CŨNG
CHỈ LÀ LỜI ĐỒN
(Trao đổi với Lưu Na về bài thơ Sông
Lấp)
Khi bài viết Sông Lấp - Một Bài Thơ Toàn Bích phóng đi được ít hôm tôi
nhận được vài emails – khen có, và chê cũng có. Tôi đã trả lời độc giả bằng thư
riêng. Người khen thì dĩ nhiên không có ý kiến gì thêm, còn người chê có hài lòng
với câu trả lời của tôi hay không, thú thật là tôi không biết. Đặc biệt có một
nữ độc giả, Lưu Na trẻ hơn tôi mấy tuổi, là một cây viết kỳ cựu (ít nhất cũng hơn
tôi) trên trang web văn học TVấn & Bạn Hữu, đã có hẳn một bài viết (ngắn)
trên trang web ấy liên quan đế bài Sông Lấp - Một Bài Thơ Toàn Bích của tôi.
Sau đây là nguyên văn bài viết:
Lưu Na : Đồn
Đại khái là Tú Xương có giao tình với
Phan Bội Châu lúc đó đang trong phong trào chống Pháp. Chỗ bến đò mà Tú
Xương cảm hoài chính là chỗ ban đêm nghĩa quân lén qua sông nên giả tiếng ếch
kêu để làm hiệu. Khi đã xảy đàn tan nghé, ông tú Vị Xuyên mới đêm nằm nghe
ếch bên tai mà nhớ lúc xưa, và giật mình còn ngỡ (tưởng) tiếng
ai gọi đò.
Không biết điều ấy thật bao nhiêu vì Tú
Xương không bao giờ nói cho chúng ta biết, nhưng cái lời đồn đó làm cho bài thơ
càng thêm nỗi ngậm ngùi, vì tang thương của đất trời chồng lên thêm với cái dâu
bể của thời cuộc. Cái buồn trong hơi thơ của Tú Xương càng sâu lắng.
Cũng trong cái khoảng thời gian chống Pháp ấy thì nghĩa quân phải sinh hoạt như một hội kín, lúc hội họp gặp nhau hân hoan tình đồng chí đệ huynh, mà ra khỏi chốn bí mật ấy thì buồn bã phải coi nhau như người dưng nước lã, nên thành câu sao đang vui vẻ ra buồn bã _ vừa mới quen thân đã lạ lùng.
Cũng trong cái khoảng thời gian chống Pháp ấy thì nghĩa quân phải sinh hoạt như một hội kín, lúc hội họp gặp nhau hân hoan tình đồng chí đệ huynh, mà ra khỏi chốn bí mật ấy thì buồn bã phải coi nhau như người dưng nước lã, nên thành câu sao đang vui vẻ ra buồn bã _ vừa mới quen thân đã lạ lùng.
Đó là bài thơ Nhớ Bạn Phương Trời của Trần
Tế Xương:
Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa có nhớ ta không
Sao đang vui vẻ ra buồn bã
Vừa mới quen thân đã lạ lùng
Khi thấy thấy gì trong mộng tưởng
Nỗi riêng riêng đến cả tình chung
Tương tư lọ phải là trai gái
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
Bài thơ được cho là lời nhắn gửi âm thầm
đến Phan Bội Châu, một tâm tình nhớ bạn _ ta nhớ người xa cách núi sông,
người xa, xa có nhớ ta không. Những câu sau nói lên hoàn cảnh tâm tình của
lớp người chống Pháp. Sinh hoạt trốn lánh kiểu hội kín (mượn chữ của Tạ
Chí Đại Trường), nỗi niềm riêng phải sống để dạ chết mang theo chứ không thể thổ
lộ ngay cả với người đồng tịch đồng sàng _ nỗi riêng riêng đến cả tình
chung.
Trong đêm vắng nỗi buồn thật mênh mang _
một ngọn đèn một tiếng trống, lại nhuốm chút đắng cay chua chát, đó chính một
trademark trong hơi thơ của Tú Xương, trong những lời kiêu bạc mà chứa đầy nỗi
cô đơn:
Tương tư lọ phải là trai gái
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
Nói cho ngay tình, cả cái tựa của bài
bài thơ nhớ bạn tôi cũng không dám chắc là đúng, và những gì đọc được cũng chỉ
là đồn đoán (bàn đề!!!!) khi còn đang học trung học, nhưng lúc đó đọc được 2
câu đầu thôi mà nỗi buồn man mác không nói ra lời vương mãi vào lòng.
Phải chăng lời đồn cũng có lời thi vị
làm mình muốn nhớ hoài?
Lưu Na
01/09/2014
nguồn: t-van.net
Và đây là bài viết trả
lời của Phạm Đức Nhì:
CŨNG CHỈ
LÀ LỜI ĐỒN
“Mẩu viết ngắn” với cái tựa chỉ có một chữ Đồn nhưng
đã thổi một luồng gió mát vào bài viết khá khô khan của tôi. Trong số những phản
hồi về bài viết Sông Lấp -Một Bài Thơ Toàn Bích, tôi thích nhất là “mẩu viết ngắn”
ấy. Nó đã cho người đọc một góc nhìn mới về bài thơ Sông Lấp và đưa dẫn tứ, ý của
bài thơ về một chân trời mới. Theo Lưu Na, tác giả của “luồng gió mát”, thì có
lời đồn như sau:
Đại khái là Tú Xương có giao tình với Phan Bội Châu lúc đó đang
trong phong trào chống Pháp. Chỗ bến đò mà Tú Xương cảm hoài chính là chỗ
ban đêm nghĩa quân lén qua sông nên giả tiếng ếch kêu để làm hiệu. Khi đã
xảy đàn tan nghé, ông Tú Vị Xuyên mới đêm nằm nghe tiếng ếch bên tai mà nhớ lúc
xưa, và giật mình còn ngỡ (tưởng)
tiếng ai gọi đò…
Lời đồn ấy có thể tin được lắm chứ! Phan Bội Châu sinh năm 1867, lớn hơn
Tú Xương 3 tuổi, đỗ Giải Nguyên năm 1900.
Trong vòng 5 năm sau khi đỗ Giải nguyên, Phan Bội Châu
bôn ba khắp nước Việt
Nam kết giao với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh,Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện, Lê Huân, Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê
Đại,...(1)
Tuy Tú Xương không nằm trong danh sách những nhà yêu
nước - cùng với Phan Bội Châu - có những hoạt động tích cực chống Pháp, nhưng với
văn tài, với những bài thơ thấm đẫm lòng yêu nước của ông, việc Phan Bội Châu có
giao tình với ông là việc có thể xảy ra lắm. Thêm vào đó lại còn bài thơ Nhớ Bạn
Phương Trời (2)
Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa, xa lắm, nhớ ta không?
Sao đang vui vẻ ra buồn bã?
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng
Lúc nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng
Nỗi riêng riêng cả đến tình chung
Tương tư lọ phải là trai gái
Một ngọn đèn khuya trống điểm thùng
thì tra cứu trong tập Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Thơ
Trữ Tình, tôi thấy ở phần chú thích đã được ghi rõ ràng là: “Bài này tác giả
viết tặng Phan Bội Châu”. Như vậy, phần đầu của lời đồn về mối giao tình đã
trở thành sự thật. Riêng phần còn lại của lời đồn:
Chỗ bến đò mà Tú Xương cảm hoài chính là chỗ ban đêm nghĩa quân
lén qua sông nên giả tiếng ếch kêu để làm hiệu. Khi đã xảy đàn tan nghé,
ông Tú Vị Xuyên mới đêm nằm nghe tiếng ếch bên tai mà nhớ lúc xưa, và giật mình còn ngỡ (tưởng) tiếng ai gọi
đò…
thì chưa thể kiểm chứng được.
Thôi thì cứ cho toàn bộ lời đồn ấy là thật
và xem lại bài Sông Lấp của Tú Xương:
Sông
xưa rày đã nên đồng
Chỗ
làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Vẳng
nghe tiếng ếch bên tai
Giật
mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
trong đó tiếng ai gọi đò (chữ nghiêng) ám chỉ tiếng ếch kêu làm hiệu của
nghĩa quân để gọi đò qua sông. Bốn chữ tiếng
ai gọi đò được viết nghiêng là để phân biệt với tiếng gọi đò bình thường của
khách trong cuộc sống hàng ngày ở bến đò. Để người đọc có thể hiểu được cái ẩn
ý ấy người làm thơ phải có một đoạn chú thích.
Nhưng
có những bài thơ sử dụng phép ẩn dụ mà lại ở vào thế “tấn thối lưỡng nan”, nghĩa
là có hai đặc tính mâu thuẫn: bất khả chú thích và bất khả liên tưởng. Tác giả không thể chú thích rõ ràng để người
đọc dễ hiểu, thường là vì ba lý do:
1/ An ninh: có thể bị tù tội, có
khi mất đầu.
2/ Tế nhị: không muốn công khai xúc
phạm đối tượng của phép ẩn dụ; như thế sỗ sàng quá.
3/ Kỹ thuật thơ: chú thích sẽ “bật
mí” ẩn ý, sẽ giết chết phép ẩn dụ.
Còn
người đọc thì không thể dùng khả năng liên tưởng để hiểu ý được vì khoảng cách
giữa tứ và ý quá xa, không thể bắc cầu.
Bài thơ Sông Lấp (nếu
chấp nhận toàn bộ lời đồn là thật) ở vào trường hợp này.
Nhà thơ ở vào thế “bị triệt buộc”: bất khả chú thích
, bất khả liên tưởng. Nếu chú thích sẽ vô hiệu hóa phép ẩn dụ; nếu không chú
thích thì người đọc sẽ không thể lần ra ẩn ý của mình. Trường hợp chấp nhận hy
sinh phép ẩn dụ để đi về hướng lời đồn, đưa đoạn chú thích vào bài bình thơ
thì, bài thơ, dù vẫn còn nguyên 4 câu, 28 chữ (không thay đổi chữ nào) nhưng cấu
tứ đã trở nên rời rạc, lỏng lẻo.
Hồn
cốt của bài thơ hoàn toàn nằm trong tiếng ếch và tiếng gọi đò. Con sông còn đấy
hay đã bị lấp cũng không quan trọng. Giả sử gia đình ông Tú dời nhà xa hẳn con
sông Vị Hoàng. Cơn mưa đêm vừa tạnh; tiếng ếch kêu từ ruộng mạ nhà ai vọng lại;
ông giật thót mình rồi cao hứng viết bài thơ. Lúc ấy chỉ tiếng ếch kêu cũng đủ
gợi nhớ đến tiếng gọi đò của nghĩa quân. Hai câu đầu và cả cái tựa Sông Lấp của
bài thơ cũng có thể vứt đi để thay bằng hai câu khác, cái tựa khác, mà vẫn
không ảnh hưởng gì đến tứ thơ.
Mất đi phép ẩn dụ tài tình, mất đi tính
chất đắc địa của câu chữ, Sông Lấp, với cách hiểu ấy, đã mất hẳn bản sắc của
nó, chắc không thể có chỗ đứng trang trọng trong lòng người yêu thơ như ngày
hôm nay.
Để viết những bài bình thơ tác giả thường
dựa vào văn bản, lịch sử, văn học sử, sự hiểu biết về thơ, kinh nghiệm làm thơ
và một chút trực giác trong việc cảm nhận thơ ca của mình. Những giai thoại, những
lời đồn trong làng thơ, theo tôi, chỉ nên được xem như những chiếc lá, những
bông hoa trang điểm chứ không nên đưa vào làm thân, làm gốc cho một bài bình
thơ.
Nhưng dù sao đi nữa cũng xin thành thật
cám ơn Lưu Na. “Mẩu viết ngắn” của Lưu Na đã làm bài viết của tôi tươi mát hơn.
Tôi đã có dịp nhìn lại bài thơ Sông Lấp một lần nữa, kỹ càng hơn, cẩn trọng hơn.
Và đã nhận ra rằng: “Lời đồn, dù có căn cứ, dù đầy tính thuyết phục, cũng chỉ
là …lời đồn.”
Chú thích:
- Wikipedia.org
- Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Thơ Trữ Tình, NXB Giáo Dục, 2004 (tr.914)