Thứ Tư, 24 tháng 1, 2018

LẠI HƯ CẤU NGHỆ THUẬT


                                               


Sau cơn bão Hayan, thành phố Tacloban (Philippines) bị tàn phá nặng nề, xác người nằm xếp lớp. Đọc tin tới đoạn “hơn 90% dân ở đây là tín đồ Thiên Chúa Giáo”, một thằng bạn “nặng tai”, chúng tôi thường gọi là “Kh. Điếc”, trong lúc ngồi uống cà phê đã phát biểu (rất bố láo):
“Chắc khi dự đoán sắp có thiên tai tao phải cho Chúa của mày mượn cái Hearing Aid quá.”
Phát biểu bố láo của Kh. Điếc đã gợi ý để tôi viết Hai Bài Thơ Một Niềm Tin.
Dưới đây là bài thứ nhất.


CHẮC NGÀI KHÔNG NGHE THẤY

Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho
                    (Mathew 7:7)
Khi siêu bão Haiyan
đang gầm gừ ở hướng đông
đài khí tượng tiên đoán
bão sắp tràn vào Tacloban (1)
Hơn 90 phần trăm dân ở đây
là con Chúa
sấp mình cầu nguyện
xin Chúa xót thương
Khi bão rít trên đầu
sóng biển dâng cao
tiếng kêu cầu càng lớn
càng khẩn thiết

Bão yên, nước rút
cảnh tượng thật kinh hoàng
thành phố tan hoang
xác người nằm xếp lớp
Cha xứ
mở cửa
ngôi giáo đường đổ nát
Chúa Giê-Su vẫn ngoẹo đầu
dang tay trên thánh giá
sợi dây điện
lủng lẳng dưới tai
Ai đó đã đeo cho ngài
một bộ máy trợ thính
(Hai Bài Thơ - Một Niềm Tin, PĐN, t-van.net)

Dĩ nhiên, đây là đoạn thơ “xạo” 100%. Sau cơn bão có ai vào nhà thờ đeo máy trợ thính cho tượng Chúa bao giờ. Tôi đã mượn hình ảnh không thật ấy để diễn tả nỗi buồn bực, thất vọng, pha chút oán trách của con người (có cả những người tin Chúa) đối với Thiên Chúa. Tôi đã dùng bài thơ sau để - với cái nhìn của mình - giải thích sự im lặng của Ngài. 

Chú Thích:
1/ Thủ phủ của Leyte
“Many of you lost everything. I don’t know what to say to you. Many have asked, why, Lord?” He said: “All I can do is keep silent.”  (Pope Francis said when visited Tacloban on 01/17/2015, 14 months after the Super Typhoon Haiyan.)
“Nhiều người trong số các con đã mất tất cả. Ta không biết phải nói gì với các con. Nhiều người đã hỏi, tại sao, Chúa ơi?” Rồi ngài nói: “Tất cả ta có thể làm là im lặng”(Đức Giáo Hoàng Francis nói khi viếng thăm Tacloban hôm 01/17/2015, 14 tháng sau Siêu Bão Haiyan)



XẠO NGHỆ THUẬT TRONG THƠ

Xạo Nghệ Thuật - Lối Nói Thậm Xưng

Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (2)

Thí dụ:

Trong bài thơ Muốn Gởi Cho Em của thi sĩ Phạm Hữu T (tặng Phượng Kim Ngọc Huỳnh) thì câu:

Muốn gởi cho em
chút gió biển Galveston

là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galveston (ở Mỹ) làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có lý trong nghệ thuật”.

Gió từ Mỹ gởi về:

để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.

Có lý quá đi chứ! Và hai câu kế tiếp:

nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát
rồi bồi hồi
nhớ nhớ thương thương.

vừa trữ tình lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo Lụa Hà Đông -  lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ mở đầu thật tuyệt vời. (3)

(Xin mở ngoặc nói thêm: Bài thơ là của Phạm Hữu T với cái tựa Muốn Gởi Cho Em; thí dụ trên được trích trong bài bình thơ Mối Tình Xuyên Lục Địa của tôi (PĐN)

Đây là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, nâng cao giá trị của bài thơ.

Xạo Nghệ Thuật – Ca Từ Trịnh Công Sơn

Nhiều người khen ca từ của Trịnh Công Sơn nhiều câu hay hơn cả thơ. Tôi chọn câu sau đây trong bài Như Cánh Vạc Bay:

Tóc em từng sợi nhỏ
rớt xuống đời làm sóng lênh đênh

Ôi! Chỉ có mấy sợi tóc nàng rớt xuống – không phải xuống hồ hay sông, biển - mà là xuống đời cũng đủ làm đời “dậy sóng”, làm biết bao phận người chao đảo, ngả nghiêng. Làm sao mà thực được. Nhưng lại rất đẹp, rất “thơ” và rất tuyệt. Nghe rất khoái, rất đã.


Tôi có cảm tưởng, bằng câu ca từ trên (và một số câu khác nữa), TCS không làm thơ nhưng ca từ của ông – không những đẹp hơn, hay hơn – mà hình như đã bước lên một tầng bậc mới, cao hơn hẳn thứ ngôn ngữ thường thấy ở trong thơ.

Thứ Năm, 18 tháng 1, 2018

NẾU BÀI THƠ CÓ NHIỀU "THÔNG ĐIỆP KÍN"

                               


Từ Một Câu Đố

Hồi nhỏ, một đám đông cả người lớn lẫn trẻ con trong đó có tôi, được ông hàng xóm ra câu đố:

Thân em lắm lớp nhiều lông
Đến khi khôn lớn lấy chồng miền xa
Ở nhà với cha thì còn toàn vẹn
Đi lấy chồng thì toạc hoác ra.

Đố là cái gì? Xuất: thực vật

Một hồi lâu không có ai lên tiếng và ông hàng xóm đưa ra câu trả lời: Trái bắp. Sau đó có người đưa ra câu trả lời khác: Búp măng. Ông hàng xóm (người ra câu đố) ngẫm nghĩ một hồi rồi (có lẽ thấy hợp lý) đã chấp nhận đó cũng là câu trả lời đúng.

Mà suy nghĩ thì thấy cả 2 câu trả lời đều hợp lý thật. Bắp và búp măng đều lắm lớp nhiều lông - vỏ bắp và vỏ búp măng đều nhiều lớp, râu bắp và lông măng thì ôi thôi, vô số kể. Đến khi “khôn lớn” sử dụng được thì bị người ta bẻ về (lấy chồng miền xa). Lúc dính vào thân cây thì “còn toàn vẹn”, khi đã về tay người thì họ bóc toạc hoác ra (để nấu ăn).

Bây giờ nhìn lại tôi thấy câu đố trên giống một bài thơ áp dụng thủ pháp Show, Do Not Tell. Sau khi hiểu nghĩa đen của câu đố, nghĩa là “bắt” được tứ thơ, nếu đi xa hơn để tìm ẩn ý của tác giả thì sẽ dựa vào dữ kiện được cung cấp trong câu đố để suy nghĩ, tự tìm ra câu trả lời. Trong trường hợp này ít nhất đã có 2 câu trả lời hợp lý, được chấp nhận – nghĩa là đoạn đường đi thêm sau khi “bắt” được tứ thơ có 2 điểm đến.

Đó là chuyện câu đố - giống thơ nhưng không phải thơ. Bây giờ mới thực sự bước vào thế giới thơ.

Bài Thơ “À Ra Thế” Vào Cuộc

Hôm nọ có một bạn FB tặng tôi 2 câu hỏi. Tôi mới trả lời câu hỏi thứ nhất ở bài trước. Hôm nay xin bước vào câu hỏi thứ hai:

Trên quãng đường đi tiếp để tìm “thông điệp kín” sau khi đã  “bắt” được tứ thơ nếu liên tưởng của mình không đến cùng chỗ với tác giả thì điểm đến của ai đúng?”

Tôi chọn bài thơ À Ra Thế mà chính tôi là tác giả để minh họa cho câu trả lời của mình vì 3 lý do:

1/ Đây là bài thơ mà đoạn đường đi tiếp sau khi đã “bắt” được tứ thơ có nhiều hơn một “thông điệp kín” - ẩn ý, ngụ ý của bài thơ.

2/ Tôi đã trao đổi với khá nhiều độc giả về bài thơ này, qua đó được chia sẻ một số “thông điệp kín” riêng của mỗi người. 

3/ Nếu sử dụng bài thơ khác thì lúc bàn đến “thông điệp kín”, tôi, với tư cách độc giả, lại phải đoán già, đoán non. Mà dù đoán dựa vào suy luận hợp lý (educated guess) thì cũng vẫn chỉ là đoán. Ở đây, vì là bài thơ của chính mình nên khi “thông điệp kín” được tiết lộ, độc giả biết ngay đó là của tác giả, không sợ trường hợp lao vào lý luận, giải thích đến đầu đến đũa thì tác giả lại bước ra tuyên bố “Xin lỗi! Quý vị đoán sai rồi. Đó không phải là ý của tôi.”


À Ra Thế!

Mấy đứa con tưởng tôi hà tiện
sợ tốn điện
hao tiền
thật ra
không phải vậy.

Thuở ấy
bụng tôi rất săn
chỉ hơi lên gân
sáu cục nổi lên cuồn cuộn

Phía dưới bụng
thằng Cu Tý
hùng dũng hiên ngang
tư thế sẵn sàng chiến đấu

Tắm xong đứng trước gương
càng nhìn càng thấy thương
càng nhìn càng hãnh diện

Bẵng đi mấy chục năm
một hôm đang tắm chợt nhìn lại mình
bụng không còn sáu cục
mà phình ra cao hơn ngực

Phía dưới bụng
thằng Cu Tý
gầy yếu xanh xao
gục đầu rũ
càng nhìn càng thấy buồn
càng nhìn càng tủi hổ

Từ đó
tôi có thói quen
tắm đêm
không mở đèn.

(Phạm Đức Nhì)

Tứ thơ: 

Thằng Cu Tý của tác giả, theo thời gian, bị thoái hóa, không những bất khiển dụng mà còn trông mất thẩm mỹ khiến tác giả phải tắm đêm, không mở đèn để khỏi phải nhìn thấy hình thù thảm não của nó; báo hại mấy đứa con lại tưởng rằng ông bố hà tiện (đến độ bủn xỉn), không mở đèn vì sợ tốn tiền điện.

Ẩn Ý Của Tác Giả

Hãy tính đến gánh nặng tuổi tác – nó đến lặng lẽ và bất ngờ - khi dự định kế hoạch cho cuộc sống.  

Một Số Điểm Đến Của Bạn Đọc

     a/ Một người mẫu thời trang:

Hương sắc, sức khỏe chỉ có một thời; còn làm được phải gắng làm để kiếm tiền dưỡng già.

     b/ Mấy tuyển thủ bóng rổ, bóng đá, bơi lội:

Tài năng, sức khỏe đỉnh cao chỉ có một thời; hãy tận sức khi có thể.

     c/ Một người sợ “phí của giời”:

Lúc còn chơi được hãy chơi tới bến, tận hưởng cuộc sống để sau này khỏi hối tiếc. Đèn sắp cạn dầu, đốt lên cho sáng cuộc đời.

     d/ Một sinh viên đại học (vừa học, vừa làm):

Học, làm việc, phục vụ nhưng cũng phải sống, phải chơi để khỏi phí tuổi thanh xuân.

     e/ Mấy thi sĩ, văn sĩ:

Còn sức khỏe, khả năng, phải gắng “rút ruột nhả tơ” cống hiến cho nhân loại.

     f/ Một người có tâm đạo (Phật):

Vạn vật đều trải qua 4 giai đọan thành, trụ, hoại, diệt, đó là vô thường; hãy chuẩn bị tâm lý thích hợp để đối diện với nó, chấp nhận nó.
    
Tóm lại, bạn đọc đưa ra khá nhiều “thông điệp kín”. Có một số trùng nhau, tôi lọc lại. Có một số không hợp lý, tôi loại ra. Nhưng tôi biết với tứ thơ “rộng mở” như À Ra Thế sẽ còn nhiều điểm đến khác nữa. Theo tôi, riêng bài thơ này, mỗi người, tùy hoàn cảnh, có thể chọn điểm đến cho riêng mình.

Kết Luận

Cho nên với câu hỏi

Trên quãng đường đi tiếp để tìm ‘thông điệp kín’ sau khi đã bắt được tứ thơ, nếu liên tưởng của mình không đến cùng chỗ với tác giả thì điểm đến của ai đúng?”

thì câu trả lời sẽ là:

Liên tưởng nào hợp logic và nằm trong vùng phủ sóng của tứ thơ cũng đúng và cũng sẽ được chấp nhận.

Nói cách khác, nếu sau khi độc giả “bắt” được tứ thơ mà bài thơ có nhiều “thông điệp kín” (hidden messages) thì độc giả, tùy hoàn cảnh hoặc khẩu vị riêng, có thể thả hồn về một điểm đến khác với điểm đến của tác giả mà vẫn được coi là người thưởng thức thơ sành điệu. Miễn sao liên tưởng của ngài hợp logic và nằm trong vùng phủ sóng của tứ thơ.





Thứ Năm, 11 tháng 1, 2018

ẨN DỤ TRONG "SÔNG LẤP"



                                 

Có một bạn đọc trẻ trên FB nhắn tin, đặt cho tôi hai câu hỏi:

1/ “Nếu sau tứ thơ có ẩn ý của tác giả mà mình là người đọc không cảm nhận được thì do lỗi của ai?
2/ "Trên quãng đường đi tiếp để tìm 'thông điệp kín' sau khi đã "bắt" được tứ thơ, nếu liên tưởng của mình không đến cùng chỗ với tác giả thì điểm đến của ai đúng?”

Để trả lời hai câu hỏi rất xác đáng ấy tôi sẽ giới thiệu một số bài thơ có ẩn ý của tác giả (hidden messages) để cùng bạn đọc thảo luận.

Như tôi đã viết trong bài Chức Năng Truyền Thông Của “Cánh Đồng”:

Thơ của những thi sĩ non tay thường là “tứ hết thì ý cũng chẳng còn”. Bước chân vào “điểm đến của tứ thơ” là người đọc có quyền ung dung ngơi nghỉ. Hành trình thưởng thức thơ của ngài đã chấm dứt. Ngược lại, với bài thơ của thi sĩ cao tay, khi người đọc vào “điểm đến của tứ thơ”, nếu muốn, ngài có quyền thả hồn đi tiếp. Và cái hay, cái đẹp thực sự của thơ, cái đem lại cho người đọc rất nhiều khoái cảm thường tụ hội ở đoạn đường đi tiếp ấy.

                       SÔNG LẤP
               Sông xưa rày đã nên đồng
              Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
              Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
              Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
              (Trần Tế Xương)

Dựa vào 2 câu cuối của bài thơ tôi có thể suy luận ra mấy điều sau:

     a/ Khúc sông Vị Hoàng chảy qua khu nhà của Tú Xương thuộc làng Vị Xuyên không có cầu bắc qua sông.
     b/ Nhà ông Tú không ở sát, nhưng cũng không xa bến đò ngang lắm; ở đấy có thể nghe được tiếng gọi đò vọng lại.
     c/ Ông rất nặng lòng với khúc sông đầy kỷ niệm, với quãng đời lúc con sông chưa bị lấp, đến nỗi chỉ “vẳng nghe tiếng ếch bên tai” ông cũng giật mình tưởng tiếng gọi đò từ những năm xưa cũ.

Nhưng nếu “vẳng nghe tiếng ếch bên tai” mà người đọc chỉ tưởng “tiếng ai gọi đò” để từ đó nhớ đến bến đò ngang cạnh nhà ông và rồi đến con sông Vị Hoàng ngày xưa (nay đã bị lấp) thì … bất công với Tú Xương quá. Nếu dòng liên tưởng chỉ dừng ở đấy thì bài thơ đã bị giảm đi ít nhất 90% giá trị nghệ thuật. Nếu chỉ có thế người ta đâu có gọi Sông Lấp là “tiếng thở dài thế sự” của Tú Xương.

Dĩ nhiên, ông cũng nhớ đến con sông mà vợ ông đã “quanh năm buôn bán” ở đó để nuôi sống một gia đình đông đúc “năm con với một chồng”. Nhưng con sông chỉ đóng vai chiếc cầu để ông trở về cái thời tạm gọi là vàng son của ông, cái thời còn ngồi chiếu tiên chỉ của làng Vị Xuyên, cái thời mà mọi người gọi ông là Ông Tú với giọng kính trọng một nhà nho có văn tài, cái thời ông còn tràn trề hy vọng khi nghĩ đến kỳ thi sắp tới, và trong lòng ông, niềm tin ở quê hương đất nước vẫn còn rực sáng.

Còn cái lúc ông viết Sông Lấp, ách cai trị của người Pháp đã lan tỏa, đã xâm nhập vào mọi ngõ ngách của cuộc sống người dân Việt, nền Nho học đang lụi tàn, con đường tương lai của ông đang đi vào ngõ cụt. Ông đành quay lại nhìn, nuối tiếc cái thời xa xưa ấy để rồi buông “tiếng thở dài thế sự”.

Cái thú khi đọc một bài thơ có phép ẩn dụ – tác giả   nói về cái này mà ngụ ý cái kia – là lần theo tứ thơ để tìm, để khám phá ý của tác giả. Phép ẩn dụ càng kín thì, khi người đọc, bằng khả năng liên tưởng của mình, hiểu được, cảm thông được tâm tình mà tác giả muốn chia sẻ, sự ngạc nhiên và thích thú càng gia tăng, bài thơ càng được đánh giá cao.

Phép ẩn dụ trong Sông Lấp rất kín, kín đến nỗi ngay cả có người bình bài thơ ấy cũng không thấy được, cảm được ẩn ý của tác giả. (1) Có thể nói Sông Lấp không phải là một đoàn quân trùng trùng, điệp điệp, nhưng lại có bề thế của một mặt trận, một điệp vụ tình báo siêu đẳng, đưa được những điệp viên thượng thặng, bí mật nằm giữa bộ chỉ huy của quân địch.

Phép ẩn dụ ấy được kết hợp một cách tài tình với thủ pháp “show, not tell”, tạo ra một chuỗi những chiếc cầu liên tưởng, dẫn người đọc đi từ hình tượng này đến hình tượng khác. Từ tiếng ếch kêu, trong hoàn cảnh riêng của mình, trong tâm tình riêng của mình, nhà thơ “tưởng tiếng ai gọi đò”. Đây là một liên tưởng rất riêng tư; nếu ông không bộc bạch, bày tỏ thì người đọc khó có thể đoán ra được. Biết thế nên ông đã đưa tay dắt chúng ta bước lên chiếc cầu đầu tiên. Đến 2 chiếc cầu liên tưởng kế tiếp thì người đọc đã có thể tự mình qua được; từ tiếng gọi đò nhớ bến đò ngang, từ bến đò ngang nhớ con sông Vị Hoàng ngày xưa, nay đã bị lấp.

Khi từ con Sông Lấp đặt chân lên chiếc cầu sau cùng, bằng vốn kiến thức về lịch sử, văn học sử, cộng với một chút trực giác thi ca, người đọc sẽ bắt gặp nỗi lòng sâu kín của nhà thơ: nhớ thương, tiếc nuối cái thời tạm gọi là vàng son của mình, cái thời Nho học vẫn còn chỗ đứng khá trang trọng trong đời sống người dân Việt. Và người đọc sẽ tròn xoe mắt “À” lên một tiếng khoái trá.


Lời Bàn:


Nếu bạn hiểu rằng qua bài thơ, tác giả bày tỏ “nỗi tiếc nhớ con sông Vị Hoàng (nay đã bị lấp) đã cùng với gia đình ông trải qua một quãng đời đầy kỷ niệm” thì bạn đã bắt được tứ thơ. Chức năng truyền thông của bài thơ đã thành công. Bạn – cũng như một số người đọc khác – không đủ nhạy cảm để thả hồn đi tiếp cũng là chuyện thường tình. “Không phải tại anh cũng không phải tại em”. Tác giả và người đọc đều hoàn thành nhiệm vụ. Chả ai có lỗi cả.
 
Nếu hồn thơ của bạn đến được chỗ ông Tú Vị Xuyên “nhớ thương, tiếc nuối cái thời tạm gọi là vàng son của mình, cái thời Nho học vẫn còn chỗ đứng khá trang trọng trong đời sống người dân Việt” thì bạn đã hiểu trọn vẹn cả tứ lẫn ý của bài thơ. Với tôi, độ nhạy cảm và trình độ thưởng thức thơ của bạn rất đáng nể.

Còn nếu bạn muốn suy nghĩ khác người, cho rằng “Ông Tú bàng hoàng nhớ đến con sông nhiều kỷ niệm vì đã có mối tình với một cô đầu nào đó ở cạnh bờ sông” thì đó cũng là quyền của bạn. Nhưng khi suy nghĩ của bạn xuất hiện trên văn bản – trong trường hợp này - tôi đoan chắc bạn sẽ lãnh đủ búa rìu dư luận. (2)

CHÚ THÍCH:

1/ Về Bài Thơ Sông Lấp Của Trần Tế Xương, Vũ Bình Lục, 

2/ Trong bài sau tôi sẽ giới thiệu bài thơ mà ẩn ý của tác giả (hidden messages) có nhiều hơn một điểm đến.



Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018

BẢN ĐỒ TRONG THƠ

BẢN ĐỒ TRONG THƠ

                     

Như đã nói trong bài Tấm Bản Đồ Vẽ Sai, bài thơ ngoài những nhiệm vụ khác, còn là tấm bản đồ chỉ đường để độc giả đến đúng cánh cửa trái tim của tác giả, hiểu được tâm trạng, cảm xúc của ngài gởi gấm trong tứ thơ (open message). Còn đồng ý, đồng cảm hay không, hoặc thưởng thức được cái cái hay, cái đẹp (và thấy được cả cái dở) của bài thơ ở mức độ nào, lại là chuyện khác.

Có bài thơ tấm bản đồ của nó dễ đọc, độc giả dễ đi đúng đường, đến đúng chỗ (điểm đến của tứ thơ), như thơ của Nguyễn Bính chẳng hạn. Nhưng cũng có những bài thơ có ngôn ngữ, hình tượng, cấu trúc câu và thế trận “cao” hơn nên tấm bản đồ của những bài thơ này khó đọc hơn, và do đó, kén độc giả hơn. Ở đây thi sĩ nhắm vào số độc giả trình độ cao hơn, có “bộ máy tiêu hóa” mạnh hơn; Thơ Vũ Hoàng Chương là một thí dụ. 

Độc giả ở "tầng cao" đọc thơ ở "tầng thấp" thì khỏi nói, rất dễ dàng, có thể cảm nhận trọn vẹn ý tứ của tác giả. Ngược lại, độc giả ở "tầng thấp" đọc những bài thơ ở "tầng cao" quả có hơi khó khăn, mức độ cảm nhận không được nhiều..

Như vậy, có thể nói trình độ đọc và hiểu thơ (chưa nói đến thưởng thức) của độc giả rất khác nhau. Chia ra làm 2 loại cao và thấp - rất gượng ép- cũng chỉ là để lấy cớ bàn đến việc “vẽ bản đồ” sau này. Và cũng nên để ý một điều. Bài thơ có ngôn ngữ, hình tượng, cấu trúc câu và thế trận ở “tầng cao” không hẳn lúc nào cũng hay hơn, cũng có giá trị nghệ thuật cao hơn bài thơ ở “tầng thấp”. Rất nhiều khi ngược lại. Nhưng rõ ràng là có khác biệt - có cao, có thấp.

Vì có 2 loại độc giả ở 2 hạng cao thấp khác nhau nên hay có trường hợp đổ thừa. Một số thi sĩ muốn tạo mới lạ, đã viết loạn xạ, chẳng để ý gì đến chức năng truyền thông của thơ. Đến khi bị độc giả phàn nàn là thơ tối nghĩa, khó hiểu, thậm chí không thể hiểu được thì đổ thừa tại độc giả ở “tầng thấp”, còn thơ của ngài thì ở mãi “tầng cao”. Cũng có một số nhà thơ thuộc trường phái “Đem Con Bỏ Chợ”. “Thơ của họ, cứ vài câu lại dẫn người đọc đến “bùng binh”, có đến 6, 7 ngã rẽ mà không có lời chỉ dẫn đi về hướng nào nên người đọc cứ phải … đi đại và rồi bám theo tứ thơ chừng nửa bài là “bơ  vơ  giữa chợ“, “lạc nẻo đường tình”. (1)

CHÚ THÍCH

1/ "Người Từ Tinh Cầu Khác" Trong "Cánh Đồng"

Thứ Năm, 4 tháng 1, 2018

TẤM BẢN ĐỒ VẼ SAI



Chọn lô đất tốt xây được ngôi nhà mới
ông mở tiệc mừng tân gia
“Đến chơi! Hay lắm!”
thư ông viết
mời bằng hữu gần xa

Ngay giữa trang thư một bản đồ
dọc ngang tự tay ông vẽ
và lời chỉ dẫn cặn kẽ
đường đi nước bước đến cuộc vui

Giờ hẹn đến rồi
chưa thấy bóng khách mời nào xuất hiện
đồ ăn nguội lạnh
bàn tiệc vẫn vắng tanh

Vài ngày sau
ông nhận được mấy thư trả lời
trong thư chỉ vỏn vẹn:
“Xin lỗi!
Không tìm thấy nhà.”

PHẠM ĐỨC NHÌ

Lời Bình Ngắn:

Ngoài chức năng thẩm mỹ - truyền cho người đọc cái hay, cái đẹp của văn chương nói chung và nghệ thuật thi ca nói riêng – bài thơ còn có một chức năng khác không kém phần quan trọng: Chức năng truyền thông.

Bài thơ nào cũng chứa một thông điệp mở (open message) mà tác giả muốn chuyển đến người đọc. Để hoàn thành chức năng truyền thông bài thơ phải vừa là thông điệp vừa đồng thời là tấm bản đồ chỉ đường để người đọc theo đó tới đúng bến bãi, hiểu được thông điệp, “bắt” được tứ thơ. Tứ thơ chính là cái thông điệp mở ấy. Nói nôm na là nghĩa đen của bài thơ

Nếu người đọc không “bắt” được tứ thơ nhiều phần là do chức năng truyền thông của bài thơ thất bại – nghĩa là do lỗi của tác giả.

Có nhiều bài thơ - nếu tác giả sử dụng ẩn dụ hoặc Show, Not Tell - còn có thông điệp kín (hidden message), nghĩa bóng của bài thơ. “Bắt” được thông điệp kín hay hiểu được nghĩa bóng của bài thơ là do trình độ hoặc mức nhạy cảm của người đọc. Nếu người đọc không "bắt" được thông điệp kín xin đừng đổ thừa tại tác giả. 

Bài thơ Tấm Bản Đồ Vẽ Sai cũng chứa một thông điệp kín liên quan đến chức năng truyền thông của bài thơ. Rất hy vọng các bạn đọc trẻ - dù ít kinh nghiệm - cũng có thể “bắt” được cái thông điệp kín ấy.

PHẠM ĐỨC NHÌ
nhidpham@gmail.com


Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2017

"NGƯỜI TỪ TINH CẦU KHÁC" TRONG "CÁNH ĐỒNG"

Rất vui nhận được bài Hồi Đáp Bạn Nhi Pham Về “Cánh Đồng - Một Bài Thơ Lạ” của bạn Vũ Đức. Tôi xin phép chia “Hồi Đáp” của bạn làm 3 phần chính để trả lời cho có lớp lang, bạn và người đọc dễ dàng theo dõi.

1/

Tại sao phải là người ngoài hành tinh chứ không thể khác? Tại sao tác giả thơ không một lần gặp mà biết họ già hay trẻ, xấu hay đẹp, biết những dấu vết còn lại trên cánh đồng là một thứ phương tiện bay nào đó mà Đông, Tây, Kim, Cổ chưa từng một lần thấy? 

Chỉ có tác giả mới có thể trả lời câu hỏi này của bạn rõ ràng và đầy đủ nhất. Hy vọng khi bài viết này đăng bạn sẽ nhận được câu trả lời từ anh ấy. Với nhận xét chủ quan của một người bình thơ, trong trường hợp Cánh Đồng, tôi thích sự lựa chọn “người từ tinh cầu khác” của tác giả. Nó là sự đột phá, giúp - về phương diện tứ thơ – đưa bài thơ vượt lên phía trước so với một số thi sĩ khác cùng viết về chủ đề “chữ dâm” này. (Tôi đã so sánh với Đậu Thị Thương và Đinh Thị Thu Vân). Nếu chọn “một người phi phàm nào khác” chẳng hạn, độ mới lạ làm sao sánh được với Đinh Thị Thu Vân khi chị “rao bán trái tim” mà:

không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh…
(Trái Tim Rao Bán – Bài Thơ Đầy Bản Sắc, Đinh Thị Thu Vân, t-van.net) (1)

Về phương diện kỹ thuật, theo tôi, đó là một thủ pháp được thực hiện rất thành công. Riêng về kịch bản, như tôi đã nêu trong bài bình thơ, là chỗ yếu của bài thơ. Nó đặt ra nhiều câu hỏi khó trả lời thỏa đáng – như câu hỏi thứ hai của phần 1 này chẳng hạn.


2/

Tôi thống nhất với bạn Nhi Pham khi ví bài thơ như một cây cầu duy nhất. Trong khi bản thân nó là rộng hẹp bất tư. Cả bước trên mặt cầu, và cả phải cởi bỏ trang phục dầm người lội mới mong qua cầu. Cha mẹ ơi, mới là thơ mới. Mới đến mức để hiểu nó, hoặc là giống chuột lụt. Hoặc nguyên xi như lúc bà mụ vừa nặn thành ta. Đúng là mới như vừa sinh hạ. 

Nguyễn Hưng Quốc cho rằng “Thơ là cảm xúc đi tìm một đồng cảm”. Làm thơ là đem suy nghĩ, tâm trạng của mình trải trên trang giấy (bằng kỹ thuật thơ) để có người đọc, hiểu và chia sẻ những suy nghĩ, tâm trạng ấy của mình. Muốn thế, tứ thơ, ngoài những nhiệm vụ khác, phải là con đường đễ người đọc theo đó đến với cánh cửa trái tim của tác giả.

Cũng như bạn Vũ Đức, tôi rất ngán những bài thơ của những thi sĩ theo trường phái “Đem Con Bỏ Chợ”. Thơ của họ, cứ vài câu lại dẫn người đọc đến “bùng binh”, có đến 6, 7 ngã rẽ mà không có lời chỉ dẫn đi về hướng nào nên người đọc cứ phải … đi đại và rồi bám theo tứ thơ chừng nửa bài là “bơ  vơ  giữa chợ“, “lạc nẻo đường tình”. Tôi đã nhiều lần được mời “ăn tân gia” nhưng vì bị chỉ đường sai nên không đến được ngôi nhà mới – nơi đãi tiệc.

 Tấm Bản Đồ Vẽ Sai

Chọn lô đất tốt xây được ngôi nhà mới
ông mở tiệc mừng tân gia
“Đến chơi! Hay lắm!”
thư ông viết
mời bằng hữu gần xa

Ngay giữa trang thư một bản đồ
dọc ngang tự tay ông vẽ
và lời chỉ dẫn cặn kẽ
đường đi nước bước đến cuộc vui

Giờ hẹn đến rồi
chưa thấy bóng khách mời nào xuất hiện
đồ ăn nguội lạnh
bàn tiệc vẫn vắng tanh

Vài ngày sau
ông nhận được mấy thư trả lời
trong thư chỉ vỏn vẹn:
“Xin lỗi!
Không tìm thấy nhà.” (2)


Ngược lại, có những bài thơ đường đến “bến bãi” rất dễ đi nhưng lạc thú thưởng thức cái đẹp trên đường đi thì quá ít mà đến “bến bãi” rồi thì “hết”.

 Thơ của những thi sĩ non tay thường là “tứ hết thì ý cũng chẳng còn”. Bước chân vào “điểm đến của tứ thơ” là người đọc có quyền ung dung ngơi nghỉ. Hành trình thưởng thức thơ của ngài đã chấm dứt. Ngược lại, với bài thơ của thi sĩ cao tay, khi người đọc vào “điểm đến của tứ thơ”, nếu muốn, ngài có quyền thả hồn đi tiếp. Và cái hay, cái đẹp thực sự của thơ, cái đem lại cho người đọc rất nhiều khoái cảm thường tụ hội ở đoạn đường đi tiếp ấy.
(Chức Năng Truyền Thông Của Cánh Đồng, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com) (3)

Có đoạn ca dao 4 câu tôi thuộc lòng từ hồi còn nhỏ vì mẹ tôi thường hát ru mấy đứa em:

Rau răm ngắt ngọn lại giồng (trồng)
Em yêu anh lắm sợ lòng chị ghen
Anh về bảo chị đừng ghen
Để em thấp thoáng bên đèn cho vui

Nhưng gần ba chục năm liền tôi vẫn không hiểu tại sao các cụ ta lại đưa cái câu vớ vẩn, lạc quẻ “Rau răm ngắt ngọn lại giồng” vào đoạn ca dao ấy. Đến khi tình cờ được ông bác họ giải thích cho hiểu, tôi thấy hay quá, cái cảm giác “sướng” cứ bám lấy tôi mấy ngày liền. Đúng là tôi đã phải “cởi quần áo bỏ vô bọc ny lông – chỉ mặc quần lót – bơi qua.” để hiểu được ý một câu ca dao. (Xin bạn Vũ Đức hiểu nghĩa bóng của câu “cởi quần áo…” chứ nếu cứ đè câu văn ra hiểu theo nghĩa đen thì “kẹt” nhau quá.) Thật ra, ý của câu ấy chẳng cao xa gì (khi đã biết); thế giới thi ca có nhiều bài cái ý ở đàng sau tứ thơ muốn hiểu ra còn khó hơn nhiều.

3/

Có điều, dù tư duy có trừu tượng đến đâu, cái không có cứ là không có. Cũng giống như không thể bổ cuốc vào mây trời và thấy một con “giun mây“ như ta vẫn đào giun dưới đất. Không có trực quan sinh động, Mọi tư duy hoặc là khiên cưỡng, hoặc là điêu ngoa. Logic là bất biến. Ngôn ngữ có hào nhoáng, câu cú có long lanh mấy mà phi thực tế, mà bịa đặt đều tỷ lệ nghịch với mọi cảm nhận.

Bạn Vũ Đức nói có lý. Nhưng có lẽ bạn quên 2 điều: Sự xê dịch của kịch bản thơ và lối nói thậm xưng.

Xạo Vì Xê Dịch Kịch Bản Thơ

Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện.
Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là một người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy. Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được. (4)

Mời đọc đoạn kết bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:

            Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
            Nhà gái ăn 
chín nghìn cau
            Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu 
chín nghìn
            Lang thang tôi dạm bán thuyền
            Có người giả 
chín quan tiền, lại thôi.
 
Tôi không tin là trong thực tế, con số 
chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn. Ở đây thủ pháp “bày tỏ, không kể lại” được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời. (5)

Với đôi mắt chi li kiểu toán học như anh Vũ Đức đọc đoạn thơ trên chắc là bực mình lắm?


Lối Nói Thậm Xưng – “Xạo” Nghệ Thuật

Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (6)

Sau đây tôi xin nêu ra một số câu thơ “xạo” một cách nghệ thuật.

A/ 

Con ho ngực mẹ tan tành
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi        

Đây là 2 câu lục bát trong bài “học thuộc lòng” thuở tôi còn học Lớp Tư (lớp 2 bây giờ). Câu này đọc lên nghe rất phi logic. Con ho thì ngực con đau chứ làm sao ngực mẹ lại “tan tành”? Con sốt thì người con nóng chứ sao lòng mẹ lại như bình nước sôi? Nhưng làm mẹ là như thế. Thương con đến mức “đau cả cái đau của con”. Nó diễn tả - rất đẹp, rất thơ - cái tình thương bao la của người mẹ đối với đứa con máu thịt của mình. Anh Vũ Đức nghĩ sao về cái “xạo” trong 2 câu thơ ấy?

B/

Muốn gởi đến em một áng mây 
lại sợ sẽ mưa làm Sài Gòn ngập nước
chưa kịp về nhà
người ta sũng ướt
mình ở xa
“con bệnh”
ai chăm nom?
(Muốn Gởi Cho Em, Phạm Hữu T, Facebook Phượng Kim Ngọc Huỳnh)

Anh chàng Phạm Hữu T này phải nói là “xạo tới bến”.  Ở tận nước Mỹ mà “Muốn gởi cho em một áng mây” trong khi em ở mãi Sài Gòn. Nhưng cái phi logic – làm đảo lộn cái trật tự đời thường, tạo đột phá trong thơ ca - ấy kết hợp với 3 câu thơ sau lại rất logic trong nghệ thuật. Phượng Kim Ngọc Huỳnh nghe chắc phải thấy mát từng khúc ruột.

D/

Sau cơn bão Hayan, thành phố Tacloban (Philippines) bị tàn phá nặng nề, xác người nằm xếp lớp. Đọc tin tới đoạn “hơn 90% dân ở đây là tín đồ Thiên Chúa Giáo”, một thằng bạn “nặng tai”, chúng tôi thường gọi là “Kh. Điếc”, trong lúc ngồi uống cà phê đã phát biểu (rất bố láo):
“Chắc khi dự đoán sắp có thiên tai tao phải cho Chúa của mày mượn cái Hearing Aid quá.”
Phát biểu bố láo của Kh. Điếc đã gợi ý để tôi viết Hai Bài Thơ Một Niềm Tin.(7) Dưới đây là đoạn kết của bài thứ nhất - Chắc Ngài Không Nghe Thấy:

Bão yên, nước rút
cảnh tượng thật kinh hoàng
thành phố tan hoang
xác người nằm xếp lớp
Cha xứ
mở cửa
ngôi giáo đường đổ nát
Chúa Giê-Su vẫn ngoẹo đầu
dang tay trên thánh giá
sợi dây điện
lủng lẳng dưới tai
Ai đó đã đeo cho ngài
một bộ máy trợ thính
(Hai Bài Thơ - Một Niềm Tin, PĐN, t-van.net) (7)

Dĩ nhiên, đây là đoạn thơ “xạo” 100%. Sau cơn bão có ai vào nhà thờ đeo máy trợ thính cho tượng Chúa bao giờ. Tôi đã mượn hình ảnh không thật ấy để diễn tả nỗi buồn bực, thất vọng, pha chút oán trách của con người (có cả những người tin Chúa) đối với Thiên Chúa. Tôi đã dùng bài thơ sau để - với cái nhìn của mình - giải thích sự im lặng của Ngài. 

E/

Cánh Đồng 

Đoạn kết của bài thơ:

Khi chúng tôi đến đó
Người đàn ông đã đi rồi
Chỉ còn lại trên đồng lúa
Vết xước của dĩa bay mà thôi 

Như đã trình bày ở phần 1, sự lựa chọn “người từ tinh cầu khác” của Nguyễn Đức Tùng là rất “đắt”, rất nghệ thuật. Với kỹ thuật thơ điêu luyện - kết hợp Show, Not Tell, lối nói thậm xưng và thế trận “cắt cầu” – anh đã tạo được một đoạn kết hoàn hảo, gây ấn tượng mạnh mẽ. Với óc tưởng tượng phong phú, anh đã mở rộng đến mức tối đa quyền tự do của phụ nữ trong việc thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình.

Cao Hơn Một Mức – Ca Từ Trịnh Công Sơn

Nhiều người khen ca từ của Trịnh Công Sơn nhiều câu còn hay hơn cả thơ (nhưng ít ai giải thích). Tôi chọn câu sau đây trong bài Như Cánh Vạc Bay:

Tóc em từng sợi nhỏ
rớt xuống đời làm sóng lênh đênh

Ôi! Chỉ có mấy sợi tóc nàng rớt xuống – không phải xuống hồ hay sông, biển - mà là xuống đời cũng đủ làm đời “dậy sóng”, làm biết bao phận người chao đảo, ngả nghiêng. Làm sao mà thực được. Cây cầu liên tưởng không chỉ bị cắt một, hai nhịp mà đã được tháo bỏ hoàn toàn để còn lại một dòng sông mênh mông. Nhưng người đọc nhạy cảm vẫn thấy có cái gì đó gần gũi, mời gọi và quyết tâm vượt qua. Và khi bằng cách nào đó qua được bờ bên kia thì lại thấy câu ca từ ấy “xạo tổ” nhưng rất đẹp, rất “thơ” và rất tuyệt. Nghe rất khoái, rất đã.

Tôi có cảm tưởng, TCS không làm thơ nhưng ca từ của ông, nhiều câu không những đẹp hơn, hay hơn mà hình như đã bước lên một tầng bậc mới, cao hơn hẳn nhiều loại ngôn ngữ thường thấy ở trong thơ.

Kết Luận

Đến đây chắc bạn Vũ Đức đã thấy tôi chẳng điêu ngoa tí nào. Tôi đã đem đến tận mắt bạn những câu thơ rất “xạo” nhưng mức độ “xạo” lại tỉ lệ thuận với cảm giác thích thú của người đọc. Độ “xạo” càng cao thì người đọc càng “sướng”.

Một số bạn đọc yêu thơ quen biết đã bày tỏ thiện cảm với bài thơ và tán thành nhận xét của tôi trong bài bình thơ Cánh Đồng - Một Bài Thơ Lạ. Dĩ nhiên, cũng có nhận xét trái chiều. Với một bài thơ lạ, đó là chuyện bình thường. Nhưng mặc dù có khuyết điểm, với cách nhìn thơ của tôi, đây là bài thơ hay, thành công. Và để có sự thành công đó, lối nói thậm xưng – đưa “người từ tinh cầu khác” vào bài thơ – đã đóng góp một phần không nhỏ.

Phạm Đức Nhì

CHÚ THÍCH:

6/ (Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ ‘Xạo’”, Diên Hồng Dương)

PHỤ LỤC:

Sau mấy lần thư qua, bài lại, cuộc tranh luận văn học giữa anh Vũ Đức và tôi (Phạm Đức Nhì) đã kết thúc trong sự cảm thông và không khí hòa nhã. Xin được đăng lại trao đổi mới nhất của hai người.

Vũ Đức: Tôi vừa đọc xong những ý kiến của anh (xin anh cho phép thay đổi cách xưng hô). Cảm tưởng đầu tiên của tôi là: Tôi đang được hân hạnh đối thoại với một người có học vấn uyên thâm mà khiêm nhường. Thông tuệ nhưng kiên nghị.
Nghĩa là để thoả mãn tôi, và anh trong cuộc trao đổi này, cho phép tôi được cân nhắc hơn trong ý kiến của mình. Rất mong được anh cho phép. Trân trọng.

Nhi Pham Tôi cũng rất vui được trao đổi với anh (cũng thay đổi cách xưng hô). Chúc anh Vũ Đức năm mới 2018 vui khỏe, gia đình hạnh phúc.



    

Thứ Bảy, 23 tháng 12, 2017

CHỨC NĂNG TRUYỀN THÔNG CỦA "CÁNH ĐỒNG"

                                                                 

Từ Bình Luận Của Bạn VŨ ĐỨC Trên Facebook

Dưới bài viết Cánh Đồng - Một Bài Thơ Lạ của tôi (PĐN) trên trang Vạn Nẻo Tình Thơ bạn Vũ Đức đã có một bình luận rất hay như sau:

Tôi thì không nghĩ thế. Dù đã đọc. Đọc, và đọc lại. Nhận thức của tôi còn lại là: Thơ đọc mà không hiểu, có thể do "sức khoẻ" bạn đọc. Nhưng cũng có thể do “sức khoẻ” người viết. Mới đến đâu mà bạn yêu thơ lắc đầu không hiểu, thì thơ dễ không là thơ nữa. Cái thông tuệ, uyên bác không đồng nghĩa với phải nhận thức giống những đánh đố, đồng điệu với mình không thể hiểu là cho nó một cái tên siêu nọ hay tuyệt kia. Những bài vừa rồi, nếu nói là thơ, tôi nghĩ, thơ ca VN đang có vấn đề. (1)

Dựa vào vốn ngữ vựng, câu văn, sự hiểu biết về văn chương và khả năng diễn tả ý tưởng bằng văn chương, tôi, không đoán, mà biết chắc rằng bạn Vũ Đức là người sành sõi trong thế giới chữ nghĩa. Bạn đã đọc đi đọc lại bài thơ Cánh Đồng (và mấy bài trong phần phụ lục) mà vẫn không hiểu. Và bạn cho rằng “Thơ đọc mà không hiểu, có thể do ‘sức khỏe’ bạn đọc. Nhưng cũng có thể do ‘sức khỏe’ người viết.” Bạn dùng hai chữ “sức khỏe” rất hay và tôi rất khoái.


“Sức Khỏe” Của Nguyễn Đức Tùng Trong Bài Thơ CÁNH ĐỒNG

Tôi không học Y Khoa nhưng cũng liều đeo ống nghe để khám “sức khỏe” cho anh Nguyễn Đức Tùng (người viết). Riêng bạn Vũ Đức (người đọc) thì tôi sẽ cố diễn giải kỹ càng, tỉ mỉ bài thơ để bạn đọc lại một lần nữa và sau đó sẽ tự đánh giá tình trạng “sức khỏe” (đọc thơ) của mình. Cuộc khám này chỉ giới hạn ở chức năng truyền thông – nghĩa là xét xem chữ nghĩa của thi sĩ có đủ rõ ràng mạch lạc để người đọc “bắt” được tứ thơ hay không mà thôi.

Trước hết xin trích 5 câu đầu của bài thơ:

Sau ba năm chung thủy
Với người chồng đi xa
Chị đã thất tiết một cách lạ kỳ
Với người đàn ông xấu xí
Già hơn chị rất nhiều

Nguyễn Đức Tùng đã diễn đạt rất rõ ràng, ngôn ngữ và cách hành văn của anh có thể nói là tối giản, tôi cố tóm tắt nhưng chắc cũng không gọn hơn được bao nhiêu:

Chồng đi xa, sau ba năm chung thủy, chị đã ăn nằm với người đàn ông khác, xấu xí và già hơn chị nhiều.  

Tiếp theo là 5 câu cuối:

Trong một buổi chiều bão tố
Khi chúng tôi đến đó
Người đàn ông đã đi rồi
Chỉ còn lại trên đồng lúa
Vết xước của dĩa bay mà thôi

Một buổi chiều bão tố, tác giả (và vài người khác) đến đó thì người đàn ông đã ra đi, chỉ còn lại trên đồng lúa vết xước của dĩa bay.

Ở 2 câu cuối, tác giả đã sử dụng thủ pháp Show, Not Tell đơn giản (cắt bớt một nhịp cầu), người đọc dựa vào chi tiết “vết xước của dĩa bay trên đồng lúa” để suy ra “người đàn ông ấy đến từ một tinh cầu khác”.  

Gộp lại, tứ thơ sẽ là:

Sau ba năm chung thủy với người chồng đi xa, người phụ nữ đã ăn nằm với người đàn ông ở tinh cầu khác.

Người đọc hiểu được như vậy là tác giả đã hoàn thành nhiệm vụ đưa họ tới “bến bãi” (điểm đến của tứ thơ). Chức năng truyền thông của bài thơ thành công.

Tuy nhiên, ý của NĐT trong Cánh Đồng không phải ngừng ở đó. Đối với cách hành xử “ăn nằm với người đàn ông ở tinh cầu khác” của người phụ nữ, người đọc có thể chấp nhận hoặc phản đối. Và thái độ chấp nhận hoặc phản đối ấy sẽ chạm đến chữ Dâm, nhu cầu thỏa mãn “cái khoái thứ ba”- rất nhân bản của con người.

Thơ của những thi sĩ non tay thường là “tứ hết thì ý cũng chẳng còn”. Bước chân vào “điểm đến của tứ thơ” là người đọc có quyền ung dung ngơi nghỉ. Hành trình thưởng thức thơ của ngài đã chấm dứt. Ngược lại, với bài thơ của thi sĩ cao tay, khi người đọc vào “điểm đến của tứ thơ”, nếu muốn, ngài có quyền thả hồn đi tiếp. Và cái hay, cái đẹp thực sự của thơ, cái đem lại cho người đọc rất nhiều khoái cảm thường tụ hội ở đoạn đường đi tiếp ấy.

Thích bình thơ nên tôi chỉ khám “sức khỏe” thi sĩ. Mà chỉ dám khám trong từng bài thơ chứ không “bạo mồm” như vài nhà phê bình khác - giới thiệu cả một tập thơ mà phán “bài nào cũng hoàn hảo”. Đến đây có thể nói, theo cách khám của tôi, “Qua bài thơ Cánh Đồng, với cương vị người viết, ‘sức khỏe’ của anh Nguyễn Đức Tùng rất tốt.”   
 
Một Bài Thơ Khác

Để giải thích rõ hơn xin mời bạn Vũ Đức và bạn đọc cùng tôi đọc bài thơ Cha Và Con – cũng của Nguyễn Đức Tùng.

CHA VÀ CON

Mười bốn năm sau ngày cha tôi mất
Tôi trở về nằm trên chiếc giường cưới của ông
Đọc cuốn Kiều để mở
Nửa đêm thức dậy ngồi đánh cờ một mình
Buổi sáng cạo râu bằng dao cạo của cha tôi

Mười bốn năm sau ngày cha tôi mất
Tôi về bốc mộ ông
Cầm nắm đất trên tay
Gió thổi
Một chiếc xương cá mỏng

Buổi chiều tôi mang đôi ủng của cha tôi
Đi thăm cánh đồng nước lớn
Đứng trước hiên nhà
Chợt nhớ về đứa con trai đã đi xa

Tứ thơ: Trở về, bên cạnh những kỷ vật gợi nhớ người cha đã mất, tác giả bỗng “Đứng trước hiên nhà chợt nhớ về đứa con trai đã đi xa.”
Đây cũng là thủ pháp Show, Not Tell rất khéo. Bằng câu “Chợt nhớ về đứa con trai đã đi xa” NĐT đã, rất điệu nghệ, đưa mình vào làm một mắt xích trong sợi dây xích dài của huyết thống, dòng tộc. Đây chính là “điểm đến của tứ thơ”.

Tuy nhiên, nếu muốn, người đọc có thể thả hồn đi xa hơn nữa. Bởi chỉ có con trai mới thực hiện được nhiệm vụ nối dõi tông đường, kéo dài sợi dây xích của dòng tộc nên bài thơ cũng chạm đến tập tục trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô) (2), vấn nạn phân biệt giới tính đang làm nhức đầu giới lãnh đạo của rất nhiều nước trên thế giới.


Kết Luận

 
Tôi rất đồng ý với bạn Vũ Đức trong phần đầu của bình luận:

Thơ đọc mà không hiểu, có thể do ‘sức khoẻ’ bạn đọc. Nhưng cũng có thể do ‘sức khoẻ’ người viết. Mới đến đâu mà bạn yêu thơ lắc đầu không hiểu, thì thơ dễ không là thơ nữa. Cái thông tuệ, uyên bác không đồng nghĩa với phải nhận thức giống những đánh đố, đồng điệu với mình không thể hiểu là cho nó một cái tên siêu nọ hay tuyệt kia.”  

Chỗ khác biệt giữa bạn và tôi là câu kết:

Những bài vừa rồi, nếu nói là thơ, tôi nghĩ, thơ ca VN đang có vấn đề.”

Ở phần trên, tôi đã cố diễn giải kỹ càng, tỉ mỉ, cung cấp thêm dữ kiện để bạn Vũ Đức đọc lại một lần nữa rồi tự đánh giá tình trạng “sức khỏe” đọc thơ của mình. Cũng xin nói thêm cho bạn Vũ Đức yên tâm. Nếu bạn không thả hồn đi tiếp để thưởng thức cái đẹp của bài thơ ẩn nấp ở phía sau tứ thơ thì cũng đừng áy náy. Số người đọc giống bạn cũng không phải là ít. Tuy nhiên, nếu đọc hết bài này mà một người văn chương “nhuyễn” như bạn vẫn không đặt chân vào được “điểm đến của tứ thơ” và vẫn xem Cánh Đồng (và “những con tương cận” với nó) không phải là thơ (vì đọc mà không hiểu) thì … không phải “thơ ca Việt Nam đang có vấn đề” mà do “sức khỏe” của bạn suy sụp. Suy sụp nghiêm trọng đấy, bạn Vũ Đức ạ. (3)

Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com

CHÚ THÍCH:

2/ Một trai nói có, mười gái nói không
3/ Tôi kèm bài thơ Và Bởi Vì Âm Hộ Nàng Trong Suốt của Nguyễn Viện và lời bình của tôi để bạn Vũ Đức thấy tôi cũng giống bạn, không khoái những bài thơ ẩn dụ dầy đặc, tối như hũ nút, đọc chẳng hiểu gì cả.


Phụ Lục:

 VÀ BỞI VÌ ÂM HỘ NÀNG TRONG SUỐT


Trên sông Tiền Đường bình lặng, Thúy Kiều ngồi ở đầu thuyền gởi khúc hồng nhan bạc mệnh vào thiên cổ. Nàng đã vứt vào sọt rác những con cu thối và trở về. Trong ánh sáng khai nguyên của các thần linh, âm hộ nàng trong suốt. Và reo vui. Không phải vì trái tim nàng đã được lau chùi bằng nước mắt và tóc. Không phải vì sự đền đáp của hư vô. Nàng vui vì non tơ xanh rợn chân trời (của lông). Không có máu. Không có nước nhờn và trứng. Không có bất cứ điều gì.

Nhưng bởi vì âm hộ nàng trong suốt, nó phản chiếu bầu trời ráng đỏ, những đám mây hình thù cổ quái và một ngọn gió vừa lướt qua mang theo hơi thở của muôn vàn sinh linh. Tởm lợm. Và bởi vì âm hộ nàng trong suốt, tất cả thế giới được nhìn thấy. Những người đàn ông đi lộn ngược. Và bóng họ khuất sau một khe nước. Thúy Kiều nói: “Con người đang say ngủ”. Không một ai nghe tiếng nàng. Chỉ có âm hộ nàng rung động. Nước sông Tiền Đường mênh mang và thấu hiểu nhưng nước sông Tiền Đường không để rửa lành những vết thương. Hai bàn chân nàng lạnh. Âm hộ nàng cũng đã ở trong nước và dường như tan biến. Nàng tự hỏi: “Phải chăng đây là cuộc hạnh ngộ cuối cùng?”

Không, âm hộ nàng vẫn trong suốt và nó chứa một dòng sông đầy. Nàng thích thú với những con cá bơi ra - vào. Nàng bảo: “Thật là vô tội”. Khi những con cá cũng trở nên trong suốt như âm hộ nàng, chúng sinh sôi nảy nở nhanh chóng và bơi lội tung tăng cả trên bầu trời ráng đỏ. Bơi vào trong những đám mây cổ quái và tạo ra sấm chớp. Chúa lòng lành vô cùng, người bảo: “Hãy trở về”. Nhưng sãi Giác Duyên thì hoang mang. Bà ôm lấy Thúy Kiều và đem lên bờ. Âm hộ nàng đen trở lại. Lóng lánh như kim cương.

 Chung quanh sặc mùi con cu thối.

 25.2.2013

 Nguyễn Viện

 (tienve.org)  

Lời Bình của Phạm Đức Nhì

Bài này tôi cũng lấy từ tienve.org, một trang văn học đứng đắn được tạo ra để “mọi người có thể gặp gỡ nhau trong nỗ lực tìm tòi và thử nghiệm để trả công việc sáng tác trở về đúng nguyên nghĩa của nó: làm ra cái mới.”(1) Nguyễn Viện là một nhà thơ đã có rất nhiều bài đăng trên Tiền Vệ nghĩa là thơ của ông đã đi đúng hướng, đã vươn tới một trình độ nghệ thuật nào đó và đã được trang web chấp nhận.

Tôi rất cảm kích nghĩa cử của những người như ông Nguyễn Viện, dấn thân vào cuộc thử nghiệm đầy khó khăn, gian khổ để tạo ra những vần thơ mới. Nhưng những vần thơ mới ấy đối với tôi còn ở một khoảng cách quá xa. Đọc bài thơ VBVAHNTS tôi thật không hiểu ông muốn nói gì và không cảm được cái hay của nó.

Theo cách nhìn của tôi thì chức năng truyền thông của bài thơ thất bại. Hơn nữa, hình thức thơ của ông không vần và cũng không nhịp điệu nên thiếu cái cái vị ngọt, cái “thuốc dẫn” để đưa đưa độc giả đi theo dòng chảy của thơ. Kết quả là lý trí phải “bao” hết mọi việc và không có chỗ để “hồn ta gặp hồn người”. Nhưng tôi biết chắc rằng nếu ông, hoặc những người cùng đẳng cấp (level) với ông, tình cờ đọc những dòng chữ này sẽ cười khẩy và nghĩ thầm “Chú mày cứ luyện nội công đi, khi nào đủ sức bay qua dòng sông nghệ thuật thì lúc ấy may ra mới hiểu thơ của (chúng) ta.”

Dù sao đối với những bài thơ mới như VBVAHNTS tôi vẫn một lòng kính trọng. Nhưng kính nhi viễn chi. Chỉ hy vọng một ngày nào đó sẽ có cây cầu đủ dài để người thơ trong quá khứ và hiện tại có thể gặp gỡ và thông cảm với người thơ đang hướng đến tương lai.

(1) Trang đầu của tienve.org