Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2018

BÀN VỀ CHỮ “BUÔNG” CỦA TRỊNH CÔNG SƠN TRONG “ĐỂ GIÓ CUỐN ĐI”


                                    

                                                     

Vài Lời Phi Lộ

Từ bài viết Hiểu Đúng Nghĩa Câu Hát Của Trịnh Công Sơn Như Thế Nào? của giáo sư Hoàng Đằng đã dẫn đến một cuộc trao đổi văn học nho nhỏ khá lý thú. Mỗi người một cách hiểu, một cách dẫn giải khác nhau. Mỗi người một “tấm lòng”, nhất định không chịu “Để Gió Cuốn Đi”. Và thế là chỉ cần một câu nói vô tình của người này “đụng chạm” đến “tấm lòng” của người khác, cuộc trao đổi văn học nho nhỏ đã biến thành một cuộc tranh luận nảy lửa. Có người mải mê ham vui đã ít nhiều bị “văng miểng”. 


Độc giả có thể đọc bài viết của giáo sư Hoàng Đằng theo link dưới đây:


Cô giáo Vân Anh ở Đà Nẵng, bạn Facebook, đứng ngoài theo dõi cuộc tranh luận, nhắn tin cho tôi (đại ý): “Nếu có dịp viết về Trịnh Công Sơn, anh viết mở rộng một tý để em được học hỏi thêm.” Tôi nghĩ rằng, muốn hiểu một chữ, để chắc ăn, nên hiểu nó trong khung cảnh một câu, có khi cả đoạn. Hiểu một câu hát, muốn khỏi bị lầm, phải hiểu câu hát ấy trong khung cảnh của cả bản nhạc. Đọc kỹ lại các ý kiến tranh cãi thấy mọi người chỉ nhắm vào, xoáy vào một câu hát nên đôi khi, theo tôi, hơi bị “lệch” với ẩn ý của tác giả. Nhân có lời yêu cầu của cô giáo, tôi nảy ra ý định bàn rộng ra một tý để mọi người thấy được bức tranh toàn cảnh của bản nhạc.  
Vì thế, xin phép những đôc giả khác cho tôi được tặng bài viết này cho cô giáo Vân Anh.

Với tôi, đây là đề tài quen thuộc, lại nhân dịp lễ nên rảnh rỗi hơn khi viết những bài khác. Vì thế, cũng có chút tự tin khi đem bài viết trình làng. Nhưng dù tự tin đến mức nào đi nữa, đây cũng chỉ là quan điểm của riêng cá nhân mình. Rất sẵn sàng và vui vẻ đón nhận ý kiến phê bình từ những góc nhìn khác.  



Để Gió Cuốn Đi

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng 
Để làm gì em biết không? 
Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi 

Gió cuốn đi cho mây qua dòng sông 
Ngày vừa lên hay đêm xuống mêng mông 
Ôi trái tim đang bay theo thời gian 
Làm chiếc bóng đi rao lời dối gian 

Những khi chiều tới cần có một tiếng cười 
Để ngậm ngùi theo lá bay 
Rồi nước cuốn trôi, rồi nước cuốn trôi 

Hãy nghiêng đời xuống nhìn suốt một mối tình 
Chỉ lặng nhìn không nói năng 
Để buốt trái tim, để buốt trái tim 

Trong trái tim con chim đau nằm yên 
Ngủ dài lâu mang theo vết thương sâu 
Một sớm mai chim bay đi triền miên 
Và tiếng hót tan trong trời gió lên 

Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người 
Còn cuộc đời ta cứ vui 
Dù vắng bóng ai, dù vắng bóng ai
(Trịnh Công Sơn, 1973)

Theo tôi, ca từ của bản nhạc có thể chia làm 4 đoạn:

1/

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng 
Để làm gì em biết không? 
Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi 

Gió cuốn đi cho mây qua dòng sông 
Ngày vừa lên hay đêm xuống mêng mông 
Ôi trái tim đang bay theo thời gian 
Làm chiếc bóng đi rao lời dối gian 


Tôi hiểu “tấm lòng” ở đây là tâm ý tốt lành, cao thượng, hành xử nhân ái, vị tha … (theo cách đánh giá của chính người có “tấm lòng” đó).
 Ai tôn vinh hoặc có thiện cảm với “tấm lòng” đó sẽ là bạn hoặc đồng minh. Người nào coi thường hoặc xúc phạm đến “tấm lòng” ta sẽ bị coi là kẻ xa lạ, thậm chí kẻ thù. Sự yêu mến, thù ghét phát sinh từ đó sẽ làm ta mờ mắt, nhìn cảnh vật, cuộc đời quanh ta sai lạc.

Thương nhau củ ấu cũng tròn
Ghét nhau thì quả bồ hòn cũng vuông
(Ca dao Việt Nam)

Không phải là nếu không để gió cuốn “tấm lòng” đi thì mây sẽ không qua dòng sông và ngày sẽ không lên hoặc đêm sẽ không xuống - thời gian sẽ ngừng trôi. Thật ra, vũ trụ vẫn vận hành, lẽ vô thường vẫn chi phối vạn vật – nghĩa là mây vẫn qua dòng sông, ngày vẫn lên, đêm vẫn xuống như thường lệ.

Nhưng vì nếu gió không cuốn “tấm lòng” đi thì nó sẽ phủ mờ tâm trí ta, che mắt ta, khiến ta dù chưa bị đưa vào nhà thương Chợ Quán, chỉ số IQ rất cao, mắt vẫn mở to, nhưng lại suy nghĩ, hành xử như một gã ngu ngơ khờ khạo, không thấy, không biết hoặc thấy biết một cách sai lạc những sự vật, sự việc hiển nhiên ở quanh ta.

Để chứng tỏ mình là người có “tấm lòng” lớn, là dân điệu nghệ trong tình yêu – khi đã yêu là yêu hết lòng nên xa người yêu là nhớ thương khôn xiết - một anh người Hoa nào đó đã phát biểu:

Nhất nhật bất kiến như tam thu hề
(Một ngày không gặp dài bằng 3 năm)

Thế đấy! Vũ trụ vẫn vận hành, thời gian vẫn qua đi, qua đi đều đặn, nhưng dưới mắt những người muốn biểu lộ “tấm lòng” thì hình như nó đang ngừng trôi hoặc trôi rất chậm - chậm đến cả ngàn lần.

Lúc đó, theo Trịnh Công Sơn thì:

Ôi trái tim đang bay theo thời gian 
Làm chiếc bóng đi rao lời dối gian 

Sự quảng bá “một tấm lòng” – tâm ý tốt lành, thanh thản, cách hành xử nhân ái, vị tha, cao thượng - của chính mình thoạt nhìn tưởng chừng như một việc làm cần thiết, có lợi cho nhân quần, xã hội. Thực tế đã chứng tỏ ngược lại. Muôn ngàn trường hợp vì muốn loan truyền, bảo vệ tiếng tốt cho mình và gia đình, con người đã phải gian dối, lừa đảo, nhiều khi còn phạm cả những tội ác to lớn. Lắm khi vì hám danh, “tấm lòng” ít lại xít ra nhiều, không có “tấm lòng” cũng tìm cách mua hoặc tạo “tấm lòng giả” để lên mặt, lấy le với đời.

Biết bao nhiêu những nhà lãnh đạo tôn giáo, lãnh đạo quốc gia, chính trị gia - để giữ bí mật, bảo vệ “tấm lòng giả” của mình - đã lừa phỉnh giáo dân, dối gạt dân tộc. Không ít trường hợp đã xuống tay tạo vô vàn tội ác.

“Tấm lòng” do đó, với người chính trực, nhiều khi lại là gánh nặng cho bản tâm.

Đoạn đầu của bản nhạc có thể hiểu như sau: Mỗi người đều có một “tấm lòng”, một niềm tự hào (thực sự hay giả tạo) về nhân cách của mình. Hãy “để gió cuốn đi” cho tâm thanh thản. Nếu không, chính “tấm lòng” đó sẽ là khởi điểm của vạn lời dối gian, của muôn ngàn tâm sở bất thiện.

2/

Những khi chiều tới cần có một tiếng cười 
Để ngậm ngùi theo lá bay 
Rồi nước cuốn trôi, rồi nước cuốn trôi 

Cuộc đời cũng có lúc hạnh phúc, tâm trạng vui vẻ, và dĩ nhiên, cũng cần có tiếng cười. Nhưng cũng không nên cố bám giữ hoặc nuối tiếc tâm trạng hạnh phúc, tiếng cười vui vẻ đó làm gì. Hãy để nước cuốn trôi.

3/

Hãy nghiêng đời xuống nhìn suốt một mối tình 
Chỉ lặng nhìn không nói năng 
Để buốt trái tim, để buốt trái tim 

Trong trái tim con chim đau nằm yên 
Ngủ dài lâu mang theo vết thương sâu 
Một sớm mai chim bay đi triền miên 
Và tiếng hót tan trong trời gió lên 

Đến tuổi biết suy nghĩ và có cảm xúc ai chẳng sở hữu một (hoặc vài) “con chim đau, mang vết thương sâu” nằm đâu đó trong tim. Đừng ôm ấp chú chim tội nghiệp ấy như một “thú đau thương”. Hãy mở cửa trái tim để chim bay đi cho nhẹ lòng, cho tâm hồn thanh thản.

Đến đây, qua 3 đoạn nhạc, TCS đã thể hiện chữ “buông” ở 3 trạng thái tâm:

     a/ Với “tấm lòng”: Hãy “để gió cuốn đi”

     b/ Với hạnh phúc (tiếng cười): Hãy để nước cuốn trôi.

     c/ Với khổ đau, bất hạnh: Hãy mở cửa trái tim để “con chim đau, mang vết thương sâu” bay đi.

4/

Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người 
Còn cuộc đời ta cứ vui 
Dù vắng bóng ai, dù vắng bóng ai

Để hiểu rõ đoạn kết có lẽ cần nhìn “tấm lòng” kỹ lưỡng hơn chút nữa.

Có hai loại “tấm lòng”.

1/ “Tấm lòng” hướng ngoại: Là “tấm lòng” của ta dưới con mắt người đời (reputation: tiếng tăm). Người xây dựng tấm lòng theo lối hướng ngoại rất chú ý đến dư luận. Mỗi hành xử đều ra sức chiều ý, lấy lòng người đời để được tiếng tốt. Đây là loại tấm lòng giả, xây trên cát, rất dễ sụp đổ. “Tấm lòng” loại này sẽ sản sinh ra “cái tôi văn hóa” – cái tôi để sống với xã hội.

2/ “Tấm lòng” hướng nội: Là “tấm lòng” thật của chính ta. Mỗi suy nghĩ, mỗi hành xử đều tuân theo mệnh lệnh của trái tim, bất cần dư luận người đời, bất cần thiên hạ. Đây là loại “tấm lòng” TCS muốn muốn đề cập. Chính “tấm lòng” này sẽ sản sinh ra “cái tôi đích thực”.

Trịnh Công Sơn sử dụng đoạn kết của bản nhạc để dẫn độc giả đến một “tấm lòng” rộng hơn, sâu hơn. Theo ông, dù là “cái tôi văn hóa” hay “cái tôi đích thực” cũng là bản ngã, cũng là hình bóng của chính ta. Hãy cứ yêu đời và vui sống dù cái bản ngã đó đã “vắng bóng”, đã đuợc “gió cuốn đi”.  Có thể nói Trịnh Công Sơn - với một trí tuệ sáng suốt khác thường - mới khoảng trên 30 tuổi (1973), đã thả tầm mắt của mình đến tận trạng thái vô ngã của cái tâm con người.

Lỗi Kỹ Thuật

1/

Nghe rồi đọc kỹ phần đầu của câu hát:

“Những khi chiều tới cần có một tiếng cười”

trong tôi bỗng nẩy ra 2 câu hỏi:

     a/ Tại sao phải chiều tới mới cần một tiếng cười? Nếu ở thời điểm khác trong ngày mà bụng vui, miệng muốn cười thì sao? Chẳng lẽ phải bụm miệng lại chờ đến khi chiều tới?

     b/ Nếu chiều tới mà bụng không vui, miệng không muốn cười thì sao? Chẳng lẽ tự nhiên lại ngửa cổ cười kha kha kha cho những người quanh ta tưởng ta điên?

Dĩ nhiên, người nghe nhạc hiểu biết rồi cũng nhận ra ý tác giả. Nhưng một tác phẩm nghệ thuật mà câu văn không thể “vẹn cả đôi đường” (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) thì uổng quá.

Rồi còn phần sau:

để ngậm ngùi theo lá bay
Rồi nước cuốn trôi. Rồi nước cuốn trôi.

trong đó “ngậm ngùi” có nghĩa là buồn và thương xót âm thầm lặng lẽ.

Nói đến chữ “buông” mà “buồn và thương xót âm thầm lặng lẽ” khi tiếng cười bị “nước cuốn trôi” thì làm sao “buông” được?

Hai chữ “ngậm ngùi” đã làm câu nhạc dở hẳn đi.

2/

Cấu trúc của dòng nhạc và ca từ không song song, đồng bộ.

Độc giả thử cùng tôi nghe câu nhạc ở đoạn đầu:

“Để gió cuốn đi. Để gió cuốn đi”.

Và ở đoạn 2:

“Rồi nước cuốn trôi. Rồi nước cuốn trôi”.

Hai câu nhạc có âm và nhịp điệu hoàn toàn giống nhau. Về ý thì cùng nói đến chữ “buông”. Câu ở đoạn đầu nói đến sự buông bỏ “tấm lòng”; hiểu rộng ra là nhân cách hay bản ngã. Câu ở đoạn 2 nói đến sự buông bỏ tiếng cười, nghĩa là niềm vui hay hạnh phúc.
                                              
Ấn tượng về sự buông bỏ đang bắt rễ thì ở đoạn 3, cũng câu nhạc có âm và nhịp điệu đó, thay vì nói đến sự buông bỏ nỗi khổ đau, niềm bất hạnh - chẳng hạn như:

“Để chim bay đi. Để chim bay đi” (Tôi chỉ nói ý; nếu muốn hợp với âm điệu của câu nhạc phải tìm nhóm chữ khác)

để có hiệu ứng cảm xúc của sự lập đi, lập lại nhiều lần một ý tưởng thì lại bị dùng để diễn tả chính nỗi khổ đau, một ý hoàn toàn khác:

“Để buốt trái tim. Để buốt trái tim”.

Còn sự buông bỏ nỗi khổ đau thì phải chờ đến cuối đoạn – câu nhạc có âm và nhịp điệu khác hẳn:

“Một sớm mai chim bay đi triền miên
Và tiếng hót tan trong trời gió lên”

Cách diễn đạt như vậy làm người nghe nhạc và người đọc ca từ khó “bắt” được ẩn ý của tác giả. Mà nếu nhờ đọc kỹ và “bắt” được ẩn ý đó thì ấn tượng cũng không được sâu sắc.

Hơn nữa, trong đoạn đầu có phần sau khá dài nói đến cái lợi của việc “để gió cuốn đi” (2 câu đầu) và hậu quả của sự cố chấp, nuối tiếc, không dám hoặc không có khả năng buông bỏ (2 câu sau):

Gió cuốn đi cho mây qua dòng sông 
Ngày vừa lên hay đêm xuống mêng mông 
Ôi trái tim đang bay theo thời gian 
Làm chiếc bóng đi rao lời dối gian 

Cho nên đoạn 3, vì không cần lập lại cái ý đó nữa, sẽ có một đoạn nhạc trống, không có ca t.

Ý chính của đoạn 3 chỉ còn là: “Nếu có con chim bị thương nằm đâu đó trong tim, hãy để nó bay đi cho nhẹ lòng, cho tâm hồn thanh thản” (24 chữ). Vì thừa nhạc nên Trịnh Công Sơn phải thêm 31 chữ nữa (tổng cộng 55 chữ) trong ca từ để lấp chỗ trống. Chính vì thế đoạn nhạc này có nhiều chữ, nhiều câu nếu không “vô tích sự”, thí dụ như:

Chỉ lặng nhìn, không nói năng

thì cũng chỉ đóng vai “thợ vịn”, đóng góp rất ít cho đoạn nhạc.

Chỉ Có Lý – Chưa Có Sự

Một điểm yếu nữa của Trịnh Công Sơn trong Để Gió Cuốn Đi là mặc dù được diễn tả bằng ngôn ngữ thơ ảo diệu, hình tượng gợi cảm, thông điệp về chữ “buông” của ông đến từ bộ óc chứ không phải con tim. Nói khác đi, nó là sản phẩm của lý trí. Theo tôi, ông đã hiểu, đã ngộ, đã “thấy’ một cách sâu sắc, đến ngọn đến ngành nguyên nhân nỗi khổ tâm của con người. Tuy nhiên, thông điệp của ông, theo ngôn ngữ thơ, chỉ có ý mà chưa có trải nghiệm; theo ngôn ngữ thiền, chỉ có lý mà thiếu sự - ông chưa đưa tâm của mình vào khung cảnh bản nhạc để thực chứng ý tưởng về chữ “buông” của mình.

Kết Luận

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau.
(Bùi Giáng)
Miên trường, theo tự điển Phật Học có nghĩa là dài lâu, vĩnh cửu
Đó là 2 câu thơ – như một lời chào – Bùi Thi Sĩ muốn gởi đến những người bạn đã “thấy”, đã ngộ được chữ “buông”. Lúc ấy, họ đã bỏ sau lưng những tháng năm dài mê muội, chấp giữ, tiếc nuối, để thấy phía trước là một mùa xuân bất tận – tâm nhẹ nhàng, thanh tịnh. Với một trí tuệ như thế, một cái tâm như thế, tuy bến bờ giải thoát cũng còn một khoảng cách nữa, nhưng không phải là đã nắm chắc trong tay chiếc chìa khóa có thể mở cánh cổng bước vào những đoạn đời an lạc để thanh thản vui sống hay sao?

Nếu có ai đó trong số độc giả “thấy” được điều này chắc sẽ nhớ đến Trịnh Công Sơn, ngưỡng mộ và cảm mến một nhạc sĩ tài hoa, có cái nhìn sắc bén, chạm đến được chỗ sâu kín nhất của tâm hồn con người. Nhưng nhớ, ngưỡng mộ và cảm mến một chút vậy thôi. Sau đó, chắc rồi cũng như tôi, sẽ lại “để gió cuốn đi”.

Texas ngày 28 tháng 12 năm 2018

PHẠM ĐỨC NHÌ

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2018

CÁCH SỬ DỤNG "I" VÀ "Y" VÀ NGUYÊN TẮC ĐÁNH DẤU TRONG TIẾNG VIỆT



Khải Chính Phạm Kim Thư



Nhiều bạn trẻ ta thán rằng khi viết văn, một số người có khuynh hướng đổi "y" thành "i" trong các trường hợp như "Bắc Mỹ" thành ra "Bắc Mĩ," "Quý Mùi" thành ra "Quí Mùi," và "thế kỷ" thành ra "thế kỉ,"v.v. Họ yêu cầu tôi viết bài để giúp họ hiểu rõ tại sao lại có những trường hợp như thế. Chính vì thế, chúng tôi mới có động lực để viết bài "Cách Sử Dụng 'i' và 'y' trong Tiếng Việt." Muốn hiểu rõ về cách ghép vần với nguyên âm "i" hay "y" và phương pháp đánh dấu trong tiếng Việt, trước hết chúng ta cần ôn lại về các chữ cái (tự mẫu) cũng như các nguyên âm và phụ âm.


I. Nguyên âm và Phụ âm trong Tiếng Việt


Chữ " i " là chữ cái (tự mẫu) thứ 9 trong 23 chữ cái của tiếngViệt và "y" là chữ cái cuối cùng trong 23 chữ cái của tiếng Việt. 

23 chữ cái của tiếng Việt gồm có: a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n, o, p, q, r, s, t, u, v, x, y. Trong 23 chữ cái này, có 6 nguyên âm chính (a, e, i, o, u, y) và 17 phụ âm đơn (b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x). Bốn nguyên âm "a, e, o, u" trong số 6 nguyên âm chính "a,e, i, o, u, y" này còn có thêm các dấu nữa (ă, â, ê, ô, ơ, ư) nên 4 nguyên âm này trở thành 10 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, u, ư. Chính vì lý do này mà tiếng Việt có tất cả 12 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y. Ngoài 17 phụ âm đơn, tiếng Việt còn có các phụ âm kép. Các phụ âm kép do hai hay ba phụ âm đơn làm thành (ch, gh, kh, ng, ngh, nh, ph, th, tr) hoặc do một phụ âm đơn và một nguyên âm chính (i hay u) làm thành (gi, qu). Chính vì thế, tiếng Việt có tất cả 28 phụ âm: b, c, ch, d, đ, g, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ng, ngh, nh, p, ph, q, qu, r, s, t, th, tr, v, x, và 12 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y. 

II. Cách Sử Dụng Nguyên Âm "I" và "Y" 


Tùy theo mỗi vần và theo nghĩa của mỗi chữ, có những trường hợp ta chỉ được dùng "y" hay "i" để viết, chứ không thể dùng "i" để thay thế cho "y" hay dùng "y" để thay thế cho "i" được. Ở một số trường hợp khác, trong cùng một chữ, có người viết bằng "i" có người viết bằng "y" như trong trường hợp "quí" hay "quý" chẳng hạn. Tuy nhiên, theo phong tục tập quán, hầu hết các nhà văn thường viết các chữ với nguyên âm "y" hơn là"i" khi các chữ này có cùng một nghĩa và phát âm giống nhau. Lý do chính là vì các chữ có nguyên âm "y" trông có vẻ lịch sự, kính trọng, quý mến, trang nhã, mỹ thuật, và đầy tình cảm hơn những chữ viết bằng nguyên âm "i," chẳng hạn như trong trường hợp của nhóm chữ "quý văn hữu," "quý ông quý bà," "quý quan khách," "quý bạn," "quý vị," "quý chiến hữu," hay "quý cụ,"v.v. 


A. Những Trường Hợp Có Thể Dùng "I" hay "Y" Cũng Được 


Tùy theo tập quán hay thói quen, có người dùng "i" hay "y" để viết cùng một chữ. Dù là được viết dưới dạng bằng nguyên âm "i" hay "y," nhưng khi được đọc lên thì chữ này vẫn có cùng một âm thanh và cùng một nghĩa. 

Thí dụ: 

- Ì ạch, ỳ ạch; ì ra, ỳ ra; i như, y như; v.v.

- Hi hữu, hy hữu; du hí, du hý; hí đài, hý đài; hí hởn, hý hởn; hí hửng, hý hửng; hí họa, hý họa; hí kịch, hý kịch; hí viện, hý viện; hí trường, hý trường; báo hỉ, báo hỷ; hoan hỉ, hoan hỷ; hỷ tín, hỉ tín; v.v.

- Kí cóp, ký cóp; kì cạch, kỳ cạch; kì cọ, kỳ cọ; một li, một ly (millimeter), v.v. 

- Mỹ lệ, mĩ lệ; mỹ cảm, mĩ cảm; mỹ mãn, mĩ mãn; mỹ miều, mĩ miều; mỹ nữ, mĩ nữ; mỹ nghệ, mĩ nghệ; mỹ nhân, mĩ nhân; mị dân, mỵ dân; v.v. 

- Ti tiện, ty tiện; ty tiểu, ti tiểu; tự ty mặc cảm, tự ti mặc cảm; ty trưởng, ti trưởng; năm tý, năm tí; tỳ bà, tì bà; tỳ nữ, tì nữ; tỳ tướng, tì tướng; thị tỳ, thị tì; tỳ thiếp, tì thiếp; tỳ vết, tì vết; tỳ vị, tì vị; tỉ dụ, tỷ dụ; một tỉ đồng, một tỷ đồng; tỉ lệ, tỷ lệ; tỉ mỉ, tỷ mỉ; tỷ muội, tỉ muội; tỉ như, tỷ như; tỉ số, tỷ số; tỉ thí, tỷ thí; tỉ trọng, tỷ trọng; năm tỵ, năm tị; tỵ nạn, tị nạn; tị nạnh, tỵ nạnh; v.v.

- Qui, quy (con rùa); nội qui, nội quy; chính qui, chính quy; vu qui, vu quy; qui chế, quy chế; qui củ, quy củ; qui định, quy định; qui hàng, quy hàng; qui hồi, quy hồi; qui luật, quy luật; qui mô, quy mô; qui nạp, quy nạp; qui phục, quy phục; qui tắc, quy tắc; qui thuận, quy thuận; qui tiên, quy tiên; qui tội, quy tội; qui tụ, quy tụ; qui ước, quy ước; qui y, quy y; quí báu, quý báu; quí danh, quý danh; quí hóa, quý hóa; quí hồ, quý hồ; quí hữu, quý hữu; quí khách, quý khách; Quí Mùi, Quý Mùi; quí nhân, quý nhân; quí nữ, quý nữ; quí ông, quý ông; quí phái, quý phái; quí phi, quý phi; quí quốc, quý quốc; quí san, quý san; quí tòa, quý tòa; quí tộc, quý tộc; quí trọng, quý trọng; quí tử, quý tử; quí vật, quý vật; quí vị, quý vị; quì gối, quỳ gối; quì lạy, quỳ lạy; quỉ kế, quỷ kế; quỉ quái, quỷ quái; quỉ quyệt, quỷ quyệt; quỉ sứ, quỷ sứ; quỉ thần, quỷ thần; thủ quĩ , thủ quỹ; ngân quĩ, ngân quỹ; ký quĩ, ký quỹ; quĩ đạo, quỹ đạo; quị lụy, quỵ lụy...

Ghi Chú: 

* Khi viết văn, nhiều người chỉ ghép phụ âm kép "qu" với nguyên âm "y." Tuy nhiên, trong vài quyển Việt Nam Tự Điển, tác giả chỉ đề cập trường hợp của các chữ do phụ âm kép "qu" ghép với nguyên âm "i" mà thôi. Còn về phụ âm kép "qu" ghép vời nguyên âm "y" thì các tác giả chỉ ghi: "quy, xt qui; quý, xt quí; quy,ø xt quì; quỷ, xt quỉ; quy,õ xt quĩ; quỵ, xt quị" (chữ "xt" là dạng viết tắt của "xem từ"). Có quyển tự điển lại ghi "quy (qui)," "quý (quiù)," "quỳ (quiø)," "quỷ (quỉ)," "quỹ (quiõ)," và "quỵ (quị)." Điều này có nghĩa là ta dùng "y" hay "i" để viết chữ có cùng một nghĩa cũng được.

* Trong trường hợp danh từ riêng như tên thành phố, tên nước, hay tên người, v.v., nếu các chữ đã được viết bằng "i" hay "y" thì ta không được quyền tự ý thay đổi như trong trường hợp của tên thành phố hay tên người sau đây: Thị xã Qui Nhơn, Mỹ Quốc, Mỹ Châu, tỉnh Mỹ Tho, Mị Châu (con gái vua Thục An Dương Vương lấy Trọng Thủy, con của Triệu Đà), Mị Nương (con gái vua Hùng Vương), GS. Doãn Quốc Sỹ, và CH Trần Thy Vân, v.v. 

* Khi đánh các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, và nặng lên chữ "quy" hay "qui," chúng ta phải đánh dấu lên trên nguyên âm "y" hay "i" vì chữ "u" trong chữ phụ âm kép "qu" đã cùng vơiù "q" để biến thành phụ âm kép chứ không còn là một nguyên âm nữa. Trong trường hợp phụ âm kép "th" ghép với vần "ui" hay "uy" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ nhất "úi" (thúi) và "úy" (thúy). Nếu nguyên âm thứ 2 có dấu sẵn như "uê" hay "uơ" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ 2 này "uế" (thuế) và "uở" (thuở). Xin xem tiếp phần "III" nói về Nguyên Tắc Đánh Dấu Trong Tiếng Việt ở dưới đây. 


B. Những Chữ Chỉ Được Viết với Nguyên Âm I" 


1. Những Chữ Có Các Vần Sau Đây Chỉ Được Viết với Nguyên Âm "I": ai, ia, ich, iêc, iêm, iên, iêng, iêp, iết, iêu, im, in, inh, ip, it, iu, oai, oi, ôi, ơi, ui, uôi, ưi, ươi, v.v.

-Ai: Ai oán, thất bại, cải dạng, chài lưới, dai dẳng, khán đài, gái tơ, âm giai, hài lòng, khai giảng, tương lai, mái nhà, van nài, ngái ngủ, lải nhải, lẽ phải, quái kiệt, rải rác, sai bảo, tai vạ, thái độ, từng trải, vai trò, tiêu xài, v.v. 

- Ia: Ỉa đái, bia miệng, địa chỉ, đôi hia, trông kìa, khía cạnh, lia lịa, mỉa mai, cái nĩa, nghĩa cử, tứ phía, chầu rìa, sỉa xuống, tia sáng, cái thìa, tría lịa, hú vía, xỉa răng, v.v. 

- Ich: Ích lợi, bích chương, chích thuốc, xê dịch, mục đích, hích nhau, đả kích, khiêu khích, lý lịch, tĩnh mịch, chật ních, nghịch ngợm, nhúc nhích, phình phịch, cũ rích, sình sịch, diện tích, sở thích, chỉ trích, xích đạo, v.v. 

- Iêc: Xanh biếc, chiếc thuyền, cá diếc, điếc tai, liếc mắt, mắng nhiếc, thương tiếc, ấm thiếc, công việc, xem xiếc, v.v. 

- Iêm: Châm biếm; chiêm ngưỡng, bao diêm, điềm lành, hiếm hoi, kiếm hiệp, liêm sỉ, niêm luật, truyền nhiễm, chuyện phiếm, siểm nịnh, tiêm thuốc, thiêm thiếp, viêm lương, Xiêm La, v.v.

- Iên: Biên bản, chiến tranh, diễn thuyết, điên đảo, hiên ngang, kiên cố, xui khiến, liên bang, miền xuôi, nghiên cứu, tất nhiên, luân phiên, trước tiên, thiên vị, triền miên, viên mãn, xiên xẹo, v.v.

- Iêng: Biếng nhác, chiêng trống, chết điếng, tháng giêng, hiêng hiếng, kiêng khem, khiêng vác, liểng xiểng, súc miệng, nghiêng ngửa, riêng biệt, siêng học, hòm siểng, mang tiếng, linh thiêng, xiềng xích, v.v,

- Iêp: Ngọc diệp, trùng điệp, hiếp đáp, duyên kiếp, khiếp sợ, tầy liếp, cơ nghiệp, nhiếp ảnh, trực tiếp, thiệp mời, v.v.

- Iêt: Biết điều, chiết cây, diệt vong, giết giặc, kiệt lực, tinh khiết, quyết liệt, miệt mài, ác nghiệt, nhiệt huyết, quân phiệt, chạy riết, siết chặt, trinh tiết, kiến thiết, triết lý, viết văn, Việt Nam, xiết chặt, v.v.

- Iêu: Phát biểu, chiếu cố, cái diều, điêu luyện, hiếu đễ, kiêu ngạo, cô liêu, văn miếu, nồi niêu, phì nhiêu, phiêu bạt, bún riêu, siêu nhân, tiêu chuẩn, thiếu phụ, thủy triều, xiêu vẹo, v.v.

- Im: Im lặng; bím tóc, con chim, dìm thuyền, him híp, kim chỉ, lim dim, mỉm cười, con nhím (dím), chiếu phim, rim cá, trái sim, tìm tòi, chú thím, v.v.

- In: In sách, bịn rịn, chín chắn, gìn giữ, kín đáo, mịn màng, nín hơi, nghìn đời, nhịn nhục, đèn pin, phin cà phê, nước rịn ra (nhỏ ra, rỉ ra), tin cậy, năm thìn, vịn cớ, xin lỗi, v.v. 

- Inh: Inh ỏi, binh lính, chính giữa, dinh dưỡng, đỉnh chung, hình ảnh, kinh đô, khinh bỉ, linh thiêng, minh bạch, an ninh, nghinh chiến, nhinh nhỉnh, má phính, rình mò, sinh khí, tinh khiết, thính giả, vĩnh biệt, xinh đẹp, v.v. 

- Ip: Lừa bịp, chíp chíp, dịp may, híp mắt, kịp thì, nhịp điệu, v.v.

- It: Ít ỏi, bịt miệng, chi chít, đá đít, hít hơi, đen kịt, khít khao, lít nước, mịt mờ, con nít, đông nghịt, quịt nợ, ríu rít, đen sịt, xa tít, thin thít, con vịt, xịt thuốc, v.v.

- Iu: Ỉu xịu, bận bịu, chịu khó, dịu dàng, hiu hắt, kĩu kịt, líu nhíu, níu lại, nhíu mắt, phụng phịu, ríu rít, tiu nghỉu, thiu thối, trìu mến, víu vào, bé xíu, v.v.

- Oai: Oai hùng, choai choái, đoái hoài, khoái chí, loài vật, năm ngoái, ngoại cảm, mệt nhoài, soái phủ, toại nguyện, thoải mái, xoai xoải, v.v.

- Oi: Oi bức, thầy bói, cõi Phật, chọi gà, theo dõi, đòi nợ, gọi dạ bảo vâng, giỏi giang, hói đầu, khỏi bệnh, lòi tói, mỏi mệt, nòi giống, ngòi bút, nhoi nhói, rọi đèn, soi gương, củ tỏi, thói đời, trói buộc, vòi nước, xoi bói, v.v.

- Ôi: Ôi chao! Bối rối, cỗi rễ, chồi cây, dồi dào, đôi khi, gội đầu, giồi phấn, hối cải, khôi phục, lôi thôi, mối tình, nối dõi, ngồi xuống, nhồi thịt, phối hợp, rối loạn, sôi nổi, tối cao, thôi thúc, trôi chảy, vội vã, xối xả, v.v. 

- Ơi: Ới trời ơi! Bơi lội, dời đổi, đời người, giới thiệu, hơi thở, khởi hành, lợi hại, mới tinh, nơi chốn, ngợi khen, phơi phới, rời khỏi, sợi dây, tơi bời, thời sự, trời biển, vời vợi, xới đất,v.v.

- Ui: Ủi quần áo, búi tóc, cúi đầu, chùi tay, dùi trống, đui mù, giúi tiền, húi tóc, khui thùng gạo, lui lủi, mui xe, nùi lửa, ngùi ngùi, nhủi vào lỗ, phủi bụi, rủi ro, sui gia, túi bụi, thui thủi, trụi lủi, vui vẻ, xui khiến, v.v. 

- Ưi: Khung cửi, chửi mắng, gửi thư, ngửi hơi,v.v.

- Uôi: Buổi sáng, cuối cùng, chuỗi hạt, duỗi chân, đuôi ngựa, muối mặt, nuôi dưỡng, nguôi giận, ruổi theo, suối vàng, tuổi tác, xuôi lòng, v.v.

- Ươi: Quả bưởi, cưới hỏi, dưới nước, lười biếng, mười mươi, người ta, rười rượi, lò sưởi, tươi cười,v.v. 

2. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "I" Bằng Cách Ghép Phụ Âm Đơn với Nguyên Âm "I."

-"B-i": Bi ai, hòn bi, bí ba bí bô, bí mật, quả bí, vận bí, say bí tỉ, li bì, so bì, phong bì, bì bạch, bì phu, bỉ sắc tư phong, bỉ thử, bỉ mặt, bĩ cực, bị tù, bị động, phòng bị, bị gậy, bị té, v.v. 

- "D-i": Di cư, Di Đà, di tích, man di, tru di, di ngôn, di hài, di họa, di truyền, di vật, dí vào, bẹp dí, dì ghẻ, dỉ tai, bất đắc dĩ, khả dĩ, dĩ nhiên, dĩ vãng, kỳ dị, dị đoan, dị nghị, v.v.

- "Đ-i": Đi bộ, đi đời, đi cầu, đi đứt, đi thi, đi tu, đi vắng, đi đò, lờ đi, bỏ đi, lẹ đi, đi lẹ, làm đi, đì đẹt đì đùng, đĩ điếm, v.v.

- "G-i": Gí mũi vào, can gì, có gì đâu, v.v.

- "H-i": Khóc hi hi, cười hi hỉ, ngựa hí, hí hởn, hí hoáy, hí hởn, hí hửng, hì hà hì hục, cười hì hì, hỉ mũi, hỉ hả, v.v.

- "K-i": Ki lô mét, một kí, kì kèo, kị (cụ), v.v. 

- "L-i": Li bì, nhỏ li ti, lí la lí lô, lí nhí, lì lợm, lì xì, v.v.

- "M-i": Mi (mày), mi (nốt đàn), lông mi, mí mắt, bánh mì, Mị Châu, mị dân, Mị Nương, v.v.

- "N-i": Chỗ ni chỗ nớ (chỗ này chỗi kia), ni cô, nỉ non, nỉ (dạ, len), v.v.

- "R-i": Khóc như ri, làm ri (làm thế này), nước chảy ri rỉ, nhỏ rí, xanh rì, rì rầm (thì thầm), chậm rì rì, mưa rì rào, mưa rỉ rả, rỉ từng giọt, rỉ tai, rỉ hơi, v.v.

- "S-i": Cây si, si tình, ngu si, gắn si, đen sì, bán sỉ, liêm sỉ, sỉ nhục, sỉ vả, văn sĩ, kẻ sĩ, sĩ tử, sĩ hoạn, sĩ phu, nghệ sĩ, sĩ quan, binh sĩ, sĩ diện, sĩ khí, v.v. 

- "T-i": Tôn ti trật tự, kẻ tôn người ti, ti hí, ti ma (để tang 3 tháng), ti toe, ti trúc, ti hí, ti tỉ tì ti, tí hon, một tí, tí nhau, tí teo, tí tẹo, tí xíu, tí ti, tí tị, tí nữa, tí chút, tí tách, tí toe tí toét, cậu bé Tí, tí xíu, tì tích, tì hưu, tì tì, tì tay xuống, ngọc tỉ, tỉ tê, lòi tĩ, ganh tị, ghen tị, tị tẹo, v.v.

- "V-i": Vi cá (vây cá), vi trùng, vi hành, chu vi, hiển vi, huyền vi, hành vi, vi hiến, vi âm, vi vu, vi vút, cái ví, ví von, ví bằng, ví dụ, ví như, trị vì, tại vì, nể vì, vì đâu, vì rằng, bởi vì, làm vì, thay vì, vì thế, vì vèo, vỉ đập ruồi, thủ vĩ, vĩ tuyến, vĩ đại, vĩ đạo, vĩ đại, vĩ nhân, vĩ tuyến, ngôi vị, vô vị, quý vị, bài vị, tự vị, vị chi, tì vị, vị lai, vị tha, vị chi, mùi vị, gia vị, vị giác, vị hôn thê, vị kỷ, vị lai, vị lợi, vị nể, vị tất, vị thành niên, vị trí, vị vong nhân, v.v.

- "X-i": Xi đái, gắn xi, xi măng, chuồng xí, xí gạt, xí nghiệp, cờ xí, xí chỗ, xí phần, xí xóa, xí xa xí xô, xì hơi, xì xào, xì dầu, xì gà, xì xằng, xì xụt, xì xụp, xì xồ, bạch xỉ, xỉ mũi, xa xỉ, xỉ vả, xị mặt ra, v.v.

3. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "I" Bằng Cách Ghép Phụ âm Kép với Nguyên Âm "I." 

"Ch-i": Làm chi vậy, tứ chi, hình chữ chi, thập nhị chi, chi thu, chi nhánh, chí khí, chi lan, tạp chí, chí hiếu, chí cuối, con chí, hạ chí, bút chì, chỉ chỏ, chỉ biết, sợi chỉ, tôn chỉ, chứng chỉ, cấm chỉ, Giao Chỉ, điểm chỉ, chỉ bảo, chỉ số, chỉ trích, chị em, v.v. 

"Gh-i": Ghi chép, ghi nhớ, ôm ghì, v.v.

"Kh-i": Khi xưa, khinh khi, khi không, khi quân, khi đi, không khí, khí cụ, khí cốt, tức khí, tinh khí, khí cầu, khí hậu, khí phách, khí quản, khí tiết, khí tượng, khí huyết, khí khái, khí sắc, khí vật, đồ khí gió, cười khì, ngủ khì, con khỉ, khỉ khô, v.v.

"Ngh-i": Nghi hoặc, nghi lễ, tiện nghi, nghi gia, nghi ngút, nghí ngoáy, vô nghì, nghỉ ngơi, nghĩ ngợi, lo nghĩ, hữu nghị, quyết nghị, nghị lực, nghị luận, v.v. 

"Nh-i": Nhi đồng, nhí nhảnh, hạng nhì, nhì nhằng, to nhỉ, đẹp quá nhỉ! Nhĩ mục(tai mắt), mộc nhĩ, nhị đào, đệ nhị, nhị tì, Nhị Độ Mai, Nhị Hà, v.v.

"Ph-i": Chánh phi, phi mỡ, phi cơ, phi tang, phi mã, phi chiến, phi đạn, Phi Châu, Phi Luật Tân, phi tần, phi phàm, phi lý, phí phạm, phát phì, phì cười, phì nhiêu, phì phà phì phèo, thở phì phì, phỉ lòng, thổ phỉ, phỉ báng, phỉ chí, phỉ sức, phỉ nhổ, phỉ vào mặt, phị mặt ra, v.v.

"Th-i": Thi cử, thi sĩ, Kinh Thi, con nhà thi lễ, dòng dõi thi thư, thi hài, cỏ thi, thi ân, thí sinh, thí nghiệm, bố thí, thí mạng, thí phát, thí dụ, đói thì ăn, thì giờ, dậy thì, cây thì là, thì ra, thì thầm, thì thọt, thì thùng, hồ thỉ, quả thị, dấu hoa thị, thị vệ, thị giác, thị thực, thị uy, kỳ thị, thị hiếu, yết thị, thị dục, Phạm Thị Thu, miệt thị, thị phi, đích thị, thị vệ, thị nữ, thị xã, v.v.

"Tr-i" Bạn tri âm, bố trí, tri giác, trí mạng, tri phủ, trí sĩ, trí tuệ, thông tri, trí thức, trí trá, bảo trì, duy trì, đan trì, trì giới, trì hoãn, phù trì, thành trì, trì trọng, trụ trì, ấu trĩ, bệnh trĩ, chim trĩ, bình trị, cai trị, giá trị, trị liệu, trị tội, trị thủy, v.v. 


C. Những Chữ Chỉ Được Viết với Nguyên âm "Y"


1. Những Chữ Có Các Vần Sau Đây Chỉ Được Viết với Nguyên Âm "Y": ay, ây, oay, uây, uy, uya, uych, uyên, uyêt, uynh, uyt, uyu, yên, yêt, và ynh.

- Ay: Áy náy, tụi bay, cay cú, ăn chay, day dứt, dạy bảo, đáy nồi, gay gắt, giày dép, hay chữ, khay nước, lay động, may mắn, nảy mầm, ngay thật, nhay nháy, dao phay, quay mình, ray rứt, say mê, tay chân, thay đổi, trảy (hái) quả mơ, vay nợ, xảy ra, v.v. 

- Ây: Cái ấy, bây giờ, cây cảnh, cây đàn, chầy cối, dây thép, đây này, gây gổ, giây phút, hây hây, lầy nhầy, mấy quyển sách, nẩy mầm, ngây ngất, nhầy nhụa, phây phây, quây quần, rầy rà, sẩy đàn, tầy trời, thầy mẹ, trẩy hội, vây cánh, xây nhà,v.v. 

* Trường hợp sau đây là ngoại lệ vì chữ viết và đọc khác nhau nhưng có cùng một nghĩa: quải gánh, quảy gánh, hay quẩy gánh (đều có cùng một nghĩa là gánh trên vai).

- Oay: Cái khoáy, loay hoay, nghí ngoáy, xoay vần, v.v.

- Uây: Khuây khỏa, ngoe nguẩy, v.v.

- Uy: Uy danh, cung thương giốc chủy vũ, duy ngã, huy hiệu, khuy áo, lũy tre, nguy cấp, suy nhược, tuy nhiên, thủy chung, truy tố, cổ xúy, v.v. 

- Uya: Thức khuya, v.v. 

- Uych: Ngã uỵch, huých nhau, huỳnh huỵch, v.v.

- Uyên: Uyên bác, chuyên cần, duyên dáng, huyên náo, khuyên bảo, luyến ái, nguyên chất, nhuyễn thể, bệnh suyễn, tuyên dương, thuyên chuyển, truyền thống, xuyên tạc, v.v. 

- Uyêt: Chuyết kiến (ý kiến thô thiển của tôi), duyệt binh, huyết mạch, khuyết điểm, nguyệt liễm, tuyệt diệu, thuyết phục, điểm xuyết, v.v.

- Uynh: Huynh đệ, khuynh hướng, luýnh quýnh, v.v. 

- Uyt: Huýt sáo, lườm nguýt, xuýt chết, v.v.

- Uyu: Khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, v.v.

- Yên (qu + yên): Quyên sinh, quyến thuộc, quyền lợi, chính quyền, lưỡng quyền, quyền quý, quyển sách, ống quyển, v.v.

- Yêt (qu + yêt): Cương quyết, bí quyết, hành quyết, quyết nghị, xảo quyệt, v.v. 

- Ynh (qu + ynh): Mừng quýnh, cây quỳnh, quỳnh bôi, quỳnh tương, v.v.


2. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "Y" Đứng Một Mình hay Đứng Đầu Mỗi Chữ: 


- Nguyên Âm "Y" Đứng Một Mình: 

Y đến rồi, y án, vàng y, qui y, chuẩn y hay y chuẩn, y hẹn; y hi, y sĩ, qui y, y theo, ý chí, ý định, ý nhị, ý kiến, ý nghĩa, ý thích, ý tứ, ý vị, ỷ mình, ỷ lại, ỷ lại, ỷ quyền, béo ỵ, v.v. 

- Nguyên Âm "Y" Đứng Đầu Mỗi Chữ: 

Yêm hoạn (hoạn quan), yếm thế, yểm bùa, cái yếm, yểm trợ, v.v.; Yên Đổ (Nguyễn Khuyến), Bình yên, yên hà, yên xe, yên đổ (tửu sắc yên đổ), yên trí, yến tiệc, yến oanh, yến sào, v.v.; con yểng; yết hầu, yết kiến, niêm yết, yết thị, yết hậu (lối thơ mà câu cuối cùng chỉ có một chữ), v.v.; yêu cầu, yêu chuộng, yêu đạo, yêu quái, yêu vận, phái yếu, yếu điểm, yếu tố, chết yểu, yểu điệu, yểu tướng, v.v.


3. Những Chữ Sau Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "Y" Bằng Cách Ghép Phụ Âm Đơn với Nguyên Âm "y."


-"H-y": Hy Lạp, hy vọng, hy sinh, hy hãn, hý lộng, hý ngôn, hỷ lạc, hỷ nộ, hỷ sự, v.v. 

-"K-y": Ký âm, bi ký, chữ ký, ký danh, ký giả, ký hiệu, ký lục, nhật ký, ký quỹ, ký sinh trùng, ký sự, ký tên, ký túc xá, ký thác, thư ky,ù ký ức, Bắc Kỳ, cầm kỳ thi hoạ, kỳ cục, kỳ cùng, cực kỳ, kỳ cựu, kỳ diệu, kỳ duyên, kỳ đà, kỳ đài, đến kỳ, kỳ đồng, kỳ được, kỳ ghê, kỳ hạn, kỳ hào, hiếu kỳ, học kỳ, kỳ khôi, kỳ khu, kinh kỳ, kỳ lạ, kỳ lão, kỳ lân, kỳ lưng, kỳ mục, Nam Kỳ, kỳ ngộ, phân kỳ, kỳ phùng địch thủ, kỳ quặc, kỳ quái, kỳ quan, quốc kỳ, kỳ thị, kỳ thú, kỳ thực, Trung Kỳ, kỳ vọng, kỷ cương, ghế trường kỷ, ích kỷ, kỷ luật, kỷ lục, kỷ niệm, kỷ nguyên, tự kỷ, thế kỷ, kỷ yếu; kỹ càng, kỹ nghệ, làm kỹ, kỹ nữ, ngủ kỹ, kỹ nhé, kỹ sư, kỹ thuật, nhà có kỵ (ngày giỗ), đố kỵ, kỵ binh, kỵ gió, kỵ mã, kỵ nhau, kỵ sĩ, v.v. 

- "L-y": cái ly, ly biệt, quẻ ly, hồ ly, ly bôi (chén rượu uống lúc chia tay), ly dị, ly gián, ly hương, ly khai, ly kỳ, ly tán, giáo lý, lý ngư, cố lý, hành lý, đào lý, lý lẽ, lý hóa, lý lịch, lý sự, lý tài, lý thuyết, lý trí, lý tưởng, lý trưởng, mạ lỵ, bệnh kiết lỵ, v.v.

- "M-y": Bắc Mỹ, Mỹ Châu, Mỹ Quốc, Mỹ kim, hoa mỹ, mỹ sắc, thẩm mỹ, Mỹ Tho, mỹ thuật, mỹ tục, mỹ từ pháp, mỹ tửu, mỹ xảo, mỹ vị, mỹ viện, mỹ ý, v.v. 

- "T-y": Ty mật thám, công ty, tỳ tạng, tỳ kheo, tỳ vị, tỷ đối, tỵ hiềm, v.v. 

III. Nguyên Tắc Đánh Dấu trong Tiếng Việt: 


- Nếu một chữ có phụ âm đơn hay phụ âm kép ghép với một nguyên âm, thì các dấu phải đánh vào nguyên âm đó: bé, tá, phò mã, khỉ, xạ thủ, v.v. 

- Nguyên âm "u" và "i" trong phụ âm kép "qu" và "gi" đã cùng với phụ âm "q" và "g" để biến thành phụ âm kép chứ không còn là một nguyên âm nữa. Chính vì thế mà hai phụ âm kép này ghép với 1 hay 2 nguyên âm thì các dấu phải đánh vào nguyên âm ở ngay sau phụ âm kép này: quý, quí, quá, quà, quả, quỹ quạ, già, giá, giữa, giác, giải, giả, v.v.

- Nếu trước 2 nguyên âm mà có phụ âm đơn hay kép và sau 2 nguyên âm này lại không có phụ âm nào thì các dấu phải đánh vào nguyên âm thứ nhất như: chùa, chúa, thúy, thùy, thúi, lũy, gào, góa, bùa, của, bùi, chúa, khói, khảo, khóa, lìa, trào tráo, khéo, khỏe, khóe, chúi, thủy, và trụy, v.v. 

- Trong một chữ có 2 hay 3 nguyên âm mà1 nguyên âm đã có dấu sẵn như: ă, â, ê, ô, ơ, ư, v.v. thì các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, và nặng phải đánh vào nguyên âm đó: thuế, thuấn, thuyền, thuở, uyển chuyển, chữa, suyễn, diễm, truyện, diệu, v.v. Nếu 2 nguyên đều có dấu cả như "ư và ơ" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ hai: tướng lãnh, thường lệ, thưởng phạt, dưỡng khí, thượng lộ, v.v. 

- Nếu trong một chữ chỉ có 2 nguyên âm mà trước và sau 2 nguyên âm này đều có phụ âm đơn hay kép thì các dấu phải đánh vào nguyên âm thứ hai: đoán, khoáng, khoát, khoét, toàn, khoảng, loãng, loạng choạng, v.v.

- Khi một chữ tận cùng bằng 3 nguyên âm, thì các dấu phải đánh lên nguyên âm ở giữa như: thoái thác, ngoéo cổ, cười, bải hoải, khúc khuỷu, choãi chân, hải ngoại, v.v.


IV. Tổng Kết


Những điều chúng tôi trình bày trên đây là có ý định giúp các bạn trẻ có tài liệu học hỏi về cách ghép vần với nguyên âm "i" và "y" cùng với cách đánh dấu tiếng Việt. Việc ghép vần và đánh dấu tiếng Việt hết sức là quan trọng. Chúng ta cần phải học hỏi và nghiên cứu mới thấu đáo được. Có thấu đáo được cách ghép vần và đánh dấu tiếng Việt thì mới giỏi tiếng Việt. Có giỏi tiếng Việt ta mới xứng đáng là người Việt. 



Tôi xin phép tác giả được cắt bỏ vài dòng để bài viết hoàn toàn mang tính văn học, có thể phổ biến rộng rãi.