Tôi đứng bên này sông
Khi phổ nhạc bài thơ nhạc sĩ Anh Bằng sửa lại:
THI SĨ CÓ XẠO KHÔNG?
Người Đời Thường
Gian Dối
Tôi học Đệ Nhất ở Lý
Thường Kiệt, một trường trung học công lập quận Hốc Môn, nhưng vì nghe tiếng
giáo sư Trần Bích Lan nên thỉnh thoảng cũng “vù” lên trường Văn Học ở Sài Gòn
học ké mấy giờ Triết. Phải công nhận thi sĩ Nguyên Sa giảng Triết nghe đã
thiệt. Có lần, không nhớ trong bài nào, thầy phát biểu:
“Do tính sĩ diện nên
người đời thường gian dối; mở miệng ra là vơ cái hay, cái tốt về mình; ngay cả
khi tiết lộ một chút gì xấu của cái Tôi là cũng muốn chứng tỏ mình thành thật.”
Sau khi “mất” Khánh
Ngọc, Phạm Đình Chương đã sáng tác nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau trong đó có
câu
“Đôi khi anh muốn tin,
đôi khi anh muốn tin những người, ôi những người khóc lẻ loi một mình”.
Ý nhạc sĩ muốn nói
chỉ những người khóc lẻ loi một mình (như ông đang khóc Khánh Ngọc) mới đáng
tin là có nỗi đau buồn chân thật.
“Bởi đàng sau những giọt
nước mắt
giữa đám đông
rất có thể
ẩn hiện bóng hình
loài cá sấu.”
(Kẻ Giết Chết Hồn
Thơ, Phạm Đức Nhì, vandanviet.com)
Nhưng nhiểu trường hợp
người ta còn dàn cảnh để “con mồi” được tận mắt xem tấn tuồng “khóc lẻ loi một
mình” rồi tin và hiên ngang bước vào bẫy. (2)
Phạm Đình Chương, khi
viết Nửa Hồn Thương Đau, không ngờ rằng ngay cả tiếng khóc lúc lẻ loi cũng có
thể sản sinh những giọt nước mắt cá sấu. Tính gian dối của người đời sâu đậm
đến như thế đấy.
Thi Sĩ Có Xạo Không?
Trở lại buổi học Triết
với thầy Trần Bích Lan. Lúc ấy, vốn có tiếng nghịch ngợm lại bạo mồm, tôi ngồi
tại chỗ “hỏi chõ” lên:
“Thế thi sĩ có xạo
không thầy?”
Thầy nhìn về hướng tôi
ngồi, trả lời tỉnh bơ:
“Có chứ, sao lại
không! Khác nhau là cố ý hoặc vô tình.”
Không ngờ mấy chục năm
sau, vướng “đậm” vào cái nghiệp thi ca, tôi lại phải trả lời câu hỏi của chính
mình. Không biết lúc ấy thầy Trần Bích Lan trả lời thật hay đùa; tôi cũng không
có cơ hội để hỏi thầy đến nơi, đến chốn.
Nhưng đọc khá nhiều thơ,
thỉnh thoảng lại chất vấn tâm hồn mình – cũng là người múa bút làm thơ – tôi
thấy quả đúng như thầy nói, thi sĩ nhiều người, nhiều lúc cũng “xạo tới bến”.
Tại Sao Thi Sĩ
Xạo?
Lý do cũng dễ hiểu.
Người đời trong giao tiếp hàng ngày, đôi lúc ở chỗ này chỗ khác, nói năng có
điều gì thất thố, có xúc phạm ai thì cũng chỉ một số ít người biết. Sau đó lời
nói sẽ bay đi như gió thoảng.
Còn thi sĩ, bài thơ xuất
xưởng là sẽ vượt khỏi sự kiểm soát của mình, nếu sai sót điều gì hoặc đụng
chạm đến ai đó, hậu quả của những dòng thơ trên giấy trắng mực đen sẽ đọng
lại rất lâu.
Cho nên đặt bút
viết phải cẩn trọng. Cẩn trọng sẽ mời gọi lý trí. Có lý trí xuất hiện, thi sĩ -
dù muốn dù không – cũng sẽ Xạo.
Trường Phái Siêu Thực Đã
Thất Bại
Dĩ nhiên, xạo có nhiều cách, nhiều kiểu. Có kiểu xạo cố ý, có kiểu xạo vô
tình. Có kiểu xạo đáng chê trách, nhiều khi đáng khinh bỉ, có kiểu
xạo đáng thương, đáng thông cảm. Nhưng dù xạo kiểu gì đi nữa
cũng làm ảnh hưởng đến giá trị của bài thơ.
Xóa hẳn dấu vết của chữ Xạo trong thơ không phải là chuyện đơn giản.
Trường phái thơ Siêu Thực ra đời để giải quyết vấn nạn "trục
xuất lý trí - nguyên nhân của chữ Xạo - trong thơ" cũng đã thất bại.
Có Cách Nào Không?
Nhưng những người yêu thơ cũng đừng lo buồn. Vẫn có phương cách khác, phương
cách đặc biệt làm chữ Xạo biến mất để lời thơ trở thành "tiếng
lòng chân thật" của thi sĩ, để người đọc và người làm
thơ được trò chuyện với nhau bằng ngôn ngữ của Loài Người (viết
hoa).
Lúc ấy bài
thơ đã nhận được giải thưởng cao quý nhất: Bước Vào Bến Bờ Thi Ca.
Loạt bài HƯỚNG ĐI CỦA THƠ sẽ bàn đến phương cách này.
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH
1/ Trong Cô Gái Đồ Long
của Kim Dung tên Trường Linh đã giả vờ khóc trước bàn thờ Tạ Tốn để lừa Trương
Vô Kỵ, hy vọng được Vô Kỵ tin tưởng dẫn ra Băng Hỏa Đảo.
Nên tránh 2
cách gieo vần sau đây:
1/ Vần
Ngang Câu Bát
ĐỜI
Để đêm chia bóng, ngày chờ ước mơ
Tằm ơi! Sao chẳng nhả tơ
Cho ta vá lại hồn thơ nát nhàu!
(Trần Trọng Giá, FB Lục Bát Việt Nam)
Đây là bài thơ mà câu bát của cặp đầu tiên có chữ thứ 6 và chữ thứ 8 ăn vần với nhau (vần ngang câu bát) (chờ mơ). Tôi không nghĩ là tác giả chủ ý tạo cặp vần này. Nó tuôn ra theo dòng chảy của tứ thơ và vì “không phạm luật” nên ngài không để ý. Rồi chữ “chờ” vần với chữ “thơ” ở câu lục trên, chữ “mơ” vần với chữ “tơ” ở câu lục kế tiếp và dính líu, dây nhợ với chữ “thơ” ở câu bát dưới.
Hậu quả là độc
giả phải nghe âm điệu của một chuỗi 5
chữ (thơ
chờ mơ tơ thơ) từ 4 câu thơ liên tiếp trùng vần – mà lại toàn là chính vận
mới đáng sợ. Vần quá ngọt. Có một tô chè mà nêm đến mấy lạng đường, ngọt lợ đến
gắt cổ.
2/
Vần Quẩn
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào,
Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
Bình thành công đức bấy lâu,
Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao
Ngẫm từ gây việc binh đao
Đống xương Vô định đã cao bằng đầu.
Làm chi để tiếng về sau
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
Sao bằng lộc trọng quyền cao
Công danh ai dứt lối nào cho qua?
(2488- 2498)
Đây là loại vần
“đi dăm phút đã về chốn cũ” - mới đổi qua vần khác một lần đã quay lại vần cũ.
Trong 14 câu Kiều ở trên Nguyễn Du đã phạm lỗi vần quẩn rất nặng – quay đi quẩn
lại đến 3 lần. Đọc lên là ngán ngẩm.
Tóm lại, lục bát, do hình thức của thể thơ, có độ ngọt rất cao. Bài thơ có hội chứng nhàm chán vần hay không? Câu trả lời sẽ cho phép người bình thơ nâng hoặc giảm giá trị bài thơ một cách đáng kể.