Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2017

"NGƯỜI TỪ TINH CẦU KHÁC" TRONG "CÁNH ĐỒNG"

Rất vui nhận được bài Hồi Đáp Bạn Nhi Pham Về “Cánh Đồng - Một Bài Thơ Lạ” của bạn Vũ Đức. Tôi xin phép chia “Hồi Đáp” của bạn làm 3 phần chính để trả lời cho có lớp lang, bạn và người đọc dễ dàng theo dõi.

1/

Tại sao phải là người ngoài hành tinh chứ không thể khác? Tại sao tác giả thơ không một lần gặp mà biết họ già hay trẻ, xấu hay đẹp, biết những dấu vết còn lại trên cánh đồng là một thứ phương tiện bay nào đó mà Đông, Tây, Kim, Cổ chưa từng một lần thấy? 

Chỉ có tác giả mới có thể trả lời câu hỏi này của bạn rõ ràng và đầy đủ nhất. Hy vọng khi bài viết này đăng bạn sẽ nhận được câu trả lời từ anh ấy. Với nhận xét chủ quan của một người bình thơ, trong trường hợp Cánh Đồng, tôi thích sự lựa chọn “người từ tinh cầu khác” của tác giả. Nó là sự đột phá, giúp - về phương diện tứ thơ – đưa bài thơ vượt lên phía trước so với một số thi sĩ khác cùng viết về chủ đề “chữ dâm” này. (Tôi đã so sánh với Đậu Thị Thương và Đinh Thị Thu Vân). Nếu chọn “một người phi phàm nào khác” chẳng hạn, độ mới lạ làm sao sánh được với Đinh Thị Thu Vân khi chị “rao bán trái tim” mà:

không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh…
(Trái Tim Rao Bán – Bài Thơ Đầy Bản Sắc, Đinh Thị Thu Vân, t-van.net) (1)

Về phương diện kỹ thuật, theo tôi, đó là một thủ pháp được thực hiện rất thành công. Riêng về kịch bản, như tôi đã nêu trong bài bình thơ, là chỗ yếu của bài thơ. Nó đặt ra nhiều câu hỏi khó trả lời thỏa đáng – như câu hỏi thứ hai của phần 1 này chẳng hạn.


2/

Tôi thống nhất với bạn Nhi Pham khi ví bài thơ như một cây cầu duy nhất. Trong khi bản thân nó là rộng hẹp bất tư. Cả bước trên mặt cầu, và cả phải cởi bỏ trang phục dầm người lội mới mong qua cầu. Cha mẹ ơi, mới là thơ mới. Mới đến mức để hiểu nó, hoặc là giống chuột lụt. Hoặc nguyên xi như lúc bà mụ vừa nặn thành ta. Đúng là mới như vừa sinh hạ. 

Nguyễn Hưng Quốc cho rằng “Thơ là cảm xúc đi tìm một đồng cảm”. Làm thơ là đem suy nghĩ, tâm trạng của mình trải trên trang giấy (bằng kỹ thuật thơ) để có người đọc, hiểu và chia sẻ những suy nghĩ, tâm trạng ấy của mình. Muốn thế, tứ thơ, ngoài những nhiệm vụ khác, phải là con đường đễ người đọc theo đó đến với cánh cửa trái tim của tác giả.

Cũng như bạn Vũ Đức, tôi rất ngán những bài thơ của những thi sĩ theo trường phái “Đem Con Bỏ Chợ”. Thơ của họ, cứ vài câu lại dẫn người đọc đến “bùng binh”, có đến 6, 7 ngã rẽ mà không có lời chỉ dẫn đi về hướng nào nên người đọc cứ phải … đi đại và rồi bám theo tứ thơ chừng nửa bài là “bơ  vơ  giữa chợ“, “lạc nẻo đường tình”. Tôi đã nhiều lần được mời “ăn tân gia” nhưng vì bị chỉ đường sai nên không đến được ngôi nhà mới – nơi đãi tiệc.

 Tấm Bản Đồ Vẽ Sai

Chọn lô đất tốt xây được ngôi nhà mới
ông mở tiệc mừng tân gia
“Đến chơi! Hay lắm!”
thư ông viết
mời bằng hữu gần xa

Ngay giữa trang thư một bản đồ
dọc ngang tự tay ông vẽ
và lời chỉ dẫn cặn kẽ
đường đi nước bước đến cuộc vui

Giờ hẹn đến rồi
chưa thấy bóng khách mời nào xuất hiện
đồ ăn nguội lạnh
bàn tiệc vẫn vắng tanh

Vài ngày sau
ông nhận được mấy thư trả lời
trong thư chỉ vỏn vẹn:
“Xin lỗi!
Không tìm thấy nhà.” (2)


Ngược lại, có những bài thơ đường đến “bến bãi” rất dễ đi nhưng lạc thú thưởng thức cái đẹp trên đường đi thì quá ít mà đến “bến bãi” rồi thì “hết”.

 Thơ của những thi sĩ non tay thường là “tứ hết thì ý cũng chẳng còn”. Bước chân vào “điểm đến của tứ thơ” là người đọc có quyền ung dung ngơi nghỉ. Hành trình thưởng thức thơ của ngài đã chấm dứt. Ngược lại, với bài thơ của thi sĩ cao tay, khi người đọc vào “điểm đến của tứ thơ”, nếu muốn, ngài có quyền thả hồn đi tiếp. Và cái hay, cái đẹp thực sự của thơ, cái đem lại cho người đọc rất nhiều khoái cảm thường tụ hội ở đoạn đường đi tiếp ấy.
(Chức Năng Truyền Thông Của Cánh Đồng, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com) (3)

Có đoạn ca dao 4 câu tôi thuộc lòng từ hồi còn nhỏ vì mẹ tôi thường hát ru mấy đứa em:

Rau răm ngắt ngọn lại giồng (trồng)
Em yêu anh lắm sợ lòng chị ghen
Anh về bảo chị đừng ghen
Để em thấp thoáng bên đèn cho vui

Nhưng gần ba chục năm liền tôi vẫn không hiểu tại sao các cụ ta lại đưa cái câu vớ vẩn, lạc quẻ “Rau răm ngắt ngọn lại giồng” vào đoạn ca dao ấy. Đến khi tình cờ được ông bác họ giải thích cho hiểu, tôi thấy hay quá, cái cảm giác “sướng” cứ bám lấy tôi mấy ngày liền. Đúng là tôi đã phải “cởi quần áo bỏ vô bọc ny lông – chỉ mặc quần lót – bơi qua.” để hiểu được ý một câu ca dao. (Xin bạn Vũ Đức hiểu nghĩa bóng của câu “cởi quần áo…” chứ nếu cứ đè câu văn ra hiểu theo nghĩa đen thì “kẹt” nhau quá.) Thật ra, ý của câu ấy chẳng cao xa gì (khi đã biết); thế giới thi ca có nhiều bài cái ý ở đàng sau tứ thơ muốn hiểu ra còn khó hơn nhiều.

3/

Có điều, dù tư duy có trừu tượng đến đâu, cái không có cứ là không có. Cũng giống như không thể bổ cuốc vào mây trời và thấy một con “giun mây“ như ta vẫn đào giun dưới đất. Không có trực quan sinh động, Mọi tư duy hoặc là khiên cưỡng, hoặc là điêu ngoa. Logic là bất biến. Ngôn ngữ có hào nhoáng, câu cú có long lanh mấy mà phi thực tế, mà bịa đặt đều tỷ lệ nghịch với mọi cảm nhận.

Bạn Vũ Đức nói có lý. Nhưng có lẽ bạn quên 2 điều: Sự xê dịch của kịch bản thơ và lối nói thậm xưng.

Xạo Vì Xê Dịch Kịch Bản Thơ

Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện.
Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là một người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy. Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được. (4)

Mời đọc đoạn kết bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:

            Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
            Nhà gái ăn 
chín nghìn cau
            Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu 
chín nghìn
            Lang thang tôi dạm bán thuyền
            Có người giả 
chín quan tiền, lại thôi.
 
Tôi không tin là trong thực tế, con số 
chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn. Ở đây thủ pháp “bày tỏ, không kể lại” được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời. (5)

Với đôi mắt chi li kiểu toán học như anh Vũ Đức đọc đoạn thơ trên chắc là bực mình lắm?


Lối Nói Thậm Xưng – “Xạo” Nghệ Thuật

Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (6)

Sau đây tôi xin nêu ra một số câu thơ “xạo” một cách nghệ thuật.

A/ 

Con ho ngực mẹ tan tành
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi        

Đây là 2 câu lục bát trong bài “học thuộc lòng” thuở tôi còn học Lớp Tư (lớp 2 bây giờ). Câu này đọc lên nghe rất phi logic. Con ho thì ngực con đau chứ làm sao ngực mẹ lại “tan tành”? Con sốt thì người con nóng chứ sao lòng mẹ lại như bình nước sôi? Nhưng làm mẹ là như thế. Thương con đến mức “đau cả cái đau của con”. Nó diễn tả - rất đẹp, rất thơ - cái tình thương bao la của người mẹ đối với đứa con máu thịt của mình. Anh Vũ Đức nghĩ sao về cái “xạo” trong 2 câu thơ ấy?

B/

Muốn gởi đến em một áng mây 
lại sợ sẽ mưa làm Sài Gòn ngập nước
chưa kịp về nhà
người ta sũng ướt
mình ở xa
“con bệnh”
ai chăm nom?
(Muốn Gởi Cho Em, Phạm Hữu T, Facebook Phượng Kim Ngọc Huỳnh)

Anh chàng Phạm Hữu T này phải nói là “xạo tới bến”.  Ở tận nước Mỹ mà “Muốn gởi cho em một áng mây” trong khi em ở mãi Sài Gòn. Nhưng cái phi logic – làm đảo lộn cái trật tự đời thường, tạo đột phá trong thơ ca - ấy kết hợp với 3 câu thơ sau lại rất logic trong nghệ thuật. Phượng Kim Ngọc Huỳnh nghe chắc phải thấy mát từng khúc ruột.

D/

Sau cơn bão Hayan, thành phố Tacloban (Philippines) bị tàn phá nặng nề, xác người nằm xếp lớp. Đọc tin tới đoạn “hơn 90% dân ở đây là tín đồ Thiên Chúa Giáo”, một thằng bạn “nặng tai”, chúng tôi thường gọi là “Kh. Điếc”, trong lúc ngồi uống cà phê đã phát biểu (rất bố láo):
“Chắc khi dự đoán sắp có thiên tai tao phải cho Chúa của mày mượn cái Hearing Aid quá.”
Phát biểu bố láo của Kh. Điếc đã gợi ý để tôi viết Hai Bài Thơ Một Niềm Tin.(7) Dưới đây là đoạn kết của bài thứ nhất - Chắc Ngài Không Nghe Thấy:

Bão yên, nước rút
cảnh tượng thật kinh hoàng
thành phố tan hoang
xác người nằm xếp lớp
Cha xứ
mở cửa
ngôi giáo đường đổ nát
Chúa Giê-Su vẫn ngoẹo đầu
dang tay trên thánh giá
sợi dây điện
lủng lẳng dưới tai
Ai đó đã đeo cho ngài
một bộ máy trợ thính
(Hai Bài Thơ - Một Niềm Tin, PĐN, t-van.net) (7)

Dĩ nhiên, đây là đoạn thơ “xạo” 100%. Sau cơn bão có ai vào nhà thờ đeo máy trợ thính cho tượng Chúa bao giờ. Tôi đã mượn hình ảnh không thật ấy để diễn tả nỗi buồn bực, thất vọng, pha chút oán trách của con người (có cả những người tin Chúa) đối với Thiên Chúa. Tôi đã dùng bài thơ sau để - với cái nhìn của mình - giải thích sự im lặng của Ngài. 

E/

Cánh Đồng 

Đoạn kết của bài thơ:

Khi chúng tôi đến đó
Người đàn ông đã đi rồi
Chỉ còn lại trên đồng lúa
Vết xước của dĩa bay mà thôi 

Như đã trình bày ở phần 1, sự lựa chọn “người từ tinh cầu khác” của Nguyễn Đức Tùng là rất “đắt”, rất nghệ thuật. Với kỹ thuật thơ điêu luyện - kết hợp Show, Not Tell, lối nói thậm xưng và thế trận “cắt cầu” – anh đã tạo được một đoạn kết hoàn hảo, gây ấn tượng mạnh mẽ. Với óc tưởng tượng phong phú, anh đã mở rộng đến mức tối đa quyền tự do của phụ nữ trong việc thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình.

Cao Hơn Một Mức – Ca Từ Trịnh Công Sơn

Nhiều người khen ca từ của Trịnh Công Sơn nhiều câu còn hay hơn cả thơ (nhưng ít ai giải thích). Tôi chọn câu sau đây trong bài Như Cánh Vạc Bay:

Tóc em từng sợi nhỏ
rớt xuống đời làm sóng lênh đênh

Ôi! Chỉ có mấy sợi tóc nàng rớt xuống – không phải xuống hồ hay sông, biển - mà là xuống đời cũng đủ làm đời “dậy sóng”, làm biết bao phận người chao đảo, ngả nghiêng. Làm sao mà thực được. Cây cầu liên tưởng không chỉ bị cắt một, hai nhịp mà đã được tháo bỏ hoàn toàn để còn lại một dòng sông mênh mông. Nhưng người đọc nhạy cảm vẫn thấy có cái gì đó gần gũi, mời gọi và quyết tâm vượt qua. Và khi bằng cách nào đó qua được bờ bên kia thì lại thấy câu ca từ ấy “xạo tổ” nhưng rất đẹp, rất “thơ” và rất tuyệt. Nghe rất khoái, rất đã.

Tôi có cảm tưởng, TCS không làm thơ nhưng ca từ của ông, nhiều câu không những đẹp hơn, hay hơn mà hình như đã bước lên một tầng bậc mới, cao hơn hẳn nhiều loại ngôn ngữ thường thấy ở trong thơ.

Kết Luận

Đến đây chắc bạn Vũ Đức đã thấy tôi chẳng điêu ngoa tí nào. Tôi đã đem đến tận mắt bạn những câu thơ rất “xạo” nhưng mức độ “xạo” lại tỉ lệ thuận với cảm giác thích thú của người đọc. Độ “xạo” càng cao thì người đọc càng “sướng”.

Một số bạn đọc yêu thơ quen biết đã bày tỏ thiện cảm với bài thơ và tán thành nhận xét của tôi trong bài bình thơ Cánh Đồng - Một Bài Thơ Lạ. Dĩ nhiên, cũng có nhận xét trái chiều. Với một bài thơ lạ, đó là chuyện bình thường. Nhưng mặc dù có khuyết điểm, với cách nhìn thơ của tôi, đây là bài thơ hay, thành công. Và để có sự thành công đó, lối nói thậm xưng – đưa “người từ tinh cầu khác” vào bài thơ – đã đóng góp một phần không nhỏ.

Phạm Đức Nhì

CHÚ THÍCH:

6/ (Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ ‘Xạo’”, Diên Hồng Dương)

PHỤ LỤC:

Sau mấy lần thư qua, bài lại, cuộc tranh luận văn học giữa anh Vũ Đức và tôi (Phạm Đức Nhì) đã kết thúc trong sự cảm thông và không khí hòa nhã. Xin được đăng lại trao đổi mới nhất của hai người.

Vũ Đức: Tôi vừa đọc xong những ý kiến của anh (xin anh cho phép thay đổi cách xưng hô). Cảm tưởng đầu tiên của tôi là: Tôi đang được hân hạnh đối thoại với một người có học vấn uyên thâm mà khiêm nhường. Thông tuệ nhưng kiên nghị.
Nghĩa là để thoả mãn tôi, và anh trong cuộc trao đổi này, cho phép tôi được cân nhắc hơn trong ý kiến của mình. Rất mong được anh cho phép. Trân trọng.

Nhi Pham Tôi cũng rất vui được trao đổi với anh (cũng thay đổi cách xưng hô). Chúc anh Vũ Đức năm mới 2018 vui khỏe, gia đình hạnh phúc.



    

Thứ Bảy, 23 tháng 12, 2017

CHỨC NĂNG TRUYỀN THÔNG CỦA "CÁNH ĐỒNG"

                                                                 

Từ Bình Luận Của Bạn VŨ ĐỨC Trên Facebook

Dưới bài viết Cánh Đồng - Một Bài Thơ Lạ của tôi (PĐN) trên trang Vạn Nẻo Tình Thơ bạn Vũ Đức đã có một bình luận rất hay như sau:

Tôi thì không nghĩ thế. Dù đã đọc. Đọc, và đọc lại. Nhận thức của tôi còn lại là: Thơ đọc mà không hiểu, có thể do "sức khoẻ" bạn đọc. Nhưng cũng có thể do “sức khoẻ” người viết. Mới đến đâu mà bạn yêu thơ lắc đầu không hiểu, thì thơ dễ không là thơ nữa. Cái thông tuệ, uyên bác không đồng nghĩa với phải nhận thức giống những đánh đố, đồng điệu với mình không thể hiểu là cho nó một cái tên siêu nọ hay tuyệt kia. Những bài vừa rồi, nếu nói là thơ, tôi nghĩ, thơ ca VN đang có vấn đề. (1)

Dựa vào vốn ngữ vựng, câu văn, sự hiểu biết về văn chương và khả năng diễn tả ý tưởng bằng văn chương, tôi, không đoán, mà biết chắc rằng bạn Vũ Đức là người sành sõi trong thế giới chữ nghĩa. Bạn đã đọc đi đọc lại bài thơ Cánh Đồng (và mấy bài trong phần phụ lục) mà vẫn không hiểu. Và bạn cho rằng “Thơ đọc mà không hiểu, có thể do ‘sức khỏe’ bạn đọc. Nhưng cũng có thể do ‘sức khỏe’ người viết.” Bạn dùng hai chữ “sức khỏe” rất hay và tôi rất khoái.


“Sức Khỏe” Của Nguyễn Đức Tùng Trong Bài Thơ CÁNH ĐỒNG

Tôi không học Y Khoa nhưng cũng liều đeo ống nghe để khám “sức khỏe” cho anh Nguyễn Đức Tùng (người viết). Riêng bạn Vũ Đức (người đọc) thì tôi sẽ cố diễn giải kỹ càng, tỉ mỉ bài thơ để bạn đọc lại một lần nữa và sau đó sẽ tự đánh giá tình trạng “sức khỏe” (đọc thơ) của mình. Cuộc khám này chỉ giới hạn ở chức năng truyền thông – nghĩa là xét xem chữ nghĩa của thi sĩ có đủ rõ ràng mạch lạc để người đọc “bắt” được tứ thơ hay không mà thôi.

Trước hết xin trích 5 câu đầu của bài thơ:

Sau ba năm chung thủy
Với người chồng đi xa
Chị đã thất tiết một cách lạ kỳ
Với người đàn ông xấu xí
Già hơn chị rất nhiều

Nguyễn Đức Tùng đã diễn đạt rất rõ ràng, ngôn ngữ và cách hành văn của anh có thể nói là tối giản, tôi cố tóm tắt nhưng chắc cũng không gọn hơn được bao nhiêu:

Chồng đi xa, sau ba năm chung thủy, chị đã ăn nằm với người đàn ông khác, xấu xí và già hơn chị nhiều.  

Tiếp theo là 5 câu cuối:

Trong một buổi chiều bão tố
Khi chúng tôi đến đó
Người đàn ông đã đi rồi
Chỉ còn lại trên đồng lúa
Vết xước của dĩa bay mà thôi

Một buổi chiều bão tố, tác giả (và vài người khác) đến đó thì người đàn ông đã ra đi, chỉ còn lại trên đồng lúa vết xước của dĩa bay.

Ở 2 câu cuối, tác giả đã sử dụng thủ pháp Show, Not Tell đơn giản (cắt bớt một nhịp cầu), người đọc dựa vào chi tiết “vết xước của dĩa bay trên đồng lúa” để suy ra “người đàn ông ấy đến từ một tinh cầu khác”.  

Gộp lại, tứ thơ sẽ là:

Sau ba năm chung thủy với người chồng đi xa, người phụ nữ đã ăn nằm với người đàn ông ở tinh cầu khác.

Người đọc hiểu được như vậy là tác giả đã hoàn thành nhiệm vụ đưa họ tới “bến bãi” (điểm đến của tứ thơ). Chức năng truyền thông của bài thơ thành công.

Tuy nhiên, ý của NĐT trong Cánh Đồng không phải ngừng ở đó. Đối với cách hành xử “ăn nằm với người đàn ông ở tinh cầu khác” của người phụ nữ, người đọc có thể chấp nhận hoặc phản đối. Và thái độ chấp nhận hoặc phản đối ấy sẽ chạm đến chữ Dâm, nhu cầu thỏa mãn “cái khoái thứ ba”- rất nhân bản của con người.

Thơ của những thi sĩ non tay thường là “tứ hết thì ý cũng chẳng còn”. Bước chân vào “điểm đến của tứ thơ” là người đọc có quyền ung dung ngơi nghỉ. Hành trình thưởng thức thơ của ngài đã chấm dứt. Ngược lại, với bài thơ của thi sĩ cao tay, khi người đọc vào “điểm đến của tứ thơ”, nếu muốn, ngài có quyền thả hồn đi tiếp. Và cái hay, cái đẹp thực sự của thơ, cái đem lại cho người đọc rất nhiều khoái cảm thường tụ hội ở đoạn đường đi tiếp ấy.

Thích bình thơ nên tôi chỉ khám “sức khỏe” thi sĩ. Mà chỉ dám khám trong từng bài thơ chứ không “bạo mồm” như vài nhà phê bình khác - giới thiệu cả một tập thơ mà phán “bài nào cũng hoàn hảo”. Đến đây có thể nói, theo cách khám của tôi, “Qua bài thơ Cánh Đồng, với cương vị người viết, ‘sức khỏe’ của anh Nguyễn Đức Tùng rất tốt.”   
 
Một Bài Thơ Khác

Để giải thích rõ hơn xin mời bạn Vũ Đức và bạn đọc cùng tôi đọc bài thơ Cha Và Con – cũng của Nguyễn Đức Tùng.

CHA VÀ CON

Mười bốn năm sau ngày cha tôi mất
Tôi trở về nằm trên chiếc giường cưới của ông
Đọc cuốn Kiều để mở
Nửa đêm thức dậy ngồi đánh cờ một mình
Buổi sáng cạo râu bằng dao cạo của cha tôi

Mười bốn năm sau ngày cha tôi mất
Tôi về bốc mộ ông
Cầm nắm đất trên tay
Gió thổi
Một chiếc xương cá mỏng

Buổi chiều tôi mang đôi ủng của cha tôi
Đi thăm cánh đồng nước lớn
Đứng trước hiên nhà
Chợt nhớ về đứa con trai đã đi xa

Tứ thơ: Trở về, bên cạnh những kỷ vật gợi nhớ người cha đã mất, tác giả bỗng “Đứng trước hiên nhà chợt nhớ về đứa con trai đã đi xa.”
Đây cũng là thủ pháp Show, Not Tell rất khéo. Bằng câu “Chợt nhớ về đứa con trai đã đi xa” NĐT đã, rất điệu nghệ, đưa mình vào làm một mắt xích trong sợi dây xích dài của huyết thống, dòng tộc. Đây chính là “điểm đến của tứ thơ”.

Tuy nhiên, nếu muốn, người đọc có thể thả hồn đi xa hơn nữa. Bởi chỉ có con trai mới thực hiện được nhiệm vụ nối dõi tông đường, kéo dài sợi dây xích của dòng tộc nên bài thơ cũng chạm đến tập tục trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô) (2), vấn nạn phân biệt giới tính đang làm nhức đầu giới lãnh đạo của rất nhiều nước trên thế giới.


Kết Luận

 
Tôi rất đồng ý với bạn Vũ Đức trong phần đầu của bình luận:

Thơ đọc mà không hiểu, có thể do ‘sức khoẻ’ bạn đọc. Nhưng cũng có thể do ‘sức khoẻ’ người viết. Mới đến đâu mà bạn yêu thơ lắc đầu không hiểu, thì thơ dễ không là thơ nữa. Cái thông tuệ, uyên bác không đồng nghĩa với phải nhận thức giống những đánh đố, đồng điệu với mình không thể hiểu là cho nó một cái tên siêu nọ hay tuyệt kia.”  

Chỗ khác biệt giữa bạn và tôi là câu kết:

Những bài vừa rồi, nếu nói là thơ, tôi nghĩ, thơ ca VN đang có vấn đề.”

Ở phần trên, tôi đã cố diễn giải kỹ càng, tỉ mỉ, cung cấp thêm dữ kiện để bạn Vũ Đức đọc lại một lần nữa rồi tự đánh giá tình trạng “sức khỏe” đọc thơ của mình. Cũng xin nói thêm cho bạn Vũ Đức yên tâm. Nếu bạn không thả hồn đi tiếp để thưởng thức cái đẹp của bài thơ ẩn nấp ở phía sau tứ thơ thì cũng đừng áy náy. Số người đọc giống bạn cũng không phải là ít. Tuy nhiên, nếu đọc hết bài này mà một người văn chương “nhuyễn” như bạn vẫn không đặt chân vào được “điểm đến của tứ thơ” và vẫn xem Cánh Đồng (và “những con tương cận” với nó) không phải là thơ (vì đọc mà không hiểu) thì … không phải “thơ ca Việt Nam đang có vấn đề” mà do “sức khỏe” của bạn suy sụp. Suy sụp nghiêm trọng đấy, bạn Vũ Đức ạ. (3)

Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com

CHÚ THÍCH:

2/ Một trai nói có, mười gái nói không
3/ Tôi kèm bài thơ Và Bởi Vì Âm Hộ Nàng Trong Suốt của Nguyễn Viện và lời bình của tôi để bạn Vũ Đức thấy tôi cũng giống bạn, không khoái những bài thơ ẩn dụ dầy đặc, tối như hũ nút, đọc chẳng hiểu gì cả.


Phụ Lục:

 VÀ BỞI VÌ ÂM HỘ NÀNG TRONG SUỐT


Trên sông Tiền Đường bình lặng, Thúy Kiều ngồi ở đầu thuyền gởi khúc hồng nhan bạc mệnh vào thiên cổ. Nàng đã vứt vào sọt rác những con cu thối và trở về. Trong ánh sáng khai nguyên của các thần linh, âm hộ nàng trong suốt. Và reo vui. Không phải vì trái tim nàng đã được lau chùi bằng nước mắt và tóc. Không phải vì sự đền đáp của hư vô. Nàng vui vì non tơ xanh rợn chân trời (của lông). Không có máu. Không có nước nhờn và trứng. Không có bất cứ điều gì.

Nhưng bởi vì âm hộ nàng trong suốt, nó phản chiếu bầu trời ráng đỏ, những đám mây hình thù cổ quái và một ngọn gió vừa lướt qua mang theo hơi thở của muôn vàn sinh linh. Tởm lợm. Và bởi vì âm hộ nàng trong suốt, tất cả thế giới được nhìn thấy. Những người đàn ông đi lộn ngược. Và bóng họ khuất sau một khe nước. Thúy Kiều nói: “Con người đang say ngủ”. Không một ai nghe tiếng nàng. Chỉ có âm hộ nàng rung động. Nước sông Tiền Đường mênh mang và thấu hiểu nhưng nước sông Tiền Đường không để rửa lành những vết thương. Hai bàn chân nàng lạnh. Âm hộ nàng cũng đã ở trong nước và dường như tan biến. Nàng tự hỏi: “Phải chăng đây là cuộc hạnh ngộ cuối cùng?”

Không, âm hộ nàng vẫn trong suốt và nó chứa một dòng sông đầy. Nàng thích thú với những con cá bơi ra - vào. Nàng bảo: “Thật là vô tội”. Khi những con cá cũng trở nên trong suốt như âm hộ nàng, chúng sinh sôi nảy nở nhanh chóng và bơi lội tung tăng cả trên bầu trời ráng đỏ. Bơi vào trong những đám mây cổ quái và tạo ra sấm chớp. Chúa lòng lành vô cùng, người bảo: “Hãy trở về”. Nhưng sãi Giác Duyên thì hoang mang. Bà ôm lấy Thúy Kiều và đem lên bờ. Âm hộ nàng đen trở lại. Lóng lánh như kim cương.

 Chung quanh sặc mùi con cu thối.

 25.2.2013

 Nguyễn Viện

 (tienve.org)  

Lời Bình của Phạm Đức Nhì

Bài này tôi cũng lấy từ tienve.org, một trang văn học đứng đắn được tạo ra để “mọi người có thể gặp gỡ nhau trong nỗ lực tìm tòi và thử nghiệm để trả công việc sáng tác trở về đúng nguyên nghĩa của nó: làm ra cái mới.”(1) Nguyễn Viện là một nhà thơ đã có rất nhiều bài đăng trên Tiền Vệ nghĩa là thơ của ông đã đi đúng hướng, đã vươn tới một trình độ nghệ thuật nào đó và đã được trang web chấp nhận.

Tôi rất cảm kích nghĩa cử của những người như ông Nguyễn Viện, dấn thân vào cuộc thử nghiệm đầy khó khăn, gian khổ để tạo ra những vần thơ mới. Nhưng những vần thơ mới ấy đối với tôi còn ở một khoảng cách quá xa. Đọc bài thơ VBVAHNTS tôi thật không hiểu ông muốn nói gì và không cảm được cái hay của nó.

Theo cách nhìn của tôi thì chức năng truyền thông của bài thơ thất bại. Hơn nữa, hình thức thơ của ông không vần và cũng không nhịp điệu nên thiếu cái cái vị ngọt, cái “thuốc dẫn” để đưa đưa độc giả đi theo dòng chảy của thơ. Kết quả là lý trí phải “bao” hết mọi việc và không có chỗ để “hồn ta gặp hồn người”. Nhưng tôi biết chắc rằng nếu ông, hoặc những người cùng đẳng cấp (level) với ông, tình cờ đọc những dòng chữ này sẽ cười khẩy và nghĩ thầm “Chú mày cứ luyện nội công đi, khi nào đủ sức bay qua dòng sông nghệ thuật thì lúc ấy may ra mới hiểu thơ của (chúng) ta.”

Dù sao đối với những bài thơ mới như VBVAHNTS tôi vẫn một lòng kính trọng. Nhưng kính nhi viễn chi. Chỉ hy vọng một ngày nào đó sẽ có cây cầu đủ dài để người thơ trong quá khứ và hiện tại có thể gặp gỡ và thông cảm với người thơ đang hướng đến tương lai.

(1) Trang đầu của tienve.org







Thứ Hai, 18 tháng 12, 2017

CÁNH ĐỒNG - MỘT BÀI THƠ LẠ

                              

Cánh Đồng

Sau ba năm chung thủy
Với người chồng đi xa
Chị đã thất tiết một cách lạ kỳ
Với người đàn ông xấu xí
Già hơn chị rất nhiều

Trong một buổi chiều bão tố
Khi chúng tôi đến đó
Người đàn ông đã đi rồi
Chỉ còn lại trên đồng lúa
Vết xước của dĩa bay mà thôi
(Nguyễn Đức Tùng)

Cánh Đồng là bài thơ lạ; nói thế mà không ngại, vì nó là đứa con tinh thần của Nguyễn Đức Tùng, một người rất chú trọng đến lý thuyết thơ và đang có nỗ lực làm mới thơ. Nhưng muốn để phát biểu ấy có sức thuyết phục phải “nói có sách, mach có chứng”, phải đưa bài thơ ra ngắm nghía, xem xét.

Vóc Dáng

Trước hết, đây là bài thơ có vóc dáng mới: Tác giả thong dong dạo chơi trong khu vườn thi ca vì đã hoàn toàn thoát khỏi những trói buộc của thể thơ. Bài thơ thoát hẳn truyền thống, vượt qua Thơ Mới, kể cả Thơ Mới biến thể. Số chữ trong câu, sô câu trong bài không bị một quy luật nào chi phối. 

Viết đến đây tôi chợt nhớ đến bài thơ Mắt Bồ Câu của Nguyễn Khắc Phước (1); cũng cái vóc dáng mới mẻ thu hút sự chú ý của tôi ngay lần đọc đầu tiên. Và khi xét kỹ thì cũng vượt qua cả Thơ Mới biến thể để đi vào “vùng trời tự do của thi ca”. 

Có điều theo tôi nhận xét thì Nguyễn Khắc Phước đưa Mắt Bồ Câu đến được vùng trời đó là do tình cờ (và một chút may mắn). Còn Nguyễn Đức Tùng thì ngoài Cánh Đồng còn một số bài thơ khác nữa cũng có vóc dáng tương tự (2) - nghĩa là nỗ lực làm mới thơ của anh đã có kết quả. Anh đã thấy đích và biết đường đi đến đích.

Vần

Năm câu của đoạn đầu không vần nhưng khi đọc lên, âm điệu nối kết các câu thơ với nhau, tuy không trơn tuột ngọt ngào, vẫn không bị khô cứng. Năm câu của đoạn sau thì hai câu 6 và 7 vần với nhau (tố, đó) rất tự nhiên. Câu 8 và 10 có âm hưởng của vần xa (rồi, thôi) nhưng hơi gượng. 

Nói chung, vị ngọt trong bài thơ 10 câu, 59 chữ như thế cũng tạm đủ, vần điệu của bài thơ tương đối thành công; dòng chảy của tứ thơ không mạnh, nhưng nhờ bài thơ ngắn, vẫn đưa người đọc tới bến.

Ngôn Ngữ Thơ

Nhiều người cho rằng “Ngôn ngữ thơ lung linh, trừu tượng, lại thường có ẩn dụ nên đa nghĩa, vì thế độc giả có quyền đến với tứ thơ theo cách hiểu, cảm nhận của riêng mình”. Nguyễn Đức Tùng không nói ra nhưng qua việc sử dụng ngôn ngữ và cách sắp xếp thế trận của Cánh Đồng (và mấy bài thơ khác tôi đọc được) (2), theo tôi, hình như anh không đồng ý với suy nghĩ đó. 

Việc anh tránh né những tĩnh từ, trạng từ lung linh, đa nghĩa, hoặc những câu dẫn người đọc đến ngã ba đường, là muốn người đọc vịn vào câu thơ để có thể dễ dàng đi đến đúng “bến bãi”. Anh muốn truyền đến họ tâm trạng, suy nghĩ của mình trước một cảnh đời (còn đồng cảm hay không lại là chuyện khác) chứ không muốn cho họ mượn bài thơ làm bệ phóng để thả hồn về những phương trời khác tít tắp mù khơi. 

Vì thế có thể nói từ câu đầu cho đến lúc vào “bến bãi”, tứ thơ của Cánh Đồng là con đường dễ đi. Nếu bạn đọc, vì lý do nào đó, đi lạc, không phải lỗi của tác giả.

Thế Trận - Mấy Câu Kết.

Có mấy bài toán hình học lớp Đệ Nhất B đề bài rất ngắn, chỉ vài dòng, nhưng khi giải toán phải vẽ thêm và chứng minh một số câu hỏi “trung gian” trước khi đi tới câu hỏi chính của bài toán. Giải được một bài toán như vậy “trần thân” nhưng khi hoàn thành sẽ có cảm giác khoan khoái, thích thú vì tự mình đã khám phá được lộ trình (khá dài) để đi đến kết quả cuối cùng.

Sau này đi dạy kèm tôi cũng gặp vài bài ở lớp dưới - giống y chang – nhưng được phân ra nhiều câu hỏi nhỏ. Lời giải của câu hỏi trước sẽ là chiếc cầu dẫn đường đến lời giải của câu hỏi sau và cứ thế cho đến câu hỏi chính của bài toán. Giải những bài toán phân mảnh ấy dễ dàng hơn nhiều.

Nguyễn Đức Tùng có lẽ cũng thấy điều tương tự như thế trong thơ. Anh rất chú ý đến cấu trúc của tứ thơ, đặc biệt là câu (hoặc mấy câu) cuối. Cây cầu liên tưởng ở đây thường bị cắt một (hoặc hai) nhịp nên độc giả không thể nhẹ nhàng bước qua như những bài thơ bình thường khác. 

Khoảng cầu bị cắt có lúc hẹp, có lúc rộng. Hẹp, độc giả có thể nhảy qua; rộng hơn một tý, phải xuống nước lội qua; có khi vừa rộng vừa sâu, phải cởi quần áo bỏ vô bọc ny lông - chỉ mặc quần lót – bơi qua. 

Đây là một cách “nâng tầm” bài thơ – đòi hỏi độc giả phải nâng khả năng liên tưởng cao hơn nữa để có thể hiểu được ý tác giả. Dĩ nhiên, việc hiểu được ý tác giả từ bài thơ như thế, bù lại, sẽ trao tặng độc giả một phần thưỏng - một khoái cảm khó tả - thấy khả năng thưởng thức thơ của mình đã vươn tới một tầm cao mới.

Tuyệt chiêu của bài thơ nằm ở câu (hoặc mấy câu) kết. Giống như ván bài xì phé gay cấn, chỉ khi con bài tẩy lật lên mới biết kẻ thắng, người thua. Trong Cánh Đồng (và mấy bài thơ cùng loại) Nguyễn Đức Tùng đã khéo léo giữ kín con bài tẩy đến giây phút cuối cùng. 

Khi đọc xong câu kết độc giả ngẫm nghĩ một lát rồi “À” lên một tiếng ngạc nhiên, khoái trá. Có được tiếng “À” đó vị độc giả đã bước vào “bến bãi”. Ngừng ở đó hay thả hồn đi xa hơn nữa là tùy ý mỗi người.

Tứ Thơ

Tứ thơ của Cánh Đồng có thể tóm gọn trong một câu: Sau ba năm chung thủy với người chồng đi xa người phụ nữ đã ăn nằm với người đàn ông ở tinh cầu khác.

Điểm lạ nữa của Cánh Đồng là tứ thơ. Đối với thơ Việt thì cho đến thời điểm này tình dục trong thi ca, tuy không còn xa lạ nhưng thi sĩ khi tiếp cận đề tài vẫn còn nhiều phần kiêng dè, e ngại. Sau đây là mấy bài thơ được giới thiệu theo thứ tự từ “hiền hòa” đến sừng sỏ.

1/

            CHỢT THỨC

Lão Trư Bát Giới đang ngủ yên
bỗng bật dậy phùng mang trợn mắt
là lúc lòng rạo rực
nhớ em.
(Phạm Đức Nhì)

Bài thơ tôi viết trong lúc xa nhà mấy ngày, “nổi hứng bất tử”. Tứ thơ đụng tới chuyện đó nhưng lại rất “hiền”. Với cánh đàn ông, đây là chuyện bình thường; thằng bé “vươn mình đứng dậy” làm lòng rạo rực nhớ vợ, rồi nghe chừng chẳng có cơm cháo gì đành lặng lẽ co vòi ngủ yên. Bài thơ ngắn, đơn giản, không được “bàn ra tán vào” nhiều nên đem ra lót đường để chuẩn bị giới thiệu những bài thơ sừng sỏ hơn.

2/

          CHẠM
Vùi vào tóc anh
Chạm
rong rêu đạ
i dương, ẩm mục rừng già
ngai ngái phù sa cánh đồng rơm rạ
Chạm sợi đa đoan
nhuộm màu dâu bể
Chạm sợi muộn phiền
ẩn mình lặng lẽ
Vùi vào môi anh
Chạm thềm mê man, chạm bờ mộng mị
Chạm lời chối bỏ trong lời thầm thì
Dâng bời bời nhớ
Chạm bời bời quên
Vùi vào tay anh
Chạm đường vân quen mịt mùng lạc lối
Chạm vết thương sâu dấu chai cằn cỗi
Hôn ngón yêu thương
Chạm ngón lạnh lùng
Vùi sâu vào anh
Vùi vào giấc mơ
Vào đêm
Không anh.
(Đậu Thị Thương)
Tác giả kể lại cái cảm giác sung sướng, hạnh phúc của mình trong một đêm được đắm đuối mê say dâng trọn cả linh hồn lẫn thể xác cho người yêu, nhưng bừng tỉnh mới biết đó chỉ là … mơ.
Màn ái ân trong bài thơ rất lãng mạn và “ấn tượng”. Cô giáo Đậu Thị Thương chỉ nói bóng gió rất xa nhưng do sức gợi cảm, sức khêu gợi tưởng tượng mạnh mẽ của ngôn ngữ khiến một người đọc tuổi xuân không còn phơi phới như tôi cũng hối hả chạy “tới bến” trước khi cô bừng tỉnh giấc mộng tình. (3) Tuy nhiên, xin bạn đọc ghi nhận một điều, màn yêu đương nồng thắm ấy tác giả dành cho nguời tình (chứ không phải ai khác). Chữ Dâm ở đây vẫn chưa dám vượt lằn ranh để bước qua vùng cấm.
3/
       TRÁI TIM RAO BÁN
Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán

một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau – niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán

một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!

chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh…
(Đinh Thị Thu Vân)

Trong tận cùng của cô đơn và “mỏi mòn trong ảo vọng” Đinh Thị Thu Vân đã rao bán trái tim mình với giá rất đặc biệt: Cho không (4).
Vâng, chị cho biết chỉ cần:

nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh…

Ở đây không thấy cơn hứng tình như Chạm của Đậu Thị Thương. Đinh Thị Thu Vân đã khéo léo dấu tình dục trong vỏ bọc tình yêu. Nhưng khi đã trao trái tim thì chữ Dâm sẽ ngạo nghễ bước vào. Khác với tác giả của Chạm - chỉ Dâm với người yêu - chị (ĐTTV) “sẵn sàng trao trái tim cho bất cứ ai, không cần chọn lựa”. Để đòi quyền được Dâm ĐTTV đã sẵn sàng đi xa hơn, sẵn sàng trả giá cao hơn Đậu Thị Thương rất nhiều. Chính vì thế tứ thơ của Trái Tim Rao Bán được đánh giá cao hơn tứ thơ của Chạm.

4/

          CÁNH ĐỒNG

Tứ thơ: Sau ba năm chung thủy với người chồng đi xa người phụ nữ đã ăn nằm với người đàn ông ở tinh cầu khác.

Vâng, tình dục –  thỏa mãn chữ Dâm – là một nhu cầu thiết yếu của con người. Phong tục, tập quán, lề thói xã hội nhiều nơi vẫn còn ngăn trở việc thỏa mãn “cái khoái thứ ba” rất nhân bản ấy, đặc biệt là đối với phụ nữ. Nguyễn Đức Tùng, qua bài thơ Cánh Đồng đã đi xa hơn những thi sĩ cùng thời. Theo ông, “Khi cơn Dâm trỗi dậy thì làm tình – ngay cả với người từ tinh cầu khác – cũng là chuyện bình thường, không có gì phải mặc cảm, hổ thẹn hết”.

Tôi đã từng bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình trước lòng dũng cảm của Đậu Thị Thương và Đinh Thị Thu Vân. Hai nhà thơ nữ đã đạp đổ cái hàng rào văn hóa, đòi lại quyền được tự do nói đến, và nếu cần, thỏa mãn cái nhu cầu nhân bản đó trong đìều kiện và hoàn cảnh của riêng mình, chứ không chịu gò bó trong những lề luật cứng ngắc, bất công của xã hội. Giờ đây - với tài thơ và tầm nhìn của Nguyễn Đức Tùng – các chị sẽ có một đồng minh đáng tin cậy.



Cảm Xúc

Cảm xúc ở tầng 1: Cảm xúc độc giả có được khi tiếp xúc với ngôn ngữ, hình tượng, cấu trúc câu của bài thơ (ngôn ngữ bóng đá là kỹ thuật cá nhân của cầu thủ). Vì tránh dùng những từ, hình tượng lung linh, bắt mắt nên ngôn ngữ thơ và cấu trúc câu thơ của Cánh Đồng đơn giản đến mức tối đa, không gây hứng thú cho người thưởng thức thơ quen thuộc. Cầu thủ của đội bóng Cánh Đồng không phô diễn tài nghệ cá nhân mà chỉ cố hoàn thành nhiệm vụ Huấn Luyện Viên giao phó cho mình trong đấu pháp toàn đội. Họ đá rất hiệu quả nhưng không đẹp.

Cảm xúc ở tầng 2: Cảm xúc có được khi nhận ra cái hay, cái đẹp trong thế trận của bài thơ. Cánh Đồng đã cho độc giả cái cảm giác ngạc nhiên thích thú khi đọc xong 2 câu kết và thấy được ẩn ý của tác giả. Với đấu pháp mạch lạc, ăn ý và bất ngờ đội Cánh Đồng đã tạo được bàn thắng đẹp, kết thúc trận đấu, tiếng reo hò, vỗ tay vang dậy cầu trường.

Cảm xúc ở tầng 3: Loại cảm xúc cao cấp nhất, cho người đọc cảm giác sảng khoái nhất. Nó là thứ hơi nóng không nằm trong câu chữ mà tỏa ra từ đâu đó giữa 2 hàng kẻ, không thể “bắt” được bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận bằng tâm hồn. Khi cảm xúc tầng 3 dâng cao ngất chúng ta có hồn thơ. Hồn thơ có được trong trường hợp tác giả viết lúc cao hứng, lúc lên cơn điên, cơn giận, cháy bỏng yêu thương, rực lửa căm thù … , lúc tâm hồn thoát khỏi sự điều khiển của lý trí. Cánh Đồng không có loại cảm xúc này. Lý do: Ý thơ có thể chợt đến nhưng thế trận của bài thơ được lý trí xen vào soạn thảo ngay sau đó, đặc biệt là đoạn kết. Hơn nữa, bài thơ lại ngắn, không có chỗ để “sóng sau dồn sóng trước” đẩy cơn hứng của tác giả đến cao trào. Chính vì thế, mặc dù nắm vững lý thuyết hơn, viết chắc tay hơn, Cánh Đồng so với Mắt Bồ Câu vẫn thiếu cái tươi mát đến từ một tâm hồn dạt dào cảm xúc. 

Khuyết Điểm

Bài thơ, theo tôi, có 3 khuyết điểm:

1/ Có vài chữ dư thừa, không cần thiết.

     a/ Chữ “Trong” ở câu 6.
     b/ Hai chữ “mà thôi” ở câu cuối. Nguyễn Đức Tùng không bị trói buộc với quy luật của vần nên “mà thôi” không cần thiết. Tuy nhiên, nếu vì muốn có một chút âm hưởng của “vần xa” (rồi, thôi) mà đưa vào thì gượng quá.

2/ Kịch bản

Hãy cùng tôi đọc mấy câu đầu từ bài thơ Năm Mới của Nguyễn Đức Tùng:

Một kẻ nào đã khóa cánh cửa vào năm mới
Chúng ta không có năm mới
Tất cả chúng ta đứng ngoài hành lang

Đây là một điều rất phi lý. “Năm mới” chỉ là cái mốc thời gian, làm gì có cửa để đóng với mở. Nhưng đọc hết bài thơ (ở phần Phụ Lục) chúng ta sẽ thấy tác giả đã biến cái phi lý thành có lý (trong nghệ thuật) và đã tạo nên cái duyên dáng, cái đẹp trong thơ.

Trong Cánh Đồng, tác giả đã rất thành công trong cách tiết lộ “người đàn ông xấu xí” là từ tinh cầu khác. Nhưng thông tin “Chị đã thất tiết một cách rất lạ kỳ” – tiêu điểm của tứ thơ - thì lại xem như một tiền đề, bắt người đọc chấp nhận mà không giải thích. Nhiều nghi vấn được đặt ra xung quanh hành động “thất tiết” đó đã làm bài thơ giảm sức thuyết phục.

3/ Không có cảm xúc ở tầng 3 – không có hồn thơ.   


Kết Luận

Với tôi, Cánh Đồng là một bài thơ lạ. Lạ mà hay. Vì lạ nên bài thơ kén người đọc. Và dĩ nhiên, có những nhận xét trái chiều về giá trị nghệ thuật của nó. Những xao động như thế trong làng thơ, theo tôi, là lành mạnh. Trong một bình luận trên FB dưới bài Bình Thơ Nguyễn Đức Tùng - Thơ Tình: Những Con Rệp của Nguyên Lạc, Nguyễn Đức Tùng viết “Tác phẩm văn học người khen kẻ chê là chuyện thường, nhưng phê bình không chỉ là khen chê, mà cốt ý làm cho người đọc và người viết cùng nhau ngẫm nghĩ, phân tích, tự mình rút ra nhận xét riêng” (5). Tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Mong rằng bài viết ngắn này sẽ là cái cớ để ngưòi viết và cả người đọc nhìn lại và tự rút ra (những) nhận xét hữu ích cho riêng mình. Được như thế tôi sẽ rất vui và cảm ơn cả người viết lẫn người đọc nhiều lắm lắm.

Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com

CHÚ THÍCH:

1/ Mắt Bồ Câu – Bài Thơ Mới Đọc Lần Đầu, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
2/ Phần Phụ Lục
3/ Bài Thơ “Chạm” & Mấy Lời Bình, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
4/ Trái Tim Rao Bán – Bài Thơ Đầy Bản Sắc, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com

5/ https://www.facebook.com/stevngy50/posts/1066998266774530 

PHỤ LỤC:  “Những Con Tương Cận” Của CÁNH ĐỒNG


NHỮNG CON RỆP

Ngày thứ hai của tuần trăng mật
Chúng ta ngủ trong một khách sạn rẻ tiền
Những con rệp cắn anh suốt đêm
Bây giờ đây anh nhớ chúng khôn xiết
Khi mỗi lần đi ngang mộ em



CHA VÀ CON

Mười bốn năm sau ngày cha tôi mất
Tôi trở về nằm trên chiếc giường cưới của ông
Đọc cuốn Kiều để mở
Nửa đêm thức dậy ngồi đánh cờ một mình
Buổi sáng cạo râu bằng dao cạo của cha tôi

Mười bốn năm sau ngày cha tôi mất
Tôi về bốc mộ ông
Cầm nắm đất trên tay
Gió thổi
Một chiếc xương cá mỏng

Buổi chiều tôi mang đôi ủng của cha tôi
Đi thăm cánh đồng nước lớn
Đứng trước hiên nhà
Chợt nhớ về đứa con trai đã đi xa
  


MẸ

Mẹ đã tám mươi
Người nhỏ lại
Hét lớn bên tai
Mẹ chỉ nghe rì rào gió thổi


Phá vỡ im lặng
Mẹ thu mình lên cây nhãn
Giữa những cái trứng
Của chim họa mi


Khi mẹ đi xa rồi
Mọi người trong nhà vẫn còn lớn tiếng

NĂM MỚI

Một kẻ nào đã khóa cánh cửa vào năm mới
Chúng ta không có năm mới
Tất cả chúng ta đứng ngoài hành lang
Một số người kiên nhẫn đợi chờ
Một số người lầu bầu chửi rủa
Một số người chán nản bỏ đi
Bỗng dưng cánh cửa bật mở
Quá nửa đêm, khi mọi người đã ngủ
Khi tất cả đã uống say mèm
Chỉ còn mưa, người đàn ông trước thềm, đứa trẻ ngủ trên vai

TÁM TUỔI

Những ngày buồn
Tôi ôm con trai ngủ

Lắng nghe mưa rơi rì rào
Nó bảo: con thích thế này
Nằm cong người lại
Trong lòng tôi, nhắm mắt

Tôi đã làm hết sức
Công việc càng nhiều thêm
Tôi đã khôn ngoan hơn mười năm trước
Vẫn không ngớt phạm lỗi lầm

Thế này là như thế nào? Tôi hỏi
Con tôi trả lời: là nằm im
Không làm toán, không chen lấn, không học bài, từ từ trôi về phía trước