GÓP Ý VỚI CUỘC ĐỐI THOẠI "THẾ NÀO THÌ GỌI LÀ THƠ?"
Ông Nguyễn Khoa Điềm viết trên blog Quê Choa:
Lập thân mến,
Mình có xem bức chân dung Đại
tướng Võ Nguyên Giáp do Hà Vũ mới vẽ tặng Đại tướng nhân dịp ông tròn 100 tuổi.
Bức tranh đẹp, rất xúc động. Mình có làm bài thơ gửi trang mạng “Quê... Đại
tướng” của Lập.
Chúc an vui. NKĐ
BỨC CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH GIÀ
(Có bức chân dung nhưng máy tôi không tải được)
Những giọt nước mắt
Thật buồn
Thật lặng lẽ
Trước bức chân dung
Người lính Điện Biên vừa
tròn trăm tuổi
Của một người tù.
Trận chiến Lịch Sử
Đã phá tung mọi xiềng
xích?
Người họa sĩ trẻ
Từ sau song sắt
Vẫn bình tâm
Dành lòng biết ơn
Không dứt
Cho một người lính già.
19.9.2011
Nguyễn Khoa Điềm
Đỗ Trung Quân bình:
Bức chân dung của đại
tướng Võ Nguyễn Giáp được vẽ bởi một tay thực sự chuyên nghiệp. Anh Cù Huy Hà
Vũ. Anh rất có tài!
Bài thơ của ông Nguyễn
Khoa Điềm, rất tiếc phải nói thật lòng, xin ông đừng giận. Đấy chỉ là những
dòng “cảm tưởng có vần”, thường thấy ghi trong những sổ cảm nghĩ đám ma
hay đám cưới.
Thưa ông!
Nó không phải là thơ ạ!
Thế rồi lại đọc bài tiểu luận Thế Nào Thì Gọi Là Thơ? của Phan
Quỳnh Trâm với Lời Nói Đầu như sau:
[Đọc bài “Thưa,
chỉ là cảm nghĩ có vần...” của nhà thơ Đỗ Trung Quân,
tôi không có ý kiến gì về bức tranh của Cù Huy Hà Vũ, về bài thơ của Nguyễn
Khoa Điềm và về nhận xét của nhà thơ Đỗ Trung Quân đối với bài thơ của Nguyễn
Khoa Điềm. Tuy nhiên, tôi chỉ băn khoăn về câu khẳng định “bài thơ ấy không
phải là thơ”. Tôi cũng đã nghe nhiều người nói như vậy trong những hoàn cảnh và
với những mục đích khác nhau.]
Chị giải thích một lúc rồi trích dẫn đoạn thơ:
Những nhà thơ trẻ:
Hãy viết bất cứ cách nào bạn thích
Quá nhiều máu đã chảy dưới cầu
để còn tiếp tục tin
rằng chỉ có một con đường là đúng.
Trong thơ mọi sự đều được phép.
(Nicannor Parra, Hoàng Ngọc-Tuấn dịch)
có ý muốn nói trên trang thơ của mình thi sĩ được hoàn toàn tự do
phóng bút. Câu hỏi "Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?" vẫn là một nỗi băn
khoăn, chưa có câu trả lời.
Cuối cùng chị chỉ khẳng định lại nỗi băn khoăn của mình.
Tuy nhiên, có thể nói tóm lại,
Phân biệt thế nào là thơ, thế nào không phải là thơ là một điều cực kỳ phức
tạp. Quan niệm về thơ thay đổi theo từng trường phái và thời đại. Ngay trong
một trường phái và một thời đại thì chúng cũng có sự khác biệt lớn giữa người
này và người kia. Không một ai dám đưa ra một danh sách những tiêu chí rõ ràng
về thơ như một khuôn mẫu để chỉ cần đưa vào cái “khuôn” ấy một bài thơ vào là
có thể khẳng định nó... lọt khuôn hay trật khuôn.
Và tôi cũng nhân tiện đọc trao đổi
của các anh chị Nguyễn Vũ Đam San, Cao Thanh Phương Nghi, Black Raccoon, Huy
Tuấn, Nghuyễn Tôn Hiệt, Nguyễn Đăng Thường, Trương Đức, Bùi Thị Lài liên quan
đến đề tài này. Mặc dù cuộc đối thoại đã xảy ra khá lâu (gần 6 năm) nhưng câu
hỏi “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?” vẫn chưa mất tính thời sự nên hôm nay – dù trễ -
cũng xin mạo muội góp chút ý kiến.
Đã từng đọc khá nhiều thơ và cũng võ vẽ làm được mấy bài, tôi có
lần tự hỏi:
Đâu là sự khác biệt giữa văn và thơ?
Tôi thấy nhiều người làm thơ, đọc thơ, mê thơ đã thử làm công việc
định nghĩa thơ, nhưng hình như chưa ai đưa ra được định nghĩa nào có thể nhận
diện dung mạo của thơ một cách thật chính xác, thật đầy đủ. Tuy nhiên, có một
nhà phê bình văn học, theo tôi, đã bắt được cái ‘thần sắc” của thơ, đã nắm được
cái cốt lõi của thơ với định nghĩa như sau:
Thơ là cảm xúc (bằng kỹ thuật thơ) đi
tìm một đồng cảm. (Cụm từ “bằng kỹ thuật thơ” tôi xin phép tác giả được
thêm vào để khỏi lầm lẫn với các bộ môn nghệ thuật khác).
Người đó là Nguyễn Hưng Quốc.
Vâng! Yếu tố để phân biệt văn với thơ chính là cảm xúc.
Mục đích chính của văn là chuyển tải thông tin. Kiến thức của
người viết càng rộng, lượng thông tin càng lớn, lập luận càng khúc chiết, càng
có tính thuyết phục thì bài văn càng có giá trị. Đâu đó cũng có những đoạn văn
tình cảm, ướt át, nhưng cái chất ướt át đó chỉ đến tình cờ, chỉ là sản phẩm
phụ.
Với thơ, cảm xúc là chính, là máu thịt. Thông điệp cũng có đấy, nhưng chỉ
như con kênh, con mương để dòng cảm xúc lưu chuyển. Thành công của bài thơ được
đánh giá ở khối lượng, cường độ của dòng cảm xúc chảy trên con kênh ấy. Trong
văn có chút cảm xúc thì cũng tốt; nhưng nếu không có cũng không sao. Ngược
lại, trong thơ mà không có cảm xúc thì dù có vần điệu đầy đủ cũng vẫn không thể
được gọi là thơ.
Có hai đặc tính để nhận ra một “Bài Thơ” không phải là Thơ:
1/ Nó
hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, đến từ bề mặt của ý thức; tâm của tác giả
chưa có cơ hội đối diện với, hoặc bước vào, khung cảnh của bài thơ.
hoặc là:
2/ Tác giả đã bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” nhưng chưa có
những câu Sinh Tình.
Sau đây là một số thí dụ trong các bài viết cũ của tôi, nay tuyển
chọn, sắp xếp lại để phù hợp với bài viết này.
Là Sản Phẩm Của Lý Trí
1/
HÌNH VUÔNG
Muốn tìm chu vi hình vuông
Lấy cạnh nhân bốn lệ thường nhớ
ghi
Diện tích hình vuông khó gì
Lấy cạnh nhân cạnh sai đi đường
nào
Môt ông thầy dạy toán nào đấy đã mượn thể thơ lục bát để diễn tả
một công thức toán cho học trò dễ nhớ. Nội dung của 4 câu lục bát hoàn toàn là
sản phẩm của lý trí, không có một chút cảm xúc nào. Đây không phải là thơ.
2/
ANH YÊU KHOẢNH ĐẤT HÌNH VUÔNG
Ôi! Khoảnh đất hình vuông
ở giữa là căn nhà nhỏ bé
vách đất, mái rạ
nơi anh đã gởi cả trái tim
vì trong căn nhà đó có em.
(PĐN chế để minh họa.)
Ở đây tác giả đã bước vào, đã xuất hiện trong khung cảnh thơ, tâm
đã đối cảnh. Và đã có cảm xúc. Hay dở chưa bàn đến, nhưng Anh Yêu Khoảnh Đất
Hình Vuông đã có thể gọi là thơ.
3/
CÔNG CHA NGHĨA MẸ
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
(Ca dao)
Một nhà nho đã đem quan niệm về chữ hiếu của Khổng Tử dàn trải
trong 4 câu lục bát để loan truyền trong dân gian. Đây chỉ là sản phẩm của lý
trí, tâm chưa đối cảnh, không có cảm xúc, không thể gọi là thơ.
4/
Thôi xa rồi mẹ ới
lệ nhòa mi mắt
mong con phương trời
có lần chợt tỉnh đêm vơi
nghe giòn tiếng súng nhớ lời phân
ly
mẹ ơi con mẹ tìm đi
bao giờ hết giặc con về mẹ vui.
(Nhà Tôi, Yên Thao)
Tác giả đã bước vào khung cảnh thơ, cảm xúc đã dạt dào. Đích thị
là thơ.
5/
THÁNG GIÊNG ĂN TẾT Ở NHÀ
Tháng
giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn
hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
Một nhà nghiên cứu Văn Hóa Việt đã nhờ vào khả năng quan sát sắc
bén của mình nhận biết và kể lại những nét đặc thù trong sinh hoạt văn hoá của
người Việt Nam từng tháng một trong năm. Tuy thể thơ lục bát được mượn làm
phương tiện để chuyển tải thông điệp nhưng tác giả chỉ “đứng ngoài” chứ không
cho tâm trạng, cảm xúc của mình trộn lẫn vào thông điệp. Ở đây chúng ta cũng
chỉ có một loại văn vần chứ không có thơ
6/
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Có mẹ không cha
Rau má mọc bờ
Thò tay sợ dơ
Đó là rau nhớt
Rau cay như ớt
Vốn thiệt rau răm
Sống suốt ngàn năm
Là rau vạn thọ
(Vè Nam Bộ)
Rõ ràng đây là một đoạn của bài vè. Mỗi câu 4 chữ, gieo vần liên
tiếp. Tác giả (khuyết danh) dùng lối chơi chữ gọi tên các loại rau một cách
trào phúng. Tuyệt nhiên không có cảm xúc.
Như ta đã biết, lời dạy của Đức Phật được ghi chép thành Kinh. Đệ
tử của ngài, các tăng ni - dựa vào sự hiểu biết của mình – giải thích cho Phật
Tử dễ hiểu bằng những đoạn văn vần ngắn. Đó là Kệ. Kinh hay Kệ, dù ý nghĩa thâm
sâu cũng không phải là thơ.
7/
KINH PHÁP CÚ
Không
làm các việc ác
Tu tập các hạnh lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Là lời chư Phật dạy
8/
THỊ ĐỆ TỬ
Thân
như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
DẶN HỌC TRÒ
Thân
như bóng chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông
(Ngô Tất Tố dịch)
Thiền sư Vạn Hạnh đã dùng hình thức thơ thất ngôn tứ tuyệt để lý
giải lẽ Vô Thường. Tất cả những câu chữ ông viết ra đều đến từ bề mặt ý thức,
là sản phẩm của lý trí. Ông truyền đạt cho mọi người một phần sự hiểu biết của
ông về đạo Phật; đó là lẽ Vô Thường của vạn vật. Do không có tâm đối diện với
cảnh sắc, lý chưa biến thành sự, bài Thị Đệ Tử chỉ là Kệ chứ chưa phải là Thơ.
9/
HÃY TIN CHÚA
Hãy tin nơi Thiên Chúa
Hồn xác dâng cho ngài
Hãy sống theo lời Chúa
Chết, sẽ về nước Trời
Đây chỉ là lời kêu gọi mọi người Hãy Tin Chúa. Không có bóng dáng
cảm xúc nên không thể gọi là thơ.
10/
HÃY MUA THUỐC SỐ 42
Ai khóc ngoài quan ải?
Ai chưa đánh đã chạy dài?
Thuốc này bôi một tý thôi
Là trèo lên ngựa vung roi cả ngày
Thuốc này, ôi thật là hay!
Thuốc này tên gọi là Xây Xập Zì
(tiếng Hoa: 42)
Đây có vóc dáng là thơ nhưng chỉ là bài quảng cáo thuốc “chơi lâu”
ở các tỉnh biên giới phía bắc. Nó là sản phẩm của óc thương mại, kinh doanh,
không phải là những lời tâm tình, hàm chứa cảm xúc.
Có Cảnh Nhưng Chưa Có Tình
1/
“THƠ CON CÓC”
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi
Ba chàng Ngốc tâm đã đối cảnh nhưng
chưa có câu thơ sinh tình nên “THƠ CON CÓC” chưa phải là thơ. Bạn đọc có thể
đọc nguyên bài viết “Thơ Con Cóc” Có Phải Là Thơ? qua link dưới đây.
2/
Đồi trọc
Thoảng trong gió
Tiếng cóc
Cũng như “Thơ Con Cóc”, đây mới chỉ là những câu xác lập khung
cảnh, mặc dù tâm đã đối cảnh nhưng chưa Sinh Tình, thứ Tình trong “thất tình
lục dục” của con người (hỷ nộ ái ố ai lạc cụ và sắc dục, thanh dục, hương dục,
vị dục, xúc dục, pháp dục), nên chưa phải là Thơ (loại Thơ Thế Tục ta thường
gặp).
Tuy nhiên, đây là bài thơ Haiku, trường hợp này do tâm đã đối
cảnh, Cái Tôi Chủ Thể đã bước vào khung cảnh bài thơ, đã có cảm xúc - niềm vui
thấy mình đã buông xả, không còn bị vướng mắc, lôi kéo, nhìn cảnh vật như thị,
như thực, không có tư ý, tư dục xen vào. Đây chính là loại Thơ Thiền.
Một Số “Bài Thơ” Bị Tước Mất Danh
Hiệu Thơ.
Ngày tôi
còn mài đũng quần ở trung học, thơ được hiểu là một loại hình nghệ thuật dùng
chữ, có vần điệu để biểu lộ một cảm xúc hoặc diễn đạt một ý tưởng cao đẹp (noble thought). Khi tôi vào đại học, Kim Lũ Y là bài thơ Đường được
giảng dạy ở Văn Khoa. Nhưng khoảng mấy thập niên sau này cái phần đuôi của định
nghĩa thơ: hoặc diễn đạt một ý tưởng cao đẹp (noble thought), trong rất nhiều sách và trang web thơ ca, đã lặng
lẽ biến mất.
1/
KIM LŨ Y
Khuyến quân mạc tích Kim Lũ Y
Khuyến quân tích thủ thiếu niên
thì
Hoa khai kham chiết trực tu chiết
Mạc đãi vô hoa không chiết chi.
Đỗ Thu Nương
ÁO KIM TUYẾN
Khuyên anh đừng tiếc áo thêu vàng
Khuyên anh nên tiếc thời trẻ trung
Hoa nở bẻ được thì nên bẻ
Đừng chờ hoa hết, bẻ cành không.
2/
LA CỐNG KHÚC
Kỳ Tam
Mạc tác thương nhân phụ
Kim thoa đương bốc tiền
Triêu triêu giang khẩu vọng
Thác nhận kỷ nhân thuyền.
Lưu Thái Xuân
BÀI CA LA CỐNG
(bài 3)
Chớ làm vợ những người lái buôn
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.
Hai tác giả sành đời đã đem kiến thức và kinh nghiệm của mình -
bằng hình thức thơ - khuyên bảo lớp hậu sinh. Nội dung hai “bài thơ” trên toàn
là những điều hay, lẽ phải nhưng tuyệt nhiên không có cảm xúc. Trước đây, vì
quan niệm “văn dĩ tải đạo” ông cha ta đã long trọng gọi chúng là Thơ. Nay Thơ
đã đi theo một hướng mới, đã có những định nghĩa mới gắn chặt nó với tâm tình,
cảm xúc của con người nên, dựa vào cách nhìn nhận mới đó, chúng không còn xứng
đáng với danh hiệu Thơ nữa.
Khác Biệt Giữa Kệ, Thơ Thiền Và
Thơ Thế Tục
1/ Kệ: là một cách giải thích Kinh bằng văn vần, không cảm xúc.
2/ Thơ thiền : có cảm xúc nhưng cảm xúc đó chỉ là “niềm vui”, sự
sảng khoái khi thấy mình đã thoát vòng tục lụy, tâm không vướng mắc điều
gì, không có tư ý, tư dục, nhìn sự vật như thị, như thực. Nói có vẻ “đạo”
một tý là lúc ấy, trong khung cảnh của bài thơ ấy, cái tiểu ngã của tác giả đã
hòa nhập với cái đại ngã của vũ trụ.
3/Thơ thế tục: cảm xúc là thứ Tình phát xuất từ Thất Tình, Lục Dục
của người đời.
Sau đây là một số bài Kệ, Thơ Thiền và Thơ Thế Tục đặt cạnh nhau
để bạn đọc dễ phân biệt.
Trăng Non, Sơ Tam Sơ Tứ Và Chơi
Trăng Lên
TRĂNG NON
Vũ trụ bao la rất nhiệm mầu
Chân không diệu hữu thật thâm sâu
Trùng trùng duyên khởi không gì
mất
Trăng khuyết lại tròn – đời biển
dâu
(Minh Lương Trương Minh Sung)
Bài Trăng Non viết về trùng trùng duyên khởi của vạn vật, mất rồi
lại có, như trăng khuyết lại tròn, biển biến thành nương dâu. Cả 4 câu, 28 chữ
đều phát xuất từ bề mặt ý thức. Chính vì chỉ có “lý” mà thiếu “sự”, nên không
thể gọi là thơ. Tuy nhiên, tác giả đã thành công trong việc biểu lộ kiến thức
của mình về đạo pháp, đem cái hạt giống đạo pháp đó truyền đạt cho mọi người.
Đây có thể gọi là một bài kệ, một chiếc cầu để đưa người đời đến với những lời
dạy cao siêu, thâm thúy của đức Phật (kinh).
SƠ TAM SƠ TỨ
Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
MỒNG BA MỒNG BỐN
Mồng ba mồng bốn trăng mờ
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không
(Trần Trọng San dịch)
Ở đây sư ông và chú tiểu chùa Hàn San đã thực sự đứng trước và
thưởng thức vẻ đẹp của cảnh trăng non. Tâm đã đối cảnh. Cảm xúc dâng đầy. Sư
ông lặng ngắm vẻ đẹp của trăng trên bầu trời. Chú tiểu đứng ở vị trí khác, có
góc nhìn khác, thấy được phần chìm đáy nước của mặt trăng. Cả 4 câu gộp lại
thành một bài thơ thật đẹp, không có tư ý, tư dục.
Cùng một cảnh (trăng non) nhưng bài Trăng Non chỉ là kệ, còn Sơ
Tam Sơ Tứ là thơ. Khác nhau ở chỗ tâm đối cảnh và có cảm xúc (nhưng không có tư
ý, tư dục).
CHƠI LÊN TRĂNG
……………………….
Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát
Để nhờ không khí đẩy lên trăng
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi
Để hớp tinh anh của nguyệt cầu
Và để thoát ly ngoài thế giới
Để cười, để trững, để yêu nhau.
…………………….
(Hàn Mặc Tử)
Còn Chơi Lên Trăng của Hàn Mặc Tử thì tràn cảm xúc và tư ý, tư dục
nên là Thơ Thế Tục.
Phong Lai Sơ Trúc, Thơ Trên Cát Và
Phơi Nắng Trên Bãi Biển
PHONG LAI SƠ TRÚC
Phong lai sơ trúc
phong khứ nhi trúc bất lưu thanh
nhạn quá hàn đàm
nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh
thị cố quân tử
sự lai (#) nhi tâm thỉ hiện
sự khứ nhi tâm tùy không
(#) Có bản dùng chữ đáo
GIÓ ĐẾN BỤI TRÚC
Gió đến bụi trúc
Gió qua rồi mà trúc không lưu lại
âm thanh
Nhạn bay qua đầm nước lạnh
Nhạn qua rồi mà mặt nước đầm không
lưu lại hình ảnh
Cho nên người quân tử
Việc đến thì tâm khởi
Việc qua thì tâm hoàn không
(Tự dịch)
Một Nho gia đã viết Phong Lai Sơ Trúc để chỉ cho đám hậu bối
phương cách “chính kỳ tâm”, một trong chuỗi mắt xích “thành ý, chính tâm, tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” mà nho sinh phải từng bước tu tập để
thành người quân tử. Bốn câu đầu tượng thanh, tượng hình, đẹp như một bài thơ
nên nhiều người lầm tưởng đó là thơ. Thật ra 4 câu đó đã được tác giả “nghĩ ra
từ trước”, nay moi trong “kho kiến thức” ra sử dụng để viết bài “huấn thị” cho
đám học trò.
Rất tình cờ, ở đây Nho học đã gặp Phật học. Nhiều Phật tử trên
đường học đạo đã cho đó là một bài thơ và thường chiêm nghiệm để tu tâm. Đúng
ra Phong Lai Sơ Trúc có thể gọi là kệ (hay một cái tên gì khác) chứ nó không
phải là một bài thơ. Tác giả không đối cảnh rồi cảm ứng sáng tác ra nó; đây chỉ
là công việc riêng lẻ của lý trí; những thành phần khác của tâm như bản năng
(ái dục), tình cảm đều không có cơ hội, không được quyền tham dự vào.
Bây giờ chúng ta cùng đọc Thơ Trên Cát của thiền sư Viên Minh
THƠ TRÊN CÁT
Viết bài thơ trên cát
Cơn sóng vỗ xóa đi
Vô tình đâu biết được
Mình viết bài thơ gì.
(Viên Minh, từ tác giả)
Cũng cái ý đấy, nhưng ở đây thiền sư của chúng ta đã thực sự đối
diện với cảnh đời, cảnh bao la sóng nước của biển cả, để có hứng, có cảm xúc
viết thành bài thơ. Những thành viên của Tâm từ Tam Tạng (bản tâm), Tề Thiên
(lý trí), đến Trư Bát Giới (bản năng, ai duc), Sa Tăng (tình cảm) đều có mặt.
Nhưng do được “tu luyện đến nơi đến chốn” nên tất cả đều lặng thinh.
Thơ Trên
Cát được viết ra để nói về bài thơ đã mất; mất thật sự, không lưu
lại một dấu tích gì trong lòng tác giả; bài thơ mất mà tác giả của nó không một
chút bận tâm, luyến tiếc. So sánh với “phong lai sơ trúc” và “nhạn quá hàn đàm”
thì hình ảnh cơn sóng vỗ xóa mất bài thơ cũng đẹp và nên thơ
không kém. Đối cảnh tâm có cảm xúc nhưng không có tư ý, tư dục chính là trường
hợp này. Có thể nói đây là bài thơ thiền của một người đạt đạo.
Cùng một ý nhưng Thơ Trên Cát của Viên Minh là thơ, còn Phong Lai
Sơ Trúc chỉ là một lời khuyên, một thứ “huấn thị”. Khác biệt cũng chỉ ở chỗ tâm
đối cảnh và có cảm xúc.
PHƠI NẮNG TRÊN BÃI BIỂN
Biển vắng nàng nằm phơi nắng
Chỗ không nên phơi, cũng phơi
Tôi vô tình đi qua đấy
Nhìn thấy nóng ran cả người
(PĐN)
Lòng ham muốn (dục vọng) đã nổi lên. Chúng ta đã có Thơ. (Thơ Thế
Tục)
Tại Sao Có Mưa? – Biệt Nhất Phương
– Muốn Làm Mây Trắng
TẠI SAO CÓ MƯA?
Nước từ biển bốc hơi
Thành mây trắng trên trời
Nếu gặp luồng khí lạnh
Thì sẽ có mưa rơi
Đây có lẽ là một đoạn văn vần do thầy (cô) giáo (môn Khoa Học Tự
Nhiên) nào đó đặt ra để học trò dễ nhớ. Chỉ là sản phẩm của lý trí, không phải
thơ.
BIỆT NHẤT PHƯƠNG
Đáo tận yên hà xứ
Hồi đầu biệt nhất phương
Mục tiền sơn thủy hạo
Nguyệt hiện thảo đầu sương
RIÊNG MỘT CÕI
Đến tận vùng mây khói
Ngoảnh lại riêng một cõi
Trước mắt núi sông hùng vĩ
Trăng hiện trên hạt sương đọng
trên đầu nhọn cỏ
(Tự dịch)
Tác giả sảng khoái đến độ lạc thần trí trước vẻ đẹp của mây khói,
sóng nước nhưng không có một chút tư ý, tư dục. Có thể nói cái tiểu ngã của tác
giả đã hòa nhập vào cái đại ngã của đất trời, của vũ trụ. Đây là bài thơ thiền.
MUỐN LÀM MÂY TRẮNG
Ta muốn làm mây trắng
Bay về Huế mộng mơ
Chờ đến khi nắng hạn
Đổ xuống một trận mưa
(Không biết xuất xứ)
Đây là tâm tình của một người Huế rất nặng tình với Huế. Cảm xúc
đã dạt dào trên trang giấy. Muốn Làm Mây Trắng đích thị là một bài thơ (Thơ Thế
Tục)
Viết Thêm Về Thơ Haiku
Sau đây là bài Haiku nổi danh của văn
học Nhật:
Xưa cũ một bờ ao
Con ếch tung mình xuống
Và vang tiếng nước xao
(Bashô)
Hai chữ cần đặc biệt chú ý trong bài
thơ là "xưa cũ". Nhìn con ếch tung mình xuống bờ ao xưa cũ tạo nên
tiếng nước xao tác giả thấy hiện lên trong hồn những kỷ niệm về một thời nào đó
trong quá khứ. Có cảm xúc của thất tình lục dục nên bài thơ đã có thể mang
danh hiệu Thơ (Thơ Thế Tục).
Đây là bài thơ rất kiệm lời, thủ pháp Show, Do Not Tell đã đến mức thượng thừa. Hai từ "xưa cũ" là tác nhân
để dẫn đến những hoài niệm về một thuở xa xưa khiến bài Haiku này có
danh hiệu Thơ Thế Tục. Nếu không có tác nhân "xưa cũ" làm sống lại
những hoài niệm thì bài Haiku vẫn xứng đáng là thơ - nhưng là thơ thiền.
Những Câu Thơ Chùm Gởi
Chúng ta thử đọc bài thơ sau đây của Mai Quỳnh Nam:
TỰ SÁT, TRƯỜNG HỢP HEMINGWAY
Tự sát
cơ chế di truyền
căn nguyên từ máu
Viên đạn súng săn sư tử
chính ông phát nổ
Chết
ai cũng vậy thôi
bi kịch đời người
cần giải thoát
(Tạp Chí Thơ HNVVN số 11-2011, tr.6)
Đoạn đầu:
Tự sát
cơ chế di truyền
căn nguyên từ máu
là một phát biểu (statement), có thể là ý của tác giả, cũng có thể
là khám phá của nhiều người khác mà tác giả đã tổng hợp được qua quá trình đọc
của mình. Nó là sản phẩm của lý trí nên, nếu đứng một mình, không thể gọi nó là
thơ. Nhưng đặt nó lên đầu bài coi như một gợi ý, có đóng góp cho bài thơ nên nó
được “ăn theo”, trở thành những câu thơ trong bài thơ đó. Bởi vậy tôi gọi nó là
những câu thơ ăn theo, hay là những câu thơ chùm gởi.
Tương tự như vậy, đoạn đầu trong bài thơ sau đây:
LÁ CỜ CHÍNH NGHĨA
Tự do như muối
hạnh phúc như đường
khi đang còn
ăn đủ miếng ngọt, miếng ngon
khó thấy được
giá trị của hạt đường hạt muối
……………………………..
(Lá Cờ Chính Nghĩa, Phạm Đức Nhì, t- van.net)
cũng chỉ là một phát biểu của tác giả về hai ý niệm Tự Do và Hạnh
Phúc; đó là sản phẩm của lý trí. Đứng một mình thì không phải là thơ. Nhưng
đặt vào khung cảnh bài thơ thì nó lại là những câu mở đầu cần thiết, đưa ra chủ
đề để tác giả khai triển ở những đoạn sau. Nó đã “ăn theo” để trở thành những
câu thơ chùm gởi.
Trở Lại Bài Thơ Của Nguyễn Khoa
Điềm
BỨC CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH GIÀ
Những giọt nước mắt
Thật buồn
Thật lặng lẽ
Trước bức chân dung
Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi
Của một người tù.
Trận chiến Lịch Sử
Đã phá tung mọi xiềng xích?
Người họa sĩ trẻ
Từ sau song sắt
Vẫn bình tâm
Dành lòng biết ơn
Không dứt
Cho một người lính già.
19.9.2011
Nguyễn Khoa Điềm
Tôi không biết thi sĩ Đỗ Trung Quân dựa vào đâu để phán Bức Chân
Dung Của Người Lính Già không phải là thơ.
Theo tôi thì, ngắm bức chân dung của Đại Tướng Võ Nguyên
Giáp tác giả tâm đã đối cảnh và biểu lộ cảm xúc của mình trước tấm tình của họa sĩ (Cù Huy Hà Vũ) đối với Đại Tướng:
Những giọt nước mắt
Thật buồn
Thật lặng lẽ
Trước bức chân dung
Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi
Với những chi tiết ấy Bức Chân Dung
Của Người Lính Già đã xứng đáng được gọi là thơ. Bài thơ ấy hay hoặc dở lại là
chuyện khác, cần đến sự phân tích và bình phẩm kỹ lưỡng hơn.
Kết Luận
Thi sĩ, nhà phê bình hay người đọc đều cần biết thế nào
là một bài thơ hay. Thi sĩ, để làm thơ hay hơn, nhà phê bình, để bình phẩm cho
đúng và người đọc, để thành người thưởng thức thơ sành điệu. Nhưng nói chuyện
thơ hay mà quên câu hỏi “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?” thì cũng như bàn chuyện “ngọn”
mà không để ý đến “gốc”.
Tôi tình cờ bước vào cuộc đối thoại về cái “gốc” của
thơ trên Tiền Vệ và nhận thấy rất hữu ích. Bài viết này là một chút ý kiến đóng
góp để may ra có thể làm sáng hơn cái “gốc” của thơ. Sẵn sàng đón nhận mọi ý kiến
của các anh chị tham gia đối thoại và tất cả bạn đọc.
Phạm Đức Nhì
PHẦN
VIẾT THÊM
THƠ
TRÍ TUỆ ĐƯƠNG ĐẠI
Không ít những nhà thơ đương đại khi sáng tác
“thơ trí tuệ” cũng đôi khi “làm thơ hóa ra viết vè” hoặc tạo ra những “cây dị
chủng trong vườn thơ” (mà không biết).
Xin ghi ra vài thí dụ:
Nguyễn
Đức Tùng
EM CÒN TRẺ VÀ EM KHÔNG THỂ
BIẾT
Em còn trẻ và em không
thể biết
Người ta sống lại khi đã chết
Những người yêu nhau
thường cách biệt
Những người ghét nhau ở bên nhau
Em còn trẻ và em không
thể biết
Những cây cối bên đường cũng khổ đau
Khi chúng đứng một mình
trong gió rét
Hay khi chúng chụm đầu chen chúc nhau
Em còn trẻ và em không
thể biết
Lúc nào nên kết thúc lúc nào nên bắt đầu
(Nguyễn Đức Tùng)
Nhà thơ giải thích cho
nhân vật “em” hiểu “vì còn trẻ nên có một số điều không thể biết”. Và sau đó
anh liệt kê những điều đó với “em”. Có thể nói trong ECTVEKTB Nguyễn Đức Tùng
chỉ dùng kiến thức của mình “nói lý lẽ” với nhân vật “em”. Tâm của anh còn chưa
có cơ hội “đối cảnh” chứ đừng nói đến “sinh tình”.
Bài ECTVEKTB của
NĐT vì chỉ là sản phẩm của lý trí nên dù “mở ra nhiều miền nghĩa” và được nhiều
người thích và khen ngợi, vẫn không đạt được danh hiệu thơ mà phải xếp
vào “thể loại khác”.
Nguyễn
Vũ Tiềm
Trang web thivien.net có
225 bài thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm, trong đó có khá nhiều “bài thơ” chỉ có
2 câu. Tôi chọn 2 bài để giới thiệu với bạn đọc:
1/
Ban tình yêu, việc của Trời
Giữ tình yêu, việc của người, khó thay
Đây là nhận xét của tác giả về
việc thủ đắc và gìn giữ tình yêu của con người, hoàn toàn là sản phẩm của lý
trí. Ở đây không có cảnh thơ và tâm hồn tác giả vẫn còn nằm ngủ ở một chỗ bí mật
nào đó, chưa xuất hiện.
2/
Giai nhân son phấn thì sang
Văn chương son phấn lại càng già nua
Nhận xét của tác giả về việc làm
đẹp cho văn chương một cách giả tạo, bề ngoài. Đây cũng chỉ là sản phẩm của lý
trí, không phải thơ.
Hoàng Vũ Thuật
Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cũng có 5
“bài thơ” ngắn về cái bóng. Ở đây tôi xin trích dẫn 2 bài:
1/
Khi hai người yêu nhau
Họ chỉ còn một bong
2/
Đừng giận dỗi
Xem chừng bóng vỡ làm đôi
Mỗi bài chỉ là một phát biểu,
toàn lý trí, không có tâm đối cảnh nên không phải là thơ.
Nguyễn
Trọng Tạo
Tôi vào thivien.net để
đọc thêm một số thơ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, với hy vọng có thể kết luận Đồng
Dao Cho Người Lớn chỉ là trường hợp cá biệt.
Trong số 438 bài thơ của ông ở
trang web này tôi mới đọc đến bài thứ 35 thì “gặp” một bài “không phải thơ” nữa.
Xin copy xuống dưới đây để trình làng.
CHÚ MÈO ĐI HỌC
Mèo mẻo mèo meo
Chú mèo đi học
Áo quần trắng muốt
Đôi giày xanh xanh
Chân chú bước nhanh
Bên dòng mương nhỏ.
Gặp bông hoa đỏ
Mèo mải ngắm nhìn
Gặp chú chuồn kim
Chơi trò đuổi bắt
Gặp chim sắt sặt
Gây chuyện cãi nhau
Trèo tít cành cao
Chim vù bay mất...
Chú mèo bực tức
Lao mình đuổi theo
Sẩy chân té nhào
Mực giây bẩn áo...
Mèo ta mếu máo
Chạy vội tới trường
Vừa buổi học tan
Bạn bè rảo bước...
Tất cả cùng thuộc
Bài hát rất hay
Chú mèo mải chơi
Muốn hoà giọng hát
Nhưng chú chỉ biết
Meo mẻo
Mèo meo...
(Nguyễn Trọng Tạo)
Tác giả quan sát chú mèo trắng dạo
chơi và đem trí tưởng tượng phong phú của mình vẽ thêm hoa hòe hoa sói để giúp
vui cho các cháu thiếu nhi.
Chú Mèo Đi Học – dù là sự biểu lộ
một tấm lòng đáng quý đối với tuổi thơ - chỉ là sản phẩm của lý trí, không có một
mảy may cảm xúc của cái tôi riêng tư. Nó cũng “không phải thơ” mà là một thứ
cây dị chủng trong vườn thơ.
Nguyễn
Quang Thiều
Đây là bài Trò Chơi Của Ảo Giác của nhà
thơ Nguyễn Quang Thiều, đương kim Chủ Tịch HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
TRÒ CHƠI CỦA ẢO GIÁC
Không.
Bàn tay chúng ta chuyển động. Không. Cái ly chuyển động.
Không.
Rượu chuyển động. Không. Đôi chân chúng ta chuyển động. Không.
Con
tàu chuyển động. Không. Nhà ga chuyển động.
Không.
Thành phố chuyển động. Không. Con cá bơi
Không.
Nước bơi. Không. Dòng sông bơi .Không.
Con
chim bay. Không. Cái cây bay. Không. Bầu trời bay
Không.
Tất cả không.Chỉ cái chết chuyển động
Và
mang theo chúng ta.
(Nguyễn Quang Thiều, thivien.net)
https://www.thivien.net/.../poem-3ysgOJNDdK1omRDpL6_TRQ
Bài này không có cái tôi riêng tư, không có cảm
xúc, không có chất tình, đạo quân chữ nghĩa hoàn toàn do lý trí điều khiển nên
chỉ là một loại cây dị chủng trong vườn thơ
Emily
Dickinson
Đây là một bài thơ trong tập Một Bó Lông Vũ của Emily Dickinson,
một nhà thơ lớn nổi tiếng của nước Mỹ
TO WAIT AN HOUR IS LONG
To wait an Hour — is long —
If Love be just beyond —
To wait Eternity — is short —
If Love reward the end —
(Emily Dickinson)
CHỜ MỘT GIỜ LÀ DÀI
Chờ một giờ là dài
Nếu tình yêu ngoài tầm tay với
chờ suốt kiếp là ngắn
Nếu phần thưởng tình yêu ở cuối đường
Rất tiếc, “bài thơ” của Emily Dickinson - một nhà thơ lớn của
nước Mỹ - lại toàn lý trí, chẳng có chữ "tình" và "chất
thơ".
Nếu nói rõ ngọn ngành thì trong To Wait an Hour is Long tâm của
tác giả chưa đối cảnh, cái tôi riêng tư chưa xuất hiện, “tứ thơ” chỉ ở dạng
“kiến thức”, nên chưa thể gọi là thơ.
Trên đây toàn là những nhà thơ nổi tiếng.
Phạm
Đức Nhì
Riêng kẻ viết bài này, thơ phú chẳng bằng ai,
nên làm thơ cũng có đôi bài đi lạc. Xin gìới thiệu một cây dị chủng trong vườn
thơ:
TẤM BẢN ĐỒ VẼ SAI
(Nên vẽ đúng bản đồ chỉ đường của bài thơ)
Chọn lô đất tốt xây được ngôi nhà mới
ông mở tiệc mừng tân gia
“Đến chơi! Hay lắm!”
thư ông viết
mời bằng hữu gần xa
Ngay giữa trang thư một bản đồ
dọc ngang tự tay ông vẽ
và lời chỉ dẫn cặn kẽ
đường đi nước bước đến cuộc vui
Giờ hẹn đến rồi
chưa thấy bóng khách mời nào xuất hiện
đồ ăn nguội lạnh
bàn tiệc vẫn vắng tanh
Vài ngày sau
ông nhận được mấy thư trả lời
trong thư chỉ vỏn vẹn:
“Xin lỗi!
Không tìm thấy nhà.”
(Phạm Đức Nhì)
Giải Thích Tứ Thơ
Bài thơ là tấm bản đồ bằng chữ chỉ đường, từng
bước, từng bước dẫn người đọc đến cánh cửa trái tim đang mở rộng của tác giả.
Những lời chỉ dẫn này phải rõ ràng, dễ hiểu, vì nếu rắc rối hoặc mơ hồ, dễ gây
hiểu lầm, sẽ khiến người đọc đi lạc đường và sẽ không “bắt” được tứ thơ.
Nếu thi sĩ không nắm vững kỹ thuật thơ ca, không có ý tứ mới lạ, hoặc lúc không
có hứng cũng cố gượng gạo mà viết, thì sẽ được một bài thơ… dở, không có hồn.
Nhưng nếu chức năng truyền thông của bài thơ thất bại thì tất cả câu chữ, hình
ảnh, âm thanh, biện pháp tu từ … đều đổ xuống sông, xuống biển hết.
Bài thơ sẽ trở thành một câu đố bí hiểm mà chỉ
chính người tạo ra nó mới có câu trả lời. Ai xui xẻo đọc phải bài thơ này thì
cứ như đi vào rừng rậm trong đêm tối, chẳng biết mình đang ở chỗ nào và sẽ đi
về đâu.
Quý vị thấy đấy. Tác giả (Phạm Đức Nhì) chỉ là người đứng ngoài
cảnh thơ kể chuyện. Không có cái tôi riêng tư, không cảm xúc, không phải là thơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét