Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2017

HAI CÂU KẾT CỦA BÀI THƠ NGẬM NGÙI




Tay anh em hãy tựa đầu

Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi


Khoảng vài năm trước, dự một chương trình văn nghệ ở Houston, sau khi nghe dứt bản Ngậm Ngùi do Phạm Duy phổ nhạc thơ của Huy Cận, một khán giả ngồi sau lưng tôi bình phẩm:

Mẹ! Nằm bên người yêu mà còn ôm theo cả nỗi sầu nhân thế nữa”.

Tôi quay xuống hỏi chuyện:

“Sao anh lại nói vậy?”

Anh ta trả lời:

Thì 2 câu cuối chứ còn gì nữa. Có em tựa đầu trên tay mà tay kia còn ôm hết cả buồn sầu trong thiên hạ.”

Sau đây là đoạn cuối trong Một Phút Đam Mê của Lưu Hoàng Lê do Đàm Vĩnh Hưng hát:

            Một mình lê bước, lang thang bên thềm xưa

            Người tình ở đâu, bóng dáng xưa đâu còn

            Giờ ta lẻ loi, ta ngu khờ rong chơi quên ngày tháng

            Nhắm mắt ta nghe, ôi trái sầu nặng rơi rớt bên thềm.


Lưu Hoàng Lê và vị khán giả ngồi sau lưng tôi tưởng rằng trái sầu rụng rơi cũng giống buồn sầu từ đâu đó đổ ập xuông người mình. Và nhạc sĩ – khi diễn tả nỗi buồn vì mất người yêu – đã hạ bút: “bước chân đi nghe trái sầu nặng rơi rớt bên thềm”. Còn vị khán giả nọ thì la toáng lên: “Nằm bên người yêu mà còn ôm theo cả nỗi sầu nhân thế”. Thật là sự hiểu lầm tai hại. Huy Cận ra về mà lòng buồn bã đến độ thẫn thờ không phải vì trái sầu rụng rơi mà là vì việc trái sầu rụng rơi chỉ là mơ mộng hão huyền chứ không phải là sự thật.

Đến đây xin bạn đọc đừng quên phần cuối của tứ thơ mà tác giả muốn để quý vị tự suy diễn, tự hiểu. Đó là: Trái sầu rụng rơi chỉ như một thoáng mơ qua. Thực tại phũ phàng, ngay lập tức, đã quay lại. Em vẫn nằm sâu dưới mộ, thi sĩ vẫn một mình giữa nghĩa trang hiu quạnh. Và trái sầu trong ông vẫn trĩu nặng tâm hồn.

Hai câu cuối sử dụng thủ pháp Show, Don't Tell (đưa sự kiện để độc giả suy ra kết luận) nhưng hơi quá kín. Nếu độc giả không cẩn thận hoặc "non cơ" rất dễ hiểu sai ý tác giả. 

Thứ Năm, 29 tháng 6, 2017

HIỂU CẢM CÂU CHỮ

                   

Trong bài viết ngắn này tôi xin ghi lại một số cuộc tranh cãi về “chữ, nhóm chữ” mà tôi được biết, trong đó có cả trường hợp tôi “chọn phe”, nghĩa là đứng hẳn về một phía. Những chữ đưa ra để tranh cãi thường là tác giả dùng chữ này, người đọc tự ý thay chữ khác để “câu thơ hay hơn”.
Ở đây nếu chính mình không biết chắc, tôi không chú tâm truy xét đâu là chữ nguyên bản (của tác giả), đâu là chữ “mới” của người đọc đưa vào để thay thế - vì sợ lại dính vào một cuộc tranh cãi khác - mà chỉ dùng cảm nhận chủ quan của mình để “phán” chữ nào đúng hơn, hay hơn; trường hợp chỉ có một chữ thì sẽ nhận định chữ đó đúng hay sai, hay hay là dở. 

CHỌN CHỮ HAY HƠN, ĐẸP HƠN, SÂU SẮC HƠN

1/ Mắt em là là một dòng sông
    Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em

(Trăng Lên, Lưu Trọng Lư)

Có người đã sửa lại:

Thuyền ta bơi lặng trong tròng mắt em

Thật là quá sức bậy bạ, làm hỏng câu thơ của Lưu Trọng Lư.
“Thuyền ta bơi lặng trong tròng mắt em” nghe thô quá, cứng quá.
“Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” hay hơn nhiều, “thơ” hơn nhiều, mà lại đúng nguyên bản.

2/ Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
    Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
   (Sông Lấp, Tú Xương)

Hay:

Đêm nghe tiếng ếch bên tai

Vẳng hay hơn. Chỉ cần nghe "văng vẳng" từ xa là đã giật mình, chứng tỏ "tiếng gọi đò" đã ăn sâu vào tâm thức.

1/ Trong bài Thao Thức Vì Em của Lam Phương có đoạn:

Em ơi nhớ thương thương nhớ cả đêm
Làm so quên đuợc phút giây êm đềm
Cầu mong sao cho trời sáng
đúng giờ mình hẹn hò
là đời quên hết sầu lo.

(Phiên khúc 2)

Có người sửa lại:

Cầu mong sao cho trời sáng
đến giờ mình hẹn hò

Chữ nào cũng đúng cả. Nhưng theo tôi, chữ "đến" hay hơn chữ "đúng". Chữ "đến" cho người nghe cái cảm giác thời gian đang "đi từ từ" tới thời điểm "mình hẹn hò". Đây là thời gian của của đôi trai gái yêu nhau - dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển. Còn chữ "đúng" thì kim đồng hồ phải chỉ "đúng ngay chóc" một con số nào đó, cứ như thể đang chuẩn bị phóng phi thuyền lên không gian. Như thế quá cứng nhắc.

 7/ Thể xác linh hồn này giao (trao) hết cho em. (Phạm Hữu T, Muốn Gởi Cho Em)

Giao hay hơn vì ngầm ý tin tưởng.



3/ Nắng mưa từ độ tang chồng
    Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon
    (Nhà Tôi, Yên Thao)

hay:
         
Nắng mưa từ buổi tang chồng

Độ: một ít lâu, một khoảng thời gian (dài hơn một ngày)

Buổi: khoảng thời gian một phần của ngày (buổi sáng, buổi chiều), một ít lâu,


Biết bao công mướn của thuê,
Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi.
(Kiều)

Xét về ý nghĩa, từ “độ” đúng hơn từ “buổi”. Với nghĩa “một khoảng thời gian” (dài hơn một ngày) người viết thường dùng “độ” hơn. Theo nguyên bản là “độ” 



5/ Nét bút đa tình lả lơi
   (Lá Thư, Đoàn Chuẩn & Từ Linh)

hay:

   Nét chữ đa tình lả lơi

Ý nghĩa thì giống nhau nhưng “nét bút” tượng hình hơn, hay hơn.

     6/ Mời người đem theo toàn vẹn hương yêu (Nghìn Trùng Xa Cách, Phạm Duy)
hay:
         Mời người đem theo toàn vẹn thương yêu

Hương yêu rộng nghĩa hơn lại thêm thoang thoảng tý mùi thơm nên hay hơn.

    

     8/ Đêm qua chưa mà trời sao vội sáng? (Chiếc Lá Cuối Cùng, Tuấn Khanh)

Vài ca sĩ khi hát, sửa lại:

         Đêm chưa qua mà trời sao vội sáng?

Đêm qua chưa” bày tỏ tâm trạng bàng hoàng, sửng sốt khi thấy trời sáng - thời gian bên nhau đã hết, đã đến lúc chia tay. Câu nguyên bản hay hơn câu ca sĩ sửa lại rất nhiều.   

9/ Trai tơ mà lấy nạ dòng
    Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu
    (Ca dao)

có nghĩa là “Nước mắm thối chấm lòng lợn thiu ăn chán lắm, giống như trai tơ mà lấy nạ dòng vậy.” 

Sau đó có người sửa lại:

Như nước mắm nhĩ chấm lòng lợn thiu.

Theo tôi, đổi như vậy làm câu ca dao cân xứng và sáng hẳn lên. Trai tơ là “đồ xịn” mà chơi với nạ dòng là “đồ dởm” thì uổng, cũng giống như nước mắm nhĩ là “đồ xịn” mà đem chấm lòng lợn thiu là “đồ dởm” thì uổng phí quá.

Do đó, nếu đổi lại là “nước mắm nhĩ” thì câu ca dao hay hơn nhiều

(Xin cám ơn bạn Vu Hai đã góp ý để tôi sửa lại đoạn này cho đúng.)

Độc giả, khi đọc đến đây, có thể không đồng ý hoàn toàn với chọn lựa, nhận định của tôi. Điều đó, nếu xảy ra, cũng rất dễ hiểu. Mục đích của tôi là – qua 8 thí dụ - có thể thuyết phục bạn đọc chấp nhận một điều: nhiều khi một chữ, một nhóm chữ, một câu, một đoạn thơ, tuỳ theo trình độ thưởng thức, người đọc có thể hiểu, cảm nhận khác nhau; có người cho là đúng, có người bảo sai. Ngay cả khi đã đồng ý chuyện đúng sai, việc phân định mức độ hay dở thường là cũng khác biệt. Nhìn vào sự tranh cãi đúng sai, hay dở ấy bạn đọc có thể mường tượng phần nào trình độ thưởng thức (đẳng cấp) của người đọc thơ. Đấy là mới chỉ nói về việc hiểu và cảm nhận câu chữ. Để hiểu và đánh giá mức độ hay dở của một bài thơ còn phải dựa vào những tiêu chí khác nữa.




Thứ Bảy, 24 tháng 6, 2017

MỐI TÌNH XUYÊN LỤC ĐỊA


 Lời Nói Đầu                                                    

 

Chị Phuong Kim Ngoc Huynh, một bạn Facebook, muốn nhờ tôi soi cặp kính chiếu yêu của người bình thơ vào bài thơ Muốn Gởi Cho Em của anh Phạm Hữu T, một bạn FB của chị, xem có phải là lời chân thật hay lại là những câu thơ xạo, chót lưỡi đầu môi.

 

Tôi chỉ là người làm thơ và bình thơ, không có khả năng, và cũng không muốn, làm công việc “cắt hoặc nối nhịp cầu tình yêu” cho những người tim đang rạo rực lửa tình. Hơn nữa, tôi rất kỵ bình thơ theo yêu cầu mà chỉ bình những bài thơ tôi thích và nghĩ là có thể đem lại một chút gì mới mẻ cho bạn đọc yêu thơ. Hơn nữa, bài thơ phải có gì đó hấp dẫn, gợi hứng thì bình mới … đã.

 

Nhưng rồi đọc Muốn Gởi Cho Em - bài thơ tình như một lời cầu hôn – tôi thấy khoái quá, chẳng cần biết chị Phương Kim Ngoc Huynh có yêu cầu hay không yêu cầu, cứ “xắn tay áo” đưa bài thơ lên bàn mổ.

 

MUỐN GỞI CHO EM

 

Muốn gởi cho em

chút gió biển Galveston

để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt

nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát

rồi bồi hồi

nhớ nhớ thương thương.

 

Những bông hồng tươi thắm trong vườn

muốn gởi cho em – thay những nụ hôn nồng cháy

nhưng sợ lúc hoa tàn

em buồn tự hỏi

“tình mình có tàn nhanh như hoa?”

 

Muốn chia sẻ với em những ước mơ

nhưng sợ phải nghe

“Sao giống của tui quá ‘zậy’?”

rồi khi thơ mình nổi tiếng

tiền tác quyền người ta bắt chia hai

 

Muốn gởi đến em một áng mây 

lại sợ sẽ mưa làm Sài Gòn ngập nước

chưa kịp về nhà

người ta sũng ướt

mình ở xa

“con bệnh” ai chăm nom?

 

Còn nhiều thứ nữa muốn gởi cho em

thứ nào cũng rất đẹp, rất “hay”

nhưng vẫn … sợ

thôi thì anh sẽ bay về bên đó

thể xác linh hồn này

giao hết cho em.

(Phạm Hữu T)

 

Đọc lướt qua độc giả dễ dàng nhận ra đây là bài thơ tình – tác giả từ khu biển Galveston, tiểu bang Texas (Mỹ) viết cho người yêu của mình, một cô gái Sài Gòn.

 

Tứ Thơ:

 

Bài thơ không có ẩn dụ toàn bài nên ý với tứ là một.

Thương nhớ người yêu, tác giả muốn gởi cho nàng mấy món quà nhưng món nào - nếu thực sự gởi -  khi đến tay người nhận cũng gây ra “phản ứng phụ không hay” nên thay vì gởi quà, chàng quyết định sẽ bay về Sài Gòn giao hết thể xác và linh hồn cho nàng.

 

Dối Trá Đời Thường Và Lối Nói Thậm Xưng

 

 Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (1)

 

Trong dối trá đời thường tác giả xạo và luôn có ý che dấu hành vi, lời nói giả dối của mình. Độc giả tinh ý, có thể bằng nhiều thủ thuật khác nhau, moi ra những điều không thật ấy. Khi bằng chứng của sự giả dối được trưng ra, độ khả tín của bài thơ xuống rất thấp, và bài thơ hoặc là chết yểu, hoặc sống lây lất để làm trò cười cho thiên hạ.

 

Ngược lại, trong lối nói thậm xưng, tác giả không có ý che dấu mà còn công khai biểu lộ cái xạo của mình để độc giả càng dễ nhận ra càng tốt. Cái xạo ấy không nhằm mục đích lừa dối mà muốn đưa vào bài thơ nét khôi hài, ý nhị - thoát khỏi cái “thường lệ” quá quen thuộc, gây cảm giác buồn chán. Tác giả phải có tài tạo ra cái xạo đến mức phi lý nhưng cái phi lý ấy phải được dẫn đến chỗ, hoặc trở thành, có lý trong nghệ thuật.

 

Nghệ Thuật Xạo Trong “Muốn Gởi Cho Em”

 

Bài thơ có 5 đoạn thì 4 đoạn - ở mức độ khác nhau – có dính dáng đến lối nói thậm xưng.

 

1/ Xạo tới bến 

                                                                                                          

Muốn gởi cho em

chút gió biển Galveston

 

là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galveston (ở Mỹ) làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có lý trong nghệ thuật”.

 

Gió từ Mỹ gởi về:

 

để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.

 

Có lý quá đi chứ!

 

Và hai câu kế tiếp:

 

nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát

rồi bồi hồi

nhớ nhớ thương thương.

 

vừa trữ tình lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo Lụa Hà Đông -  lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ mở đầu thật tuyệt vời.

 

2/ Xạo nhưng chưa “hết ga”

 

Những bông hồng tươi thắm trong vườn

muốn gởi cho em – thay những nụ hôn nồng cháy

 

Bông hồng trong vườn ở Mỹ mà gởi về Việt Nam không phải là chuyện bất khả thi, nhưng chắc chỉ những tay triệu phú, tỷ phú hoặc những nhân vật thích “chơi bạo lấy tiếng”  mới ngông nghênh kiểu đó chứ người bình thường ít ai làm như vậy. Theo tôi, đây cũng là 2 câu thơ xạo - nhưng chưa xạo đến “hết ga”. Tuy vậy, khi kết hợp vời 2 câu sau:

 

nhưng sợ lúc hoa tàn

em buồn tự hỏi

“tình mình có tàn nhanh như hoa?”

 

thì lại là một đoạn thơ hay vì đưa trí tưởng tượng của độc giả đến một “phản ứng phụ” rất hợp tình, đầy thương cảm  và có duyên.

 

3/ Lời tâm tình pha chút xạo

 

Muốn chia sẻ với em

những ước mơ

 

Ở thời buổi truyền thông bùng nổ như hiện nay, liên lạc bằng điện thư, điện thoại, messenger hay cả bằng “video chat” rất dễ dàng và thường không tốn tiền thì có khó gì đâu việc chia sẻ những ước mơ. Theo suy đoán của tôi, hai nhân vật trong bài thơ không phải mới quen mà “đường tình chung lối” của họ đã có một chiều dài đáng kể.

 

Câu thơ:

 

nhưng sợ phải nghe

“Sao giống của tui quá vậy?”

 

gợi nhớ đến sự tích “chim sợ cành cong”. Độc giả có thể nghĩ Phạm HữuT đang bị một nỗi ám ảnh trong quá khứ nào đó nên giờ như con chim đã một lần bị bắn (hụt), hễ thấy cành cong lại sợ. Theo tôi, nỗi sợ của chàng ở đây khác với nỗi sợ bình thường của người đời mà là - một cách khéo léo - “khoe” sự “gần gũi” và ít nhiều đã tâm đầu ý hợp của hai người. Cái hay, cái độc đáo của câu thơ là ở chỗ đó.

 

Nhưng đến 2 câu sau:

 

rồi khi thơ mình nổi tiếng

tiền tác quyền

người ta bắt chia hai

 

thì đúng là mùi phét lác đã bốc lên khá cao - cứ làm như mình sắp trở thành thi sĩ nổi danh đến nơi rồi, sợ người ta chia mất tiền tác quyền. Chúng đã kết hợp với hai câu đầu thành một đoạn thơ xạo, khôi hài, đầy tính nghệ thuật và thật dễ thương.

 

4/ Lại xạo “mút chỉ”

 

Muốn gởi đến em một áng mây

 

Cách nhau cả nửa vòng trái đất mà “Muốn gởi đến em một áng mây” thì nếu không là bệnh nhân của nhà thương Chợ Quán thì cũng là một tay nói dóc “một tấc đến giời”. Vậy mà thật lạ! Khi đọc câu thơ xạo này – câu thơ đã thay đổi những cái hợp lý quá nhàm chán của đới thường - độc giả lại cảm thấy thích thú, sảng khoái vì nó dẫn dắt họ vào một cuôc phiêu lưu mà chưa biết điểm đến ở hướng nào.

 

Nhưng độc giả không phải gồng mình, nhắm mắt “nhảy qua dòng sông nghệ thuật” với những câu thơ “tối như hũ nút” theo yêu cầu của những người làm mới thơ quá lố hiện nay. Ba câu thơ sau ở đây lại là hậu quả rất hợp lý của việc gởi áng mây đó:

 

lại sợ sẽ mưa làm Sài Gòn ngập nước

chưa kịp về nhà

người ta sũng ướt

mình ở xa

“con bệnh”

ai chăm nom?

 

Mây làm mưa, mưa làm Sài Gòn ngập nước, làm ướt người tình, và cuối cùng là “con bệnh ai chăm nom?” Cái phi lý ban đầu đã trở thành cái hợp lý trong nghệ thuật.

 

Đoạn Kết Của Bài Thơ

 

Ở Mỹ, sau một thời gian hò hẹn, tình yêu đã “chín” đến một mức độ nào đó, chàng trai không muốn cô gái tiếp tục “lửng lơ con cá vàng” mà phải quyết định có chịu trở thành người yêu của mình, thực sự thuộc về mình hay không. Chàng sẽ chọn một khung cảnh thích hợp, quỳ dưới chân nàng, nắm bàn tay trái của nàng và hỏi” Will you marry me?” (Em có lấy anh không?) Nếu nàng đồng ý, trả lời “Yes” chàng sẽ moi từ trong túi ra một chiếc nhẫn kim cương (bí mật chuẩn bị sẵn) đeo vào ngón tay áp út của nàng. Hai người hôn nhau và từ đó, trước mắt người đời, họ là một đôi tình nhân gắn bó.

 

Sau 4 đoạn thơ xạo về ý định gởi quà cho em - thật ra tác giả chỉ mượn đó làm cái cớ để, bằng một cách lãng mạn, bày tỏ tình cảm của mình với cô gái - đoạn kết của bài thơ:

 

Còn nhiều thứ nữa muốn gởi cho em

thứ nào cũng rất đẹp, rất “hay”

nhưng vẫn … sợ

thôi thì mình sẽ bay về bên đó

thể xác linh hồn này

giao hết cho em.

 

chính là lời câu hôn trang trọng đó. Đơn giản, không nhẫn kim cương, không đám đông chứng kiến nhưng là lời cầu hôn rất ấn tượng và rất đẹp.

 

Ngôn Ngữ, Hình Ảnh:

 

Ngôn ngữ bình dị, sắc sảo nhưng dễ hiểu, dễ cảm, hình ảnh rất thơ nên độc giả đọc một cách thoải mái, không bị khựng vì tứ thơ rất dễ bắt.

 

Thể thơ:

 

Bài thơ được viết theo thể thơ mới với một vài phá cách. Số chữ trong câu thay đổi tùy tiện nhưng với biên độ hẹp. Câu ngắn nhất 6 chữ:

 

rồi khi thơ mình nổi tiếng

 

câu dài nhất 10 chữ (10 âm tiết thì chính xác hơn):

 

Muốn gởi cho em chút gió biển Galveston (Gal – ves – ton)

 

và:

 

thứ nào cũng rất đẹp, rất “hay” nhưng vẫn … sợ

 

Vần:

 

Vần liên tiếp, khá đều đặn. Bài thơ 20 câu, gieo 8 cặp vần mà chỉ là thông vận nên vị ngọt của thơ vừa dịu. Hơn nữa, ý của mỗi đoạn thơ lạ, đẹp và ý nhị, gây cảm giác thích thú cho người đọc nên bài thơ hoàn toàn không có hội chứng nhàm chán vần.

 

Cảm Xúc Và Hồn Thơ

 

Cảm xúc tầng 1 và tầng 2:

 

Do ngôn ngữ đẹp, dễ cảm, hình tượng rất thơ nên cảm xúc ở tầng 1 khởi đầu đã mạnh. Tác giả dùng 4 đoạn đầu để thố lộ tình mình với người đẹp, đoạn sau như một lời cầu hôn. Thế trận như vậy tương đối hợp tình hợp lý, tạo cảm xúc mạnh hơn nữa ở tầng 2. Thêm vào đó, hiệu ứng của lối nói thậm xưng làm tâm hồn độc giả như bồng bềnh trên gió, trên mây, rất sảng khoái.

  

Cảm xúc tầng 3 (hồn thơ)

 

Bài thơ gieo vần liên tiếp nên – xét về phương diện thanh âm – câu này nối câu kia, đoạn sau nối đoạn trước, cứ như ngựa phi bon bon trên đường vì không có mô gò cản trở. Với hình thức thơ và cách gieo vần như thế, nếu tác giả đang cao hứng và tâm trạng tuôn chảy theo chiều dọc, chúng ta ít nhiều cũng sẽ có cảm xúc ở tầng 3. (Nếu tác giả cao hứng đến mức lạc thần trí, cảm xúc tầng 3 sẽ chính là Hồn Thơ.)

 

Khốn nỗi bài thơ lại chia làm 5 đoạn, mỗi đoạn là một ý riêng biệt nên tâm trạng của thi sĩ không phát triển theo chiều dọc mà trải rộng theo chiều ngang, không cùng hướng và cùng nhịp với nhạc điệu của bài thơ. Không có sóng sau dồn sóng trước, chúng ta không có hồn thơ.

 

Tóm lại, Muốn Gởi Cho Em là bài thơ có nhiều  điểm nổi bật.

Nó viết theo thể thơ mới nhưng đã vươn tới cái vóc dáng tối ưu của thể thơ này. Số chữ trong câu thay đổi tùy tiện không theo một quy luật nào nên tuy vần liên tiếp, vị ngọt của thơ cũng chỉ ở mức độ vừa phải, không có hội chứng nhàm chán vần.

 

Bài thơ sử dụng lối nói thậm xưng - một biện pháp tu từ rất khó nhai – không khéo, thay vì “xạo” nghệ thuật lại biến thành giả trá đời thường. Ở đây bài thơ đã có hai đoạn thậm xưng tuyệt vời thấm đẫm chất thơ.

 

Hai đoạn 2 và 3, tuy chưa đạt hiệu ứng cảm xúc tối đa của lối nói thậm xưng (vì xạo chưa tới bến) - nhưng chỉ ở ngữ nghĩa đời thường – đó vẫn là những đoạn thơ mới lạ, đầy ắp chữ tình, gây cảm giác ấm áp, sảng khoái cho độc giả.

 

Nhắn Chị Phuong Kim Ngoc Huynh,

 

Thiệt tình tôi không biết anh chàng Phạm Hữu T của chị mặt ngang mũi dọc ra sao, nhưng đọc bài thơ của hắn thấy quá đã. Theo tôi, Muốn Gởi Cho Em “nặng” hơn một bài thơ tỏ tình; nó vừa tỏ tình vừa lên tiếng cầu hôn – nghĩa là chàng muốn cùng chị đi “tới bến”. Quan trọng nhất, đó là những lời chân thật - vì nếu không chân thật khó viết được những vần thơ nhiều cảm xúc như thế.

 

Chuyện riêng của chị, chị tự quyền quyết định, tôi không ý kiến. Dù sao đi nữa chị cũng tốt phước và đáng hãnh diện tự hào, đã là nhân vật chính - được thương mến và trân trọng – trong một bài thơ đặc sắc như Muốn Gởi Cho Em.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

CHÚ THÍCH:

1/ Diên Hồng Dương, Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ ‘Xạo’”

 

https://www.facebook.com/dienhong.duong.5/posts/986680141469017

Thứ Sáu, 16 tháng 6, 2017

LẠI BÀN VỀ KỊCH BẢN XẠO TRONG THƠ

                              

Bài viết Một Kịch Bản Thơ “Xạo” mới xuất xưởng được hơn nửa ngày thì tôi nhận được tin nhắn qua Messenger của cô giáo Diên Hồng Dương:

Anh Nhi Pham kết bạn em đi rồi đọc bài phản hồi ạ. Cảm ơn anh. Có gì đừng buồn nha.”

Chưa biết bài phản hồi mạnh bạo đến cỡ nào, nhưng đọc tin nhắn lịch sự dễ thương như thế tôi đã có cảm tình. Sau khi đọc bài Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ ‘Xạo’” của cô giáo, tôi càng có cảm tình hơn vì thái độ hiền dịu, lời lẽ nhẹ nhàng, nhã nhặn, và đặc biệt, một tấm lòng yêu mến văn chương tha thiết.
Vì thế tôi viết bài này không để tranh biện thắng thua mà chỉ để làm rõ một số khác biệt trong cách nhận xét, đánh giá thơ ca giữa cô giáo và tôi. Và dĩ nhiên kết luận sau cùng sẽ là của độc giả.

Sự Xuất Hiện Của Kịch Bản

Đã làm thơ, khi chữ nghĩa cùng với cảm xúc tuôn ra, chúng phải “chảy” về một hướng nào đó, bằng một “con kênh” nào đó. Con kênh có thể có trước, cũng có thể xuất hiện cùng thời điểm lúc chữ nghĩa và cảm xúc tuôn ra. (Trường hợp sau thì thơ dễ có hồn hơn). Trong thực tế, ít ai từ lúc cầm bút viết những chữ đầu tiên của bài thơ cho đến khi buông bút là có “đứa con tinh thần” chào đời. Có khi ngày hôm sau, tuần sau, nhiều trường hợp còn lâu hơn nữa, phải quay trở lại tiếp tục công việc đang bỏ dở. Lúc ấy, đoạn sau phải viết sao cho ăn khớp với đoạn trước và phải phù hợp với bức tranh toàn cảnh của bài thơ.

Có điều chắc chắn rằng khi bài thơ hoàn tất, cả thi sĩ và người đọc sẽ nhận ra – có thể độ hiển thị khác nhau - hình ảnh của con kênh đó. Đó chính là bố cục mà riêng tôi có khi gọi là thế trận chữ nghĩa, hoặc kịch bản của bài thơ.

Để bạn đọc mới tiện theo dõi, tôi xin lập lại một đoạn trong bài viết trước:

Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện. Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. 

Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là một người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy. Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được.
Nhưng đôi khi có những kịch bản bị xê dịch quá nhiều, đi đến chỗ không hợp tình, hợp lý. Độc giả sẽ cho rằng thi sĩ “xạo”, và bài thơ thất bại.

Một Số Trường Hợp Xạo Gần Giống Kịch Bản “Tình Yêu Không Lời”

 Bài Học Đầu Cho Con
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu?
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông

Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè

Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương có ai không nhớ...
(Đỗ Trung Quân)

Ngay ở đoạn đầu tác giả cho đứa bé hỏi mẹ 2 câu hỏi với giọng rất ngây thơ về một ý niệm khá trừu tượng: quê hương.

Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu?

và:

Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

Người đọc có thể nhận ra ngay là nhà trường đã cố nhồi nhét quá sớm cái ý niệm “khó hiểu, khó cảm” ấy vào đầu óc ngây thơ của đứa bé mà không thành công. Vì thế đứa bé về nhà hỏi mẹ và người mẹ đã được tác giả nhờ cậy giải thích ý niệm về Quê Hương cho đứa bé. Và bà đã giải thích rất hay, rất tuyệt. Dựa vào ngôn ngữ từ 2 câu hỏi tôi đoán đứa bé đang học một lớp nào đó ở bậc tiểu học. 

Như vậy lời giải thích của bà mẹ - rất hay, rất tuyệt ấy – có vẻ hơi cao, hơi xa so với tầm hiểu biết của đứa bé. Nhưng nhìn lại cái tựa bài thơ thì tôi giật nẩy mình. “Bài Học Đầu Cho Con” - có nghĩa là đứa bé mới học bài học đầu tiên, mới vào lớp vỡ lòng, còn thấp hơn mẫu giáo một bậc.

Ở tuổi ấy làm sao có thể đặt một câu hỏi “nặng ký” như thế được. Rõ ràng câu hỏi của đứa bé đã được tác giả ngụy tạo một cách khá vụng về, và câu trả lời - tuy bà mẹ có thể đang nhìn thẳng vào mắt con để nói - đâu phải để giải thích cho đứa bé ngây thơ máu thịt của mình mà tâm hồn của bà đang nghĩ đến, nhắm đến những đối tượng khác, với mục đích khác.

Thơ là tiếng lòng, tiếng thổn thức của con tim mà ngay từ những giây phút ban đầu, từ cái tựa của bài thơ thi sĩ đã cho lý trí  bước vào đạo diễn một kịch bản “ba xạo” thì thật là “không tâm lý” chút nào. Chắc người đọc có thể thấy ngay là cái tựa không thật đó đã kéo độ khả tín của bài thơ xuống gần mức Zero.  (Lời Bình Ngắn, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com) 

Chú thích:

Tôi xin phép được lên tiếng “ca” cố nhạc sĩ Giáp Văn Thạch một câu. Khi phổ nhạc ông đã sáng suốt và tài tình bỏ cái tựa Bài Học Đầu Cho Con và bỏ luôn đoạn thơ có 2 câu hỏi của một “cụ non” nào đó mà thi sĩ Đỗ Trung Quân đã nặn ra để lấy cớ đưa vào bài thơ những bức tranh quê tuyệt đẹp. Bản nhạc phổ thơ của ông - với cái tựa Quê Hương – nghe “đã” hơn bài thơ gốc nhiều. Tiếc rằng đoạn cuối “bị biên tập” nên có cái giọng xấc xược, bố láo làm bực mình rất đông người Việt hải ngoại.

Thư Cho Vợ Hiền

Nhạc sĩ Song Ngọc (trước năm 75) có sáng tác bản nhạc Thư Cho Vợ Hiền nói về tâm tình của một người lính VNCH – qua lá thư - gởi về người vợ ở một vùng quê xa xôi hẻo lánh. Nỗi nhớ thương rất thật của người chồng, người cha khiến nhiều khán thính giả thời đó mủi lòng thương cảm. Nhưng trong lúc “điều chỉnh” nội dung câu chuyện của bản nhạc, nhạc sĩ đã đi quá lố khi ông viết:

“Còn nhớ con mình ngày đó tháng chưa tròn anh đặt tên chúng mình. Giờ con biết đọc hay chưa? Hay nhắc tên ba hoài để em nhớ thương thêm.”

Ở miền Nam lúc ấy ngoài địa phương quân, nghĩa quân – trú đóng ở địa phương, gần nhà, việc về phép thăm gia đình khá dễ dàng – còn có những đơn vị chủ lực – vùng hoạt động rộng lớn hơn, phép tắc cho binh sĩ hạn chế hơn (vì xa xôi, đi lại khó khăn). Nhưng mỗi người lính, theo quy định, mỗi năm đều có phép thường niên – 7 ngày phép, 2 ngày đường. Ngoài ra, còn có phép thưởng, phép đặc biệt vào những dịp ốm đau, hiếu hỉ, tang chế trong gia đình. Cũng có khi vì chiến trận, hành quân, việc đi phép bị trì hoãn, nhưng sau đợt hành quân quyền lợi phép tắc của người lính lại được thực hiên.

Nhạc sĩ muốn kéo dài thời gian xa cách để nỗi nhớ thương thêm sâu nặng, bản nhạc thêm phần tha thiết. Nhưng từ lúc “tháng chưa tròn” cho đến khi “bìết đọc hay chưa?” dài khoảng 6, 7 năm – quá xa cách với thực tế. Ông đã mắc lỗi “xạo với khán thính giả” 

Nghe đến đoạn này một người bạn cùng đơn vị (với tôi) buột miệng nói đùa “Cũng may lão chỉ nói ‘biết đọc’ chứ nếu cũng vần ấy mà dùng chữ khác thì ‘bỏ mẹ’. Đúng là lão này muốn nâng bi chế độ mà nâng không khéo nên thành bóp dế.’”

(Lời Bình Ngắn, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com)

Cô DHD thấy đấy! Ngay cả những thi sĩ, nhạc sĩ nổi danh, nếu không cẩn thận, cũng mắc phải cái lỗi Xạo như nhà thơ Phạm Trung Dũng của chúng ta.

Về Bài Viết Của Diên Hồng Dương

Trở lại bài viết “Có Cái Gì Đó Sai Sai …” DHD, thể hiện chức năng cô giáo - chỉ ra rất nhiều điểm liên quan đến “kỹ thuật thơ” - đặc biệt trường hợp thi sĩ nói “khoa trương (thậm xưng)” không phải vì xạo mà vì thể hiện một biện pháp tu từ, một thủ pháp nghệ thuật nào đó.

khi sáng tạo nghệ thuật, người ta dùng các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, khoa trương ( thậm xưng), nói giảm, ước lệ, tượng trưng... để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật.

Sau đó DHD đặt câu hỏi:

 “Hà cớ gì anh Nhi lại xâm phạm quyền tự do sắp xếp bố cục cho bài thơ anh Phạm Trung Dũng rồi bình là thời gian và tình tiết không hợp lý, nói nặng hơn là xạo ? Anh có chủ quan quá không vậy?”

Và đưa ra nhận xét:

“trong mắt tôi thì anh có vẻ ác cảm với bài thơ của Phạm Trung Dũng và nhận xét có gì sai sai..về cách viết của nhà thơ lẫn cô giáo phê bình cho bài thơ”.

Trả Lời Câu Hỏi

Nhà thơ Phạm Trung Dũng, khi sáng tác Tình Yêu Không Lời, có toàn quyền sắp xếp bố cục bài thơ. Không ai, vì bất cứ lý do gì, có thể xía vào, xâm phạm cái quyền tự do ấy của anh. Nhưng khi bài thơ, bằng cách này hay cách khác, được ra mắt người đọc thì nó như một cô gái giữa chợ. Ông đi qua, bà đi lại đều có quyền ngắm nghía, buông lời bình phẩm. 

Cô giáo Diên Hồng Dương thích bài thơ và đã viết một bài bình với những lời khen đầy ưu ái. Đó là quyền của cô giáo. Đến lượt tôi đọc bài thơ thấy ý chính của kịch bản thơ không hợp tình hợp lý - đến mức có thể nói là xạo – viết mấy lời nhận xét thì đó cũng là quyền của tôi.

Nhưng nhận xét của tôi đâu đã phải là kết luận chung cuộc. Tác giả hoặc những người đọc khác, nếu không đồng ý, có thể thoải mái nhảy ra lên tiếng. Cô giáo DHD chất vấn tôi, cho là tôi “chủ quan quá” khi “xâm phạm quyền tự do sắp xếp bố cục của bài thơ” là cô đã hơi bị sai – không, phải nói là sai rất lớn – vì đã không nắm vững điểm sơ đẳng nhất nhưng là then chốt trong mối tương quan giữa Sáng Tác và Phê Bình.

Có Thủ Pháp Ẩn Dụ, Thậm Xưng, Ước Lệ, Tượng Trưng Trong Bài Thơ TYKL?

Theo cô giáo DHD thì trong khá nhiều trường hợp, nói quá lố, nói xạo trong thơ không những không thể bị chê trách mà còn đáng được tuyên dương vì đã sử dụng một biện pháp tu từ nào đó “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật.” Tôi hoàn toàn đồng ý với cô giáo về điểm này. Nhưng hình như cô giáo đã quên chỉ ra cái biện pháp tu từ nào đó được sử dụng trong bài thơ Tình Yêu Không Lời để chứng minh luận điểm của mình. Báo hại tôi đã phải đọc lại bài thơ một cách chậm rãi hai lần nữa đễ tìm giùm cô giáo. Nhưng đáng buồn là tôi đã phí công vô ích.

Tôi hoàn toàn không thấy bóng dáng của ẩn dụ, thậm xưng, ước lệ, tượng trưng … trong bài thơ. Tôi chỉ thấy đây là một bài thơ tự sự. Tác giả đã kể lại lớp lang mối tình lãng mạn của mình (đại danh từ Tôi) với cô gái câm điếc. Có điều khi tứ thơ đang tuôn chảy chàng đã vô tình để kịch bản của bài thơ xô lệch đến chỗ bất hợp tình hợp lý. 

Cũng như cô giáo, tôi ngưỡng mộ cái lãng mạn, dễ thương của tứ thơ trong Tình Yêu Không Lời. Nhưng khác với cô giáo, kịch bản thơ xạo, với tôi, là một lỗi rất nặng của thi sĩ, làm giảm giá trị của bài thơ rất nhiều – và trong trường hợp này, bài thơ không những thất bại thảm hại mà lại còn ít nhiều có tính xúc phạm vì đã xạo một cách trắng trợn, xem thường người đọc.

Với Bài Học Đầu Cho Con, chỉ cần thay cái tựa (như nhạc sĩ Giáp Văn Thạch đã làm khi phổ nhạc bài thơ) là bóng dáng của chữ Xạo biến mất và bài thơ trở thành những bức tranh thơ tuyệt đẹp. Với Thư Cho Vợ Hiền, chỉ cần thay chữ “đọc” bằng chữ “bò” hoặc quá lắm là chữ “chạy” thì chúng ta sẽ có một bản nhạc tình đằm thắm thiết tha.

Nhưng trường hợp Tình Yêu Không Lời thì khác. Nhà thơ Phạm Trung Dũng đã sử dụng gần như toàn bộ bài thơ (24 trên tổng số 26 câu) để tạo nên cái kịch bản xạo đó. Nó đã trở thành cái giá chống của bài thơ. Đụng đến cái giá chống đó bài thơ sẽ sụp đổ hoàn toàn.                                                               


 Về Nhận Xét Của Cô Giáo

Cô giáo viết:

trong mắt tôi thì anh có vẻ ác cảm với bài thơ của Phạm Trung Dũng và nhận xét có gì sai sai..về cách viết của nhà thơ lẫn cô giáo phê bình cho bài thơ”.

Tôi không biết nhà thơ Phạm Trung Dũng là ai và bài thơ Tình Yêu Không Lời tôi chỉ được đọc mới đây qua bài viết của cô giáo. Sau khi đọc bài thơ, nhận ra cái kịch bản xạo trắng trợn của nó, tôi không có chút ấn tượng và nghĩ sớm muộn gì nó sẽ đi vào quên lãng. Nhưng đọc lời bình rồi lại xem qua tiểu sử, học vấn và nghề nghiệp của cô giáo, tôi bắt đầu thấy … sợ. 

Một người có kiến thức rộng, được làm việc đúng chuyên môn lại hết lòng yêu thích văn chương như cô giáo mà lại lẫn lộn giữa sự giả trá bình thường và cách nói thậm xưng (khoa trương) đầy nghệ thuật, rồi đem “vòng nguyệt quế” trao cho Tinh Yêu Không Lời thì nguy hiểm quá. Càng nguy hiểm hơn nữa là cô giáo đã dùng khả năng diễn đạt và nhiệt tình của mình – qua bài bình - truyền cái sự lầm lẫn ấy cho lớp trẻ.

Đọc Một Kịch Bản Thơ “Xạo” của tôi trên FB, bạn Le Tran đã viết một bình luận như sau:

Đúng là một kịch bản thơ vụng về. Tác giả bài thơ cố ý gây 'bất ngờ" trong thi phẩm "cô gái câm" này nhưng hoàn toàn thất bại khi người đọc đã soi đôi mắt "chiếu yêu" vào câu chuyện tình. Cám ơn chú Nhi Pham đã vạch rõ chân tướng kỹ xảo 'đà đao' vô lối của bài thơ mà rất ít người đọc để ý.

Kết Luận

Khi cô giáo Diên Hồng Dương - người đã học ngữ văn tại Đại Học Sư Phạm TPHCM và giảng dạy tại CĐSP Tây Ninh – viết “Vậy nên tôi vẫn khẳng định Tình Yêu Không Lời là một bài thơ hay” tôi hiểu ngay đó không phải là lời phát biểu hời hợt, thiếu chín chắn. Cô đã có lý do, có chỗ dựa vững chắc nào đó, để tin như thế. Bởi vậy tôi xin dùng phần kết luận – cũng là mục đích của bài viết này - để nhắn với các bạn trẻ yêu thơ mấy lời tâm huyết.

 Tôi có đứa cháu họ lấy phải thằng chồng “nói dối như cuội” lại có tính trăng hoa, có lần dan díu với người đàn bà khác bị vợ bắt gặp. Nó tâm sự: Cháu chán lắm, muốn bỏ ngay lập tức nhưng lại sợ khổ lây đến con cái. Rồi còn tài sản, công việc làm ăn đang thuận lợi …, chia tay là đổ xuống sông, xuống biển hết.

Bỏ rơi một bài thơ dở không nhiêu khê và đau đớn như cắt đứt một cuộc tình. Nếu bạn có đủ kiến thức để nhận biết bài thơ mình đã một thời hết lòng yêu mến là bài thơ dở, hãy mạnh dạn “nghỉ chơi” với nó. Hãy dành chỗ trống trong tâm hồn – thường là có giới hạn - để chứa những bài thơ hay hơn, đẹp hơn, độc đáo hơn đang chờ bạn ở phía trước. Trình độ thưởng thức thơ của bạn qua mỗi lần “nghỉ chơi” như vậy sẽ được tăng tiến và tâm hồn bạn, nhờ thế, sẽ tự bay lên một tầm cao mới.

Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com


Phụ Lục


CÓ GÌ ĐÓ SAI SAI...TRONG BÀI PHÊ BÌNH " MỘT KỊCH BẢN THƠ " XẠO"
 _______________________________________
Hôm nay là sinh nhật con gái tôi. Đang post ảnh, tình cờ lướt qua face book đọc được một bài bình khá thú vị của nhà phê bình Phạm Nhi. Vấn đề là bàn đến bài thơ của nhà thơ Phạm Trung Dũng và có liên quan đến một phần bài bình thơ của tôi cho tác phẩm rất hay: " Tình yêu không lời". Tôi xin phép anh Phạm Nhi cho tôi góp vài lời nhận xét. Nếu có chi không hài lòng mong anh bỏ qua. Chúng ta cùng nhau xác định: góp ý là để tiến bộ cho việc cảm nhận văn chương trong sáng cả hai phía nhé! 

Thứ nhất, tôi rất thích cách nói thẳng suy nghĩ của anh thể hiện ở tựa đề: " Một kịch bản thơ xạo". Tựa đề rất hút độc giả nha. Nếu ai đi qua mà không dừng lại thì đúng là vô cảm. Nó buộc người đọc phải tò mò đi vào bài viết và phải đọc đến hết bài xem kịch bản nào xạo? Tại sao xạo ? Và xạo như vậy có hại ai không? Nhân nói chữ Xạo thì tôi cũng chợt nhớ Vũ Bằng. Ông có viết một quyển sách nói về nghề Văn và người viết Văn qua kinh nghiệm của mình: " Bốn mươi năm nói láo", không biết anh Phạm Nhi đã đọc quyển này chưa? Nếu nhìn chữ láo, hay xạo theo quan điểm của Vũ Bằng thì cũng không có gì quá đáng, bởi lẽ Vũ Bằng xem việc hư cấu trong nghệ thuật xét cho cùng là không giống y chang cuộc đời. Thường một tác phẩm nghê thuật có giá trị cao bao giờ nó cũng gợi cho bạn đọc suy nghĩ, liên tưởng và có một cái nhìn đẹp và mở rộng về cuộc sống. Cuộc sống vốn dĩ mang lại cho người ta sự đơn điệu về vòng quay của thời gian 24h, hết ngày này qua ngày khác, hay đơn điệu về không gian theo kiểu đùa" Vân Tiên cõng mẹ trở ra... rồi cõng mẹ trở vô...", quanh quẩn đến chóng mặt... nên khi sáng tạo nghệ thuật, người ta dùng các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, khoa trương ( thậm xưng), nói giảm, ước lệ, tượng trưng... để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết về nỗi nhớ có câu: 

" Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê" 

Ba thu làm sao dọn lại trong một ngày? Thời gian này là thời gian phi lý tính, thời gian của tâm trạng, lấy ý từ một câu trong Kinh Thi: " Nhất nhật bất kiến như tam thu hề". Hổng lẽ đọc Truyện Kiều đến đây, phán cho Nguyễn Du một câu là miêu tả xạo? Thơ vốn dĩ cô đọng, đâu cần phải nói chi tiết đến từng mi li mét để làm rõ tại sao tác giả viết thế này mà không viết thế kia cho logic. Câu chuyện trong thơ cũng vậy, đâu phải nhất nhất phải theo kịch bản thực tế. Câu chuyện là cái cớ để bộc lộ tâm tình. Nó có thể hợp lý, có thể phi lý và lãng mạn đến bất thường vẫn chấp nhận được vì nó là nghệ thuật chứ không phải đời thực. Xem tranh cách điệu hổng lẽ phán cho một câu: " Họa sĩ vẽ thiếu nét?"Xem một vở diễn trên sân khấu thấy diễn viên cầm cái roi mà bảo con ngựa không lẽ cho diễn viên bị tâm thần? Mọi sự quy ước nằm trong ý tưởng của nghệ thuật nhằm diễn tả một hiện thực cách điệu mang tính nhân văn đi kèm sắc thái biểu cảm có giá trị thẩm mỹ cao. 

Quay trở lại " Tình yêu không lời" của Phạm Trung Dũng, những vấn đề mà nhà phê bình Phạm Nhi thắc mắc tôi thấy anh quá chi li và cảm nhận quá đơn giản theo kiểu máy móc của Toán học, một cộng một phải luôn bằng hai. Đó là sự áp đặt xúc phạm đến sáng tạo cá nhân của nhà thơ Phạm Trung Dũng. Anh đã hiểu hết dụng ý người sáng tác chưa mà phán cho người ta là xạo? Bất kỳ ai khi họ viết một cái gì họ đều đủ trình độ phản biện những ai công kích họ. Tôi nghĩ về điều này nhà thơ Phạm Trung Dũng dư sức trả lời. Và cũng dễ trả lời bởi vì Phạm Trung Dũng rất giỏi về Lý luận văn chương. Hà cớ gì anh Nhi lại xâm phạm quyền tự do sắp xếp bố cục cho bài thơ anh Phạm Trung Dũng rồi bình là thời gian và tình tiết không hợp lý, nói nặng hơn là xạo ? Anh có chủ quan quá không vậy? Anh có nhớ một bài ca dao xưa: "lổ mũi em mười tám gánh lông..." không?
 Trên đời có cái lổ mũi nào như vậy không? Vậy mà thơ cũng có vậy. Chuyện yêu đương thi vị thì phải tạo cho chàng trai ở trọ cạnh nhà cô câm sự ngờ nghệch, trong sáng đến phi lý để dẫn đến tình yêu lãng mạn là một thủ pháp vẽ mây nẩy trăng thôi. Nói vòng vo để tạo chất kịch tính, để thoát ly cái quy trình đời thường là chuyện thường thôi mà...
 
Thứ hai, anh cho rằng tôi dũng cảm khi bình bài thơ xạo là anh lại sai. Tôi yêu cái chất nhân văn của tình yêu không lời và tôi bình. Tôi hoàn toàn biết đó là kịch bản nghệ thuật mà anh. Và có lẽ anh không hiểu được nỗi khổ của người câm nên anh cho rằng bài thơ giống như chuyện yêu đương bình thường, chỉ khác chút nhân vật cô gái bị câm. Tôi từng sống gần người câm một thời gian dài mà không biết họ câm. Tôi dạy ở nhà máy Việt Nam Mộc bài, gặp nhiều cô câm được nhận vào làm. Các cô chỉ cười không nói... đến lúc sau này gọi đứng lên phát biểu thì mới bật ngửa... Họ không có tình yêu vì đâu có ai yêu người câm, dù họ rất đẹp, lại siêng nữa... Nên khi đọc bài thơ, tôi xúc động ở tình cảm thánh thiện của chàng trai. Đưa một người ngố đến với một người câm, sự cách điệu nghệ thuật đã tạo ra một đôi lứa lý tưởng và hoàn hảo.
Vậy nên tôi vẫn khẳng định " Tình yêu không lời " là một bài thơ hay. Trong mắt anh Phạm Nhi có thể tôi bị sập hầm nhưng ngược lại trong mắt tôi thì anh có vẻ ác cảm với bài thơ của Phạm Trung Dũng và nhận xét có gì sai sai..về cách viết của nhà thơ lẫn cô giáo phê bình cho bài thơ " Tình yêu không lời". 
Cảm ơn anh Phạm Nhi đã giúp tôi nhớ lại một bài thơ hay.

Diên Hồng Dương


Thứ Hai, 12 tháng 6, 2017

MỘT KỊCH BẢN THƠ "XẠO"

                                             MỘT KỊCH BẢN THƠ “XẠO”

Kịch Bản Thơ

Có một số bài thơ ngắn, đơn giản, bày tỏ một “mảnh nhỏ” tâm trạng của tác giả trước một khung cảnh, một tình huống nào đó của cuộc sống. Nhưng cũng có những bài thơ dài hơn, bề thế hơn, nói về một “nỗi lòng” phức tạp hơn, nhiều tình tiết hơn. Lúc ấy, bài thơ sẽ như một vở kịch đời và thi sĩ sẽ vừa là biên kịch vừa là đạo diễn, diễn viên … tất tật. 

Vì là thơ nên tác giả sẽ dồn hết sự chú ý vào cảm xúc, những xao động của tâm hồn trước cảnh đời. Cảm xúc muốn có cơ hội phát triển, lớn mạnh cần nương theo dòng chảy của tứ thơ. Và tứ thơ muốn chảy đúng hướng cần phải dựa vào kịch bản của bài thơ. 

Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện. 

Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là một người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy. Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được. 

Chúng ta thử đọc đoạn kết bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:
            Đồn rằng đám cưới cô to
            Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
            Nhà gái ăn 
chín nghìn cau
            Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu 
chín nghìn
            Lang thang tôi dạm bán thuyền
            Có người giả 
chín quan tiền, lại thôi.

Tôi không tin là trong thực tế, con số chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn. Ở đây thủ pháp “bày tỏ, không kể lại” được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời. (1)

Chắc Độc giả cũng đồng ý với tôi sự xê dịch kịch bản chút ít của Giấc Mơ Anh Lái Đò là có thể chấp nhận được.



Nhưng đôi khi có những kịch bản bị xê dịch quá nhiều, đi đến chỗ không hợp tình, hợp lý. Độc giả sẽ cho rằng thi sĩ “xạo”, và bài thơ thất bại.

Xin mời độc giả đọc bài thơ Tình Yêu Không Lời của Phạm Trung Dũng sau đây.
TÌNH YÊU KHÔNG LỜI

Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái nhành tim tím sang nhà em chơi
Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu...

Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi
Lặng yên... Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ.
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao thì cháy hết mình vẫn trao.

Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?
Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy, em ngồi lặng im.
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm.
Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ.

Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi.
(Phạm Trung Dũng)

Thật Hay Xạo?

Lần theo tứ thơ tôi đoán khoảng thời gian từ lúc cô gái đến thuê trọ cạnh nhà chàng trai cho đến khi có cuộc ân ái giữa hai người, ít nhất cũng phải mấy tháng (mấy mùa cây khế trổ hoa) và chàng trai hái hoa sang nhà thăm cô, ngồi uống trà với cô cũng vài ba lần. Thử hỏi từng ấy thời gian, từng ấy cơ hội tiếp xúc mà chàng trai không nhận ra cô gái câm điếc thì thật lạ lùng.

 Rồi còn bà con lối xóm khác, ra vào trông thấy nhau hàng ngày, mà hàng mấy tháng trời, không ai nhận ra cái tật câm điếc của cô gái thì quả là “lạ hết chỗ nói”. Phải chờ đến khi hai người “tò tí” xong, đọc mẩu giấy nàng đưa, chàng trai mới biết được sự tình và ôm cô gái mà bàng hoàng thương cảm, thì thật không thể nào tin nổi.

Khi nhận ra chi tiết chính trong kịch bản của bài thơ không phải chỉ “không hợp tình hợp lý” mà còn xạo một cách trắng trợn, cảm xúc có được qua việc đọc thơ chỉ là thứ cảm xúc giả tạo, độc giả cảm thấy bẽ bàng vì bị xúc phạm. Bài thơ thất bại một cách ê chề.

Kết Luận:

Gặp bài thơ như thế mà dám cầm bút viết lời bình thì cô giáo Diên Hồng Dương (trường Cao Đẳng Sư Phạm Tây Ninh) quả là vô cùng can đảm. Người chuyển bài thơ và lời bình có đoạn giới thiệu rất bay bướm:

Nhiều người nói: “Phê bình nghệ thuật là cây Tầm Gửi sống nhờ cây Sáng Tạo. Tôi không nghĩ vậy. Theo tôi, phê bình nhiều lúc như gió nâng tác phẩm bay lên.”

Trường hợp Tình Yêu Không Lời thì khác. Bài thơ không những không bay lên mà còn kéo người bình thơ xuống hố.

Phạm Đức Nhì

Phụ Lục:

LỜI YÊU TRONG "TÌNH YÊU KHÔNG LỜI"

Lần đầu tiên đọc thơ anh, tôi may mắn gặp ngay đề tài mình thích. Đề tài này ít người viết, ấy vậy mà vẫn rất thơ trong cõi thiếu thơ.

"Tình yêu không lời” của nhà thơ Phạm Trung Dũng là một khúc hát đồng quê, gợi hương nồng nàn, tim tím màu hoa khế của một mối tình hy hữu. Ngay nhan đề “ Tình yêu không lời” đã có sức gợi, kích thích sự tò mò, khám phá của người đọc về một nét mới, cách nhìn mới trong thơ tình: Khoảng lặng ngôn ngữ tình yêu giữa trùng trùng những lời nói có cánh, những ồn ào, sến sẩm khi đôi lứa bày tỏ cảm xúc trái tim trong những cung bậc âm thanh thơ nhạc.

Giao thoa với tự sự, bài thơ kể lại một kỷ niệm đẹp - mối tình trong sáng và thuần khiết của một chàng trai với cô hàng xóm dễ thương. Nàng ấy xuất hiện với nét đẹp của một cô gái không lời. Chính cái không lời, e ấp ban đầu là sức hút kỳ lạ đưa hai tâm hồn nên thơ tiếp cận, hữu duyên.

Câu chuyện thơ vào đề gợi nhớ môtip mở đầu của bài thơ " Cô hàng xóm" của Nguyễn Bính: " Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn". Nhưng ở đây hoàn cảnh khác, không gian khác, và cách xưng hô cũng khác, chỉ có cái hồn chung thú vị là dư ba ngọt ngào ngàn đời trong cách phối thanh của luật thơ lục bát:
" Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái chùm tim tím sang nhà em chơi"

Em và tôi, tuy gần mà xa. Không gian đâu có ngăn cách vậy mà trong " tôi" có cảm nhận giữa hai người là hai thế giới. Em chân quê, quen thuộc với hương mộc mạc của đồng nội ướp trong hơi thở của gió làm " tôi" ngất ngây. Nhưng em thu mình lại trong một khoảnh trời. Và "tôi " chỉ cảm nhận được em qua hơi thở xa xôi, mang máng, mát lành như cơn gió chợt đến, chợt đi... rất mơ hồ ! Câu thơ " Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa" là câu thơ đẹp và lạ, minh chứng cho nguồn thơ lục bát của tác giả dồi dào. Đồng thời cho thấy thể thơ lục bát tuy cổ điển, nhưng vẫn mênh mông khoảng trời sáng tạo cho nhiều cung bậc cảm xúc của người đương đại.

Thơ Phạm Trung Dũng rất cô đọng. Chỉ mới đọc khổ đầu, độc giả đã có thể mở ra trong suy tưởng những hình ảnh, những ý tình sâu sắc. Tình yêu là chuyện muôn đời nhưng nói về tình yêu, mỗi nhà thơ có điểm tựa riêng. Phạm Trung Dũng chọn điểm tựa mộc mạc, chân quê, gắn với mạch nguồn của dân tộc nhưng hồn thơ sắc sảo và hiện đại. Hình ảnh cây khế mấy mùa trổ hoa và "hái chùm tim tím" làm cớ sang chơi nhà nàng vừa cụ thể nhưng vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nó không chỉ gợi nhắc, khái quát tâm lý mà dân gian đúc kết: " giả đò mua khế bán chanh...", mà còn cho thấy thời gian "em" đến thuê trọ vẫn chưa quá lâu: "Chanh chua thì khế cũng chua/ Chanh chỉ một mùa, khế có cả ba". Tâm lý của tình yêu thường bắt đầu bằng sự rụt rè. Tác giả cũng không ngoại lệ. Anh đã tạo một lực nén cho câu thơ và sức nén đó khiến người đọc thấy thú vị khi tiếp cận thơ Phạm Trung Dũng.
Bài thơ dẫn người đọc đi vào câu chuyện một cách tự nhiên, lời kể liền mạch theo cấu trúc lục bát:
" Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im.
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu.”

Những từ : " hào phóng", " thông thái" hoàn toàn là ngôn ngữ thành thị kết hợp với những cụm từ bình dị "pha trà rót nước", "nằm im trong đầu" rất hài hòa, có chút ngộ nghĩnh, phóng túng trong cách diễn đạt. Thế mà hay, cái hay của một hồn thơ không câu nệ, cũng không cần màu mè trang nhã để thi vị hóa tình yêu. Bản chất tình yêu vốn đẹp. Và trong tình yêu, con người càng chân thật thì càng đẹp bởi cái đẹp là sự gắn kết hài hoà của Chân- thiện - mỹ. Điều thú vị chính là: trong cách diễn đạt tự nhiên vẫn tồn tại những ánh trăng lung linh huyền ảo, ẩn sâu nhiều điều không lời. Người đọc rất thích lối ví von: " hồn tôi như mảnh trăng chìm". Hình tượng "mảnh trăng chìm " đẹp mong manh và tạo cảm giác " chới với" khi đắm mình trong biển tình. Còn hơn bị sét đánh. Nó khiến trái tim hoảng loạn đến nỗi mất luôn ngôn ngữ, mất sự thông thái. Và có lẽ chính sự im lặng đã tạo nên mối đồng cảm cho tình yêu của em? Câu chuyện tình dễ thương cứ hút người đọc. Và tiếp tục hấp dẫn cho đến khi tình huống bất ngờ xẩy ra trong không gian đặc nén, mọi việc tưởng như bế tắc: 

"Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi"

Hành động quá bất ngờ. Không chỉ nhân vật "anh" trong bài thơ, mà người đọc cũng thấy vậy. Cái tình cảm bùng lên như lửa rơm ấy liệu có bền được không? Sẽ dẫn đến đâu? Người con gái ấy sao hành động khác lạ vậy? Tình yêu và tình dục đôi khi rất khó phân biệt ranh giới. Nó vừa bản năng vừa lý trí; vừa thánh thiện vừa hoang dại. Tác giả đã mô tả khéo léo quy luật phát triển tâm lý cái phần "người" và phần "con" trong những câu thơ tiếp:

"Lặng yên. Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao dẫu cháy hết mình vẫn trao". 

Thơ mà cứ như tiểu thuyết! Rất hấp dẫn trong lối kể, cách tả. Tác giả dắt người đọc đi vào chuyện tình bằng những rung động hồn nhiên, chân thực và cuốn hút mạnh. Nếu cách đây một thế kỷ mà viết như vậy thế nào cũng bị người đời đóng cho con dấu: " Dâm thư". Nhưng đến thời điểm này mà kể chuyện yêu chỉ như vậy thì quá trong sáng, tế nhị. Cách diễn đạt đẹp, vừa cổ điển, vừa hiện đại. Tác giả không tả những hình ảnh cụ thể mang vẻ đẹp nhục cảm của em mà người đọc cảm nhận em rất đẹp trong bài thơ rất đời, rất người qua các hình ảnh gợi rất sâu: " làn môi khóa chặt làn môi", " bồng bềnh...", "sông mê- bến lú- thuyền tình", " cháy hết mình"... Dường như ở đây có một chút " lạc trôi" trên sông mê, bến lú mất rồi...

Tôi thích câu : “ Đã trao dẫu cháy hết mình vẫn trao" bởi nó mang ngữ điệu của một tính cách quyết liệt. Tình yêu thật sự là cháy bỏng, đam mê, trao dâng và bất chấp, dẫu biết thuyền tình chông chênh, đầy trắc trở trên bến lú sông mê nhưng nếu không cháy, không phiêu hết mình, có lẽ đó chỉ là nửa vời, sống không thật lòng với chính mình và với người yêu. Có thể bản năng con người khi yêu phải vậy, nhưng không hẳn, ai sống trong bản năng cũng biết cháy đúng nghĩa. Nhận phần “cháy” cho mình, quả là yêu đương thật mãnh liệt!
Sau cơn mưa tình ái, một khoảng lặng vô thanh xuất hiện. Cái nhu cầu được trao đổi bằng ngôn từ để sẻ chia, gắn kết trở nên hết sức cần thiết. Thế mà, chờ đợi mãi, em vẫn im lặng. Im lặng đến khó hiểu:
"Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?"
Hai chữ "người ơi" chưa hẳn đã là trách móc, hờn dỗi. Nhưng khao khát đợi chờ được nghe, được xác tín thì đã rõ. Thật bất ngờ:
"Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy em ngồi lặng im
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm".

Bốn câu thơ chỉ 28 chữ mà chứa bao tâm trạng, cảm xúc như những đợt sóng ngầm trong tâm hồn hai trái tim yêu. Nó dẫn dắt người đọc từ cực này sang cực khác. Chưa kịp hiểu vì sao "em" khóc, lại phải đặt câu hỏi trong mẩu giấy ấy nàng viết gì mà chàng trai buồn đến vậy? Chẳng lẽ không có tình yêu? Chàng trai vừa khát khao được nghe "em" nói đến cháy lòng, đã chuyển sang khẳng định: "Lời vô nghĩa hết!". Sự diễn biến tâm lý mang đầy kịch tính: Thắt - mở, mở - thắt, được đẩy lên tới cao trào trước một sự thật nghiệt ngã, bất ngờ:

"Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ".

"Tình yêu không lời" đã được lý giải, nhưng không dừng lại ở nhục cảm tầm thường. Hai câu vĩ thanh mới là điểm nhấn, thông điệp chính của bài thơ, giống như tiếng đàn Thạch Sanh vang lên hóa giải sự ngăn cách giữa tình yêu của người không lời và người nói được mà phải nghẹn lời bằng hai câu thơ đẹp và đằm sâu:

"Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi".

Hình ảnh “Trần nhà cánh nhện buông tơ” vừa ước lệ, tượng trưng vừa phác họa một bức tranh tả thực của không gian tĩnh lặng. Cảm xúc tình yêu dâng lên tuyệt đỉnh trong giờ phút giao hoan là nước mắt. Tôi yêu những giọt nước mắt hạnh phúc của sự cho và nhận. Động từ "ghì" được tác giả sử dụng đúng chỗ, đúng thời điểm, vì vậy nó có sức lan toả, truyền cảm, tạo nên điểm sáng mang tính hài hoà, đồng điệu giữa tình yêu và lòng nhân ái. 

Bằng chất liệu lục bát, ngôn từ giản dị mà tinh tế, "Tình yêu không lời" của nhà thơ Phạm Trung Dũng đã gửi đến người đọc một thông điệp đầy tính nhân văn, mở cho ta một góc nhìn sâu trong cuộc sống. Giữa vô vàn những cuộc tình có hương hoa sắc lá, có tiếng chim mê đắm của vườn xuân thánh thót, ta vẫn bắt gặp những tình yêu lạ và đẹp. Trong cái lặng thầm của thế giới không lời là cả một bầu trời vô ngôn đầy ắp thương yêu.

Diên Hồng Dương