Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2018

TRAO ĐỔI VỀ "QUÊ NGHÈO" VỚI CÔ NGUYỄN BÍCH THỦY



                               

Với bài viết Vài Ý Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ Bài Thơ “Quê Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô Nguyễn Bích Thủy đã có nhã hứng ghi lại một số nhận xét về Mục thứ 5 – Ưu Điểm Về Mặt Thi Pháp Trong Bài Thơ “Quê Nghèo” - trong bài viết Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp của tôi. Nhận xét của cô thiên về cảm tính nên dù có nhiều chỗ cô phân tích rất sâu sắc, nhiều tính thuyết phục, vẫn còn vài điểm tôi thấy cần trao đổi với cô để làm rõ vấn đề. Bài viết này chỉ nhắm vào những điểm cần thiết đó. Nếu độc giả muốn đọc cả bài viết của cô NBT thì link ở ngay sau đây:

1/

Nguyễn Bích Thủy:

Chưa bàn đến hay, không hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ này:
“Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...”
Đây là chủ quan của tác giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.

Phạm Đức Nhì:

Nếu cô NBT chỉ nói “nhưng tôi không thích tứ thơ này” thì chẳng ai dám có ý kiến gì. Vì thích hay không thích cái gì đó là quyền riêng tư của mỗi người. Cái sai của cô là ở câu “Đây là chủ quan của tác giả”. Nếu cái gì trong thơ cũng là “thực tế khách quan”, cũng “phải đạo”, cũng hợp với lẽ đời thì cái loại thơ ấy không đáng để ý, không phải là thứ thơ mà nhân loại đang hướng tới.  

Dĩ nhiên trong thơ cũng có những nhân tố khách quan, nhưng những ý nghĩ, cảm giác chủ quan của tác giả là chính. Nhiều khi những cái khách quan được đưa vào bài thơ chỉ để làm nổi bật những ý nghĩ, cảm giác chủ quan của tác giả. Chính “chủ quan của tác giả” mới làm bài thơ có cá tính (không chỉ viết về những cái ai cũng biết rồi), mới làm nên giá trị của bài thơ, miễn là những “chủ quan của tác giả” hợp lý hợp tình và những sự kiện khách quan cũng hợp tình hợp lý.

Câu nói của cô NBT có hai phần; phần đầu đúng, còn phần sau thì sai nặng.

2/

Nguyễn Bích Thủy:

Dù cho tôi không biết bác là ai, nhưng qua lời góp ý, phê bình của bác tôi thấy bác là người thẳng thắn và khá chân tình, tất nhiên kẻ sỹ Bắc Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ cả khi bác nói: “Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để ‘mách nước’ cho anh bứt phá chạy mau đến ‘bến bờ thi ca’”. Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương phải không bác?

Phạm Đức Nhì:

Thích bóng đá nên có một thời gian ngắn tôi được một người bạn mời đi xem những trận đấu của các đội tuyển xã tranh vô địch cấp huyện. Mục đích của anh bạn là muốn nhờ tôi “xem giò, xem cẳng” những cầu thủ trẻ. Nếu thấy em nào “đá có nét”, có triển vọng anh sẽ tìm cách rủ rê, mời gọi về làm lực lượng trừ bị cho đội tuyển của một ngành công nghiệp. Anh cho tôi biết hãy chú trọng vào cách giữ bóng, che bóng, đi bóng, lừa bóng, khả năng sút bóng xa của các em, còn những kỹ thuật khác khi tuyển về sẽ huấn luyện thêm.

Trong thơ cũng vậy. Có thể nói ngoại trừ cảm xúc ở tầng 3 - thứ cảm xúc mà nếu lên đến đỉnh điểm khi bài thơ có cao trào sẽ thành hồn thơ – là không ai có thể dạy ai đưa nó vào bài thơ được. Còn thì - đặc biệt ở phần thi pháp, mang tính kỹ thuật – cái gì cũng có thể học hỏi được. Dĩ nhiên, học là học lý thuyết. Bước vào thực hành, mỗi người một vẻ, kẻ thất bại, người thành công, chẳng ai dám nói mạnh.

Riêng với Đặng Xuân Xuyến, tôi đã “xem giò, xem cẳng”, đọc thơ của anh khá nhiều và đã “chấm” sự đột phá trong thi pháp của anh. Trong bài Quê Nghèo, về hình thức anh đã đạp đổ truyền thống, vượt qua thơ mới, đang trụ ở thơ mới biến thể mà những sợi dây níu kéo đang đứt dần để vươn tới một thể thơ “chưa có tên” - vần vừa độ ngọt, tứ thơ thông thoáng, nhịp độ thay đổi theo cảm xúc đang chảy thành dòng ... - nếu viết trong tâm thế cực kỳ phấn khích có thể thẳng hướng “Bến Bờ Thi Ca”.

Những khuyết điểm, sai phạm về mặt câu chữ, ngay cả thế trận cũng có thể sửa chữa không mấy khó khăn, nhưng cái tay nghề vững vàng đã trở thành thói quen trong thi pháp của anh không thể một sớm một chiều mà có được. Nếu ĐXX nghe lời “mach nước” của tôi, nhận ra khả năng và thế mạnh của mình, anh sẽ tự tin hơn khi viết những bài thơ kế tiếp. Với thơ thì không nói chắc được, nhưng anh ĐXX còn trẻ, thời gian dành cho thơ còn dài, việc để lại cho đời một đôi bài thơ sáng giá không phải là điều không tưởng.

Cô NBT cho rằng “Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương” là do cô đọc thơ chỉ như người “cỡi ngựa xem hoa”, chưa đi sâu nên chưa hiểu, chưa biết. 

3/

Nguyễn Bích Thủy:

Nếu nghe câu này chắc chắn lúc đầu tác giả không tránh khỏi bị sốc vì có người chê đứa con của mình ngay cả người đó là mẹ vợ mình đi nữa: “Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn.”.
Điều này rất thẳng thắn, tuy nhiên cũng là ý nghĩ chủ quan của bác PHẠM ĐỨC NHÌ vì thơ phú là cảm xúc của từng người, nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.

Phạm Đức Nhì:

Bình thơ là công việc nặng tính chủ quan. Người bình đem kiến thức về thơ, cách đánh giá thơ ca của mình để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ. Dĩ nhiên, ngoài một số rất ít những tác phẩm hoàn hảo, mỗi bài thơ – “dù là cảm xúc của từng người” - đều có chỗ hay, chỗ dở, có khi có cả những chỗ sai phạm. Nhiệm vụ của người bình là chỉ ra những chỗ hay, vạch ra những chỗ dở, chỗ sai phạm để cuối cùng cân nhắc, khen, chê bài thơ cho đúng mức.

Thí dụ bài Quê Nghèo của ĐXX tác giả đã sử dụng hai chữ “oan khiên” trong câu:

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

với nghĩa sai lạc mà nhà bình thơ Nguyễn Bàng đã vạch ra rất tinh tế, chính xác trong phần chú thích “Góp ý riêng với tác giả về một câu thơ”. (1) Rõ ràng đây là một chỗ sai phạm.
Rồi còn mấy câu nói về “Lũ trẻ” trong làng:

Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

Còn “lũ con gái thì sao? ĐXX đã quên nên để độc giả vừa đọc vừa mỏi cổ ngóng chờ. Đây cũng là một chỗ sai phạm.

Câu thơ:

“Tù túng giấc mơ”
trong đoạn:

Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.

theo tôi, thật tuyệt vời.

Nhưng đã làm 2 câu: 

Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ.

mất tính bất ngờ và nhạt hẳn đi về mặt ý nghĩa. Vụng về trong sử dụng điệp ngữ đã làm hỏng 2 câu kết. Có thể nói trong Quê Nghèo đội của ĐXX đi bóng, lừa bóng, chuyền bóng rất điệu nghệ nhưng khi đến sát cầu môn đối phương thay vì ghi bàn thắng lại đá ra ngoài.

Tôi, ở đây không bình thơ mà chỉ bàn đôi chút về thi pháp nên không đi sâu thêm nữa.   

Còn nói như cô NBT “nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì” thì đúng là một phát biểu kiểu “điếc không sợ súng”. Cô chỉ cần tìm đọc kỹ vài bài thơ mới thì sẽ nhận ra là mình ngây ngô đến cỡ nào.


4/

Nguyễn Bích Thủy:


người đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!”

Phạm Đức Nhì:

Những người đã lỡ yêu thích thơ, nếu có cơ hội, đều muốn tìm học để nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ thưởng thức thơ của mình. Trong những lúc họp mặt bạn bè, đám tiệc, nói chung là trà dư tửu hậu, có nói đến bài thơ tình này, bài thơ thế sự kia thì cũng biết đôi điều góp chuyện. Chứ cứ như cô NBTthích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!” lỡ nguời ta hỏi “Hay ở chỗ nào? Tại sao hay? Dở ở chỗ nào? Tại sao dở” lại ngớ mặt ra im lặng thì ngượng chết.

Thưởng thức thơ có nhiều trình độ. Muốn nâng cao trình độ của mình không gì bằng tìm hiểu thi pháp. Chữ thì hơi cao siêu nhưng nghĩa thì lại đơn giản – chỉ là kỹ thuật thơ hoặc hình thức, vóc dáng của bài thơ.

Tôi nhớ hình như đã viết ở đâu đó:

Có tý hiểu biết về kỹ thuật, các tiêu chí để thẩm định giá trị thi ca, người đọc sẽ không còn ù ù cạc cạc khi đọc, khi nghe hoặc ngâm nga những vần thơ ưa thích mà sẽ tự tin hơn, sảng khoái hơn thả hồn vào dòng thơ. Đọc thơ bằng trí sẽ không thấy được hơi nóng cảm xúc, sẽ không cảm được cái hay trọn vẹn của thơ, không “bắt” được hồn thơ (nếu có). Còn nếu chỉ đọc thơ bằng hồn, không có sự soi sáng của kiến thức thì một là, có khi gặp tuyệt tác thi ca thì lại dè bỉu, chê bai, hai là, suốt đời “tự sướng”, sướng mà không biết vì sao mình sướng, miệng ngâm nga những vần thơ “cả đẩn” mà mắt cứ sáng long lanh, mặt cứ rạng rỡ như đóa hoa xuân. Đó là cái sướng của những kẻ “ngây ngô hưởng thái bình” rất tội nghiệp, rất đáng thương.

Trong quân đội người ta thường nói “Nhìn quân phục biết tư cách”. Thi pháp quan trọng đến mức trong thơ, theo tôi, câu tương tự sẽ là: “Nhìn thi pháp biết đẳng cấp của thi sĩ”


5/

Nguyễn Bích Thủy:

Vài ý kiến riêng của một người ngoại đạo. Ai thích thì like, ai không thích cứ việc ném đá, tôi ở xa, đá không đến tận nơi.

Phạm Đức Nhì:

Cô NBT đừng lo. Trong tranh luận văn chương, nếu cứ nhắm vào đối tượng tranh luận (là văn chương) mà bàn cãi thì dù đúng hay sai cũng được độc giả hoan nghênh, vì bất cứ cuộc tranh luận văn chương lành mạnh nào cuối cùng cũng đem lợi ích đến cho văn chương, cho độc giả và cho cả đôi bên tranh luận. Miễn là đừng nhắm vào “chủ thể đối luận” mà phang, mà bửa – nghĩa là đừng chơi trò bỏ bóng đá người. Chơi kiểu đó thì dù ở Bỉ hay chui vào hang sâu hố thẳm nào đó ở Thái Bình Dương người ta vẫn ném đá. Và đã ném là trúng đích.

Kết Luận

Qua bài viết Vài Ý Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ Bài Thơ “Quê Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô Nguyễn Bích Thủy đã bộc lộ khá rõ một điều. Những gì cô cảm nhận - về mặt tình - rất chính xác và sâu sắc, chứng tỏ cô có một tâm hồn nhạy bén và có nhiều trải nghiệm về mặt tình cảm trong cuộc sống. Nhưng những phát biểu của cô liên quan đến mặt lý - ở đây là sự hiểu biết về thơ – thì lại mắc nhiều sai sót. Chỉ cần có thêm chút ít nội lực ở phần này những “góp ý” của cô không những sẽ được độc giả đặc biệt hoan nghênh mà, đối với thơ, lại còn là những đóng góp rất hữu ích nữa.
               
Phạm Đức Nhì



CHÚ THÍCH:


1/

Góp ý riêng với tác giả về một câu thơ:

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Tiểu thuyết “Sống mòn” đề cập đến một vấn đề nhức nhối của người trí thức trong thời đại cũ, những văn nghệ sĩ nhiều khao khát, giàu lý tưởng nhưng cuộc sống cứ mòn dần, lụi dần bởi mối lo cơm áo. Giáo Thứ trong tác phẩm “cũng mang tiếng ông giáo với bà giáo, quần áo là, sơ mi trắng, thắt ca vát, giầy tân thời, thứ Năm, Chủ Nhật diện ngất, tưởng mà mỡ lắm, thế mà kì thực bụng chứa đầy rau muống luộc”. Chứ Giáo Thứ có oan khiên gì đâu?

Tôi nghĩ có lẽ đúng nên là: “Tiếng oan khiên từ thời anh Pha”

Anh Pha trong “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, một nông dân nghèo khổ, sống thật thà, chân chất nhưng lại không tránh khỏi “tai bay vạ gió” từ những con người tưởng như cũng bần cùng như anh nhưng vẫn thiếu mất sự cảm thông và cái tình, cái nghĩa như Trương Thi rồi đến bọn thống trị hách dịch bạo tàn, ra sức cướp bóc tô thuế, không ngần ngại tra tấn những người nông dân cùng khổ như tên địa chủ Nghị Lại và bọn Quan huyện, lính lệ không ngừng tìm mọi cách vơ vét người nông dân đến khánh kiệt và đưa anh Pha đến bước đường cùng. (Nguyễn Bàng)

Trên đây là “góp ý riêng” với tác giả của nhà bình thơ Nguyễn Bàng. Ông Nguyễn Bàng đã vạch ra rất tinh tế và phân tích chính xác việc anh ĐXX đã dùng không đúng từ “oan khiên” trong bài thơ của mình. Nhưng cách ông NB góp ý phê bình thì, theo tôi, lại có cái gì đó không được “thẳng thắn” lắm. Trong bài bình ông đã khen bài thơ đủ điều nhưng có từ (oan khiên) dùng sai thì lại không chê thẳng thắn ở đó (hoặc email riêng cho anh ĐXX để sửa chữa) mà lại “nói nhỏ” cho anh nghe ở phần ghi chú ở cuối bài. Tôi có cảm tưởng đang bàn chuyện Quê Nghèo trước một đám đông bạn bè yêu thơ ông NB bấm anh ĐXX ra một chỗ kín để - một cách tế nhị - phân tích khuyết điểm “oan khiên” cho anh nghe. Có điều ông lại nói vào micro nên không những bạn bè mà cả làng trên xóm dưới đều nghe hết. Tôi không nghĩ là ông “thâm”, nhưng tế nhị, kheo léo quá mức đã trở thành kiểu cách, giả tạo . Mà tại sao phải làm thế nhỉ?  



Thứ Ba, 10 tháng 4, 2018

TRAO ĐỔi VỚI ÔNG LÊ THIÊN MINH KHOA VỀ THI PHÁP



Bình Luận của ông Lê Thiên Minh Khoa đã chuyển thành bài viết có tựa Vài Ý Kiến Về Bình Thơ Không Thi Pháp của Phạm Đức Nhì, được đăng trên trang web Bông Tràm. Độc giả có thể bấm vào link dưới đây để đọc:




                                         

Đọc được bình luận của ông Lê Thiên Minh Khoa dưới bài Phản Biện của anh Châu Thạch trên Facebook và trang VNQT. Sau đó lại nhận được link bài viết từ người phụ trách trang web Bông Tràm với lời nhắn “Kính gửi anh Phạm Đức Nhì bài anh Châu Thạch đề nghị đăng”

Tuy nhiên, vì bận viết trả lời anh Châu Thạch nên hôm nay mới có dịp trả lời ông Khoa. Rất mong ông thông cảm cho sự chậm trễ. Về phương cách tranh luận, tôi sẽ ghi lại những nhận xét, phê bình của ông từng điểm một và dưới đó là phản biện của tôi.  

I/

Lê Thiên Minh Khoa:

Thi pháp là một thuật ngữ của một của một ngành học mới “thi pháp học”, một chuyên ngành hẹp của lý luận văn học (và của cả Mỹ học nữa). 

Là thuật ngữ thì nó có nghĩa khái niệm được chuyên ngành qui ước, không thể tự hiểu tự định nghĩa theo ý hạn hẹp chủ quan mình như Ô Nhì đã phát biểu: “Thi pháp (poetics) là phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả.” 

Cách hiểu của Ô Nhì có nhiều cái sai:

- Trước hết, không nên chiết tự từ (vì thuật ngữ nầy đã có sẵn nghĩa qui ước của thuật ngữ do môn khoa học nầy quy định) mà lại hiểu đơn giản: thi là thơ; pháp là phép, rồi suy ra: thi pháp la quy tắc làm thơ!...

Phạm Đức Nhì:

Ông Khoa không cà kê dê ngông nên tôi cũng đi thẳng vào đề tài. Truớc hết tôi xin đưa ra một số định nghĩa về thi pháp (Poetics) thường được sử dụng trong các bài viết bàn luận văn học:

Thi Pháp (Poetics):

     1/

Định nghĩa theo kiểu chiết tự của người Việt (Tự điển Việt – Việt):

         Phương pháp, quy tắc làm thơ.


     2/

         The art of writing poetry.
         The study of linguistic techniques in poetry or literature.

tạm dịch:

        Nghê thuật, phương cách sáng tác thơ.
        Ngành nghiên cứu về kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ trong thơ hoặc văn chương.


     3/

        Literary criticism treating of the nature and laws of poetry.

        Ngành phê bình văn học chuyên về bản chất và luật thơ.


     4/

       Poetics is the theory of literary forms and literary discourse. It may refer specifically to the theory of poetry, although some speakers use the term so broadly as to denote the concept of "theory" itself. 

      Thi Pháp là lý thuyết về các hình thức văn chương và nghị luận văn học. Nó có thể đề cập cụ thể đến lý thuyết thơ, mặc dù một số người dùng thuật ngữ này với nghĩa rộng để diễn đạt chính ý niệm về lý thuyết.


Ông Khoa thấy đấy. Không phải chỉ có các nhà phê bình văn học Nga mới có định nghĩa về thi pháp. Những định nghĩa khác của thế giới ngoài Nga thường nhắm thẳng vào thơ, phương cách sáng tác thơ, vào bản chất và luật thơ, nghĩa là vào đúng những gì tôi và anh Châu Thạch đang trao đổi, những gì người yêu thơ quan tâm. 

Định nghĩa đầu tiên của Tự Điển từ Đại Học Oxford lại còn rất giống định nghĩa kiểu chiết tự của những người bình dân như tôi “Thi pháp là nghệ thuật, phương cách sáng tác thơ”.
        

II/

Lê Thiên Minh Khoa:

Hiểu như vậy thì Thi pháp (poetics) không chỉ là phương pháp, quy tắc làm thơ mà rộng hơn nữa: quan niệm nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, hình tượng tác giả trong sáng tạo nghệ thuật là bốn vấn đề cốt lõi của tinh thần thi pháp (Theo Đào Thái Sơn – Vài nét về Thi pháp học hiện đại). 

Còn nữa, đối tượng của thi pháp không chỉ là thể loại thơ (trữ tình) mà còn mở rộng ra các thể loại khác: truyện (tự sự), kịch và ký. Bởi vậy, ngoài kiểu nói: thi pháp Truyện Kiều, thi pháp thơ Tố Hữu..., người ta còn nói: Thi pháp truyện ngắn, thi pháp tiểu thuyết, thi pháp kịch… nữa.

Phạm Đức Nhì:

Các nhà phê bình văn học Nga đã dùng thuật ngữ thi pháp với nghĩa mở rộng để Thi Pháp Học trở thành một ngành học bao gồm thêm nhiều bộ môn văn học khác. Mặc dù ngành học này còn rất mới, đã được thế giới nhìn nhận với thái độ “chờ xem”. (Định nghĩa của Wikipedia đã bóng gió nói đến). 

Nhưng không phải vì thế mà cả thế giới không được hiểu Thi Pháp – khi nói về thơ - với nghĩa nguyên thủy của nó là “phương cách, quy tắc làm thơ” hoặc những định nghĩa liên quan đến thơ khác. Nói như ông Khoa “không được tự hiểu, tự định nghĩa theo ý hạn hẹp chủ quan của mình” là chỉ dựa trên Thi Pháp Học của Nga.  

Nhờ ông Khoa tý. Chẳng lẽ bây giờ cả thế giới phải bỏ tất cả những quan niệm về Thi Ca của mình để đi theo con đường Thi Pháp Học của Nga? Chỗ này hình như ông Khoa nói không đúng.

III/

Lê Thiên Minh Khoa:

 Hơn nữa, thi pháp không chỉ là "sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận" chỉ gồm các yếu tố thuần hình thức, như ô Nhì định nghĩa mà thi pháp còn là "khoa học về cấu tạo của tác phẩm văn học và hệ thống các phương tiện thẩm mỹ được sử dụng trong đó". 

Chỉ nói riêng về từ "cấu tạo": Cấu tạo bao hàm cả yếu tố nội dung: ý, tứ, nghĩa..., chứ không chỉ là hình thức, thủ pháp nghệ thuật thơ ca hoặc "sử dụng vần, nhịp điệu".

Phạm Đức Nhì:

Bàn về thi pháp là chú trọng về hình thức, nhưng không phải hình thức đơn thuần mà là hình thức đã có những phương tiện thẩm mỹ trong thi pháp được thi sĩ “lắp đặt” vào đó. Chính việc sử dụng (hay không sử dụng) những phương tiện thẩm mỹ ấy đã làm hay lên (hoặc dở đi) các thành phần của nội dung như ý, tứ, nghĩa … - nói chung là giá trị nghệ thuật của bài thơ. 

Nói khác đi, sử dụng (hay không sử dụng) vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác) có mối liên hệ nhân quả với giá trị nghệ thuật của bài thơ.  


IV/

Lê Thiên Minh Khoa:

Đúng ra phải nói là tính nhạc của thơ, vì nhạc tính của thơ mới bao gồm đủ cả 4 yếu tố: âm (âm đầu, âm chính, âm cuối), thanh, vần, nhịp của thơ, trong đó, thanh (nhóm thanh bằng, nhóm thanh trắc, nhóm thanh cao, nhóm thanh thấp) và nhất là nhịp (tiết tấu) là hai yếu tố quan trọng nhất, thiếu nó văn bản không thể thành thơ, chứ không phải là vần và nhịp như Ô Nhì đã khẳng định trong định nghĩa trên. 

Chính chúng đã góp phần làm cho thơ văn xuôi hội đủ điều kiện thành thơ, vì bài thơ có thể không vần, không cần có sự hài âm, nhưng không thể thiếu yếu tố hài thanh và tiết tấu.......

Phạm Đức Nhì:

Tôi nói “vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác)” là đã bao gồm mọi thành phần của thi pháp, kể cả tính nhạc. Có điều, trong trường hợp này, tôi không sa đà vào chi tiết không cần thiết như ông Khoa. Ông Khoa không đọc kỹ chứ không phải tôi thiếu sót.

 Riêng tính nhạc, nếu sử dụng đúng liều lượng và khéo léo sẽ tăng giá trị của bài thơ một chừng mực nào đó. Nhưng có điều chắc chắn, tính nhạc không phải là yếu tố quyết định để văn bản có thể hay không thể thành thơ. Theo tôi, hai yếu tố để văn bản được gọi là thơ là:  1/ Tâm tác giả đã ở trong khung cảnh của bài thơ (tâm đối cảnh) và 2/ Có câu thơ “sinh tình”. (Góp Ý Với Cuộc Đối Thoại “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ”) (1)

Thí dụ:

TẠI SAO CÓ MƯA?

Nước từ biển bốc hơi
Thành mây trắng trên trời
Nếu gặp luồng khí lạnh
Thì sẽ có mưa rơi

MUỐN LÀM MÂY TRẮNG

Ta muốn làm mây trắng
Bay về Huế mộng mơ
Chờ đến khi nắng hạn
Đổ xuống một trận mưa
(Không biết xuất xứ)

Ông Khoa thấy đấy! Cả 2 bài đều có vần, tính nhạc tương đối ngang nhau (không có gì đặc biệt) nhưng có một bài không phải là thơ. Tại sao? Tại vì tính nhạc không phải là yếu tố quyết định văn bản là thơ hay không phải là thơ.  

Ở đây chất “tình” đã đóng vai trò quyết định. "Tại Sao Có Mưa?" chỉ là phát biểu về một định luật tự nhiên, thuần lý trí, trong khi Muốn Làm Mây Trắng là tâm tình của một người Huế hết lòng yêu mến quê hương. Có lẽ ông Khoa ít đọc thơ hay bình thơ nên đã đưa ra nhận định rất sai lầm này.

V/ “Tứ Thơ” Theo Cách Hiểu Của Ông Khoa

Trước tiên ông Khoa dựa vào câu

"Dòng chảy của tứ thơ: Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy"

 của tôi, để kết luận:

“Như thế, rõ ràng là: ô Nhì chưa nắm rõ về khái niệm 'tứ thơ’. Cũng đúng thôi, vì ‘Tứ thơ’ là một khái niệm có vẻ rất khái quát và trừu tượng nên rất khó diễn giải.“

Và rồi ông diễn giải tứ thơ như sau:

 “Tứ thơ” được hiểu như là một phương thức nào đó để tổ chức liên kết các ý trong bài thơ và hệ thống các ý đó với “tình” của nhà thơ và biểu hiện chúng bằng yếu tố ngôn ngữ (từ).

Như vậy, theo ông Khoa, tứ thơ gồm 3 thành phần: 1/ Hệ thống các ý trong bài thơ; 2/ “Tình” của nhà thơ; 3/ ngôn ngữ (từ).

Nhưng rồi ông lại viết:

“Cả ba yếu tố đó tổng hòa trong một thể thống nhất gọi là bài thơ – tác phẩm”.  

Như vậy tứ thơ cũng chính là bài thơ – tác phẩm.

Độc giả (chắc giống tôi) đã thấy hơi “bối rối” (confused) thì ông Khoa lại viết tiếp:

Như thế, chất trí tuệ, năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được vận dụng hết công suất để xây dựng tứ thơ mà giới chuyên ngành gọi là “cấu tứ”.

À! Khi “chất trí tuệ, năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được sử dụng hết công suất (làm sao biết được hả trời?) thì tứ thơ vươn mình thành ‘cấu tứ’”.

Tóm lại, theo sự diễn giải của ông Khoa thì tứ thơ cũng chính là bài thơ (tác phẩm) và cũng chính là “cấu tứ”.

Nhưng không hiểu sao ông lại viết thêm:

“Chính tứ thơ làm cho văn bản trở thành bài thơ, là yếu tố không thể thiếu của một bài thơ, nhất là thơ hiện đại".

Tứ thơ cũng là bài thơ mà lại còn viết “Chính tứ thơ làm cho văn bản trở thành bài thơ” thì đúng là “Vân Tiên cõng mẹ chạy ra/ Đụng phải cột nhà cõng mẹ chạy vô”

Cách hiểu của ông Khoa khiến tứ thơ có nhiệm vụ quá nặng nề. Vừa hệ thống các ý, vừa cảm xúc, vừa ngôn từ - coi như hầu hết cả các phần việc để làm thành bài thơ. 

Ông lại giải thích nhập nhằng khiến người đọc lỳ đòn như tôi “toát mồ hôi” mà cũng muốn “tẩu hỏa nhập ma”. Với cách diễn giải “vòng vo Tam Quốc” như vậy tôi thấy chính ông Khoa hình như cũng còn “lơ mơ” về ý nghĩa của tứ thơ.

VI/

Lê Thiên Minh Khoa:

Như thế, tứ thơ không phải do vần mà có, như Ô Nhì đã tưởng và viết: "từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy". 

Hơn nữa, trong thơ hiện đại, thơ hậu hiện đại, thơ văn xuôi... có những bài không vần (chứ chưa nói " không bắt vần") mà tứ thơ vẫn liên tục, liền mạch. Thơ không vần thì lấy đâu vần mà bắt, và như vậy là không có tứ thơ và không phải thơ sao? ...

Phạm Đức Nhì:

Tứ thơ, khởi đầu chỉ là một dạng ý tưởng, là thông điệp (message), là “cái gì đó” mà thi sĩ muốn chuyển đến độc giả. Nhưng khi tứ thơ biến thành ngôn từ đi vào câu thơ nó sẽ tải theo cảm xúc của thi sĩ. Thi sĩ sẽ dàn trải tứ thơ thành một thế trận. 

Nếu ý tưởng liền lạc và gặp thể thơ thích hợp nó sẽ chảy thành dòng. Nếu ý tưởng rời rạc lại gặp thể thơ phân mảnh đứt đoạn tứ thơ sẽ phân tán thành những “vũng”thơ, những “hố” thơ, “tuy gần mà xa” vì nước hố này không thông được với nước hố kia. 

Những bài thơ trường thiên (nhiều đoạn 4 câu riêng biệt) như Trên Đường Về (CLV), Tràng Giang (HC), Thềm Xưa Em Đợi Người Về (Hà Hữu Uyên) và những con tương cận khác đều có vần và mỗi đoạn là một ý “nhỏ” riêng biệt.

Dĩ nhiên, có những bài thơ không vần mà những ý “nhỏ” trong tứ thơ vẫn được xâu kết liền lạc. Nhưng giá trị nghệ thuật của chúng – do không vần - sẽ được tăng hay bị giảm tới mức nào lại là vấn đề khác.  

Kết Luận

Thi pháp (poetics), không phải Thi Pháp Học của Nga với nghĩa quá rộng được GS/TS Trần Đình Sử ra sức quảng bá, mà là “phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giảrất cần thiết cho cả thi sĩ lẫn người bình thơ. 

Việc áp dụng đúng liều lượng những phương tiện thẩm mỹ trong thi pháp Việt sẽ giúp làm tươi sáng bộ mặt của thơ. Câu nói “Nhìn thi pháp biết tài thơ” không phải là không có cơ sở. Nhà phê bình nắm vững thi pháp sẽ đối xử với bài thơ được bình công bằng hơn. 

Riêng thi sĩ, nếu nắm vững thi pháp, sẽ nhìn về hướng Bến Bờ Thi Ca với đôi mắt tự tin; với ông (bà), việc trao tặng cho đời những đứa con tinh thần đẹp xinh, sáng giá, đầy ắp chữ tình chỉ là vấn đề thời gian.

League City 04/ 2018
Phạm Đức Nhì

CHÚ THÍCH:


Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2018

TRẢ LỜI CHÂU THẠCH VỀ "BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP"


TRẢ LỜI CHÂU THẠCH VỀ "BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP"


Nhận được bài Phản Biện Bài “Bình Thơ Không Thi Pháp” Của Phạm Đức Nhì – Bài viết của Châu Thạch - từ Đặng Xuân Xuyến, Phú Đoàn sau khi đã đọc được bài này từ rất sớm trên Facebook. Bài phản biện nhiều ý nên tôi sẽ trả lời từng ý một, từ trên xuống dưới. Ngay dưới đây tôi đưa vào 2 cái links của 2 bài viết liên quan để độc giả tiện theo dõi.

Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp: 

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/03/binh-tho-khong-ban-thi-phap.html

Phản Biện Bài “Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp” Của Phạm Đức Nhì

http://dangxuanxuyen.blogspot.com/2018/04/phan-bien-bai-binh-tho-khong-ban-thi.html

 

1/

 

Châu Thạch Nhập Đề Và “Đá Giò Lái”

 

Vừa qua nhà thơ Phạm Đức Nhì có viết một bài “Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp” trong đó ông kết tội Châu Thạch, Nguyễn Bàng và Bùi Đồng là đã bình thơ không bàn thi pháp, theo lời ông là làm cho “thơ hay thơ dở đánh lộn sòng”.

 

Nhiều thi hữu điện thoại với tôi, nói rằng anh Nhì muốn huậy để cho mình nổi danh thôi. Họ yêu cầu tôi cứ nín lặng vì ai đúng ai trật thì đã có công luận phê phán. Việc anh Nhì huậy cho nổi danh thì tôi không tin lắm vì anh đã có danh nhiều rồi, đem cái danh ấy mà tranh chấp với tôi, thứ con dế dưới cỏ, thì chỉ tự hạ mình xuống chớ nổi con khỉ gì.

 

Tôi đã đồng ý nín câm luôn. Thế nhưng nghĩ đi nghĩ lại anh Nhì muốn chém tôi mà không chịu chém thẳng, lại đem một thi sĩ thật hiền hòa ở Tây Ninh ra chém mới thật là oan cho anh ấy. Thi sĩ Hà Nhữ Uyên, một người tôi chưa từng quen biết, có thơ hay được thi hữu miền Nam mến mộ, lại bị anh Nhì đặt vào cái cẩu đầu trảm chỉ vì cái tội là tôi đồng cảm với thơ anh ấy và viết lời bình cho bài thơ “Thềm Xưa Em Đợi Người về”. Bởi vậy tôi xin có đôi lời phản biện để không phải bênh tôi mà biện hộ cho Hà Nhữ Uyên, người đã vì tôi mà lên đoạn đầu đài.

 

Phạm Đức Nhì trả lời:

 

Anh Châu thạch không đi thẳng vào đề tài tranh luận mà vòng qua, vòng lại rồi “đá giò lái” người đối luận với mình. Nói thật, tôi không chấp cái trò trẻ con ấy. Riêng chuyện anh Hà Nhữ Uyên anh cũng nói đến ở đoạn kết, đến đó tôi sẽ trả lời.

 

 

2/

 

Châu Thạch Phản Biện:

 

Anh Phạm Đức Nhì nói Châu Thạch, Nguyễn Bàng, Bùi Đồng “chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp”. Vậy cái ý tứ đó có phải là “xử dụng vần, nhịp điệu, nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp, cảm xúc” không nhỉ? Chẳng có nhà thơ nào mà không xử dụng những cái ấy để đưa ý tứ của mình vào. Cho nên một nhà bình thơ “bình tán ý tứ” của bài, chính là nhận xét cái tài “xử dụng vần, nhịp điêu, con chữ” của họ hay đến đâu hoặc dỡ đến đâu. 

 

Anh Nhì nói chúng tôi “bình tán ý tứ không bàn thi pháp” là chính anh đã “đánh lộn sòng con chữ” chớ không phải chúng tôi. Một bài thơ mà không có ý, tứ và không biết xử sụng ý tứ đó cho hài hoà, độc đáo thì là bỏ. Khi chúng tôi khen một bài thơ hay là chúng tôi khen tác giả có tài thi pháp, có ý tứ hay của thơ và có cả ý tứ trong sáng tác để kết cấu bài thơ gây cảm xúc cho người.

 

Phạm Đức Nhì Trả Lời:

 

Anh Châu Thạch ơi! Rõ ràng là anh không bàn thi pháp. Thì cứ nói thẳng ra là mình thấy nó vô bổ, vô ích (hoặc cũng có thể anh không biết) nên không nói tới. Hà cớ gì lại nói quanh, nói co rồi nhận xằng là mình bàn ý tứ tức cũng là bàn thi pháp? Anh nói vậy anh không hiểu gì về “bàn thi pháp” rồi.

 

Bàn thi pháp là giải thích mối liên hệ nhân quả giữa một bên là những “phương tiện thẩm mỹ” được sử dụng trong bài thơ và bên kia là giá trị nghệ thuật của bài thơ. Nói rõ hơn là việc sử dụng mỗi “phương tiện thẩm mỹ” làm bài thơ hay hơn hoặc dở đi cỡ nào.

 

Thí dụ:

 

Sử dụng vần dầy đặc như trong bài thơ Thềm Xưa Em Đợi Người Về khiến bài thơ có Hội Chứng Nhàm Chán Vần đọc lên rất “ầu ơ, ví dầu”, nghe chán lắm, làm giảm giá trị bài thơ đi rất nhiều.

 

Hoặc là:

 

Trong “Quê Nghèo” Đặng Xuân Xuyến đã có thể - bằng kỹ thuật gieo vần và thay đổi số chữ trong câu - khiến tứ thơ chảy thành dòng và cảm xúc cũng nương theo đó tuôn chảy và phát triển “sóng sau dồn sóng trước”. Ngược lại, TXEĐNV của Hà Nhữ Uyên chỉ là 6 “hố thơ” riêng biệt.

 

Bây giờ anh Châu Thạch đọc lại bài bình thơ của mình lần nữa xem anh có bàn thi pháp không? Không bàn thi pháp thì cứ nhận là không bàn thi pháp. Việc gì phài nói đông, nói tây, cãi chầy cãi cối cho rách việc.

Anh làm luật sư biện hộ mà giả bộ ngu ngơ kiểu đó thì chỉ vài lần là mất bằng luật sư.

 

Theo tôi, anh Hà Nhữ Uyên nắm rất vững luật thơ nhưng anh áp dụng việc gieo vần và đặt số chữ trong câu một cách quá chặt chẽ - thật ra còn quá mức yêu cầu của luật thơ - nên hội chứng nhàm chán vần và sự đều đặn của nhịp điệu làm bài thơ tụt hẳn điểm giá trị nghệ thuật. Nhưng anh Châu Thạch không biết điều đó, đem lối bình thơ “chỉ khen, không chê” vào múa may quay cuồng thêm nữa nên bài thơ được nâng lên một tầm cao đến chóng mặt, vượt xa giá trị thực sự của nó.

 

Trong khi Đặng Xuân Xuyến, cũng nắm vững luật thơ nhưng đã áp dụng chúng một cách uyển chuyển nên dòng thơ của anh nhẹ nhàng, thanh thoát hơn, dễ thấm vào hồn người hơn. Nhưng ông Nguyễn Bàng bình thơ của anh lại không bàn thi pháp nên “kỹ thuật thơ”, “tài thơ” của anh bị lờ đi, có cũng như không.


3/

 

Châu Thạch Phản Biện:

 

Phạm Đức Nhì chê:

 

Nhịp điệu: Mỗi câu 8 chữ, mỗi đoạn 4 câu, đọc lên nhịp điệu đều đặn tẻ nhạt. Tác giả tự trói buộc mình trong quy luật của thơ mới nên tâm thế, phong thái không được tự do. 

 

Châu Thạch biện hộ:

 

Xin hãy đọc đoạn thơ trong bài Ave Mari của Hàn Mạc Tử:

 

Như song lộc triều nguyên ơn phước cả

Dâng cao dâng thần nhạc sánh hơn trăng

Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đường

Huyền diệu bến thành muôn linh trọng thể

 

Toàn bộ bài của Hàn Mạc Tử đều mỗi đoạn 4 câu và mỗi câu 8 chữ. Bài thơ nầy đã trở thành bất hủ.

 

Phạm Đức Nhì Trả Lời:  

 

Bài Ave Maria (không phải Mari) của Hàn Mặc Tử có 62 câu mỗi câu 8 chữ nhưng vì gieo vần liên tiếp nên là loại thơ nhất khí liền mạch, ý này nối với ý kia liên tục cho phép tứ thơ và cảm xúc chảy thành dòng. Đây không phải là loại thơ Trường Thiên mỗi đoạn 4 câu. Anh Châu Thạch không quen để ý đến thi pháp nên đã nhận diện thể thơ “hơi bị sai”. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Quan trọng là dù nhất khí liền mạch Ave Maria cũng mắc một chứng bệnh khá nặng: Hội Chứng Nhàm Chán Vần, đọc lên rất ngán, rất buồn ngủ. Độc giả có thể đọc cả bài thơ Ave Maria theo link dưới đây:

http://vanhoc.xitrum.net/thoca/hiendai/4930.html

 

 

4/

 

Châu Thạch Phản Biện:

 

Phạm Đức Nhì chê:

 

 Vần: Vần gieo cả 1/3 lẫn 2/4 kỹ lưỡng (6 đoạn 12 cặp vần, không bỏ sót cặp nào), có nhiều cặp gieo chính vận nên hội chứng nhàm chán vần rất nặng, đọc 2 đoạn đã thấy giọng “ầu ơ”. Thêm vào đó, tác giả lại còn chơi cả yêu vận (vần lưng)

 

-Châu Thạch biện hộ:

 

Mời đọc bài thơ “Trên Đường Về” trong tập thơ Điêu Tàn của Chế lan Viên có 7 đoạn và 14 cặp vần gieo 1/3 lẫn 2/4 không bỏ sót cặp nào.

Xin đơn cử một đoạn thôi:

 

Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi

Những đền xưa đổ nát giữa thời gian

Những sông vắng lê mình trong bóng tối

Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than

 

Bài thơ nầy cũng cũng đã trở nên biểu tượng của thơ.

 

Phạm Đức Nhì Trả Lời:

 

Trên Đường Về của Chế Lan Viên có 8 đoạn mỗi đoạn 4 câu (bị thời đó kiểm duyệt 2 câu sau của đoạn đầu) nên 7 đoạn sau có 14 cặp vần đúng như anh Châu Thạch nói. Với cách gieo vần đó thì dù của Chế Lan Viên hay của “thi thần”, thi bá nào đi nữa, hội chứng nhàm chán vần cũng làm người đọc ngán ngẩm, ngáp dài. Đọc bài phản biện của Châu Thạch, bạn thơ một thời của anh là Nguyên Lạc, muốn bình luận nhưng đã bị anh “chặn” nên có gởi cho tôi 2 đoạn nhận xét. Đây là đoạn đầu:

 

“Ha ha! Cái ông thần Châu Thạch này! Tưởng rằng ông là nhà phê bình đầy hiểu biết, ai dè lại phải đem những ông nhà thơ có tiếng trước ra để bảo vệ ý kiến mình.  Chắc gì các ngài ấy đã hoàn toàn đúng. Đúng sai cũng tùy thời, tùy lúc. Đâu phải cái gì của người đi trước là không được phê phán, là cấm kị. Đừng lợi dụng tiền nhân cho cái dục nhỏ hẹp của bản thân mình. Và cũng đừng đem tiền nhân ra HÙ, làm VŨ MÔN chặn CÁ CHÉP trẻ hoá RỒNG (1)

 

Độc giả có thể đọc cả bài thơ Trên Đường Về theo link sau đây: http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=6932

 

Chế Lan Viên viết Trên Đường Về năm 1937. Bài thơ lúc ấy được chú ý vì nó là đứa con tinh thần của một thiếu niên mới 17 tuổi trong lúc Phong Trào Thơ Mới còn rất non trẻ. Tính đến nay (2018) đã 81 năm. Ôi! Gần một thế kỷ trôi qua, bộ mặt của thơ đã đổi thay rất nhiều, trong đó thi pháp cũng đã tiến triển vượt bực. Vậy mà nhà bình thơ Châu Thạch - ở thời điểm này - vẫn lấy bài thơ của 81 năm trước làm biểu tượng, làm mẫu mực để ca tụng TXEĐNV, một bài thơ có vóc dáng giống hệt như được đúc từ một cái khuôn. Nhìn cách lập luận của Châu Thạch để biện hộ cho việc đánh giá quá cao bài thơ TXEĐNV mà thấy buồn, thấy tủi hổ cho giới bình thơ, cho Thi Ca Việt Nam.

 

4/

 

Châu Thạch Phản Biện:

 

Phạm Đức Nhì viết:

 

Dòng chảy của tứ thơ: Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy.

 

Châu Thạch biện hộ:


Đọc bài thơ Tràng Giang của Huy Cân:

 

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

 

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

 

Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

 

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

 

Đọc bài thơ Tràng Giang của Huy cận ta thấy có 4 đoạn, mỗi đoạn diễn tả không những một ý riêng biệt mà còn một cảnh riêng biệt. nhưng tất cả cũng chỉ mục đích là miêu tả Trường Giang. Từ khổ thơ trước qua khổ thơ sau cũng không hề bắt vận. Ở đây bài thơ “Thềm xưa em đợi người về” mỗi đoạn tỏ bày một tâm tư của em, và tất cả cũng để nói lên nỗi lòng của người ngồi bên “Thềm xưa em đợi anh về”. Thiết tưởng liên kết của các ý thơ còn sít sao và trôi chảy hơn Tràng Giang nữa.

 

5/

 

Châu Thạch Phản Biện:

 

Phạm Đức Nhì viết:

 

Cảm xúc: Cảm xúc tạo được ở đoạn nào nằm tại đoạn đó, không chảy thành dòng để có sự tiếp nối “sóng sau dồn sóng trước” tạo cao trào, hình thành hồn thơ. Cảm xúc phần lớn ở tầng 1 (câu, chữ hay), rất ít ở tầng 2 (thế trận), hoàn toàn không có cảm xúc ở tầng 3 (cao hứng, nổi điên). Với vóc dáng này TXEĐNV chắc chắn không thể có hồn thơ.

 

Châu Thạch biện hộ:

 

Khổ 1: Em đợi chàng với sự nóng lòng hiện lên trên cử chỉ
Khổ 2: Em khắc khoải mong chờ và giật mình mỗi khi tưởng có tin anh
Khổ3: Măt ngấn lệ, em gọi tên anh những đến trăng khuya cũng tắt.
Khổ 4: Em cố nhủ lòng thôi đừng phiền đừng khóc nhưng muộn phiền vẫn chẳng nguôi khuây.
Khổ 5: Anh gieo vào lòng em nỗi sầu như hoa Thạch Thảo bên tường mưa ướt, như con chim hóa bụa hót rưng rưng.
Khổ 6: Em khờ khạo nên để mối đùn trăm nối nhớ. Ngược lại anh thì cam tâm hờ hững tự bao giờ.

 

Bài thơ có một nối kết rõ ràng từ khổ 1 cho đến khổ 6. Cảm xúc “sóng sau dồn sóng trước’ và mỗi lúc một cao độ hơn. Cuối cùng tác giả dùng hình ảnh tổ mối đùn lên để nói về nỗi nhớ thật là sống động đến độ tuyệt vời.

 

Phạm Đức Nhì Trả Lời 4+5:

 

Thể thơ, vần điệu và những phương tiện thẩm mỹ khác của thi pháp chính là Con Kênh để cho tứ thơ lưu chuyển. Nhưng hai bài Tràng Giang của Huy Cận và TXEĐNV của Hà Nhữ Uyên do chọn thể thơ Trường Thiên (nhiều đoạn, mỗi đoạn 4 câu) nên không có Con Kênh mà chỉ có những “hố” riêng biệt nằm cạnh nhau. Nước hố này không thể tiếp cận nước hố kia thì làm sao có dòng chảy? Không có dòng chảy thì làm sao có “sóng sau dồn sóng trước”? Làm sao có cao trào? Làm sao có hồn thơ?

 

Viết theo thể thơ ấy, nói theo ngôn ngữ bóng đá, khán giả không thấy được thế trận, đấu pháp toàn đội lưu chuyển một cách sống động mà chỉ có những lần chơi bóng chết, những cú đá phạt. Hết cú đá phạt này lại chuyển qua cú đá phạt khác, cũng lại bóng chết. Đá phạt dù có siêu như Messi, từ xa hơn 30m bóng bay vào đúng góc trống của khung thành (có khi đúng ngay mắt lưới mà người sút nhắm tới) thì cũng chỉ là phần kỹ thuật. Cái đưa bóng đá lên hàng nghệ thuật làm khán giả say mê là khả năng đi bóng, chuyền bóng, lên công về thủ theo một đấu pháp hợp lý, sáng tạo và hiệu quả cộng với sự hưng phấn cao độ cùng ý chí quyết đấu quyết thắng của cầu thủ.

 

Những thứ ấy những bài viết theo thể thơ Trường Thiên như Trên Đường Về, Tràng Giang hay TXEĐNV không thể nào có được. (2)

 

 

6/

 

Châu Thạch:

 

Tóm lại theo tôi, đây là một bài thơ hay. Mà dẫu tôi có bình sai, anh Phạm Đức nhì thấy không hay thì cũng chẳng nên đem búa ra để đập bài thơ của một tác giả ra như thế, mà lại phê phán quá bất công với nhà thơ ấy. Tôi thấy anh Nhì còn lấy những tiêu chuẩn thơ của chính anh tự đặt như một vị thầy để chê thơ anh Phạm Đức Tùng không phải là thơ nữa.

 

Phạm Đức Nhì Trả Lời:

 

Tôi chỉ có ý kiến với cách bình thơ của 3 nhà phê bình Châu Thạch, Nguyễn Bàng, Bùi Đồng và các nhà bình thơ không bàn thi pháp khác. Tôi đã bỏ công viết 2 đoạn khá dài để “tâm sự” với 2 tác giả của 2 bài thơ liên quan. Tôi chọn cách bình thơ nói thẳng, nói thật, không nể nang, hay thì khen, dở thì chê nên cũng thường làm nhiều người phật ý.

 

Khi tác giả đem bài thơ ra trình làng, nó như cô gái giữa chợ để ông đi qua, bà đi lại nhìn ngắm khen chê. Có người khen nịnh, có người có điểm khen, có chỗ chê một cách công bằng trung thực. Và dĩ nhiên, có người bươi móc, dè bỉu một cách ác ý. Tác giả bài thơ có quyền phản biện. Độc giả bất bình cũng có quyền nhảy vào tranh luận. Tôi đụng chạm tới 2 bài thơ được bình là bất khả kháng. Nhưng đó là quyền của tôi.

 

Một nhà bình thơ như Châu Thạch mà lại buồn bực, chê trách tôi đụng tới bài thơ TXEĐNV của Hà Nhữ Uyên thì thật là chả hiểu gì về quan hệ giữa sáng tác và phê bình hết. Rồi lại còn dám mở miệng “chỉ xin anh nên xin lỗi nhà thơ Hà Hữu Uyên vậy” thì đúng là câu nói vô cùng bậy bạ của một người không biết chuyện, thiếu suy nghĩ.

 

Còn việc tôi cho rằng bài Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết của Nguyễn Đức Tùng (không phải Phạm Đức Tùng) không phải là thơ thì tôi đã viết hẳn một bài chứng minh đầy đủ. Chính anh Nguyễn Đức Tùng cũng không có ý kiến gì và đã chia sẻ bài của tôi về trang FB của anh ấy. Tôi kính phục anh NĐT về thái độ dũng cảm chấp nhận sai sót của mình. Câu nói của Châu Thạch:

 

Tôi thấy anh Nhì còn lấy những tiêu chuẩn thơ của chính anh tự đặt như một vị thầy để chê thơ anh Phạm Đức Tùng không phải là thơ nữa”

 

có ý cho rằng tôi cả gan nói liều và nói sai. Nếu Châu Thạch không đồng ý thì đưa chứng cứ ra, dùng lập luận phê phán; tôi sẵn sàng thù tiếp. Anh phát biểu khơi khơi, không dẫn chứng kiểu đó là một hình thức “chửi đổng”, không phải là thái độ của nhà phê bình đứng đắn.

 

Còn nữa, Châu Thạch nói tôi “chê thơ anh Phạm Đức Tùng không phải là thơ nữa” là bao gộp một cách cẩu thả, có thể gây ngộ nhận. Tôi chỉ cho rằng bài ECTVEMKTB của NĐT không phải là thơ, chứ không đá động đến những bài thơ khác của anh ấy.

 

 

Anh Nguyễn Đức Tùng sau đó có gởi cho tôi một email như sau:

 

Cám ơn anh Phạm Đức Nhì rất nhiều – đã chú ý đọc và còn chịu khó diễn giải và bình luận. Tôi nghĩ những bài viết của anh rất có ích cho độc giả và tác giả, dù bao giờ cũng có khác biệt và tranh cãi. Nhưng như vậy mới là nghệ thuật, mới vui, còn cái gì cũng đồng ý cả thì không có tiến bộ, phải không anh? Tôi dự định trong vài năm tới sẽ xuất bản một tập thơ với những lời bình luận đặc sắc của bạn bè. Mong sẽ có tiếng nói quan trọng của nhà phê bình Phạm Đức Nhì trong đó. 

NGUYỄN ĐỨC TÙNG: Nhà thơ, nhà văn.




 

7/

 

Châu Thạch:

 

Tôi nhớ trước đây trong “Câu Chuyện Văn Chương” nhà thơ lớn Lê Mai Lĩnh có nói như sau:

“Thưa anh nhà thơ PHẠM ĐỨC NHÌ:
Anh nói : TÔI DÀNH SỰ PHÁN XÉT SAU CÙNG CHO ĐỘC GIẢ
Vậy tôi đề nghị anh NÊN NÓI LỜI XIN LỖI VỚI ANH CHÂU THẠCH. Bài của nhà phê bình CHÂU THẠCH rất HÀN LÂM, NGƯỜI LỚN.
 Mặc dù anh đã HÀN GẮN NHỮNG VẾT ĐỤC ĐẼO lên PHO TƯỢNG TỐNG BIỆT HÀNH, những sự MẤT MÁT VẪN CÒN, NIỀM ĐAU CŨNG CÒN.
Vậy anh nên viết bài tạ lỗi với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã chạm vào tình cảm YÊU THƠ của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM.”

Hôm nay Châu Thạch tôi cũng xin dùng câu đó để nói lại với anh Phạm Đức Nhì nhưng không phải biểu anh xin lỗi tôi hay xin lỗi anh Nguyến Bàng, Anh Bùi Đồng mà chỉ khuyên anh nên xin lỗi nhà thơ Hà Nhữ Uyên vậy.

 

Phạm Đức Nhì:

 

Ông Lê Mai Lĩnh đã có lần cao hứng viết một bài liên quan đến tôi có một số điểm không đúng. Tôi đã phản biện và ông đã không trả lời. Chúng tôi đã hiểu ngầm coi đó là “chuyện đã qua”. Chính Nguyên Lạc, bạn của LML và có một dạo là bạn văn chương của anh cũng nói:

 

"Châu Thạch chơi trò ‘bỏ bóng đá người’ mới đem Nguyễn Đức Tùng (CT viết Phạm Đức Tùng) và LML vào bài viết. Tôi có đọc về vụ LML. Ông này gia trưởng, nghĩ rằng mình là người đi trước, đàn anh là có toàn quyền muốn nói gì là nói. Tôi thấy trong vụ tranh biện, ông LML đã im lặng khi bị anh phản biện.

Anh phê bình cách bình thơ của Châu Thạch rất chính xác." (1)

 

Giờ nhắc lại chuyện xưa anh chỉ đưa ra đoạn “nói sai” (mà anh tưởng là đúng?) của ông LML mà ém đi đoạn trả lời của tôi. Đó là kiểu lươn lẹo, “ma giáo” cần thiết để tranh lợi, tranh thắng trong những môi trường khác, không hợp với chỗ tranh luận văn chương. Có một bài viết mà phải mấy lần “kéo áo” anh về thái độ lịch sự, lương thiện trong tranh luận văn chương. Thật chán.

 

(Muốn hiểu rõ đầu đuôi độc giả có thể đọc bài Văn Chương Đâu Phải Là Đơn Thuốc theo link sau đây: http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/van-chuong-au-phai-la-on-thuoc.html 

 

Sau này anh Lê Mai Lĩnh đã có một mẩu đối thoại ngắn với tôi trên Facebook:

 

(Sau cuộc tranh luận về bài thơ Tống Biệt Hành)

 

Le Mai Linh Nhi Pham

 

Tôi còn nợ anh món nợ TỐNG BIỆT HÀNH, nghĩa là sau nầy nghĩ lại, tôi thiển cận, nghĩa là anh ĐÚNG tôi SAI .
Hì hì

 

Nhi Pham Còn vụ Tống Biệt Hành, chúng ta “bắt tay” cho vui vẻ.

Tôi cũng thích lối phản biện văn chương của anh – rõ ràng, mạnh mẽ và “độc”.

 

Le Mai Linh Nhi Pham


OK. Bắt tay. Cảm ơn anh.
Lâu nay tôi vẫn lấn cấn đó 

 

Tóm lại, bình thơ không bàn thi pháp thường mắc những sai phạm sau đây:

 

1/ Đối xử với bài thơ như một đoạn văn, không hơn, không kém. Chỉ bình tán ý tứ mà quên Kỹ Thuật Thơ. Chỉ trả lời câu hỏi “Viết cái gì?” (What?) mà quên 2 câu hỏi quan trọng khác “Viết thế nào?” (How?) và “Viết trong tâm thế nào?” (In what state of mind?)

 

2/ Bất công.

 

     a/ Những bài thơ yếu kém về mặt thi pháp thì những điểm yếu kém không bị nhắc tới, làm giá trị bài thơ tự nhiên như được một bàn tay vô hình nâng lên một cách bất công. Tệ hại hơn nữa là nhà phê bình đã thổi vào hồn tác giả một niềm tự hào thiếu căn cứ để nảy sinh tâm lý tự mãn; thi sĩ quanh đi quẩn lại, bì bõm trong vũng sình lầy lội mà cứ ưỡn ngực như đang đi trên đại lộ thẳng hướng Bến Bờ Thi Ca. 

 

 

     b/ Những bài thơ vững vàng, tiến bộ về mặt thi pháp thì những bước chân khai phá ấy cũng bị lờ đi, ảnh hưởng đến việc nhìn nhận giá trị của bài thơ. Người nỗ lực học hỏi và may mắn có được những bước chân khai phá đi đúng hướng bến bờ thi ca như thế thì vì không có người biết chuyện chia sẻ, thông cảm, khuyến khích nên tâm trạng nửa tin, nửa ngờ, chân ngập ngừng, vừa bước vừa run; nếu bất ngờ đụng phải một trở ngại nhỏ cũng dễ dàng bỏ cuộc.

 

Kết Luận

 

Đọc Châu Thạch, rất nhiều độc giả (có cả tôi) công nhận anh là người đam mê, có lòng với văn chương và viết rất khỏe. Những bài bình thơ của anh, như từ một gia đình mắn con, cứ lũ lượt ra đời. Anh đem kinh nghiệm sống dầy dặn của mình vào những lời bình tán rất có duyên. Anh có cái “tật” là bình thơ chỉ khen, không chê. Trong trao đổi riêng, và cả trong tranh luận, tôi thỉnh thoảng cũng nhắc khéo anh điều này. Có lần anh nói với tôi nửa đùa nửa thật “Anh mới là bình thơ, còn tôi chỉ là nịnh thơ thôi”.

 

Riêng thi pháp, nói thì đao to búa lớn, về mặt thực dụng, thật ra là hình thức thơ, kỹ thuật thơ hoặc cách thi sĩ áp dụng (hay không áp dụng) “luật tắc” trong bài thơ của mình. Giữa mỗi “phương tiện thẩm mỹ” trong thi pháp đều có mối liên hệ nhân quả với cái hay, cái đẹp của cách diễn đạt ý tứ, nói khác đi, là giá trị nghệ thuật của bài thơ. Châu Thạch và một số những người bình thơ không bàn thi pháp khác đã chỉ tán cái “quả” mà quên cái “nhân”, quên trả lời câu hỏi “Tại sao lại có cái quả đẹp (hay xấu) như vậy?”

 

Bình thơ kiểu ấy là giết chết “tính thơ” của bài thơ. Nghĩa là giết chết thơ.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

CHÚ THÍCH:

 

1/ Cám ơn anh Nguyên Lạc đã cho phép tôi được đưa 2 đoạn nhận xét của anh vào bài viết này.

 

2/ Có những bài tứ thơ được dàn trải theo thứ tự thời gian. Lúc ấy dòng chảy của tứ thơ cũng là dòng thời gian. Nhưng cảm xúc cũng vẫn bị phân tán, không thể tạo cao trào, không thể có hồn thơ. Ông Đồ của Vũ Đình Liên là một thí dụ.