GẶP HỒN THƠ: NGƯỜI ĐƯỢC LÀM NGƯỜI
Việt Nam ta có câu tục ngữ “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”.
Tại sao vậy? Vì trẻ con không biết nói dối. Trong kinh thánh Chúa Giê-Su cũng từng
nói: “Này ta bảo thật cùng các ngươi, nếu không trở lại như con trẻ thì sẽ
không vào được nước trời đâu.” Ngài cũng muốn nhấn mạnh đến sự chân thật.
Người
đời, trong đó có cả các thi sĩ, thường gian dối. Cầm bút lên là đã muốn vơ cái
hay, cái đẹp về mình. Nhà thơ nào cũng vỗ ngực là yêu nước, thương dân, hiếu thảo
với cha mẹ, tình nghĩa với anh chị em, chung thủy với vợ (chồng), hết lòng vì
con, tốt bụng với bạn bè. Ngay cả khi kể một vài điều “không tốt” về mình cũng
là muốn chứng tỏ mình thành thật. Có nhiều mức độ dối trá trong thơ:
Có người
vì ham quyền hành, lợi lộc đã nói dối lộ liễu trong thơ; vừa liếc mắt vào cái
“tâm sự” của “hắn” bày tỏ trên trang giấy, không cần suy luận hoặc kiểm chứng,
người đọc đã biết là tên này xạo, vì nó rõ ràng ràng như 2 với 2 là 4. Nhưng vì
ham sống sợ chết, mê bả vinh hoa phú quý, mê mồi danh lợi nên hắn cũng cố bôi mặt,
nhắm mắt mà viết. Chỉ cần một, hai câu thơ kiểu này hắn sẽ trở thành trò cười
cho thiên hạ suốt đời.
Có người cố
che đậy sự dối trá của mình, hoặc trong thơ hứa một đàng, ngoài đời làm một nẻo,
vô phúc bị đọc giả kiểm chứng, khám phá, vạch ra. Lúc ấy thì ôi thôi ê mặt.
Không những bài thơ dối trá bị tẩy chay mà cả những bài thơ khác (cùng tác giả)
có khi cũng bị “văng miểng”.
Một số đông
khác không nói thật lòng mình nhưng lại khéo léo che dấu bằng kỹ thuật thơ điêu
luyện nên đọc giả không có bằng chứng để vạch trần sự dối trá; tuy nhiên trong
lòng họ đã gợn lên một chút nghi ngờ. Trong lãnh vực pháp luật, không đủ bằng
chứng buộc tội một nghi can thì nghi can đó phải được coi là vô tội. Còn trong
thơ ca, đọc giả đã nghi ngờ sự thật lòng của tác giả thì bài thơ coi như “đi
đoong”, hết đời, không còn giá trị.
Có bài thơ
từ đầu đến cuối đều rất thật, rất hợp lý, không có chi tiết nào, điểm nào dối
trá nhưng lại được viết trong lúc “tỉnh” quá, không có dấu hiệu đặc biệt nào để
người đọc biết là tác giả đang “lên cơn”, để cảm ngay được sự chân thật của tác
giả. Chân tình trong thơ phải được bày tỏ (show) chứ không phải chỉ cần nói đến
(tell). Thơ loại này đem phân tích thì không thấy cái sai, cái dở nhưng đọc lên
thấy thiếu cái hơi nóng của cảm xúc, thiếu cái hồn thơ.
Cuối cùng,
chỉ có một số rất ít nhà thơ đặt bút làm thơ trong lúc “lạc thần trí”, trong
lúc “lên cơn” (cơn giận, cơn ghen, cơn say tình …), lúc lý trí bị khối cảm xúc
đầy ắp trong tâm hồn che phủ. Dòng thơ trải trên giấy chính là dòng cảm xúc, và
chỉ có cảm xúc, cuồn cuộn từ trong lòng tác giả tuôn ra. Nếu chọn được thể thơ
thích hợp tâm hồn đọc giả sẽ bị cuốn theo cái dòng cảm xúc đó, sẽ cảm nhận ngay
tấm chân tình của nhà thơ. Và đọc giả sẽ tự nhủ “ta đã bắt gặp hồn thơ của tác
giả”. Lúc đó, bài thơ đã đạt được mục đích cao đẹp của thơ ca: là nơi gặp gỡ của những tâm hồn đồng cảm.
MỘT CHÚT VÍ VON CHO DỄ HIỂU
Thể thơ: Con
mương (kênh, dòng sông).
Ngôn ngữ thơ
(chữ, câu) + kỹ thuật thơ ca: Dòng nước chảy trong mương.
Tứ thơ: Con
thuyền được dòng nước đưa đi.
Hồn thơ: Gió
(xuôi), đẩy con thuyền tứ thơ đi nhanh hơn. Gió không được “sinh ra” từ dòng nước
mà đến từ bên trên, bên ngoài dòng nước. Gió càng mạnh bài thơ càng có hồn.
Bài Thơ Không Hồn Có Cảm Xúc Hay
Không?
Dù không có
gió con thuyền tứ thơ vẫn trôi, và có thể cũng trôi tới bến. Nhưng người đọc
sành điệu sẽ chê bài thơ không có hồn. Xin quý vị đừng hiểu lầm bài thơ không hồn
là không có cảm xúc. Dù không hồn nhưng đã gọi là thơ thì ít nhiều cũng có cảm
xúc. Gặp trường hợp này, nếu tác giả yếu tay nghề, bài thơ sẽ khô khốc, đọc
chán phèo.
Nhưng nếu thi sĩ khéo tay, nhuần nhuyễn kỹ thuật thơ ca thì bài thơ
cũng có chữ “đắt”, câu hay, hình ảnh đẹp và cũng có thể khơi dậy một lượng cảm
xúc đáng kể trong lòng người đọc. Tuy nhiên, đó chỉ là cảm xúc từ ngôn ngữ thơ,
từ kỹ thuật thơ mà tôi gọi là cảm xúc nội
tại của bài thơ. Nó khác xa với thứ cảm xúc có được từ hồn thơ. Hồn thơ
tươi mát hơn, đằm thắm hơn, gây cảm giác sảng khoái hơn.
Hồn Thơ
Tôi đã xem
những trận túc cầu mà tài nghệ của hai đội quá chênh lệch. Thật tẻ nhạt. Đội mạnh
vờn đội yếu như mèo vờn chuột. Họ ghi một vài bàn thắng rồi vờn bóng giữa sân để
dưỡng sức cho những trận sau. Những trận đá giao hữu cũng thế. HLV đưa ra đội
hình chỉ để thử nghiệm độ ăn ý, chỗ yếu, chỗ mạnh của đội mình. Thắng cũng tốt
mà thua cũng không sao. Xem những trận như vậy chỉ phí thời gian và phí tiền
mua vé.
Chỉ có những
trận được ăn cả, ngã về không, thắng đi tiếp, bại “go home” là hấp dẫn. Lúc ấy
cả 2 đội sẽ dồn hết thể lực, kỹ thuật và tinh thần vào trận đấu. Nếu đó lại là
những trận bán kết, chung kết của những giải lớn quốc tế, khán giả cổ vũ cuồng
nhiệt thì mọi người sẽ được thưởng thức một bữa “tiệc túc cầu” vô cùng ngoạn mục.
Vâng, đúng vậy! Khi các cầu thủ đồng loạt bừng lên, quên mình, chơi xuất thần,
hoàn toàn ngẫu hứng cái đẹp của túc cầu mới được đưa lên hàng nghệ thuật. Cái
“chất nghệ thuật” đó không phát xuất từ kỹ thuật cá nhân, từ đấu pháp toàn đội
mà từ cảm hứng trong trong tâm hồn của mỗi cầu thủ. “Đội của bạn hôm nay đá hay
quá” chỉ là một lời khen bình thường; “Đội của bạn hôm nay đá xuất thần, có hồn
quá” mới làm huấn luyện viên, cầu thủ mát lòng, hả dạ.
Gió không đến
từ dòng nước chảy trong mương; “chất nghệ thuật” trong túc cầu, không đến từ kỹ
thuật cá nhân của cầu thủ hoặc đấu pháp, chiến thuật toàn đội. Hồn thơ cũng
không đến từ câu chữ và kỹ thuật thơ ca trong bài thơ mà đến từ trạng thái rung
động mãnh liệt của thi sĩ khiến chàng (nàng) như cuồng, như điên; cuồng điên vì
quá vui, giận, yêu, ghét, đau thương, sung sướng, sợ hãi, cuồng điên vì tham ái
trong lòng: tham đẹp, tham ngon, tham dâm … đã dâng cao đến đỉnh điểm.
Trong trạng
thái phấn khích, cuồng nhiệt, hứng khởi đó, tác giả đưa vào, thổi vào bài thơ một
luồng hơi nóng bỏng, một luồng cảm xúc đặc biệt, khác hẳn với thứ cảm xúc nội tại
đến từ câu chữ và kỹ thuật thơ ca. Vâng, luồng
hơi nóng bỏng ấy chính là hồn thơ. Người đọc không thể nắm bắt, nhận biết
nó bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận bằng
tâm hồn.
Nói khác đi, thơ là tiếng lòng, tiếng nói của con tim
không qua sự gạn đục, khơi trong của lý trí. Có người bảo tôi “nếu giữ tâm hồn
được ngây thơ, trong trắng như trẻ thơ mà lại có kinh nghiệm sống đầy ắp, kỹ
thuật thơ điêu luyện trong tay chắc là làm thơ sẽ hay lắm.”
Tôi đồng ý ngay. Với
tôi, lý trí là kẻ thù số một của thơ ca. Chả thế mà những nhà thơ Siêu Thực đã sử dụng rất nhiều thủ pháp để đánh bật lý trí ra khỏi tâm hồn trong lúc đang chế
tạo thơ ca. (Nhưng khi những mảng tâm tư, tình cảm từ trong vô thức được moi ra
trải trên trang giấy, lý trí sẽ len lỏi vào, nhúng tay vào công việc sắp xếp lại
thứ tự những mảng tâm tư, tình cảm đó, và sẽ “xúc phạm” đến cái Chân Thật làm
nên hồn thơ.)
Chỉ có cách, theo tôi, kiên nhẫn tích tụ kinh nghiệm sống,
miệt mài rèn luyện kỹ thuật thơ ca và chờ đến lúc cảm xúc trong lòng sôi lên phủ
mờ lý trí. Chính lúc đó, nếu phóng bút sẽ tạo được những câu thơ có hồn. Khoảnh
khắc đó đến bất chợt và ra đi rất nhanh không một lời từ giã.
Tìm hồn thơ là lắng
nghe lòng mình (hoặc tìm cách khuấy động lòng mình) để bắt gặp cái khoảnh khắc
“lên cơn” đó. Và khi đã “lên cơn” thì đừng chần chờ, phải hối hả viết ngay. Bởi
khi đã bình tâm suy nghĩ thì hào khí ngất trời cũng xẹp như bong bóng bị xì hơi
để nghĩ đến miếng cơm manh áo, vợ (chồng) đẹp, con khôn.
Khi lý trí đã trụ được
ở trong lòng thì đau thương chất ngất cũng nguôi ngoai, hận thù đằng đằng cũng
lắng xuống, tình yêu cháy bỏng cũng nguội dần đi. Lúc ấy dù kinh nghiệm sống có
phong phú đến đâu đi nữa, kỹ thuật thơ ca có điêu luyện đến đâu đi nữa, cái mớ
chữ nghĩa được viết ra cũng không còn hơi sức để lay động lòng người.
KẾT LUẬN
Hiện đã có
những bài thơ được sản xuất từ máy tính (computer generated poems). Chúng cũng
có ngôn ngữ thơ, hình tượng, tứ thơ, cảm xúc … đủ cả. Nhưng dĩ nhiên, do từ máy
tính, chúng không có hồn.
Khi đem những
bài thơ này ra “trưng cầu dân ý” thì có rất đông người lầm lẫn cho rằng chúng
được sáng tác bởi thi sĩ người thật chứ không phải bởi máy tính.
Cho nên khả
năng cảm được cái hồn, cái chất thơ
của bài thơ là rất quan trọng. Có nó, bạn sẽ được đứng về phía những con người
thật – nhận biết được tiếng Người, tiếng
nói phát xuất từ trái tim của đồng loại. Còn phía bên kia, cũng là con người
nhưng tim đã khô cứng bởi những quy luật, cung cách ứng xử của xã hội văn minh;
họ rất hòa nhã, lễ phép, lịch sự nhưng rất “lạnh”, đang dần dà biến thành những
người máy vô cảm. Riêng Thi Sĩ, nếu may mắn sáng tác được một bài thơ Có Hồn có
nghĩa là Ngài đã ban cho nhân loại một ân huệ lớn, tặng họ một công cụ để học
nói thứ tiếng Chân Thật (viết hoa) của con người.
Tôi có tin mừng
thông báo đến những người yêu thơ. Hãy cứ tiếp tục làm thơ, đọc thơ, bình thơ,
đem thơ vào những cuộc tán gẫu. Làm thế, các bạn đang bảo dưỡng cái tính người
của mình, và qua đó, góp sức lôi kéo phần rất lớn kia của nhân loại trở về để
cùng sống và xây dựng một thế giới nhân bản.
Phạm Đức Nhì
Trang Web Chuyên Bình Thơ
Phamnhibinhtho.blogspot.com