Thứ Tư, 23 tháng 12, 2020

THUYỀN VÀ BIỂN: NGỌT BÙI CAY ĐẮNG CỦA TÌNH YÊU

Ngoài 2 câu mào đầu giới thiệu:

 

Em sẽ kể anh nghe

Chuyện con thuyền và biển:

 

Thuyền Và Biển được viết theo thể thơ ngũ ngôn trường thiên, 7 đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Ở đây tác giả sử dụng phép ẩn dụ toàn bài.

 

Tứ: Câu chuyện thuyền và biển.

 

Ý: Chuyện tình của chính tác giả. Tác giả là biển, người yêu của chị là thuyền.

 

Theo tình tiết của tứ thơ, bài thơ được chia làm 4 phần:

 

1/ Tình Yêu Mới Chớm

 

Từ ngày nào chẳng biết

Thuyền nghe lời biển khơi

Cánh hải âu, sóng biếc

Đưa thuyền đi muôn nơi

 

Lòng thuyền nhiều khát vọng

Và tình biển bao la

Thuyền đi hoài không mỏi

Biển vẫn xa… còn xa

 

Đoạn đầu của bài thơ kể lại lúc tình yêu mới chớm. Chàng để ý đến nàng, cố công theo đuổi; còn nàng trong lòng không biết thế nào chứ ngoài mặt thì cứ “tảng lờ như không”. Tôi chợt nghĩ đến tâm tình của một nữ sinh Đồng Khánh (Huế) trong một đoạn trả lời bài thơ Qua Mấy Ngõ Hoa của Mường Mán (1):

 

Răng mà cứ theo tui hoài rứa?

Cái ôn ni mới dị chưa tề!

Sớm chiều trưa ba buổi đi về

Đưa với đón làm chi không biết!

 

mà cái thời còn là anh lính trẻ thường tới lui với Huế – vì công vụ cũng như vui chơi – tôi được  một nữ sinh Đồng Khánh chép tặng và đã thuộc lòng vì rất thích. Nhưng nếu để ý so sánh thì tuy cùng một chiến thuật tán gái – bám sát đối tượng – cách diễn tả của Xuân Quỳnh sang hơn, bay bướm hơn nhiều.

 

Còn khi cô nữ sinh Đồng Khánh đã xuôi lòng, giả vờ xuống giọng năn nỉ:

 

Tội tui lắm cách cho vài thước

đừng đi gần hai bước song đôi

xa xa cho kẻo bạn tui cười

mai vô lớp cả trường dị nghị.

 

thì ở đoạn thứ hai khi biết chàng trai đã có ý chinh phục trái tim mình:

 

“Lòng thuyền nhiều khát vọng”

 

thì tình cảm của tác giả Thuyền Và Biển đã được kín đáo bày tỏ:

 

“Và tình biển bao la”

 

nhưng vì là phụ nữ nên nàng vẫn “ý tứ” giữ một khoảng cách khá … xa:

 

“Thuyền đi hoài không mỏi

Biển vẫn xa … còn xa”

 

Ẩn dụ thật tuyệt vời.

 

Mấy thế kỷ trước Lê Quý Đôn đã viết về thi pháp như sau: “Lời kỵ thẳng, mạch kỵ lộ, ý kỵ nông, thi vị kỵ ngắn”. (2)  Trong 2 đoạn thơ này Xuân Quỳnh hoàn toàn tránh được những điều “kỵ” mà nhà thơ họ Lê nhắc nhở người đời. Lời của chị rất bóng gió, mạch thơ kín đáo. ý thơ sâu sắc và đặc biệt thi vị cứ vương vấn mãi nơi tâm hồn người đọc.

 

 2/ Khi Chúng Mình Yêu Nhau

 

Đến đoạn 3 thì tình yêu đã bến rễ, nàng đã “mở cửa trái tim” chấp nhận tình yêu của chàng và đã biểu lộ bằng hành động cụ thể:

 

Những đêm trăng hiền từ

Biển như cô gái nhỏ

Thầm thì gửi tâm tư

Quanh mạn thuyền sóng vỗ

 

Cũng có khi vô cớ

Biển ào ạt xô thuyền

(Vì tình yêu muôn thuở

Có bao giờ đứng yên?)

 

Qua 2 đoạn thơ ở phần này tác giả đã tiết lộ một chút bí mật về vai trò của phụ nữ trong hôn nhân. Theo chị thì phụ nữ là sứ giả của tình yêu, của hòa bình, vào “những đêm trăng hiền từ” thường bằng những lời “Thầm thì gởi tâm tư/ Quanh mạn thuyền sóng vỗ” đem đến cho bạn tình cái cảm giác ấm áp, an lành, hạnh phúc của kẻ đang yêu và được yêu. Nhưng chính phụ nữ cũng là những bà “thần chiến tranh”, châm ngòi cho những cuộc “xô bát, chạm đĩa” trong gia đình mà chẳng cần có một duyên cớ gì chính đáng:

 

Cũng có khi vô cớ

Biển ào ạt xô thuyền

 

rồi đổ thừa là:

 

(Vì tình yêu muôn thuở

Có bao giờ đứng yên!)

 

Ôi! Nữ sĩ Xuân Quỳnh ơi, phụ nữ như chị thật ngàn lần đáng yêu và cũng vạn lần đáng … sợ.

 

3/ Tình Sâu Nghĩa Nặng

 

Chỉ có thuyền mới hiểu

Biển mênh mông nhường nào

Chỉ có biển mới biết

Thuyền đi đâu, về đâu

 

Thân thể em, với anh, như tấm bản đồ mở rộng, anh đã rành rẽ đường đi nước bước; tâm hồn em, những nghĩ suy toan tính đời thường, cả những ước mơ sâu kín, em cũng chia sẻ với anh. Còn lộ trình của anh trong đời: điểm dừng, điểm đến, khi đi, lúc về anh cũng ghi hết cho em.

 

Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu thương nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau – rạn vỡ

 

Những ngày vắng anh em nhớ thương quay quắt; những ngày không gặp mặt nhau anh như phát ốm, phát đau. Ý chỉ bình thường như thế nhưng không biết tác giả chọn được điểm đứng đặc biệt như thế nào để khi nhìn biển nổi sóng bạc đầu (trắng xóa) lại có thể tưởng tượng là “Biển bạc đầu thương nhớ” và nhìn con thuyền tạm giã từ biển “lên ụ” để sửa chữa mà có thể nghĩ là “Lòng thuyền đau rạn vỡ” thì quả là thật tài tình. Đây là 2 đoạn thơ đắt giá nhất của bài thơ; tứ thơ rất bóng gió, rất đẹp, rất thơ nhưng lại như lưỡi dao rất sắc len lỏi vào tận đáy tâm hồn.

 

Lao vào cuộc chơi văn chương thi phú tôi đã đọc không biết bao nhiêu là câu thơ, bài thơ diễn tả tình sâu nghĩa nặng của vợ chồng. Đây là đề tài muôn thuở, “cũ xưa như trái đất”. Nhưng chưa có câu thơ, bài thơ nào đặc sắc như 2 đoạn thơ trên. Tôi xin nói rất mạnh miệng mà không sợ lỡ lời: nói đến tình nghĩa vợ chồng, đây là những vần thơ tuyệt bút.

 

Có lẽ vì thế mà nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã chọn 2 đoạn thơ này và đoạn kết để phổ thành bản nhạc Thuyền Và Biển.

 

4/ Nếu Cuộc Tình Chia Xa

 

Nếu từ giã thuyền rồi

Biển chỉ còn sóng gió”

Nếu phải cách xa anh

Em chỉ còn bão tố

 

Khi tình đã sâu, nghĩa đã nặng mà vì lý do này, lý do khác phải chia xa thì cả 2 bên đều đau khổ. Nhưng theo Xuân Quỳnh thì bên phía phụ nữ nỗi khổ đau sâu hơn, lớn hơn gấp bội. Hai câu kết:

 

Nếu phải cách xa anh

Em chỉ còn bão tố

 

chính là nỗi đớn đau đã lên đến tột độ, biểu lộ một tình yêu nồng thắm, mãnh liệt. Tác giả đã bước ra khỏi phép ẩn dụ, bôi hết son phấn trên mặt, cởi bỏ hết lớp vỏ hóa trang, không còn Biển Thuyền bóng gió và đã hét thật to, xưng gọi đúng tên hai kẻ yêu nhau say đắm. Bài thơ kết thúc ở đúng cao trào.


Vài Lỗi Kỹ Thuật

 

1/ Hai câu mào đầu không cần thiết.

 

Theo tôi, 2 câu:

 

Em sẽ kể anh nghe

Chuyện con thuyền và biển

 

có thể bỏ đi mà không ảnh hưởng đến việc tìm hiểu tứ của bài thơ. Bố cục bài thơ sẽ gọn hơn.

 

2/ “Bật mí” phép ẩn dụ

 

Phép ẩn dụ của bài thơ, nếu tinh ý, người đọc có thể nhận ra sau khi đọc 2 đoạn đầu. Còn nếu “chậm tiêu” một tý thì từ từ rồi cũng thấy, cũng hiểu. Thuyền là chàng, biển là nàng, bài thơ là chuyện tình yêu của chàng với nàng, nàng là tác giả, là nhân vật chính trong bài thơ.

 

Trong đoạn thơ:

 

Những đêm trăng hiền từ

Biển như cô gái nhỏ

Thầm thì gởi tâm tư

Bên mạn thuyền sóng vỗ

 

thì biển là cô gái (ẩn dụ) cho nên câu “Biển như cô gái nhỏ” không những đã trở nên thừa, gây cảm giác “không thoải mái” cho người đọc mà lại còn làm lộ phép ẩn dụ nữa. Nếu tác giả chọn được cách nói khác, không nhắc gì đến cô gái mà vẫn diễn tả được cái ý ấy thì hay hơn.

 

Tương tự như vậy, trong đoạn thơ:

 

Cũng có khi vô cớ

Biển ào ạt xô thuyền

(Vì tình yêu muôn thuở

Có bao giờ đứng yên!)

 

Tác giả quên rằng mình đang đóng vai Biển với thân hình và bộ mặt (đã hóa trang) của Biển. Ngôn ngữ rất riêng, rất lạ của Biển và Thuyền đang thu hút sự chú ý của độc giả. Tự nhiên buột miệng nói ra “tiếng người” khiến vai diễn của vở kịch trở thành bất nhất. Hai câu sau nếu tránh được từ “tình yêu” mà vẫn giữ được ý ấy thì quá hay.

 

Xuân Quỳnh sinh năm 1942, viết Thuyền Và Biển năm 1963 khi mới 21 tuổi nhưng cái nhìn của chị về tình yêu, hạnh phúc, khổ đau rất từng trải, chững chạc, chín chắn. Chị yêu hết mình nên rất sợ tình tan vỡ vì lúc ấy khổ đau sẽ vò nát trái tim.

 

Tuy là thể thơ mới trường thiên, mỗi đoạn 4 câu nhưng trong Thuyền Và Biển vẫn có dòng cảm xúc, dòng thơ. Đó chính là dòng thời gian của tiến trình tình yêu phát triển, tuy mong manh và hơi “lung linh sương khói” nhưng cũng đủ sức đưa con thuyền tứ thơ từ điểm khởi đầu khi tình yêu mới chớm đến lúc tình sâu nghĩa nặng và sau cùng là tâm trạng lo âu khi nghĩ đến lúc chia xa.

 

Hơn nữa, 3 đoạn cuối không hoàn toàn tách biệt như những bài thơ trường thiên khác mà có sự kết nối vần rất đặc biệt:

 

Chỉ có thuyền mới hiểu

Biển mênh mông nhường nào

Chỉ có biển mới biết

Thuyền đi đâu, về đâu

 

Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu thương nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau – rạn vỡ

 

Nếu phải cách xa thuyền

Biển chỉ còn sóng gió

Nếu phải cách xa anh

Em chỉ còn bão tố

 

khi đọc lên vẫn có âm điệu gần giống vần liên tiếp của loại thơ "nhất khí liền mạch".

 

Cảm xúc nhẹ nhàng man mác ở khởi đầu; càng về sau càng nồng thắm và đến 2 câu cuối thì đã đến đỉnh điểm, vô cùng mãnh liệt. Cảm xúc lên đến mức tối đa ở đoạn kết, chấm dứt ở đúng cao trào của tứ thơ.

 

Chữ nghĩa sang trọng, chính xác, nhiều chỗ đắc địa nên cảm xúc dạt dào ngay từ tầng một. Thế trận câu chữ chặt chẽ, tâm tình chân thật – chị làm thơ bằng cả tâm hồn – nên cảm xúc ở tầng hai và tầng ba chảy ào xuống trái tim người đọc như thác đổ. Ẩn dụ nhiều đoạn vừa tượng hình vừa đẹp, rất tương hợp, kín kẽ, rất bay bướm và rất sinh động. (Có 2 đoạn bị “bật mí” như đã nói ở trên)

                                                                                                                  

Bài thơ cũng có hơi hám của hội chứng nhàm chán vần nhưng:

 

1/ Trong 7 đoạn thơ gieo vần gián cách tác giả có 4 lần kết thúc đoạn thơ ở vần bằng, 3 lần ở vần trắc; sự chuyển đổi âm điệu đó đã giảm thiểu khá nhiều cái giọng ầu ơ của bài thơ.

 

2/ Nhờ lời đẹp, tứ hay, ẩn dụ tương hợp, kín kẽ, độc giả càng đọc càng hứng thú nên cũng không đến nỗi ngán vì nhiều vần.

 

 

 

Tóm lại, nếu không vướng một chút lỗi kỹ thuật thì bài thơ có thể nói là toàn bích, chỗ đứng của Xuân Quỳnh cũng như Thuyền Và Biển trong lịch sử thi ca còn trang trọng hơn nữa

 

Một Mong Ước Thật Đáng Thương

 

Theo lời kể của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu khi đến thăm Xuân Quỳnh thì:

 

Nhà thơ Xuân Quỳnh rất cảm xúc khi nghe ca khúc “Thuyền Và Biển”. Chị chỉ mong ước giữ nguyên văn câu thơ: “Nếu phải cách xa anh, em chỉ còn bão tố!” Mong các ca sĩ đừng đổi lại: “Nếu phải cách xa em, anh chỉ còn bão tố”. Chị không muốn xóa đi kỷ niệm buồn đau của mình trong cuộc tình đã qua, và theo chị chắc gì nam giới đã có được tình yêu đằm thắm, đắm say và có lúc bão tố như phụ nữ”(3)

 

Tôi rất đồng cảm với Xuân Quỳnh về điều mong ước trên. Có điều theo tôi, tại sao lại để chị phải thốt ra những lời mong ước đó?

 

Các ca sĩ nếu có một chút khả năng “hiểu cảm câu chữ”thì phải biết bản nhạc phổ thơ là tâm trạng của người phụ nữ trong chuyện tình của Thuyền Và Biển, thuyền là nam và biển là nữ. Bản nhạc này để nữ hát là đúng nhất, là hợp tình nhất. Nhưng nếu nam thích thì cũng vẫn có thể hát được, miễn là phải hiểu rằng “giọng nam của mình đang được mượn để chuyển tải tâm tình của một phụ nữ”nghĩa là phải hát đúng nguyên văn:

 

Nếu phải cách xa anh

Em chỉ còn bão tố

 

Chứ nếu đổi lại:

 

Nếu phải cách xa em

Anh chỉ còn bão tố

 

thì sai bét. Anh là thuyền chứ có phải là biển đâu mà bão với tố!

 

Tôi đã vào Youtube nghe vài nam ca sĩ hát Thuyền và Biển. Đáng buồn là nghe 5 ca sĩ hát thì cả 5 đều hát sai.(4)

 

Rất mong các nam ca sĩ xem lại để hát cho đúng. Trước hết, để tỏ lòng tôn trọng Xuân Quỳnh, một nữ sĩ tài danh đã mất, thứ đến để chứng tỏ đẳng cấp nghệ sĩ của mình, có thể hiểu, cảm tâm trạng của tác giả và thả hết tâm hồn vào lời ca, nốt nhạc chứ không phải là người vô trách nhiệm, tự động sửa lời bản nhạc của người ta theo ý mình, chẳng cần biết đúng sai, và cứ thế nhắm mắt hát bừa, hát bậy.

 

Kết Luận  

                   

Bài thơ giờ đã hơn 50 tuổi và Xuân Quỳnh cũng như biển, đã đi xa … rất xa, nhưng những cặp hình ảnh tương xứng của phép ẩn dụ giữa thuyền, biển và đôi lứa yêu nhau, rất đẹp, rất ăn ý vẫn còn sống trong lòng nguời mê thơ, đặc biệt là những người trong tình yêu đã từng được nếm cả vị ngọt bùi lẫn cay đắng.

 

Sẵn sàng đón nhận góp ý, phê bình của bạn đọc.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

Chú Thích:

 

1/ http://music.vietfun.com/tview.php?cat=3&ID=273

 

2/ http://aotrang.vn/f/showthread.php?6092-Th%E1%BA%BF-n%C3%A0o-l%C3%A0-m%E1%BB%99t-b%C3%A0i-th%C6%A1-hay

 

3/ (http://vannghenamchau.net/thuyen-va-bien-moi-luong-duyen-giua-nhac-va-tho-huu-du/)

 

4/ (https://www.youtube.com/watch?v=OlDLsnO4gIE  nam ca sĩ Nguyên Trường)

 

(https://www.youtube.com/watch?v=zKgiych7wPw  nam ca sĩ Quang Lý)

 

(https://www.youtube.com/watch?v=hseI9n78c9k  nam ca sĩ Trung Đức)

 

(https://www.youtube.com/watch?v=zrF1tNqLcvg  nam ca sĩ Cao Minh)

 

(https://www.youtube.com/watch?v=2-4yQ-EVlEY  nam ca sĩ Ngọc Sơn)

 

 

 

 

 

 

 

 

 


            

Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2020

GIÓ DẬY THÌ - MỘT BẤT NGỜ THÍCH THÚ

 



                   GIÓ DẬY THÌ - MỘT BẤT NGỜ THÍCH THÚ

 

 

 

Thơ Của Một Người Chưa Nổi Tiếng

 

Tán tỉnh rồi ngao du với các nàng trâm anh, đài các nơi phố thị mãi cũng chán nên thỉnh thoảng tôi cũng mò xuống xóm nhà lá dưới miệt vườn làm quen với mấy em có tâm hồn chất phác chân quê, cung cách ứng xử ít “màu mè, hoa hòe hoa sói”.

 

Mấy tuần trước tôi nhận lời mời kết bạn Facebook với Thanh Bảo Nguyên. Đọc khá nhiều thơ của chị tôi có cảm giác là thơ chỉ ở mức “thường thường bậc trung”. Ngôn ngữ đẹp, sắc nước, khá nhiều câu thơ, đoạn thơ hay. Nhưng bố cục thường lỏng lẻo và đoạn kết thường không tạo được ấn tượng sâu sắc.

 

Bỗng nhiên một chiều cuối tuần rảnh rỗi, vừa ghé mắt vào bài thơ Gió Dậy Thì của chị tôi đã giật mình. Đọc vài lần thì từ giật mình chuyển sang thích thú. Tôi tự hỏi: “Sao lại có thể như thế được nhỉ?”

 

Gió Dậy Thì là bài thơ ngắn, chỉ có 8 câu. Có điều – khác với nhiều bài thơ trước của chị - 8 câu thơ đó lại có rất nhiều điểm đáng nói, đáng bàn.

 

GIÓ DẬY THÌ

 

Lạ chưa cơn gió dậy thì

Cứ tưng tửng thổi kể gì ngày đêm

Cây đào nghiêng ngả trước thềm

Nhụy hoa tơi tả cành mềm gẫy ngang

Cạnh chùa cây đại, cây bàng

Tiếng chim kêu thảng thốt vang giữa trời

Thấy hồn bay bổng chơi vơi

Nằm nghe gió thổi nhớ thời thanh xuân

(Thanh Bảo Nguyên)

 

Lần Mò Tìm Gặp Tứ Thơ

 

Ngay cái tựa Gió Dậy Thì đã thấy cái gì đó là lạ, hay hay. Bài thơ nhập đề trực khởi, đi thẳng vào đề tài chứ không “vòng vo Tam Quốc” nên đọc lướt qua thấy tác giả nói đến những cơn “Gió Dậy Thì” - thổi bất kể ngày đêm; cây đào trước thềm “te tua”, đàn chim trên cây đại, cây bàng cạnh chùa hoảng sợ. Thế rồi đến 2 câu cuối:

 

Thấy hồn bay bổng chơi vơi

Nằm nghe gió thổi nhớ thời thanh xuân

 

tôi mới tủm tỉm cười. À! Thì ra nhà thơ của chúng ta đang thả hồn về tuổi dậy thì, cái thuở con gái có  cảm giác rạo rực khát khao “một cái gì đó” lúc cơ thể đang chuyển mình để bước vào tuổi thanh niên. 

 

 

Tứ và Ý

 

Bài thơ có ẩn dụ toàn bài nên Tứ và Ý khác nhau.

 

Mặc dù có 2 chữ “dậy thì” lơ lửng, mạch thơ vẫn không bị lộ, ẩn dụ vẫn kín kẽ, chỉ đến câu cuối mới bật mí, độc giả ngạc nhiên thích thú bước qua chiếc cầu ngắn để hiểu ý tác giả.

 

Tứ:

 

Nói đến những cơn “Gió Dậy Thì” và uy lực của chúng đối với cây cối, chim muông.

 

Ý:

 

Tác giả nhớ lại cảm giác rạo rực khát khao “một cái gì đó” thời thanh xuân, cái thời còn có thể “bẻ gãy sừng trâu”.

 

Nhưng nghĩ xa hơn, thực tế hơn một chút, đó cũng chính là sự thèm muốn, khao khát của thi sĩ lúc viết bài thơ này. Thời thanh xuân, khi còn bị gò bó, o ép từ mọi phía mà đã ngày đêm “tưng tửng”, huống hồ giờ đây đang tuổi hồi xuân sung sức - “dậy thì lần thứ hai” - lại chẳng còn gì ràng buộc, thì “chuyện ấy” ư? Ta cũng lại đang “tưng tửng” và sẵn sàng “bẻ gãy cả sừng tê giác” đây!

 

 

Thể Thơ: Lục bát, 8 câu, 7 cặp vần (thì gì, đêm thềm, thềm mềm, ngang bàng, bàng vang, trời vơi, vơi thời) toàn chính vận.

 

Lục bát toàn chính vận có cái lợi là các câu thơ gắn bó, các ý nhỏ nối kết với nhau chặt chẽ, âm vang ngọt ngào, tạo cảm giác gần gũi, thân tình. Nhưng bất lợi là độ ngọt cao dễ tạo ầu ơ, nhàm chán.

Cũng may, cảm giác ầu ơ, nhàm chán chưa kịp xuất hiện thì bài thơ ngắn (chỉ có 8 câu) đã hết. Nhờ thế, âm ý vẹn cả đôi đường.

 

Ngôn Ngữ Hình Tượng

 

Ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu, hình tượng gợi cảm cao độ

 

“Tưng tửng”: Không ngại ngùng, giữ ý tứ, hành xử cứ như đùa nhưng lại là rất thật.

“Tưng tửng” vừa rất đúng với thái độ bất cần của những cơn “Gió Dậy Thì” vừa cũng rất hợp với cung cách “không ngại ngùng, giữ ý tứ” của cô gái thanh xuân.

 

Cây đào nghiêng ngả trước thềm

Nhụy hoa tơi tả cành mềm gẫy ngang

 

“Chàng” nào nằm trong “tầm” của ta - như cây đào trước thềm – thì sẽ “te tua”, nghiêng ngả, “nhụy hoa tơi tả, cành mềm gãy ngang”. Chị đang mường tượng cảnh một “bãi chiến trường” chưa thu dọn, và “đối thủ” thì tơi tả sau cuộc mây mưa. Dễ thấy, dễ cảm quá! Nhưng đâu phải người phụ nữ nào cũng dám nói đến điều ấy. Mà nếu có can đảm thì cũng dễ gì nói được một cách văn vẻ tài hoa như vậy.

 

Cạnh chùa cây đại, cây bàng

Tiếng chim kêu thảng thốt vang giữa trời

 

Còn những “Chàng” hơi xa tầm một tí, (chắc là đã nghe đồn về “cây đào trước thềm”) vừa thấy bóng ta là đã như đàn chim trên cây đại, cây bàng cạnh chùa hoảng sợ, vừa bay tứ tán vừa “kêu thảng thốt vang giữa trời”. Dưới mắt tác giả, uy lực của người phụ nữ lúc đang lên cơn khát tình thật là ghê gớm. Sức gợi của ngôn ngữ rất đáng nể.

 

 

Dòng Chảy Của Tứ Thơ Và Đoạn Kết

 

Tứ thơ chảy thành dòng khá mạnh, không quanh co, uốn khúc; các con chữ nối tiếp nhau đi thẳng về điểm đến của tứ thơ.

 

Đội bóng Gió Dậy Thì không thích lối chơi rê dắt, vẽ vời, vờn bóng giữa sân. Phát bóng lên, chỉ sau vài đường chuyền là các học trò của huấn luyện viên Thanh Bảo Nguyên đã áp sát cầu môn đối phương. Rồi thêm một màn phối hợp là đã có cú sút tung lưới tuyệt đẹp.

 

Hai câu kết của bài thơ

 

Thấy hồn bay bổng chơi vơi

Nằm nghe gió thổi nhớ thời thanh xuân.

 

chính là cú sút tung lưới tuyệt đẹp đó. Vừa kết thúc bài thơ, vừa là chìa khóa mở cánh cửa từ Tứ qua Ý.

 

Bàn Thêm Về Tứ Thơ

 

Nếu bóc hết những lớp “bóng gió”, ẩn dụ thì Gió Dậy Thì sẽ còn lại gì? Còn lại một chữ DÂM to tướng. Nhưng đó là chữ DÂM viết hoa, thấm đẫm tính nhân bản – nét đẹp lộng lẫy, cao quý của con người. Tác giả không còn lụa là son phấn và những lớp sơn văn hóa che phủ, đã hiện ra trước mắt độc giả - một phụ nữ bình thường với những nhu cầu bình thường, những khao khát bình thường.

 

Chị khao khát một vòng tay đàn ông để da thịt chạm da thịt, bờ môi chạm bờ môi, để hai người cùng đê mê cho âm dương hòa hợp, đất trời chuyển rung. Chị coi chàng như cây đào trước thềm được cơn khát tình của chị làm cho nghiêng ngả, “nhụy hoa tơi tả, cành mềm gãy ngang”. Nỗi khao khát của chị, cơn dâm của chị có ai dám bảo là không đậm “chất người”, và bài thơ, có ai đọc xong mà không nhận ra là nó chở đầy tính nhân văn.

 

Chị viết Gió Dậy Thì trong lúc cảm xúc dạt dào nhưng chưa đến mức nổi điên, lạc thần trí. Chữ Dâm của chị bạo nhưng chưa dám đi “tới bến”, vẫn giữ được nét Thanh. Để có được nét Thanh đó chị và bài thơ đã phải trả giá – chưa thể cùng nhau bước qua cánh cổng Bến Bờ Thi Ca mà phải ngừng cách đó một đoạn khá xa.

 

Giá Trị Nghệ Thuật Của Gió Dậy Thì

 

Gió Dậy Thì là một viên ngọc nhỏ xinh xinh, không tì vết. Tứ thơ, ý thơ, ngôn ngữ hình tượng, phép ẩn dụ đều hoàn hảo. Bố cục bài thơ mạch lạc, hợp lý. Các con chữ thấm đẫm tâm tình của thi sĩ, không quanh co, nhắm thẳng điểm đến mà tuôn chảy. Và đặc biệt, đoạn kết tuyệt vời. Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 đầy ắp. Bài thơ ngắn, tuy tác giả khéo léo tạo được cao trào về ý tứ nhưng lý trí vẫn còn ẩn nấp đâu đó trong tâm hồn nên cảm xúc tầng 3 không theo kịp, chỉ ở mức trên trung bình chút đỉnh, chưa tạo được hồn thơ.

 

Kết Luận

 

Với tôi, gặp được Gió Dậy Thì là một bất ngờ thích thú. Thi sĩ có đứa con tinh thần như Gió Dậy Thì là đã nở mày nở mặt. Bước vào chốn văn chương, ngoài nụ cười thân thiện còn có thêm ánh mắt tự tin. Ở tuổi của Thanh Bảo Nguyên vẫn còn nhiều thời gian và cơ hội để viết “bài thơ để đời”. Chọn một tứ thơ đắc ý ấp ủ trong lòng, chờ đến lúc nổi điên, cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí. Với kỹ thuật thơ như chị, một bất ngờ nữa - tầm vóc lớn hơn – không phải là điều không thể xảy ra.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

phamnhibinhtho.blogspot.com

 

 

 

 

 

 


Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2020

VỀ THĂM LẠI “BIỂN ĐÊM”

 


 

 

 

 

                               VỀ THĂM LẠI “BIỂN ĐÊM”

 

 

Vài Lời Phi Lộ

 

Đọc bài thơ Biển Đêm của Nguyên Lạc tôi đã nổi hứng viết mấy lời nhận xét. Không phải bình mà là nhận xét, và nhận xét chỉ giới hạn ở cách gieo vần của bài thơ. Tác giả không hài lòng với cách nhận xét của tôi đã viết một bài “phản biện”.

 

Bài viết “Trả Lời Phạm Đức Nhì …” (http://t-van.net/?p=44507) của Nguyên Lạc có nhiều đoạn dài dòng mà hơi xa đề tài tranh luận cho nên để làm rõ những điểm có tính học thuật trong bài viết trước của mình tôi đành Về Thăm Lại “Biển Đêm”.

 

Tôi sẽ phân tích kỹ hơn, sâu hơn về các chỗ “không khéo” về “vần nguyên chữ”, vần quẩn”, “trụ quá lâu ở thanh huyền” (trong bài tôi viết lầm là thanh bằng).

 

Ngoài ra, anh Nguyên Lạc cũng nhắc nhở tôi rằng:

 

“Trước hết xin nhớ rằng: lời nhận xét của các nhà phê bình cũng chỉ chủ quan, nghĩa là tương đối có đúng có sai, vì cảm nhận mỗi người khác nhau. Ông phê bình nói dở nhưng biết đâu độc giả cho hay thì sao? Đừng đem quan niệm chủ quan của mình mà lấn át, áp đặt người khác.”

 

nên trong bài này tôi cũng nói về tính chủ quan của tôi khi viết câu:

 

Độc giả nào đọc cả đoạn mà không cảm thấy ngán cái giọng “ầu ơ” thì quả là có nội công thâm hậu, rất đáng nể phục“.

 

đ anh Nguyên Lạc phải thốt lên:

 

Chủ quan ghê chưa?”

 

 

 

Vần Nguyên Chữ

 

Tôi mến mộ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông và cũng thích nhạc của ông, nhất là bản Chiều Mưa Biên Giới. Nhưng nghe câu đầu của bản Nhớ Một Chiều Xuân:

 

“Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người, chạnh lòng tôi khơi bao niềm nhớ

 

lại thấy cái gì đó chõi chõi, khó chịu. Đó chính là hai chữ “nhớ” trong cùng một ý nhạc. Chữ “nhớ” trước chỉ xuất hiện chớp nhoáng trong khoảng thời gian một “nốt móc đen” ở vị trí phụ giữa câu nhạc. Nhưng kết hợp với chữ “nhớ” sau ở cuối câu - có thời gian ngân dài hơn nhiều - vừa trùng âm, vừa trùng ý, tạo cảm giác nhàm chán đáng kể.

 

Thi sĩ làm thơ lục bát cũng kỵ gieo vần nguyên chữ, vì vị trí gieo vần là những điểm trọng yếu của câu thơ. Nếu vô tình vướng phải vần loại này cảm giác nhàm chán, so với 2 chữ “nhớ” ở trên, mạnh hơn nhiều.

 

Trong Truyện Kiều có một cặp lục bát đã được các nhà hiệu đính xoay trở để tránh loại vần này:

 

Duyên kia có phụ chi tình

Mà toan chia gánh chung tình làm hai.

(3089-3090)

 

Hai bản Kiều Liễu Vân Đường 1866 và 1871 đều khắc là “tình”. Những bản Kiều khác về sau (Kiều 1870, Kiều 1872, Kiều 1874, Kiều 1902) đều đổi chữ “tình” câu lục thành chữ “mình” để tránh vần nguyên chữ.

 

 Xét về vần của thơ lục bát – ngoài lạc vận là lỗi nặng – trong số những xử sự không khéo về vần thì vần nguyên chữ, với tôi, gây cảm giác chán ngán, khó chịu hơn những loại vần “không khéo” khác.

 

Bước Vào “Biển Đêm”

 

Bây giờ mời độc giả cùng tôi đọc một đoạn thơ khá dài của Nguyên Lạc trong Biển Đêm.

 

Người về tìm lại thân thương đã rồi...

Biết rằng sương khói mà thôi

Thịt da trên cát hằn tôi nỗi sầu

Biển chiều trời vội trốn mau

Cô đơn lặng nhớ tình đau một thời

Biển xưa bãi cũ tôi ngồi

Hồn nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào

Tay ôm thân ngất quyện nhau

Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu

Đêm nay biển vắng người đâu?

Vầng trăng khuyết tật trên đầu đưa tang

 

1/ Vần quẩn

 

Hai chuỗi vần quẩn “rồi thôi tôi” và “thời ngồi mươi” có 4 chữ ăn vần chính vận (rồi thôi tôi ngồi) bị ngăn cách bở chữ “thời” (thông vận gần) nên độ ngọt chỉ ở mức “nghiêng về phía nhàm chán”. Nặng hơn một chút là 3 chuỗi vần quẩn “sầu mau đau”, “nào nhau nhau” và “đầu đâu đầu”. Nhưng cộng lại, độ ngọt của vần quẩn chỉ hơn mức “nghiêng về phía nhàm chán” chút đỉnh.

 

2/ Anh hùng tụ hội

 

Nhưng không biết tác giả xoay trở thế nào mà để 4 cách chơi vần “không khéo” của thơ lục bát đều quy tụ ở câu:

 

“Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu

 

     a/ Vần quẩn – như đã nói ở trên.

     b/ Vần ngang câu bát có độ ngọt tương đối cao vì “nhau đầu” là thông vận gần.

     c/ Cặp vần nguyên chữ (nhau nhau) trong đó chữ “nhau” thứ hai là chữ ăn vần cũng có mặt trong câu này. Đây là lỗi nặng, độ ngọt cao, tạo cảm giác nhàm chán đáng kể.

     d/ Trụ quá lâu ở thanh huyền: Cũng ở câu này, 4 cặp lục bát trước, sau khi à ơi ở 4 thanh huyền (rồi sầu thời nào) đến đây lại đáp đúng vào chữ “đầu” – là thanh huyền thứ 5.

 

Độc giả thử tưởng tượng “tất cả các nguồn tạo ra độ ngọt (4 ‘không khéo’ về vần) từ 11 câu lục bát (78 chữ) đều đổ dồn vào 2 chữ ‘nhau đầu’ thì cảm giác nhàm chán sẽ lên cao đến mức nào?”

 

Dù anh Nguyên Lạc vẫn ngồi rung đùi ca”Nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu” (Rừng Lá Thấp), tôi tin rằng những người thưởng thức thơ sành điệu một chút khi đọc hết 11 câu thơ sẽ thông cảm với nhận xét của tôi:

 

Độc giả nào đọc cả đoạn mà không cảm thấy ngán cái giọng “ầu ơ” thì quả là có nội công thâm hậu, rất đáng nể phục“.

 

vì đã rất rõ ràng, đâu có gì quá đáng.

 

 

Đem “Ta Về” Của Lê Văn Trung Để Phản Biện

 

Ta về trắng cuộc tình duyên

Phố xa lạ phố, người quên, lạ người

Sầu chao nghiêng mái hiên đời

Sầu rơi như chiếc lá bùi ngùi rơi

Ta về, tàn cuộc rong chơi

Chuyến tàu muộn, không còn ai, ga buồn

(Ta Về – Lê Văn Trung)

 

Hai chuỗi vần “người đời bùi” và “rơi chơi ai” là hậu quả của cặp vần ngang câu bát “bùi rơi”, không phải là vần quẩn chính hiệu. Vì “bùi rơi” là thông vận quá xa, hai chuỗi vần này chỉ có 3 chữ ăn vần chính vận (đời rơi chơi), 3 chữ còn lại “người bùi ai” thì “3 phé 3 nơi” – cách nhau xa lắc. Vần quẩn ở đây không gây nhàm chán vần. Anh Nguyên Lạc chưa đụng chạm vần loại này nhiều nên chưa biết.

 

Tuy nhiên, bài thơ cũng có khuyết điểm về luật:

 

Chữ “không” trong câu bát cuối lẽ ra phải là một chữ vần trắc. Viết như vậy là sai luật. Sai luật vì vụng chứ không phải vì một “thủ pháp nghệ thuật” nào hết. Thay chữ “không” bẳng chữ “chẳng” là êm. Vẫn giữ được ý mà lại đúng luật.

 

Phê Bình Đừng Chủ Quan

 

Anh Nguyên Lạc còn nhắn nhủ tôi:

 

"Phân tích nhưng đừng đưa chủ quan mình vào chê trách. Nhà bình luận cho là dở, biết đâu độc giả cho là hay (thì) sao? Mỗi người có cảm nhận riêng. Có nhớ chuyện ngụ ngôn CON CÁ của Trang Tử không?"

 

 

Để trả lời anh Nguyên Lạc tôi xin trích một đoạn văn nói về chức năng của công việc phê bình.

 

“Để viết phê bình, cần có nhiều điều kiện. Kiến thức. Óc phán đoán. Sự nhạy bén trong nghệ thuật. Khả năng diễn đạt. Và, đến trình độ nào đó, cần thêm một điều kiện khác nữa: chủ kiến.

Hướng tới tương lai, nhà phê bình giỏi không phải chỉ là một kẻ thưởng ngoạn sành điệu mà còn là người quyết liệt tranh đấu cho một lý tưởng thẩm mỹ nhất định.

Tính chất quyết liệt trong tranh đấu làm cho tác phẩm của hắn, về phương diện thể loại, dễ có màu sắc bút chiến; về phương diện tư tưởng, dễ bị xem là xem là cực đoan; về phương diện hiệu quả, dễ gây phân hoá trong hàng ngũ những người cầm bút.

 

Nhà phê bình nào cũng cần có chủ kiến. Không có chủ kiến, tưởng là khách quan, nhà phê bình chỉ làm nô lệ cho truyền thống và theo đuôi quần chúng. Hắn có thể diễn đạt hay; nhưng cái hay ấy chỉ nhằm củng cố những điều mọi người đã biết. Quanh quẩn trong sân chơi của những cái-đã-biết, hắn rất dễ nhận được những tràng pháo tay, nhưng đó là những tràng pháo tay tống tiễn hắn vào cõi quên lãng.”

(Phê Bình Cần Có Chủ Kiến, Nguyễn Hưng Quốc, tienve.org)

 

Bình thơ là khen chê một bài thơ. Mà khen chê dựa vào cách hiểu, cách đánh giá Chủ Quan của người bình về bài thơ. Khi bình thơ tôi không quan tâm lắm đến việc “Nhà bình luận cho là dở, biết đâu độc giả cho là hay thì sao?”

 

Với một bài thơ, “mỗi người có cảm nhận riêng”. Bình thơ với tôi là trình bày, phân tích, biểu lộ cách hiểu, cách cảm nhận riêng của mình về bài thơ; sau đó đưa ra lời khen chê – hay chỗ nào? Và dở chỗ nào? Tuy nhiên, cách nhìn nhận, đánh giá của tôi về bài thơ không phải là kết luận chung cuộc. Độc giả không đồng ý có quyền phản biện.

 

Chứ nói như anh Nguyên Lạc:

 

Phân tích thì cần thiết, nhưng chủ quan PHÊ PHÁN hay/ dở là chuyện khác. Thường khi chê người khác dở thì mình "phải" hoặc "tự cho" là mình "hay hơn", phải không? Trình bày, biểu lộ và cảm nhận riêng là tốt, đừng chủ quan PHÊ PHÁN "quá mạnh tay", vì như thế sẽ mất đi tính "xây dựng".

 

thì là rất “không hiểu chuyện”.

 

Như đã nói ở trên:

Bình thơ là “trình bày, phân tích, biểu lộ cách hiểu, cách cảm nhận riêng của mình về bài thơ.”

Tại sao phải phân tích, trình bày như thế? Để có dữ kiện mà đưa ra lời khen chê, chứ nếu không có ý khen chê thì phân tích trình bày làm gì cho tốn công? Mà không khen chê thì sao lại gọi là phê bình?

 

Với tôi, bình thơ cốt ở chữ “biết” - biết những thước đo và biết cách đo. 

 

Hơn nữa, phê bình phải thẳng thắn, đúng mực. Đừng “quá mạnh tay” nhưng cũng chẳng nên “nhẹ tay”. Phê bình mà cứ “nhẹ tay một chút để đỡ mất lòng” mới là mất tính xây dựng. Còn phê bình thẳng thắn, đúng mực sẽ có lợi cho người được (bị) phê bình và cho cả độc giả nữa.

 

 

Một Chút Kinh Nghiệm Về Chủ Quan

 

1/ Tuyển sinh vào chuyên khoa trên đại học

 

Khoảng 15 năm trước con lớn tôi đang kể lại cuộc phỏng vấn để vào khoa Dược ở đại học thì vợ một người hàng xóm (mới được bảo lãnh từ Việt Nam qua) phát biểu:

 

“Hỏi toàn những câu vớ vẩn thế thì làm sao biết được ai giỏi hơn ai để nhận vào trường hả trời?”

 

Bà hàng xóm không biết rằng những câu hỏi có vẻ ngoài lề ấy chỉ để biết thêm về thái độ của sinh viên đối với việc học và việc phục vụ xã hội sau này (Và tùy trường, còn có vài mục đích khác nữa). Còn “học giỏi hay dở” thì nhà trường đã có trong tay đầy đủ hồ sơ:

 

     a/ GPA (Grade Point Average): Điểm trung bình mấy năm dự bị.

     b/ Điểm thi SAT (Scholastic Aptitude Test): Kỳ thi “chuẩn hóa” để ghi danh vào đại học.

     c/ Điểm thi PCAT (Pharmacy College Admission Test): Bài thi đầu vào trường Dược.

     d/ Hai thư giới thiệu của những người có uy tín quen biết mình.

     e/ Hồ sơ làm thiện nguyện có nhận xét đánh giá của chủ cơ quan.

 

Những người điểm kém thì đã bị loại thẳng. Những người được mời phỏng vấn thì ban phỏng vấn đã có “chỗ dựa” vững chắc để so sánh, chọn lựa, chứ không phải hoàn toàn chủ quan. Phỏng vấn chỉ để loại bớt một số ít người “yếu cơ” hơn.

 

2/ Học bình thơ

 

Từ trường lớp, sách vở tôi được trang bị trên dưới 20 tiêu chí để thẩm định giá trị một bài thơ. Dựa vào những nét đặc thù của thơ ca Việt Nam và kinh nghiệm bình thơ cá nhân, tôi rút xuống còn trên dưới 10 tiêu chí - mà tôi gọi là chỗ dựa - để chuyển từ lối bình thơ lan man sang bình thơ bài bản.

 

Đó là:

 

     a/ Tứ thơ

     b/ Ngôn ngữ, hình tượng

     c/ Biện pháp tu từ (thủ pháp nghệ thuật) như ẩn dụ, hoán dụ …

     d/ Thể thơ và cách gieo vần

     e/ Dòng chảy của tứ thơ

     f/ Bố cục (thế trận)

     g/ Cách kết thúc bài thơ

 

     Riêng phần cảm xúc tôi chia làm 3 tầng:

 

     i/ Cảm xúc tầng 1: Phát sinh từ cái đẹp của ngôn ngữ, hình tượng, câu thơ, đoạn thơ.

     j/ Cảm xúc tầng 2: Phát sinh thế trận nhịp nhàng, đấu pháp toàn đội chặt chẽ, hợp lý.

     k/ Cảm xúc tầng 3: Nằm giữa những hàng kẻ, phát sinh từ cảm xúc mạnh mẽ lúc làm thơ, trạng thái nổi điên, lạc thần trí của thi sĩ.

Nếu bài thơ có cao trào, hồn thơ sẽ xuất hiện.

 

Như vậy, bình thơ bài bản, dĩ nhiên vẫn có phần chủ quan nhưng là thứ chủ quan dựa vào logic chứ không phải hoàn toàn cảm tính và đi lan man như bình thơ ấn tượng.

 

3/ Nhận xét về vần của bài Biển Đêm

 

Trong bài viết về Biển Đêm tôi chỉ giới hạn nhận xét của mình về vần của thơ lục bát - một chi tiết nặng tính kỹ thuật. Tôi đưa ra 4 cây thước để đo độ nhàm chán của vần và đã giải thích cặn kẽ cách đo của mình. Tôi thấy thế nào thì chê như thế, không “quá mạnh tay” nhưng cũng “chẳng nhẹ tay”. Bàn về kỹ thuật thơ, tuy khó có thể khẳng định là hoàn toàn khách quan, nhưng tính chủ quan, nếu có, cũng rất ít.

 

 

XIN CHỪA TÔI RA

 

Anh Nguyên Lạc còn viết:

 

“Tặng bạn trích đoạn bài thơ XIN CHỪA TÔI RA post trên FB của tôi”:

Biết bao giờ con người thành thật?

Những ngữ ngôn cảm xúc nở hoa

Xin tha tôi, chừa tôi ra nhé

Lạy các ông lớn tiếng... kèn loa

.

Tôi sợ lắm "cái hòm" đóng sẵn

"Chặt chân tay cảm xúc"cho vừa!

Khủng khiếp lắm, tôi van lạy đó

Kinh lắm rồi thông điệp... Không ưa!...

 

 

Đọc đoạn thơ tôi thấy thương anh Nguyên Lạc quá.

 

Anh chẳng hiểu gì về Liên Quan Giữa Sáng Tác Và Phê Bình. Khi anh đưa tác phẩm của anh ra công chúng, nó sẽ là “gái giữa chợ”. Ông đi qua, bà đi lại đều có quyền ngắm nghía khen chê.

 

Nếu thơ hay hoặc có điều gì mới lạ, thì dù anh có giơ bảng Stop người ta cũng vẫn bước vào phân tích ngợi khen.

 

Nếu thơ dở thì dù anh có chào mời, nài nỉ, độc giả cũng nhắm mắt bước qua.

 

Nếu thơ dở mà tác giả còn có giọng cao ngạo, ta đây thì thế nào cũng có độc giả hiểu biết ghé vào dè bỉu chê bai cho bõ ghét.

 

Tôi không bình thơ theo yêu cầu. Cũng không bình thơ để “trả đũa” vì “đụng chạm” hay vì ác cảm với thi sĩ.

 

Tôi để ý về phần kỹ thuật trong bài thơ Biển Đêm của anh Nguyên Lạc vì nó có hầu như tất cả các lỗi và sự “không khéo” về vần của thơ lục bát. Từ lạc vận, vần nguyên chữ, vần ngang câu bát, vần quẩn, trụ quá lâu ở thanh huyền - đủ hết. “Các anh hùng đều tụ hội ở Biển Đêm.”

 

Bài viết của tôi sẽ có lợi cho độc giả nhưng dĩ nhiên, buồn lòng tác giả bài thơ. Có điều với tôi, vui buồn của tác giả không là – và không nên là - mối quan tâm của người bình thơ.

 

Cô Giáo Diên Hồng Dương

 

Mấy năm trước, cô giáo bình bài thơ Tình Yêu Không Lời của Phạm Trung Dũng. Tôi xía vào bàn tán, phê phán. Cô giáo cũng không vừa, đôi co qua lại. Lời lẽ hòa nhã nhưng đã có mùi gay cấn, căng thẳng. Thế rồi hai người không ai nhường ai nhưng vẫn giao lưu lịch sự.

 

Hình như là năm ngoái, cô giáo có đăng trên FB lá thư tag tên tôi:

 

Một năm đã trôi qua, đọc lại bài này, Diên Hồng Duơng thấy không khí tranh luận hồi ấy vui quá. Nếu đừng để sân si lấn sâu thì đâu có gì buồn phiền đâu, phải không anh Phạm Nhì? Bằng chứng là cho đến hôm nay, cô giáo Diên Hồng, người hay làm trò khỉ khọn, hay cảm nhận thơ trên mạng, vẫn là em gái được nhà phê bình Phạm Nhì gửi tài liệu cho đọc, cho học qua đám mây “Phê tê bóc” đều đều phải không ạ?

 

Cám ơn anh về thái độ hành xử rất đàn anh trong học thuật a.

 

Chúc nhà phê bình Nhi Pham luôn thăng hoa trong cảm hứng phê bình sáng tạo và luôn phát triển những nét rất riêng trong bút pháp phê bình của mình.

 

Diên Hồng Dương – Giáo Viên môn Văn Cao Đẳng Sư Phạm Tây Ninh

 

Tôi rất phục cô giáo Diên Hồng Dương. Trong “chuyện của hai người” cách ứng xử của cô giáo rõ ràng cao hơn tôi một bậc.

 

Kết Luận

 

Rồi sẽ đến một lúc nào đó, tâm hồn lắng đọng, hoặc là tôi, hoặc là anh sẽ thấy ít nhiều sai sót trong bài viết của mình. Nhưng nếu lỡ cả hai đều cứng đầu – “sư nói sư phải, vãi nói vãi hay” – thì không biết anh thế nào chứ tôi cứ quyết học cách ứng xử của cô giáo Diên Hồng Dương. Ý mình mình giữ nhưng cũng không làm “hỏng” mối thân tình của hai người đã có từ bấy lâu nay.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

phamnhibinhtho.blogspot.com