Thứ Hai, 25 tháng 5, 2020

NHẬN XÉT NGẮN VỀ MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA THƠ





MẤY ĐIỂM TỰA

Bài viết này được dựa trên mấy điểm căn bản sau đây:

1/ Đặc Tính Của Định Nghĩa

Định nghĩa – tùy tác giả hoặc tự điển – có 2, 3 hoặc 4 đặc tính. Trong bài viết này – bàn về thơ - tôi chỉ chọn đặc tính nói đến tính phổ quát của thơ.

Theo Phan Ngọc, “định nghĩa” có 2 đặc tính trong đó tính phổ quát của định nghĩa thơ được phát biểu như sau:
Có giá trị phổ quát, tức là áp dụng cho mọi hiện tượng gọi là thơ trên trái đất này, bất chấp ngôn ngữ, thời gian, tập quán, trường phái. (Thơ Là Gì?, Talawas 02/09/2002)

Tôi hiểu tính phổ quát của thơ hơi khác. Cái hơi khác này nằm ở hai chữ “thời gian”. Tôi cho rằng định nghĩa thơ không phải bất biến mà ít nhất, có thay đổi theo thời gian. Mỗi khi biên giới thơ mở cửa để đón cư dân mới, định nghĩa thơ cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. (Tập quán, trường phái sẽ bàn đến trong khung cảnh thích hợp)


2/ Một Định Nghĩa Thơ Đơn Giản Nhưng Có Tính Phổ Quát Cao

Khi tôi còn ở Trung Học, định nghĩa thơ có thể ghi lại đại ý như sau: “Thơ là thể loại văn học có vần diễn tả một tâm trạng, cảm xúc hay một ý tưởng cao đẹp.”

Sau này được thay đổi thành:

“Thơ là thể loại văn học có vần và (hoặc) nhịp điệu để diễn tả một tâm trạng, cảm xúc hay một ý tưởng.”

Cho đến thời điểm này, đây là định nghĩa thơ tương đối có tính phổ quát cao; ngoài thơ truyền thống, Thơ Mới, còn có thể áp dụng cho cả những loại thơ vần biến thể hoặc không vần như thơ tự do, thơ văn xuôi.

Riêng thơ văn xuôi, đang trong tình trạng thử nghiệm, nhưng theo tôi, kết quả không được khả quan lắm.


3/ Mục Đích Tối Hậu Của Thơ.

Đã là người, ngoại trừ những bậc tu hành đạt đạo, ai cũng Xạo.

     a/ Dối Trá Đời Thường:

Nói để lừa dối người khác với mục đích kiếm lợi cho mình - vật chất, quyền hành, tình cảm, uy tín, danh vọng.

     b/ Dối Trá Vì Bị Vô Thức Điều Khiển

 Nếu không bị lôi kéo vào dối trá đời thường thì cũng rất ít người tránh khỏi bàn tay lông lá của vô thức.


“Có những điều không thể nói ra
cho dù chúng ta
có yêu nhau đến thế nào chăng nữa
mấy ngàn ngày
và có thể mấy vạn ngày bốc lửa
chuyện anh
chuyện em
vẫn ẩn chứa bí mật của mỗi người

Có những góc tối ở trong hồn
không bao giờ chia sẻ
chẳng phải vì niềm tin không vẹn vẽ
mà vì đó là căn phòng bí mật
chẳng nên mở bao giờ.”

(Trần Hạ Vi, Căn Phòng Bí Mật) (1)

Vật chứa trong căn phòng bí mật chính là vô thức. Tác giả bài thơ khuyên người đời tránh, đừng đụng chạm đến căn phòng bí mật để việc hội nhập với xã hội lịch sự văn minh được suôn sẻ, không bị trở ngại.

Người ta thường nói “giận quá mất khôn”. Khi giận quá, không kiểm soát được lý trí, căn phòng bí mật bị “bật mí”, thường lỡ lời, nói ra những điều không nên nói - những điều mà nếu lý trí còn hiện diện, sẽ chuyển lệnh của vô thức, đóng kín căn phòng bí mật, không cho nói. Lý do: Chúng sẽ gây mất lòng, hoặc bộc lộ những điều cần che dấu, có hại cho người nói.

Thật ra, chính những lời nói ra trong lúc “giận quá mất khôn” đó mới là những lời 100% chân thật.

Thi sĩ cũng vậy. Cũng Xạo và cũng có những lúc “giận quá mất khôn”. Đó là lúc cao hứng, nổi điên, cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí.

Nhưng đưa những điều muốn nói ra trong lúc nổi điên đó vào thơ không dễ dàng như người đời gặp lúc “giận quá mất khôn”. Thi sĩ phải biết chọn thể thơ “nhất khí liền mạch” (không phân mảnh, đứt đoạn), chọn cách gieo vần vừa độ ngọt để tứ thơ và cảm xúc quyện vào nhau, sóng sau dồn sóng trước, chảy thành dòng liên tục – càng mạnh càng tốt. Bởi chỉ cần ngừng chảy một chút thôi là cơn điên sẽ hạ, lý trí sẽ xuất hiện, căn phòng bí mật sẽ đóng cửa, chữ Xạo sẽ tự động bước vào bài thơ.

Sự Chân Thật (viết hoa) trong thơ cực hiếm; thi sĩ muốn đưa “tiếng lòng chân thật” của mình vào thơ phải có 2 điều kiện: Một, tâm đang ở trạng thái nổi điên và hai, chọn được thể thơ thích hợp.

Bài thơ nói lên “tiếng lòng chân thật” của thi sĩ sẽ bước vào Bến Bờ Thi Ca vì đã đạt được mục đích cao cả nhất của thơ.


MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA THƠ VÀ NHẬN XÉT


1/ Định Nghĩ Thơ Của Nguyễn Đình Thi:

“Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, - tức là chữ - để thể hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển mạnh mẽ khác thường.” 

(Mấy ý nghĩ về thơ, Nguyễn Đình Thi, Talawas, dòng 20)

NHẬN XÉT:

Định nghĩa này có 2 điểm cần bàn tới:

     a/ Không đề cập tới vần và nhịp điệu; thiếu chúng tác phẩm sẽ thành văn. Tuy nhiên, cũng có thể ông cố ý quên để nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc – “trạng thái tâm lý rung chuyển mạnh mẽ khác thường”.
     b/ Không phải thi sĩ nào khi làm thơ cũng ở trong “trạng thái tâm lý rung chuyển mạnh mẽ khác thường”. Nếu ở trong trạng thái ấy thì làm thơ sẽ nhiều cảm xúc hơn (có thể có cảm xúc tầng 3), sẽ hay hơn. Nhưng đó không phải là điều kiện cần thiết để tác phẩm được mang danh hiệu thơ.

Có những bài thơ khô khốc, hầu như chỉ toàn lý trí, thi sĩ sáng tác trong lúc “tỉnh queo”, nhưng “cái tôi riêng tư” đã có mặt trong khung cảnh bài thơ và đã lên tiếng (trong một câu thơ nào đó).

Thí dụ:

A Word Is Dead 

A word is dead
When it is said,
Some say.

I say it just
Begins to live
That day.

Dịch thoát:

Có người cho rằng
Một chữ khi được nói (viết) ra
Là đã chết

Tôi nói
Nó chỉ bắt đầu sống
Từ hôm đó

Hai chữ “tôi nói” chứng tỏ tác giả đã có mặt trong cảnh thơ và đã lên tiếng. Tác phẩm khô khốc, được thi sĩ viết ra trong lúc tỉnh queo, nhưng vẫn là thơ.

Định nghĩa của Nguyễn Đình Thi sẽ tước mất danh hiệu thơ một cách oan uổng của rất nhiều bài thơ như thế.



2/ Emily Dickinson:

“If I read a book and it makes my whole body so cold no fire can ever warm me,
I know that is poetry. If I feel physically as if the top of my head were taken off,
I know that is poetry. These are the only ways I know it. Is there any other way”

“Nếu đọc một cuốn sách làm cho tôi cảm thấy toàn thân giá lạnh mà không một ngọn lửa nào có thể sưởi ấm, tôi biết đó là thơ. Nếu tôi cảm thấy như thể chính đỉnh đầu mình bị cắt rời, tôi cũng biết đó là thơ. Đó là cách duy nhất để tôi biết những điều này. Liệu còn cách nào khác nữa không?”
Emily Dickinson's Definition of Poetry

NHẬN XÉT:

Thế giới thơ đâu phải toàn những thi sĩ tài năng thượng thặng, làm ra toàn những bài thơ tạo được cảm xúc mạnh mẽ ghê gớm như Emily Dickinson mong đợi. Những bài thơ hạng khá hoặc “thường thường bậc trung” bộ không đáng gọi là thơ hay sao? Chẳng lẽ bà muốn nhổ và vứt hết những cây thơ ấy ra khỏi vườn thơ của nhân loại? Như thế, vườn thơ còn được loe ngoe mấy cây? Và thế giới thơ còn được mấy thi sĩ?

Đúng là một định nghĩa đầy tính kiêu căng, coi thường cả “làng thơ”.

3/ Dylan Thomas:

Poetry is what makes me laugh or cry or yawn, what makes my toenails twinkle, what makes me do this or that or nothing.
“Thơ là những gì làm tôi cười, khóc hay ngáp, những gì làm cho các móng chân của tôi lấp lánh, làm tôi muốn làm điều này, điều nọ hoặc chẳng làm gì cả.


 NHẬN XÉT:

Chắc là Dylan Thomas muốn nói đến những bài thơ thành công. Vì chỉ có những bài thơ thành công – mà phải thành công vượt bực - mới tạo được “ép phê” đến như vậy cho độc giả. Nhưng còn những bài thơ chưa được thành công đến mức đó thì sao? Chẳng lẽ chúng không được gọi là thơ?

Cả Emily Dickinson và Dylan Thomas – qua định nghĩa thơ của mình – chỉ muốn nói đến những bài thơ “đặc biệt”, và vì thế, đã vứt tính phổ quát của định nghĩa thơ vào sọt rác.

4/ Robert Frost:

"Poetry is when an emotion has found its thought and the thought has found words."
Thơ ra đời khi cảm xúc đã tìm thấy ý tưởng và ý tưởng đã tìm ra con chữ để diễn đạt chúng

Tôi thích định nghĩa thơ này của Robert Frost. Nó cũng nói đến “dùng ngôn ngữ để diễn đạt cảm xúc và ý tưởng” giống định nghĩa tôi lấy làm chuẩn (ở phần đầu) để so sánh, nhưng cách nói văn hoa và bay bướm hơn. Ông không nhắc đến vần và nhịp điệu chắc là để làm nổi bật cái “cốt tủy” của thơ là cảm xúc.

5/ Kahlil Gibran

Poetry is a deal of joy and pain and wonder, with a dash of the dictionary
“Thơ là thỏa thuận giữa niềm vui, nỗi đau và băn khoăn, với một dấu gạch ngang của từ điển”. 


Kahlil Gibran cho rằng thơ là tâm trạng, cảm xúc được diễn tả bằng ngôn ngữ (con chữ). Định nghĩa này gần giống với định nghĩa của Robert Frost, đề cao cảm xúc nhưng không nói đến vần, nhịp điệu.


6/ Salvatore Quasimodo:

Poetry is the revelation of a feeling that the poet believes to be interior and personal which the reader recognizes as his own.
“Thơ là sự mặc khải rằng thi sĩ tin cảm xúc nội tâm của cá nhân mình được độc giả nhận là ‘tiếng lòng’ của họ”.

NHẬN XÉT:

Ông thi sĩ này quá quan tâm đến “tiếng lòng của độc giả” và việc tìm “người đồng cảm”. Mà lại nghĩ đến chúng trước khi làm thơ mới đáng sợ.

Hồi còn tuổi thanh xuân tôi thường nghe câu nói “Theo tình tình phớt, phớt tình tình theo” nhưng cũng không để ý lắm. Đến tuổi này nghĩ lại thấy cũng nhiều phần đúng. Những nàng mình thích, bỏ công đeo đuổi, ra sức “ga lăng”, nịnh đầm hết mức thì thường bị phớt lờ. Những cô mình không để ý đến, đối xử như bạn bè bình thường thì có khi lại quấn quýt như tình nhân.

Một thằng bạn giải thích: “Lúc mày ra sức nịnh để lấy lòng Ả thì trông mày ‘yếu’ và bệ rạc lắm, nhân cách rơi xuống gần tới thắt lưng quần. Nhưng lúc coi Ả bình thường như bao cô gái khác thì mày hành xử tự nhiên, phong thái trông rất khác, nhân cách được nâng cao hẳn lên. Có lẽ vì thế mà có sức hấp dẫn hơn chăng.”

Với thơ cũng vậy. Đành rằng làm thơ ai cũng muốn tâm tình của mình được nhiều người đồng cảm. Nhưng những câu thơ, bài thơ nịnh, dù nịnh thật khéo đi nữa, nghe cũng rất chán – chán thơ và mất cảm tình với tác giả.

Làm thơ, theo tôi, hãy cứ bộc lộ hết tâm trạng, cảm xúc chân thật bằng kỹ thuật thơ của mình. Nếu kỹ thuật thơ của mình khá, sẽ có người đồng cảm. Đồng cảm ở đây thường còn kèm theo sự mến mộ và nể phục.

 7/ Phan Ngọc

“Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này”.

(Các Quan Niệm Thơ, Mai Bá Ấn, Bích Khê)

NHẬN XÉT:

     a/ Hai chữ “quái đản” đi quá xa và đã “lạc đường”. Nói vậy thì các thể thơ truyền thống không phải là thơ sao? Nếu chỉ có một vài người làm thơ có cách “tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản” thì “quái đản” còn có nghĩa là “quái đản”, nhưng nếu thơ ai cũng “quái đản” thì “quái đản” đâu còn là “quái đản” nữa.

Không biết ông Phan Ngọc nghĩ sao về thơ Lục Bát? Nó là thể thơ “trẻ mãi không già” nhưng lại rất hiền lành và giản dị, chẳng có gì “quái đản” cả.

     b/ Hơn nữa, làm thơ mà để hết tâm trí vào “người tiếp nhận” trong khi cảm xúc của chính mình – cái tôi đích thực - lại lờ tít thì loại thơ ấy sẽ dễ kết bạn với “lời khóc, tiếng ới hỡi, ơi hời” của những người thương vay khóc mướn ở đám ma.


8/ Nguyễn Hưng Quốc:

“Thơ là cảm xúc đi tìm một đồng cảm.”

NHẬN XÉT:

Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc thấy sự quan trọng của cảm xúc trong thơ nên ông đã cho nó độc quyền đại diện trong định nghĩa thơ của mình và “lờ tít” những bộ phận khác của thơ. Làm thế, cái hay thì đã rõ ràng. Cái không hay là nhóm chữ “cảm xúc đi tìm một đồng cảm” có thể dẫn độc giả đi nhầm vào nhà một loại hình nghệ thuật khác.

Mặc dù cũng nói đến “đi tìm một đồng cảm” nhưng theo tôi, Nguyễn Hưng Quốc không cổ vũ cho trường phái “Làm thơ để khơi gợi cảm xúc (nơi người đọc)” như Salvatore  Quasimodo. Lý do: Cảm xúc trong định nghĩa thơ của ông là cảm xúc từ bài thơ đã hoàn tất chứ không phải cảm xúc từ ý định của tác giả trước lúc làm thơ.

 9/ William Wordsworth 
Poetry is the spontaneous overflow of powerful feelings: it takes its origin from emotion recollected in tranquility.'
Thơ tự trào ra khi cảm xúc dâng cao; nó bắt nguồn từ sự hồi tưởng trong yên tĩnh.


NHẬN XÉT:

Định nghĩa thơ của William Woedsworth có hai phần:

     a/ Thơ tự trào ra khi cảm xúc dâng cao: Phần này hết mực đề cao cảm xúc trong thơ - cảm xúc dâng cao thơ sẽ trào ra. Có lẽ quá chú tâm đến cảm xúc nên William Wordsworth không đề cập đến các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ.

      b/ Nó bắt nguồn từ sự hồi tưởng trong yên tĩnh: Nhưng bù lại, ở phần hai này ông đã nhắc đến thời điểm phát sinh cảm xúc để làm thơ. Điểm này rất nhiều người yêu thơ hiểu lầm.

Khi đối diện với một cảnh đời nào đó, hỷ nộ ái ố sẽ phát sinh, nhưng thường thì thơ không trào ra ngay lúc đó được. Cảnh đời và cảm xúc phát sinh từ nó sẽ tìm một chỗ sâu kín trong tâm hồn thi sĩ để trú ẩn. Một lúc nào đó (có thể một ngày, một tuần, vài tháng hay vài năm sau) có một cái gì đó khơi gợi, cảnh đời và cảm xúc đang trú ẩn đó sẽ bật dậy làm tâm hồn thi sĩ nổi sóng.

Nếu “sóng” đủ mạnh thi sĩ sẽ hồi tưởng những gì đã xảy ra, dùng kỹ thuật thơ của mình ghi lại.

 10/ Trần Dần

“Thơ cổ lai đặt ở tứ lạ, lời hay, hình ảnh đẹp, âm điệu ru hồn. Tôi giản dị đồng nhất thơ vào chữ”. (Trần Dần).
(Tìm Hiểu Một Quan Niệm Nghệ Thuật Về Ngôn Từ Trong Thơ Việt Đương Đại, Trần Ngọc Hiếu)

NHẬN XÉT:

Đây là một phát biểu tương đương với định nghĩa.

Thơ, bên cạnh chữ, hình ảnh, âm điệu, nhịp điệu, các biện pháp tu từ … còn có tứ, thế trận chữ nghĩa. Ngoài ra còn phải kể đến tâm thế của thi sĩ lúc làm thơ. Hứng càng cao, xúc động càng mãnh liệt thì càng nhiều cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cho người đọc cảm giác “đã” nhất, sướng nhất. Chữ chỉ là một trong nhiều phương tiện thẩm mỹ của bài thơ.

Nếu chỉ “đồng nhất thơ vào chữ” thì ông thi sĩ mà tôi rất mến mộ - về lý thuyết - chỉ mới đề cập đến cái đuôi của con voi thơ.
Tôi không hiểu sao một thi sĩ tài năng như Trần Dần mà lại đưa ra một định nghĩa thơ phiến diện như vậy.




11/ Samuel Taylor Coleridge

Poetry: the best words in the best order.  
Tho: Chữ hay nhất trong thứ tự hợp lý nhất.

NHẬN XÉT:

Định nghĩa của Samuel Taylor Coleridge chỉ đề cập đến 2 trong số các “phương tiện thẩm mỹ” của thơ: Ngôn ngữ thơ và thế trận. Vần, nhịp điệu, các biện pháp tu từ, và đặc biệt, cảm xúc không được nhắc đến. Tuy đỡ hơn Trần Dần, định nghĩa này cũng chỉ là một cái nhìn phiến diện về thơ.


 12/ Không Biết Tên Tác Giả

"Poetry is a faithful secretary of hearts"
Thơ là thư ký trung thành của trái tim.

NHẬN XÉT:

Định nghĩa này, nói khác đi, cho rằng thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ.

Như đã nói ở phần đầu, trong tổng số thơ của nhân loại có đến hơn 99% không ít thì nhiều có tính Xạo. Những bài thơ mà thi sĩ cho phép độc giả giao tiếp với mình bằng Tiếng Người Chân Thật (viết hoa) cực hiếm. Định nghĩa này đã nhổ bỏ hầu hết thơ của nhân loại ra khỏi vườn thơ. Như thế rất oan uổng và bất công cho những bài thơ, dù chưa đạt được mục đích tối hậu của thơ, cũng tặng người yêu thơ những rung động, xao xuyến làm tươi mát tâm hồn.

13/ Joseph Roux

"Poetry is truth in its Sunday clothes."
Thơ là sự thật trong bộ quần áo Chủ Nhật của nó
https://www.brainyquote.com/quotes/joseph_roux_395933

NHẬN XÉT:

Định nghĩa thơ này có hai phần:

     a/ “Thơ là sự thật”: Như đã nói ở định nghĩa số 12 (Không Biết Tên Tác giả), “thơ là sự thật” cực hiếm. Chỉ đòi hỏi ở phần a/ này đã loại bỏ tuyệt đại đa số thơ của nhân loại.

     b/ “Trong bộ quần áo Chủ nhật của nó”: Ở Âu Mỹ, sáng Chủ Nhật tín đồ đạo Tin Lành, Thiên Chúa Giáo đều ăn mặc đặc biệt chỉnh tề, đẹp đẽ để đi nhà thờ. Với thơ có nghĩa là ngôn ngữ thơ phải đẹp, lịch sự, trang trọng … Nói thế lại loại bỏ những bài thơ có ngôn ngữ bình dân, đời thường (chẳng hạn thơ Nguyễn Bính)

Kiếm được một bài “thơ là sự thật” đã mỏi mắt, lại còn đòi ngôn ngữ đẹp, cao sang, đầy tính văn chương nữa thì làm khó thi sĩ quá.

Định nghĩa thơ số 12 “Thơ là thư ký trung thành của trái tim” đã không tôn trọng tính phổ quát của “định nghĩa”. Định nghĩa thơ của Joseph Roux, về điểm này, còn tệ hại hơn nhiều


KẾT LUẬN:

Định Nghĩa Thơ Bằng Thơ

Để kết luận tôi xin giới thiệu thi phẩm Làm Thơ - một định nghĩa thơ bằng thơ - của Lê Đạt.

LÀM THƠ

Đêm khuya
Bóng đầu anh
Hằn trên trang sách nhỏ
Như bóng hàng cây quặn gió
Lắng xuống mặt đường

Giông bão mênh mông
Anh nhìn tổ quốc
Đất nước đêm nay trĩu đầu ngọn bút
Hàng vạn vần thơ mang nặng tình người

Anh nghe tiếng đất trời
Xao động lùm cây ngọn cỏ
Như người hiệu thính viên
Đêm không ngủ
Ghi những lời cuộc sống
điện về

Những tiếng nặng nề
Những tiếng cục cằn uất ức
Những tiếng căm thù chua chát
Những tiếng yêu thương…

Lê Đạt

(Thơ Đến Từ Đâu, Nguyễn Đức Tùng, tr. 118)

NHẬN XÉT:

Vâng,

Những tiếng nặng nề
Những tiếng cục cằn uất ức
Những tiếng căm thù chua chát
Những tiếng yêu thương…

là những hỷ nộ ái ố ai lạc dục, là thất tình, lục dục của người đời; cảm xúc trong thơ phát sinh từ đó. Nội dung của bài thơ chỉ nói đến ngôn ngữ và cảm xúc. Tác giả không đề cập đến - bằng lời - vần, nhịp điệu và những phương tiện thẩm mỹ khác của thơ. Nhưng khi độc giả đọc bài thơ – dù đọc thầm hay lớn tiếng - sẽ thấy tất cả những thứ ấy hiển hiện một cách sinh động trong tâm hồn mình.

Tôi không dám cho rằng đây là định nghĩa thơ hay nhất. Nhưng nếu bảo đây là định nghĩa thơ dễ hiểu, dễ cảm, mới lạ và rất có duyên, thì với tôi, chắc không sai.

Texas 26 tháng 5 năm 2020

PHẠM ĐỨC NHÌ


CHÚ THÍCH:

 1/

Thứ Sáu, 15 tháng 5, 2020

LÀM THƠ ĐỂ BỘC LỘ CẢM XÚC HAY KHƠI GỢI CẢM XÚC?




                                       LÀM THƠ ĐỂ BỘC LỘ CẢM XÚC HAY KHƠI GỢI CẢM XÚC?


CUỘC TRANH LUẬN DỞ DANG

Cách nay đã lâu tôi có một cuộc tranh luận khá lý thú với một bạn đọc trên Facebook. Không biết anh ta – cũng là người làm thơ - lấy đâu ra câu “Làm thơ là để khơi gợi cảm xúc (của người đọc) chứ không phải bộc lộ cảm xúc (của mình)” để chê bai, chỉ trích bài viết của tôi. 

Tôi tin ở cách nhận định và đánh giá thơ của mình, nhưng đây là đề tài lớn của thơ, bàn đến cũng tốn nhiều giấy mực chứ không phải chỉ vài bình luận qua lại trên FB là có thể tỏ rõ ngọn ngành. Ngọn ngành ở đây không phải phân định đúng sai mà là tìm hiểu xem trong hai hướng đi đó thi sĩ nên chọn hướng đi nào để có lợi nhất cho những đứa con tinh thần của mình.

Đáng tiếc là lúc ấy anh ta lại quá nóng nẩy để tranh thắng nên - sợ mất hòa khí - tôi đành tự động ngừng cuộc tranh luận, coi như nhận phần thua về mình. Hơn nữa, anh bạn chỉ nói khơi khơi, không nêu rõ xuất xứ, tôi tưởng là anh “phịa” nên nhận thua rồi thôi, không bận tâm đến “vấn đề” này nữa.

NHƯNG ANH TA KHÔNG “PHỊA”

Thế rồi khi tra cứu để bình thơ của Emily Dickinson tôi gặp một định nghĩa thơ của tự điển Merriam-Webster (1):

Poetry: “Writing that formulates a concentrated imaginative awareness of experience in language chosen and arranged to create a specific emotional response through meaning, sound, and rhythm”

Thơ: “Văn bản diễn đạt một cảm nhận đầy tính tưởng tượng của trải nghiệm bằng ngôn ngữ được lựa chọn và sắp xếp nhằm khơi gợi một cảm xúc cụ thể nào đó thông qua ý nghĩa, âm thanh và nhịp điệu.”

Nhóm chữ “created a specific emotional respond” nếu dịch sát có nghĩa là “tạo ra một phản ứng cảm xúc cụ thể nào đó (nơi người đọc)”.  Tôi tạm dịch thoát “khơi gợi một cảm xúc cụ thể nào đó”.

Giờ thì đã rõ ràng. Cái ý “làm thơ để khơi gợi cảm xúc” không phải từ trên trời rơi xuống mà đã được một quyển tự điển từ “một công ty Mỹ chuyên xuất bản sách tham khảo, đặc biệt nổi tiếng với các bộ từ điển” (2) đề cập đến.

Như vậy, anh bạn tranh luận với tôi về đề tài này đã không “phịa”. Anh chỉ không chú thích nguồn gốc, xuất xứ nên tôi đã hiểu lầm.

Để tìm hiểu xem sáng tác theo hướng nào sẽ có lợi cho thơ hơn, tôi xin phép mở ngoặc để bàn một chút về cảm xúc trong thơ.


BA LOẠI CẢM XÚC TRONG THƠ

Dù đứng ở góc nhìn nào đi nữa thì lượng cảm xúc khơi gợi được nơi tâm hồn người đọc cũng được coi là thước đo mức độ thành công của bài thơ. Mức rung động, khoái cảm nơi người đọc càng cao thì bài thơ càng hay. Có 3 loại cảm xúc trong thơ:

1/ Cảm xúc tầng 1: Cảm xúc từ câu chữ - khoái cảm phát sinh khi gặp một chữ đắt, một hình tượng đẹp, một câu hay.

2/ Cảm xúc tầng 2: Cảm xúc có được khi gặp sự phối hợp nhịp nhàng của câu chữ, hình tượng, các biện pháp tu từ … nói chung là các phương tiện thẩm mỹ của bài thơ. Sự phối hợp đó được gọi là thế trận của bài thơ. Khoái cảm phát sinh khi gặp một thế trận hoàn hảo mạnh hơn nhiều so với cảm xúc tầng 1.

3/ Cảm xúc tầng 3: Cảm xúc đến từ sự rung động mạnh mẽ (cảm xúc lấn áp lý trí) của tác giả khi làm thơ. Đây là thứ cảm xúc cao cấp nhất, quý nhất, tạo khoái cảm “đã” nhất nơi người đọc. Lý trí càng ít thì cảm xúc càng nhiều. Nếu cảm xúc mạnh đến mức phủ mờ lý trí ta có hồn thơ. Lúc ấy, lý trí mất dạng, lời thơ sẽ là Tiếng Lòng Chân Thật của tác giả. Bài thơ đã đạt được phần thưởng cao quý nhất: Bước vào Bến Bờ Thi Ca.

“LÀM THƠ ĐỂ KHƠI GỢI CẢM XÚC”

Thuở còn đi học mỗi khi trong xóm có đám ma - thường từ một gia đình khá giả, quàn xác qua đêm - tôi thường trốn mẹ đi nghe khóc mướn. Đội khóc mướn thường có mấy người chơi nhạc cụ và một hoặc 2 người “khóc”. Họ “khóc” có vần điệu, lại có nhạc đệm nên rất hay, và dĩ nhiên, có nhiều người đến ngồi nghe.
                                
Trước khi vào trận những người “khóc” thường được gặp riêng gia chủ để biết một số chi tiết về cha mẹ, anh chị em, vợ (chồng), con cháu - đặc biệt là những điểm nổi bật về tình cảm của họ đối với người chết. Người “khóc” sẽ dựa vào đó để “soạn bài”, để “khóc” cho “mùi”, cho đẹp lòng, hả dạ mọi người trong gia đình gia chủ.

Thi sĩ đi theo hướng “làm thơ để khơi gợi cảm xúc” khi chọn tứ thơ và rồi dàn thế trận cho bài thơ của mình cũng phải biết kỹ (nếu chưa biết kỹ thì mày mò tìm hiểu) những người mình muốn “khơi gợi cảm xúc” xem họ yêu thích cái gì, thù ghét cái gì để “lựa lời sáng tác” cho vừa lòng họ, khơi gợi được nhiều cảm xúc nơi tâm hồn họ. Kết quả là sẽ sản sinh ra thứ thơ “teo chim”, xu nịnh, nâng bi.

Cũng cần nói thêm, những thi sĩ theo hướng đi này, nếu tay nghề cao, khéo “chọn chữ so vần”, vẫn có thể tạo được khoái cảm - nhiều khi rất cao - cho người đọc ở tầng 1 và tầng 2. Nhưng do chữ Nịnh quá lớn nên cảm xúc tầng 3 không có hoặc có rất ít. Lý do: Nịnh sẽ sinh ra Xạo, Xạo sẽ mời gọi lý trí.

“LÀM THƠ ĐỂ BỘC LỘ CẢM XÚC”

Đây là hướng đi mà thi sĩ khi làm thơ “coi độc giả như cỏ rác”. Họ để hết tâm hồn vào bài thơ và đưa cảm xúc thâm nhập dòng chảy của tứ thơ. Dĩ nhiên, cũng có những lúc lý trí xen vào đòi quyền “biên tập” và thi sĩ phải “phùng mang trợn mắt” xua đuổi nó đi. Mức độ thành công mỗi người mỗi khác. Có người lý trí bỏ chạy biệt tăm, có người nó vẫn lỳ đòn bám trụ.

Nhưng có điều chắc chắn là họ không bị cái bóng ma lúc nào cũng lơ lửng trên đầu như những thi sĩ “làm thơ để khơi gợi cảm xúc”. Bởi muốn khơi gợi thì phải biết khơi gợi ở chỗ nào và làm thế nào để khơi gợi. Chỉ thoáng nghĩ đến hai câu hỏi đó là lý trí đã tràn ngập tâm hồn. Cảm xúc nếu có cũng sẽ tự động xẹp như bong bóng xì hơi. Rồi lại thêm “những điều không đẹp” đi kèm với những câu thơ “khơi gợi”, làm giảm giá trị bài thơ và hạ thấp nhân cách của thi sĩ.

Không bị cái bóng ma ấy ám ảnh, thi sĩ “làm thơ để bộc lộ cảm xúc” tự do thoải mái hơn trên đường đưa tứ thơ tới bến.

KHÁC BIỆT

Như đã nói ở trên, sự thành công của bài thơ cuối cùng cũng phải đo bằng lượng cảm xúc khơi gợi được ở tâm hồn người đọc. Khoái cảm nơi người đọc càng cao thì bài thơ càng hay. Nhưng lúc làm thơ mà cứ loay hoay “chọn chữ, so vần” để lấy lòng người thưởng thức thơ của mình thì thi sĩ có khác gì đám người “thương vay khóc mướn” ở đám ma - mỗi tiếng khóc, mỗi câu kể lể “ới hỡi, ơi hời” cũng cố sắp xếp sao cho “gia chủ” đẹp lòng, hả dạ. 

Dĩ nhiên thi sĩ không phải lúc nào cũng có thể nổi điên khiến lý trí hoảng sợ trốn chạy biệt tăm để có thể bộc lộ tiếng lòng chân thật của mình - phẩm chất quý giá nhất của thơ. Nhưng khi đang thả hồn theo dòng chảy của tứ thơ, thái độ “coi độc giả như cỏ rác” không những không trịch thượng, mất lịch sự mà còn là sự cần thiết. Với tâm thế này, nếu kỹ thuật thơ vững vàng, thi sĩ – qua bài thơ của mình - dễ tìm được sự đồng cảm. Có điều sự đồng cảm ở đây còn kèm theo sự mến mộ và nể phục.

KẾT LUẬN


Một hướng đi cho rằng “ta làm thơ là vì đời, vì tha nhân. Bài thơ ta làm với mục đích khơi gợi cảm xúc nơi độc giả càng nhiều càng tốt. Tâm hồn họ càng sảng khoái thì ta càng hãnh diện vì đã đem niềm vui cho người, đóng góp một cách thiết thực cho đời.”

Và một hướng đi khác nghĩ rằng “Ta làm thơ là để bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của ta trước cảnh đời. Độc giả chỉ là những vị khách mời đến dự ‘cuộc vui thơ’ khi tác phẩm đã hoàn tất và được gởi đến vườn thơ của nhân loại.” Tôi nghiêng về hướng đi này.

Với chút kinh nghiệm của người làm thơ và bình thơ tôi mạnh dạn góp vài ý kiến thô thiển. Nhưng cuối cùng thì:
Làm thơ theo hướng nào là tùy quyền thi sĩ, thích thưởng thức thơ ở hướng nào là tùy quyền độc giả.

League City - Những ngày trốn dịch Covid19

Phạm Đức Nhì


CHÚ THÍCH:

1/


2/

(Wikipedia, Merriam-Webster, câu đầu tiên)




Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2020

MỘT PHÁT BIỂU VỀ THƠ KIỂU "ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG"


                         MỘT PHÁT BIỂU VỀ THƠ KIỂU “ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG”


Ông Nguyễn Vũ Tiềm Trả Lời Phỏng Vấn Của Báo Giáo Dục & Thời Đại

Phóng viên (PV): Thưa nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm, trong cuốn “Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam” xuất bản năm 2000 và sau đó tái bản nhiều lần, ông có nêu tiêu chí của thơ là: -Xúc cảm khác thường -Suy nghĩ khác thường -Cách nói khác thường. Gọi tắt là X-S-C. Qua hơn mười năm, hiện nay phong trào sáng tác thơ phát triển rất đông đảo, tiêu chí “khác thường” này có còn phù hợp không?

Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm (NVT): Khi đọc cuốn sách Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam, Giáo sư Hoàng Như Mai viết bài đăng báo Văn Nghệ, Hội Nhà Văn Việt Nam, có biểu dương bài đề dẫn của tôi trong cuốn sách ấy, trong đó có tiêu chí về thơ mà bạn vừa nói đến, tất nhiên là từ “khác thường” hiểu THEO CHIỀU MỸ CẢM. Tôi nghĩ, dù thời gian trôi đi, tiêu chí ấy vẫn nguyên giá trị.

PV: Nhưng nhiều tập thơ (nhất là ở các địa phương) được in ra nhìn chung là có sao viết vậy, hình ảnh câu chữ rất “bình thường”, tiêu chí “khác thường” sao còn phù hợp nữa?

NVT: Nếu một bài thơ mà “có sao viết vậy” thì là văn vần chứ không phải thơ, nó chỉ giống như thơ mà thôi.
PV: Ông có thể cho bạn đọc biết rõ hơn về sự khác nhau giữa thơ và văn vần?

NVT: Tôi gọi văn vần là chỉ chung những bài “giống như thơ” nhưng gần với ca dao, hò vè, tấu, diễn ca hơn là thơ. (Ca dao, hò vè, tấu, diễn ca… là những thể loại văn học mà đa phần có nguồn gốc từ thời chưa có văn học viết).




Thơ Và Văn Vần

Trong văn chương có 2 thể loại chính: Văn Xuôi và Văn Vần.

1/ Văn xuôi là loại văn không có vần như các loại văn nghị luận, phê bình, hợp đồng thương mại, án quyết của tòa…

2/ Văn vần gồm ca dao, đồng dao, hò vè, tấu, diễn ca … và Thơ. Văn vần thì thường có vần - ngoại trừ thơ tự do và thơ văn xuôi.

Như vậy, thơ là một thể loại của văn vần.

Đặc Tính Của Văn Xuôi

1/ Sử dụng con chữ để chuyển tải thông tin.
2/ Cảm xúc nếu có, chỉ là sản phẩm phụ. “Cái tôi riêng tư” cũng có thể xuất hiện
3/ Không vần.

Đặc Tính Của Thơ

1/ Sử dụng con chữ để diễn tả một cảm xúc, tâm trạng.
2/ Tâm, hay còn gọi là phần hồn hoặc “cái tôi riêng tư” của tác giả phải có mặt trong khung cảnh của bài thơ (và có câu thơ sinh tình). (Tâm, phần hồn, “cái tôi riêng tư” – 3 tên gọi nhưng chỉ là một thứ)
3/ Có vần và (hoặc) nhịp điệu - ngoại trừ Thơ Tự Do và Thơ Văn Xuôi

Đặc Tính Của Vè

1/ Vè là chuyện khen chê có vần; chuyện xuất hiện tức thời, mang tính thời sự, tác giả nắm bắt nhạy bén sự việc, sự kiện, ghi nhanh rồi truyền đi để gây dư luận. (Thí dụ: Vè Chàng Lía, Vè Quan Đình, Vè Tán Thuật). Người xưa cũng sáng tác vè để quảng bá một số kiến thức phổ thông cho giới bình dân (Vè Loài Vật, Vè Loài Hoa, Vè Loài Rau, Vè Loài Quả) cũng như chế diễu những thói xấu của con người. (vè nói dóc, vè đánh bạc)
2/ Ngôn ngữ vè mộc mạc, đơn giản, thường không đạt tới một hình thức trau chuốt, hoàn chỉnh.
3/ Những người đặt vè, bẻ vè, nói vè phần nhiều thuộc tầng lớp dưới trong xã hội.
4/ Người viết vè kể chuyện nhưng là kẻ bàng quan, đứng ngoài câu chuyện của bài vè.
5/ Vè tuyệt nhiên không có cảm xúc của cái tôi riêng tư.


Văn Với Thơ Có ThNhập Nhòe

Do cái nhìn về thơ đương đại ngày càng phóng khoáng nên có người nói khoảng cách giữa văn và thơ bây giờ chỉ như “sợi tơ mong manh”. Theo tôi, văn và thơ bây giờ đôi lúc không còn khoảng cách nữa mà đã nhập nhòe.

Thí dụ:

Em ơi!
Hãy nhìn lên trời xem có bao nhiêu vì sao
thì anh yêu em còn nhiều hơn thế nữa.

Đây là câu nói của một anh chàng nịnh người yêu của mình. Nó là văn xuôi nhưng do cái nhìn phóng khoáng về thơ nên cũng có thể gọi là thơ vì đã có đủ 3 đặc tính của thơ – có cảm xúc, có “cái tôi riêng tư” trong cảnh thơ, và nằm trong trường hợp “ngoại trừ” (không có vần - Thơ Tự Do).


Phân Biệt Thơ Với Vè (Và Những Thứ Không Phải Thơ)

Thơ với Văn có thế nhập nhòe nhưng Thơ với Vè (hoặc những thứ không phải thơ) thì rạch ròi tách biệt.
Cái tạo nên sự tách biệt đó là “cái tôi riêng tư”.

Người viết vè kể chuyện bằng “trí” nhưng tâm đứng ngoài câu chuyện của bài vè; do đó, vè không có “cái tôi riêng tư”.

Thi sĩ khi làm thơ phải cho tâm của mình - tức là “cái tôi riêng tư” - xuất hiện trong câu chuyện (khung cảnh) của bài thơ.

Trong bài vè, nếu có “cái tôi riêng tư” của tác giả xuất hiện trong câu chuyện, nó sẽ tự động thành thơ.

Trong “bài thơ”, nếu không có “cái tôi riêng tư” của tác giả trong khung cảnh thơ thì phải gọi nó là “cây dị chủng trong vườn thơ”; nó có thể là vè hoặc là “một chủng loại gì đó” chứ không phải thơ.


Một Số Tác Phẩm Giống Thơ Nhưng Không Phải Thơ

1/

HÌNH VUÔNG

Muốn tìm chu vi hình vuông
Lấy cạnh nhân bốn lệ thường nhớ ghi
Diện tích hình vuông khó gì
Lấy cạnh nhân cạnh sai đi đường nào.

Môt ông thầy dạy toán nào đấy đã mượn thể thơ lục bát để diễn tả một công thức toán cho học trò dễ nhớ. Nội dung của 4 câu lục bát hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không có một chút cảm xúc nào. Đây không phải là thơ.


2/

Con ơi, muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thì giữ việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.
Trai thì đọc sách, ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
(Ca dao)

3/

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
(Ca dao)

Một nhà Nho đã đem quan niệm về chữ hiếu của Khổng Tử dàn trải trong thơ lục bát để loan truyền trong dân gian. Đây chỉ là sản phẩm của lý trí, tâm chưa đối cảnh, không có cảm xúc, không thể gọi là thơ.


4/

KINH PHÁP CÚ

Không làm các việc ác
Tu tập các hạnh lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Là lời chư Phật dạy

Chỉ là lời chư Phật dạy, không cảm xúc.

5/

HÃY TIN CHÚA

Hãy tin nơi Thiên Chúa
Hồn xác dâng cho ngài
Hãy sống theo lời Chúa
Chết, sẽ về nước Trời

Đây chỉ là lời kêu gọi mọi người Hãy Tin Chúa, hoàn toàn đến từ bề mặt ý thức, là sản phẩm của lý trí, không có bóng dáng cảm xúc nên không thể gọi là thơ.

6/

HÃY MUA THUỐC SỐ 42

Ai khóc ngoài quan ải?
Ai chưa đánh đã chạy dài?
Thuốc này bôi một tý thôi
Là trèo lên ngựa vung roi cả ngày
Thuốc này, ôi thật là hay!
Thuốc này tên gọi là Xây Xập Zì (tiếng Hoa: 42)

Đây có vóc dáng là thơ nhưng chỉ là bài quảng cáo thuốc “chơi lâu” ở các tỉnh biên giới phía bắc. Nó là sản phẩm của óc thương mại, kinh doanh, không phải là những lời tâm tình, hàm chứa cảm xúc.

KHÔNG MUỐN MÀ PHẢI NÓI

Nói thêm về bác Vượng:
Nếu bác có gì sai
Thì đã có pháp luật.
Pháp luật không chừa ai.

Bác chưa hề bị bắt,
Chưa bị tù, nghĩa là
Bác là công dân tốt.
Tốt gấp vạn chúng ta.

Tốt vì bác đóng thuế,
Chắc nhiều lắm, rất nhiều.
Tạo hàng triệu công việc,
Tất nhiên cho người nghèo.

Nhờ những người như bác,
Tức kinh tế tư nhân,
Kinh tế mới phát triển,
Cuộc sống mới khá dần.

Bác muốn tăng học phí?
Quyền của bác chứ sao.
Không thích thì mời biến.
Bác không ép người nào.

Dễ thấy một chấm bẩn
Trên một tấm kính trong.
Nhưng thấy cả tấm kính,
Rất tiếc, thường là không.

Không một ai hoàn hảo.
Thị trường là thị trường.
Có sai mới có đúng.
Chuyện ấy rất bình thường.
(Thái Bá Tân)

Đây là một trong những “bài thơ” của Thái Bá Tân mà nói đến thể loại có người đặt cho cái tên rất “chua”: Vè Thời Đại. Tôi không dám vơ đũa cả nắm, nhưng có thể nói khá nhiều thơ của TBT thuộc loại này. Chúng như những bài giảng mạch lạc của một thầy giáo có kiến thức, có khả năng sư phạm và có tài “chọn chữ xếp vần”. Chúng đến từ bề mặt ý thức, là sản phẩm của lý trí nên thiếu cái điều kiện cốt yếu để được gọi là thơ.

Những tác phẩm “không phải thơ” trong mục này được trích trong Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết Của Nguyễn Đức Tùng Có Phải Là Thơ? của Phạm Đức Nhì. (1)


Mấy Điều Lầm Lẫn Của Nhà Thơ Nguyễn Vũ Tiềm

1/ Hiểu Sai Hai Chữ “Văn Vần”

Ông Nguyễn Vũ Tiềm nói:

Nếu một bài thơ mà “có sao viết vậy” thì là văn vần chứ không phải thơ, nó chỉ “giống như thơ” mà thôi.

Như đã giải thích ở trên, thơ chỉ là một thể loại của văn vần. Ông Nguyễn Vũ Tiềm dùng hai chữ “văn vần” không chính xác.

Tuy chỉ là lỗi kỹ thuật nhưng do tính văn chương “cao cấp” của nội dung cuộc phỏng vấn – nói đến cội rễ, gốc gác của thơ - nên nó là lỗi rất nặng.


2/ “Có Sao Viết Vậy” Không Phải Là Thơ?

Như đã giải thích ở phần trên, điều kiện để tặng danh hiệu Thơ cho một tác phẩm là “chữ tình” riêng tư của tác giả - chữ chuyên môn là “tâm đối cảnh”, “cái tôi riêng tư” có mặt trong cảnh thơ - chứ không phải 3 cái “Khác Thường” như ông Nguyễn Vũ Tiềm nói.

Thí dụ:

Anh thương em lắm Phấn à
Thương em anh muốn em là của anh.

Đây là hai câu tỏ tình non tay của một cậu học trò 15 tuổi. Tác giả diễn đạt kiểu “có sao nói vậy”, chẳng có gì “khác thường” nên không được văn hoa lắm. Nhưng chữ “tình” thì đã hiện rất rõ. Cậu đã gởi hồn của mình vào tác phẩm. Ai dám bảo hai câu ấy không phải thơ?

Chúng ta thử đọc câu sau đây trong diễn văn nhậm chức của Tổng Thống Mỹ John F. Kennedy:

“Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn -  
mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc.” (2)

Câu này có “suy nghĩ khác thường”, được nói một cách khác thường, đã đi vào lịch sử ở cả hai phạm trù chính trị và văn học. Nhưng vì không có cảm xúc, xuất phát từ cái đầu chứ không phải con tim nên không phải là thơ. 

Và đây là hai câu khác:

Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan
(Hồ Chí Minh)

Ý tưởng đúng đắn, xứng đáng để các em nhỏ học hỏi, ứng xử, nhưng hoàn toàn là sản phẩm của lý trí. Vì thế không thể gọi là thơ.

Còn hai câu:

Nhìn con học giỏi hiền ngoan
Lòng cha cảm thấy ngập tràn sướng vui
(PĐN)

Cha đã bước vào khung cảnh bài thơ và đã có cảm xúc. Đích thị là thơ.

Hoặc:

Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng
(Ca dao Nam Bộ)

Một người từng trải, nhiều kinh nghiệm về chuyện đa thê đã đưa ra lời khuyên đối với những anh mới học đòi Phòng Nhất, Phòng Nhì. Đó chỉ là sản phẩm của lý trí, không có cảm xúc.

Còn mấy câu:

Bà lớn ở nhà đang trông
Nhìn em “quá đã” qua không muốn về
Thôi đành mặc người cười chê
(PĐN)

Cảm xúc đã dạt dào - mê bà nhỏ đến mức quên cả lẽ công bằng của người đàn ông hai vợ (theo câu ca dao). Đã có thơ.

Tóm lại ở phần này:

Tác phẩm dù  non tay, “có sao viết vậy” mà có “tâm đối cảnh”, có “chữ tình” thì vẫn được gọi là thơ.

Tác phẩm dù có “khác thường” đến mấy mà không có “tâm đối cảnh”, không có “chữ tình” thì vẫn là “cây dị chủng”.

Phát biểu của ông Nguyễn Vũ Tiềm về cội nguồn, gốc gác của thơ là không chính xác.

(Phần trên đây được trích trong Bàn Thêm V Nhn Din Thơ của PĐN)

Cách Nhận Diện Thơ Của Ông Nguyễn Vũ Tiềm Không Đúng

Ông Nguyễn Vũ Tiềm viết:
Hai câu thơ quen thuộc và rất hay của nhà thơ Chế Lan Viên:

“Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm”

Gié lúa và cây gỗ là thứ vô tri, nó đâu biết mơ ước đến những điều cao siêu ấy, mà chính là cảm xúc, ý tưởng của nhà thơ về chúng mà thôi. Ở hai câu này nhà thơ dùng thủ pháp nghệ thuật nhân cách hóa.

Nếu làm văn vần chỉ cần viết:

“Lúa vàng hạt mẩy đồng ta
Trầm hương gỗ quý, bao la trên rừng”

Văn vần thường tả chân, phản ánh trực tiếp sự vật, phù hợp với đề tài người thật việc thật.


Hai câu thơ của Chế Lan Viên được trích trong bài Tổ Quốc Bao Giờ Đẹp Thế Này Chăng? Nếu tách riêng như ông Nguyễn Hữu Tiềm thì 2 câu:

“Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm”

không có “chữ tình” của “cái tôi riêng tư” nên không thể gọi là thơ được. (Ông NVT nói có cảm xúc là nói lấy có.)

Nhưng thơ có một điều luật tạo điều kiện dễ dàng cho thi sĩ làm thơ. Đó là:

Một bài dài cách mấy mà chỉ cần có một “câu sinh tình” là cũng đủ điều kiện để được gọi là thơ. Những câu còn lại, dù có tình hay không, cũng được ăn theo để thành thơ.
                         
Trong 68 câu còn lại có khá nhiều câu sinh tình nên Tổ Quốc Bao Giờ Đẹp Thế Này Chăng? đã xứng đáng với danh hiệu thơ. Hai câu ông NVT cắt ra làm thí dụ, nếu để riêng thì không phải thơ, nhưng nhờ ăn theo cả bài nên cũng được gọi là thơ.

Lấy 3 câu đầu trong bài thơ Ngậm Ngùi của Huy Cận làm thí dụ:

Nắng chia nửa bãi chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu
Sợi buồn con nhện giăng mau

Ba câu này chỉ là phần dọn cảnh, không có “chữ tình” của “cái tôi riêng tư” nên nếu để riêng chưa thể gọi là thơ. Nhưng đến 2 câu kế tiếp:

Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
Lòng anh mở với quạt này

thì “chữ tình” của “cái tôi riêng tư” đã có mặt, cả bài đã thành thơ; ba câu đầu, nhờ thế, cũng được “ăn theo” để thành thơ.

Việc ông Nguyễn Vũ Tiềm tách riêng 2 câu trong bài thơ 70 câu để xem 2 câu ấy có phải là thơ không là việc làm không những không hợp lý mà còn có vẻ “ngờ nghệch” nữa.

Những Cây Dị Chủng Trong Vườn Thơ Của Nguyễn Vũ Tiềm

Ngoài ra, ông Nguyễn Vũ Tiềm vì lơ là với cái gốc của thơ nên đã “làm thơ hóa ra viết vè”. Xin giới thiệu với bạn đọc 4 câu vè của ông:

1/

Ban tình yêu, việc của Trời
Giữ tình yêu, việc của người, khó thay

Nhận xét của tác giả về việc thủ đắc và gìn giữ tình yêu của con người, hoàn toàn là sản phẩm của lý trí. Ở đây không có cảnh thơ và tâm hồn tác giả vẫn còn nằm ngủ ở một chỗ bí mật nào đó, chưa xuất hiện.

2/

Giai nhân son phấn thì sang
Văn chương son phấn lại càng già nua

Nhận xét của tác giả về việc làm đẹp cho văn chương một cách giả tạo, bề ngoài. Đây cũng chỉ là sản phẩm của lý trí.

3/

Bước đi: học chỉ một năm
Bước dừng: học đến rụng răng chưa thành

Không có “tâm đối cảnh”, là sản phẩm của lý trí.

4/

Một tác phẩm chưa thể nói thành công
nếu chưa có người đòi mang ra phán xử

Rõ ràng là sản phẩm của lý trí.


Kết Luận

Mới đây (24/04/2020), trong một buổi họp tường trình về tình hình đối phó với dịch Covid19 Tổng Thống Donald Trump có gợi ý cho dân Mỹ tiêm hoặc uống thuốc sát trùng (disinfectant) để diệt Virus Corona. Lời gợi ý phản khoa học của Tổng Thống trong buổi họp được truyền hình toàn nước Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới đã làm sửng sốt giới truyền thông, y học, quan chức chính quyền và toàn dân Mỹ.

Sau đó chỉ riêng tiểu bang Maryland đã có hàng trăm người gọi đến các cơ quan y tế địa phương để hỏi cho rõ thực hư. Thế là các bác sĩ, hãng sản xuất thuốc sát trùng Lysol phải ra thông báo cải chính. Bởi nếu không, dân chúng “nghe dại” Tổng Thống, chích hoặc uống thứ đó vào thì chỉ có … đi đời.

Không hiểu sao nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm lại mạnh miệng phát biểu trên báo chí những điều sai lạc về thơ như vậy – mà lại là những cái sai về “gốc gác”, cốt tủy của thơ mới đáng tiếc. Ông là nhà giáo, lại là “Người Nổi Tiếng” nên phát biểu kiểu “điếc không sợ súng” của ông làm những người yêu thơ - đặc biệt là giới trẻ - bối rối, hoang mang, không biết đâu là hư thực.

Bài viết của tôi chỉ là một nhận xét “trái chiều”. Rất mong nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm lên tiếng làm sáng tỏ cái “màn đêm u tối” mà chính ông đã tạo ra trên Thi Đàn, thì chúng tôi, những người yêu thơ, sẽ biết ơn ông lắm lắm.

San Leon 29/04/2020

Phạm Đức Nhì


CHÚ THÍCH:

1/

2/ Ask not what your country can do for you—ask what you can do for your country.