử dụng đúng chỗ, đúng thời điểm, vì vậy nó có sức lan toả, truyền cảm, tạo nên điểm sáng mang tính hài hoà, đồng điệu giữa tình yêu và lòng nhân ái.
Bằng chất liệu lục bát, ngôn từ giản dị mà tinh tế, "Tình yêu không lời" của nhà thơ Phạm Trung Dũng đã gửi đến người đọc một thông điệp đầy tính nhân văn, mở cho ta một góc nhìn sâu trong cuộc sống. Giữa vô vàn những cuộc tình có hương hoa sắc lá, có tiếng chim mê đắm của vườn xuân thánh thót, ta vẫn bắt gặp những tình yêu lạ và đẹp. Trong cái lặng thầm của thế giới không lời là cả một bầu trời vô ngôn đầy ắp thương yêu.