Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2022

THI PHÁP THỰC DỤNG

 



 

THI PHÁP THỰC DỤNG

 

Lời Nói Đầu

 

Bài “Phỏng Vấn Nhà Thơ Phạm Đức Nhì Về Bình Thơ” của Nguyễn Hoàng Nam phổ biến được ít lâu tôi nhận đựợc thắc mắc của một số bạn đọc, đại ý:

 

1/ Bình thơ có bàn thi pháp sẽ bàn đến những “điểm” nào của bài thơ?

Và:

2/ Những điểm đó ảnh hưởng ra sao đến sự HAY, DỞ của bài thơ?

 

Hai Cách Làm Thơ Và Hai Hướng Đi Của Thơ

 

1/ Phe Kiếm Tông: Chú trọng “chiêu thức”.

 

Thi sĩ thường làm thơ ngắn (4 câu), thơ đường luật hoặc chọn thể thơ Trường Thiên phân mảnh đứt đoạn - nhiều đọan, mỗi đoạn 4 câu – (Thơ Haiku cũng thuộc loại này).

 

Vì không có dòng chảy, cảm xúc hố nào nằm im ở hố đó không lưu chuyển nên không có “sóng sau dồn sóng trước”, không có cao trào, không có hồn thơ.

 

Để chinh phục độc giả thi sĩ chỉ trông nhờ vào ý tứ, câu chữ, ngôn ngữ hình tượng, các thủ pháp kỹ thuật, các biện pháp tu từ, nói chung là cái đẹp văn chương.

 

2/ Phe Khí Tông: Chú trọng nội công, cảm xúc.

 

Thi sĩ cũng sử dụng chiêu thức nhưng chú trọng nội công.

Nói theo ngôn ngữ văn chương thì đây là loại thơ chú trọng Cảm Xúc – chinh phục độc giả không phải bằng thứ cảm xúc bình thường nằm trong ý nghĩa của câu chữ, thế trận của bài tthơ mà là “luồng hơi nóng nằm giữa hai hàng kẻ” – nghĩa là nằm ngoài câu chữ.

 

Đó là thứ cảm xúc cao cấp, cho độc giả cái cảm giác đã nhất, sướng nhất - người ta gọi là hồn thơ. Hồn thơ chỉ có thể xuất hiện khi lý trí vắng mặt, chữ Xạo trong lời thơ, ý thơ trốn mất. Thi sĩ và độc giả - qua bài thơ – trò chuyện với nhau bằng Tiếng Người Chân Thật.

 

Như vậy, nếu có tầm nhìn xa hơn, thi sĩ sẽ chọn hướng đi của phe Khí Tông. Nếu thi pháp thích hợp, tâm thế lại đang trong cơn cao hứng đến mức nổi điên, ngài sẽ có cơ hội cùng bài thơ của mình bước vào Bến Bờ Thi Ca.

 

Mà dù chưa thể đến đích, bài thơ viết theo hướng này rất dễ tạo được cảm xúc tầng 3, được đánh giá cao hơn những bài thơ làng nhàng của phe Kiếm Tông.

 

TÓM TẮT NHỮNG ĐIỂM CHÍNH CỦA THI PHÁP

 

1/ Nhất Khí Liền Mạch hay Phân Mảnh Đứt Đoạn?

 

Điều này cho biết tứ thơ (các mảnh tâm trạng của thi sĩ) có chảy thành dòng hay không.

 

2/ Vần:

Vần tạo nên Âm Điệu của bài thơ

 

a/ Vừa đủ vần: Sẽ giúp bài thơ có chất keo kết dính các câu thơ, tạo âm điệu mềm mại, ngọt ngào, dễ chịu.

Nhưng vần là con dao 2 lưỡi:

 

b/ Quá nhiều vần: Sẽ có hội chứng nhàm chán vần, đọc một đoạn hơi dài nghe rất ngán.

 

c/ Không vần hoặc quá ít vần: Âm điệu sẽ rời rạc, khô cứng như văn xuôi.

 

3/ Dòng Âm Điệu:

 

Âm điệu của bài thơ có thành dòng chảy hay không? Dòng chảy mạnh hay yếu?

Đây thường là khởi điểm của Cảm Xúc Tầng 3

 

4/ Nhịp Điệu:

 

Số chữ trong câu cố định hay thay đổi? Biên độ thay đổi rộng hay hẹp?

Số chữ trong câu sẽ cho biết nhịp điệu của bài thơ đều đều tẻ nhạt hay mềm mại, uyển chuyển, lúc khoan lúc nhặt?

 

Nhìn cách gieo vần và số chữ trong câu (tạo nhịp điệu) có thể biết phần nào Phong Thái Của Thi Sĩ - bó tay, cúi đầu tuân thủ luật tắc hay ung dung, thoải mái phóng khoáng?

 

5/ Ngôn Ngữ Hình Tượng:

 

Có tạo thành mô gò cản đường?

Những mảnh tâm sự, những câu thơ có dễ cảm, dễ tiêu không? Ở đây tôi không dùng nhóm chữ “dễ hiểu” vì “hiểu” phải cần đến lý trí.

 

6/ Có Vờn Bóng Giữa Sân?

 

Nếu tứ thơ cứ lòng vòng, không đi thẳng tới “điểm đến”, gây cảm giác buồn chán.

 

7/ Ba Loại Tâm Thế:

 

Thi sĩ làm thơ trong tâm thế nào?

 

a/ Nói lý lẽ (reason with them)

 

b/ Chia sẻ cảm xúc (share feelings with them)

 

c/ Mở lòng cho tâm sự tuôn ra (take it off your chest).

 

Biết tâm thế của thi sĩ sẽ dễ “bắt” được cảm xúc tầng 3

 

8/ Dòng Cảm Xúc:

 

Bài thơ có đủ dài để “sóng sau dồn sóng trước”? Mạnh yếu? Dòng Cảm Xúc có nhập chung với Dòng Tứ Thơ, Dòng Âm Điệu không? Có cảm xúc tầng 3? Có cao trào? Có hồn thơ?

 

 

NHẬN XÉT VỀ THI PHÁP CỦA MỘT SỐ BÀI THƠ

 

 

BẢN TÌNH CA HAI CON SUỐI NHỎ

 

Gởi đến các bạn một bài thơ tình. Chữ Love (tình yêu, tình thương) ở đây xin được hiểu với nghĩa rộng nhất của nó.

 

Xin tặng bài thơ cho những người phụ nữ đã cùng tôi hát chung một bản tình ca lúc còn son trẻ.

 

Bài thơ cũng xin được tặng cho những người bạn mà trái tim đã hóa thân thành con suối nhỏ để cùng với con suối của lòng tôi hợp lại thành Dòng Sông Yêu Thương.

 

Lắm lúc muốn làm thơ

về mối tình hai đứa

(mối tình nào chẳng nên thơ em nhỉ?)

nhưng sao anh vẫn cứ ngại ngùng

 

Có một khúc sông

nơi gặp nhau của hai con suối nhỏ

có người nghe được trong làn nước tưởng như im lìm đó

tiếng đôi ta to nhỏ tự tình

 

Em ơi! Làn nước trong xanh

từ hai con suối chúng mình đổ lại

sẽ trăm năm chảy mãi

góp cho đời muôn khúc nhạc du dương

Ôi tuyệt vời những tiếng nhạc yêu thương

 

NHẬN XÉT THI PHÁP

 

1/ Khí Công:

 

Nhất khí liền mạch - tứ thơ chảy thành dòng

 

2/ Vần:

 

Vừa ngọt, âm điệu du dương.

 

3/ Dòng Âm Điệu:

 

Chảy lững lờ, không mạnh

 

4/ Nhịp Điệu:

 

 

Số chữ trong câu thay đổi. Nhịp điệu lúc khoan lúc nhặt, mềm mại uyển chuyển.

 

5/ Ngôn Ngữ, Hình Tượng:

 

Tương đối dễ cảm, dễ tiêu. Không có mô gò cản đường.

 

6/ Vờn Bóng Giữa Sân

 

Không vờn bóng giữa sân. Đi thẳng tới điểm đến của tứ thơ.

 

7/ Tâm Thế

 

Mở lòng tâm sự (Share feelings with them)

 

8/ Dòng Cảm Xúc:

 

Có dòng cảm xúc nhưng chưa có sóng sau dồn sóng trước. Cảm xúc tầng 3 không đáng kể. Chưa có hồn thơ.

 

 

MẮNG CON

 

Mày láo, dám khuyên bố

Mai không đi biểu tình.

Chuyện ấy có nhà nước,

Không liên quan đến mình.

 

Mày nói y như đảng.

Không liên quan thế nào?

Nước là của tất cả,

Của mày và của tao.

 

Mày bảo có nhà nước.

Nhà nước hèn thì sao?

Mà ai cho nhà nước

Quyết việc này thay tao?

 

Chính vì khôn, “biết sống”

Tức ngậm miệng, giả ngây,

Mà thế hệ của bố

Để đất nước thế này.

 

Ừ, bố già, lẩn thẩn,

Nhưng vẫn còn là người.

Mà người thì biết nhục,

Biết xấu hổ với đời.

 

Mai biểu tình, thế đấy.

Bố không bắt con đi,

Nhưng cũng đừng cản bố.

Cản cũng chẳng ích gì.

 

(Thái Bá Tân)

 

NHẬN XÉT THI PHÁP

 

1/ Nhất Khí Liền Mạch:

 

Tứ thơ có dòng chảy. Đó là dòng chảy của mạch lý luận.

 

2/ Vần:

 

Bài thơ có 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Cứ hết đoạn lại chuyển vận. Vần gián cách (2/4) ngoại trừ đoạn 3 (1/3, 2/4). Vừa ngọt, không có hội chứng nhàm chán vần.

 

3/ Âm Điệu:

 

Âm điệu đứt đoạn cứ sau mỗi 4 câu. Không có dòng âm điệu.

 

4/ Nhịp Điệu:

 

Mỗi câu 5 chữ cố định. Nhịp điệu đều đều, tẻ nhạt.

 

5/ Ngôn Ngữ Hình Tượng:

 

Ngôn ngữ “kiểu” thầy giáo. Không có mô gò cản đường. Dễ hiểu nhưng chưa dễ cảm, dễ tiêu.

 

6/ Vờn Bóng Giữa Sân:

 

Không vờn bóng giữa sân, nhắm thẳng điểm đến của tứ thơ mà tiến tới.

 

7/ Tâm Thế:

 

Nói lý lẽ (Reason with them)

 

8/ Dòng Cảm Xúc:

 

Chữ Lý choán hết chỗ. Thiếu chữ Tình của cảm xúc tầng 3.

 

 

KẾT LUẬN

 

Đọc một bài thơ là tìm lời giải đáp của 2 câu hỏi:

 

1/ Viết cái gì? (What?)

2/ Viết thế nào? (How?)

 

Bài viết này sẽ giúp người thưởng thức thơ hoặc người bình thơ thấy được một số điểm chính để trả lời câu hỏi 2 (viết thế nào?) nghĩa là đánh giá kỹ thuật thơ – và cũng có thể nói đó là thi pháp, là tài thơ - của thi sĩ.

 

Nếu chỉ bình tán tứ thơ (what?) mà quên phần thi pháp thì người thưởng thức thơ hoặc người bình thơ đã giết chết “tính thơ”, “chất thơ” của bài thơ.

 

Trước mắt họ chỉ là một “bản văn xuôi” không hơn không kém.

 

Phạm Đức Nhì

 

PHẦN ĐỌC THÊM

 

Mời độc giả đọc bài viết dưới đây để tự cảm nhận sự khác biệt của hai cách làm thơ.

 

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2021/11/ban-thich-tho-ep-hay-tho-co-hon_23.html


THI PHÁP BÀI THƠ “TÔI NGHE” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 


THI PHÁP BÀI THƠ “TÔI NGHE” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

Lời Nói Đầu:

 

Đọc thơ, thưởng thức thơ, bình thơ là tự mình tìm tòi và khám phá phần trả lời của hai câu hỏi:

 

1/ What?

 

Bài thơ viết về cái gì? Ngôn ngữ văn chương gọi là Tứ Thơ; nếu có ẩn dụ toàn bài thì người đọc, người bình phải từ Tứ suy ra Ý.

 

2/ How?

 

Viết thế nào? Đó chính là Phương Cách thi sĩ diễn đạt, chuyển tải Tứ Thơ đến người đọc.

 

Ngôn ngữ văn chương gọi là Kỹ Thuật Thơ; nếu dùng ngôn ngữ chuyên môn hơn một tý thì gọi là Thi Pháp, còn ngôn ngữ đời thường thì có thể gọi là Tài Thơ cuả thi sĩ.

 

Có một vài điều tế nhị nên trong bài viết này tôi chỉ chú trọng đến câu hỏi thứ hai, nghĩa là sẽ nhận xét và phân tích phần Thi Pháp của bài thơ.

 

Xin giới thiệu đến độc giả thi phẩm TÔI NGHE của Đặng Xuân Xuyến.

 


TÔI NGHE

 

Lời Dẫn:

 

Nhân ông Phạm Trọng Đạt, Cục trưởng Cục Chống Tham Nhũng nói với phóng viên báo Dân Trí: cần làm rõ thông tin về những khối tài sản rất lớn của một nữ trưởng phòng thuộc Sở Xây Dựng Thanh Hóa. Và những thông tin trên mạng về những “nghi vấn tiêu cực” ở một số bộ phận quan chức. Đặng Xuân Xuyến cảm tác đôi vần:

 

 

Tôi nghe …

quan đầu tỉnh xứ Thanh (1)

cung phụng bồ nhí siêu xe bạc tỉ

biệt thự rải khắp nơi

chiếm đất vàng phố thị

còn ủ mưu đầu cơ chính trị

bợ gót đưa “nàng” vào cơ cấu

quan thật giầu!

quan tính kế thật sâu!

quan lấy tiền từ đâu?

từ bòn rút dân đen

hay tận vét bằng trò buôn quan bán chức?

 .

Tôi nghe...

quan đầu tỉnh xứ Bái khử nhau (2)

hệt như phim hình sự

vì ân oán tư thù?

vì ăn chia không đủ?

vì lật lọng bảo kê ghế ngồi cơ cấu?

tháng Tám mùa thu

tám phát giang hồ

khô khốc nổ

niềm tin gục đổ

náo loạn lòng người

choáng váng tình đồng chí.

.

Tôi nghe...

quan đầu tỉnh Hà Giang (3)

thiết lập vương triều nhà Triệu

này thì vợ

này em trai

này thêm chồng em gái

mật ngọt ruồi bu

khoanh vùng chia nhau cát cứ.

.

Tôi nghe...

đứa trẻ Gia Lai chết trong tức tưởi (4)

ba năm tới trường bằng mượn áo rách của anh

bà Lò Thị Phanh (5)

bệnh viện trả về

không tiền thuê xe

xác cuốn chiếu

gập ghềnh xe thồ hơn trăm cây số.

.

Tôi nghe...

những mảnh đời khốn khó

những anh Vươn (6) sắp trơ lì hãi sợ

có câu tức nước ắt vỡ bờ

khi niềm tin rạn vỡ.

 

CHÚ THÍCH:

 

(1) Bí thư tỉnh Thanh Hóa: Trịnh Văn Chiến

(2) Đỗ Cường Minh (nghi can và cũng là nạn nhân) bắn chết Phan Duy Cường (Bí thư tỉnh Yên Bái) và Ngô Ngọc Tuấn (Chủ tịch HĐND tỉnh Yên Bái)

(3) Bí thư tỉnh Hà Giang: Triệu Tài Vinh.

(4) Em Ksor Sôn ở xã Ia Der, huyện Ia Grai, Gia Lai.

(5) Chị Lò Thị Phanh ở xã Mường Sại, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.

(6) Anh Đoàn Văn Vươn ở Vinh Quang, Tiên Lãng, Hải Phòng.

*.

Hà Nội, chiều 21 tháng 09-2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

 

 

 

 

 

 

 

NHẬN XÉT THI PHÁP

 

1/ Nhất Khí Liền Mạch hay Phân Mảnh Đứt Đoạn?

Đây là thể thơ nhất khí liền mạch, lấy cảm xúc làm chủ đạo. Bài thơ có khoảng trên dưới 40 câu, 229 chữ đi thẳng một lèo từ câu đẩu đến câu cuối. Có 4 chỗ tạm ngừng để chuyển đoạn, nhưng không phải do luật tắc bó buộc của thể thơ mà ngừng nghỉ để tiếp nhiên liệu, nhận thêm thông tin mới. Tứ thơ vẫn có dòng chảy tương đối rõ ràng.

 

LỜI BÀN:

Hai Cách Làm Thơ Và Hai Hướng Đi Của Thơ

 

1/ Phe Kiếm Tông: Chú trọng “chiêu thức”.

 

Thi sĩ thường làm thơ ngắn (4 câu), thơ Đường Luật hoặc chọn thể thơ Trường Thiên phân mảnh đứt đoạn - nhiều đọan, mỗi đoạn 4 câu – (Thơ Haiku cũng thuộc loại này).

 

Vì không có dòng chảy, cảm xúc hố nào nằm im ở hố đó không lưu chuyển nên không có “sóng sau dồn sóng trước”, không có cao trào, không có hồn thơ.

 

Để chinh phục độc giả thi sĩ chỉ trông nhờ vào độ sâu sắc của ý tứ, câu chữ, ngôn ngữ hình tượng, các thủ pháp kỹ thuật, các biện pháp tu từ, nói chung là cái đẹp văn chương.

 

2/ Phe Khí Tông: Chú trọng nội công, cảm xúc.

 

Thi sĩ cũng sử dụng chiêu thức nhưng chú trọng nội công.

Nói theo ngôn ngữ văn chương thì đây là loại thơ chú trọng Cảm Xúc – chinh phục độc giả không phải bằng thứ cảm xúc bình thường nằm trong ý nghĩa của câu chữ, thế trận của bài tthơ mà là “luồng hơi nóng nằm giữa hai hàng kẻ” – nghĩa là nằm ngoài câu chữ.

 

Đó là thứ cảm xúc cao cấp, cho độc giả cái cảm giác đã nhất, sướng nhất - người ta gọi là hồn thơ. Hồn thơ chỉ có thể xuất hiện khi lý trí vắng mặt, chữ Xạo trong lời thơ, ý thơ trốn mất. Thi sĩ và độc giả - qua bài thơ – trò chuyện với nhau bằng Tiếng Người Chân Thật.

 

Như vậy, nếu có tầm nhìn xa hơn, thi sĩ sẽ chọn hướng đi của phe Khí Tông. Nếu thi pháp thích hợp, tâm thế lại đang trong cơn cao hứng đến mức nổi điên, ngài sẽ có cơ hội cùng bài thơ của mình bước vào Bến Bờ Thi Ca.

 

Mà dù chưa thể đến đích, bài thơ viết theo hướng này rất dễ tạo được cảm xúc tầng 3, được đánh giá cao hơn những bài thơ làng nhàng của phe Kiếm Tông.

 

Chọn hướng đi này Đặng Xuân Xuyến đã có tầm nhìn xa hơn cho bài thơ TÔI NGHE của mình. Với độ dài tạm đủ để có thể có “sóng sau dồn sóng trước”, nếu có thêm vài điều kiện khác nữa, bài thơ có vẻ như đã nhắm đúng hướng Bến Bờ Thi Ca thẳng tiến.

 

2/ Ngôn Ngữ Hình Tượng:

Ngôn ngữ hình tượng của Tôi Nghe tương đối dễ hiểu, dễ bắt. Tuy nhiên, có một mô gò cản đường đáng chú ý. Đó là 3 câu:

Tháng Tám mùa thu

tám phát giang hồ

khô khốc nổ

 

trong đó câu “tám phát giang hồ”, đối với những độc giả chưa am tường sự việc ở “xứ Bái”, không những không “dễ tiêu” mà lại còn “khó bắt” nữa. Chính người viết bài này đọc đi đọc lại cả bài thơ lẫn phần “Lời Dẫn” và “Chú Thích” cũng vẫn ù ù cạc cạc.

Nhắn tin hỏi tác giả thì mới biết “tám phát” là tám phát súng đã bắn chết 2 nhân vật lãnh đạo cao nhất của tỉnh Yên Bái.

 

LỜI BÀN:

 

Thơ lối Kiếm Tông (chú trọng chiêu thức, độ sâu sắc của câu chữ, hình tượng, ý tứ, nét đẹp văn chương) thì càng khó tiêu độc giả càng khoái (miễn đừng “bí hiểm” đến mức chính tác giả cũng ú ớ, không giải thích được).

Đọc thơ Kiếm Tông là phải “ngẫm”. Ngẫm càng lâu thì khi khám phá được, hiểu được ẩn ý, nghĩa bóng của câu chữ hay đoạn thơ thì càng sướng. Những lúc trà dư tửu hậu đem những chỗ ấy ra mà “tán” mà bình, mà “khoe” thì “quá đã”.

 

Thơ theo lối Khí Tông (chú trọng cảm xúc) ngôn ngữ hình tượng cần phải “dễ tiêu” – tôi không dùng nhóm chữ “dễ hiểu” vì “hiểu” phải mời gọi lý trí. Có lý trí thì cảm xúc sẽ “xẹp” như bong bóng xì hơi.

Thơ Khí Tông thì thường Tứ Thơ, Âm Điệu, và Cảm Xúc đều chảy thành dòng. Nếu cả 3 dòng nhập một thì dòng mạnh kéo dòng yếu, dòng yếu nương theo dòng mạnh cùng chảy về cuối bài tức là “điểm đến của tứ thơ”.

Cho nên đọc thơ phe Khí Tông là thả tâm trí mình theo dòng chảy của tứ thơ, dòng âm điệu và thả hồn mình theo dòng cảm xúc (tầng 3) của bài thơ. “Hiểu” và “cảm” phải xảy ra cùng một lúc để “trí” không có cơ hội xía vào, nhường quyền cho “tâm” và “hồn” đạo diễn cuộc chơi. Nói “dễ tiêu” là muốn loại lý trí ra khỏi cuộc chơi để cảm xúc ung dung lớn mạnh. Những chữ, những câu rơi xuống bài thơ vì “buột miệng”, “lỡ lời”, vì “thiếu kiểm soát” thường giúp bài thơ thật hơn, hay hơn và được đánh giá cao hơn.

 

Mô gò cản đường trong Tôi Nghe của Đặng Xuân Xuyến nằm cản dòng chảy của tứ thơ. Vì là bài thơ viết theo lối Khí Tông nó sẽ trì kéo dòng cảm xúc (tầng 3), và dĩ nhiên, làm giảm giá trị nghệ thuật của bài thơ.

 

 

3/ Vần: 

Bài thơ 5 đoạn thì 4 đoạn vần tạm gọi là đủ ngọt. Không hiểu sao ở đoạn 3 (8 câu, 34 chữ) tác giả lại bỏ vần khiến dòng âm điệu hơi bị thiếu “chất keo nối kết”.

 

4/ Dòng Âm Điệu:

Có cả một đoạn thiếu ngọt nên dòng âm điệu không được trơn tru lắm, dòng cảm xúc mất trớn, giảm cường độ một lượng đáng kể.

 

LỜI BÀN:

Giá có thêm một (hoặc 2) cặp vần nữa ở đoạn 3 thì vừa đẹp.

 

5/ Nhịp Điệu:

Số chữ trong câu thay đổi tùy tiện, thoải mái với biên độ rộng nên nhịp điệu uyển chuyển, lúc khoan, lúc nhặt, không đều đều tẻ nhạt. Với cách chơi câu chữ kiểu này, dú vần có quá ngọt một tý cũng được hóa giải một cách dễ dàng.

 

LỜI BÀN:

Giữ được lối phân bổ số chữ một cách tự do tùy tiện như trong TÔI NGHE, hội chứng nhàm chán vần sẽ không còn là một vấn nạn đối với Đặng Xuân Xuyến trong những bài thơ sau này.

Đây là thế mạnh của anh mà nhiều thi sĩ khác có muốn cũng không thể một sớm một chiều mà luyện được.

 

 

6/ Vờn Bóng Giữa Sân:

Một ưu điểm nữa của Tôi Nghe là không có hiện tượng vờn bóng giữa sân. Cảm xúc thôi thúc các con chữ chạy liên tục từ câu đầu đến câu cuối.

 

7/ Tâm Thế:

Bài thơ được kết hợp bởi 2 loại tâm thế: a/ Chia sẻ tâm tình với độc giả (Share feelings with them) và b/ Mở valve tim cho cảm xúc tuôn trào (Take it off your chest) trong đó tâm thế loại b rất dễ tạo cảm xúc tầng 3 hoặc hồn thơ.

 

LỜI BÀN:

Bước vào cảnh thơ của TÔI NGHE Đặng Xuân Xuyến đã có một lợi thế đáng kể: Do làm thơ với tâm thế bất bình, bực bội cao độ nên cảm xúc mạnh, người đang cơn cao hứng. Dòng chảy của tứ thơ và dòng âm điệu vừa lên đường thì cảm xúc đang bị dồn nén cũng tuôn ra chảy thành dòng bám theo.

Ba dòng nhập một cùng tiến về phía trước như hứa hẹn sẽ tạo dựng một cao trào bề thế ở cuối bài.

 

Nhưng rồi dòng chảy của tứ thơ chậm lại vì gặp mô gò cản đường của 3 câu thơ:

Tháng Tám mùa thu

tám phát giang hồ

khô khốc nổ

 

Còn dòng âm điệu thì vì đoạn 3 thiếu “chất keo nối kết” nên cũng không thể tăng tốc để cùng “vai sát vai” với dòng cảm xúc.

Kết quả là dòng cảm xúc bị lực cản trì kéo; bài thơ có cảm xúc tầng 3 khá mạnh nhưng đoạn kết:

Tôi nghe...

những mảnh đời khốn khó

những anh Vươn (6) sắp trơ lì hãi sợ

có câu tức nước ắt vỡ bờ

khi niềm tin rạn vỡ.

 

chỉ là thêm một chút thông tin mới chứ không phải cao trào.

 

Nếu đoạn cuối thoát khỏi vòng kiềm tỏa của hai chữ “Tôi nghe” – nghĩa là tác giả không nhận thêm thông tin nữa mà tổng hợp những thông tin sẵn có từ những đoạn trước để đưa ra “một cái gì đó của cái tôi riêng tư” thì có thể sẽ có cao trào, và dĩ nhiên, sức thuyết phục sẽ mạnh hơn.

 

Thật đáng tiếc.

 

Ưu Khuyết Điểm

 

 

Về mặt thi pháp bài thơ TÔI NGHE có nhiều ưu điểm – mà toàn là những ưu điểm Căn Bản Cần Thiết để có thể đưa bài thơ tới bến. Bài thơ cũng có 3 khuyết điểm nhỏ (sửa chữa rất dễ dàng):

 

1/ Ba câu thơ khó bắt: Chỉ cần thêm chữ “SÚNG” là êm đẹp.

Tháng Tám mùa thu

tám phát SÚNG giang hồ

khô khốc nổ

 

2/ Thiếu vần ở đoạn 3: Thêm 1 hoặc 2 cặp vần là đủ ngọt.

 

3/ Đoạn kết bị 2 chữ “Tôi nghe” bó buộc: Bỏ “Tôi nghe” và dùng “chất liệu” sẵn có “đưa tâm tình của cái tôi riêng tư” vào viết lại đoạn kết.

 

Kết Luận

 

Bài thơ TÔI NGHE của Đặng Xuân Xuyến có thi pháp thành công ở mức độ khá cao. Nhờ thủ đắc một số “thói quen tốt” khi làm thơ nên nếu tự điều chỉnh, sửa chữa để hoàn thiện thi pháp anh sẽ có cơ hội tiến xa với những bài thơ sau này của mình.