Chủ Nhật, 26 tháng 6, 2016

LỜI BÌNH NGẮN TẬP 1


                                LỜI BÌNH NGẮN (TẬP 1)

Lời Nói Đầu

1/ Tô Đông Pha Sửa Thơ Vương Thạch

2/ Chọn Thơ Để Bình
3/ Anh Bằng Sửa Thơ Yên Thao

4/ Ý Tưởng Trong Thơ TTKH
5/ Ý Tưởng Trong Bài Thơ Ngọn Cỏ

6/ Anh Em Trong Ngậm Ngùi

7/ Một Mong Ước Thật Đáng Thương
8/ Phân Biệt Tứ Và Ý

9/ Tiếc Cho Nguyễn Bính
10/ Trạng Quỳnh Nỡm Vua

 Lời Nói Đầu
Đây là những Lời Bình Ngắn, đứng riêng rẽ, nhắm vào một câu, một đoạn, một ý thơ riêng biệt. Đôi khi cũng bàn đến một điểm nhỏ (rất nhỏ) liên quan đến Thơ nói chung. Lời Bình Ngắn cũng có khi được trích từ một bài bình thơ hoặc một bài tiểu luận bàn về Lý Thuyết Thơ. Mục đích của việc “cắt nhỏ” như vậy là để “vừa miếng” cho những người mới làm quen với thơ, đang bước đầu tìm hiểu cách thưởng thức một bài thơ, đang tìm cách trả lời câu hỏi “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ hay?” Và “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ dở?” Một đôi khi cũng có Lời Bình Ngắn hơi “dài”. Lý do: người viết muốn bàn sâu về một điểm đặc biệt nào đó của lý thuyết thơ hay một tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ.


Xin nhắc các bạn trẻ - đối tượng chính của những bài viết như thế này – nên luôn để mắt vào Cái Đẹp Tổng Thể Của Bài Thơ. Có những câu thơ đứng riêng một góc trời thì rất hay, rất tuyệt. Nhưng khi đưa vào bài thơ thì lại không hợp, có khi còn trở thành vật cản đối với dòng chảy của tứ thơ. Nhận biết được một câu thơ, đoạn thơ hay là một bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, phải đặt câu thơ, đoạn thơ đó vào khung cảnh bài thơ, cân nhắc, xem xét những tiêu chí khác - đặc biệt là dòng chảy của tứ thơ, hơi thơ và hồn thơ - để sau cùng đi đến kết luận chung cuộc, có tính tổng hợp về giá trị nghệ thuật của bài thơ.

 1/ TÔ ĐÔNG PHA SỬA THƠ VƯƠNG AN THẠCH

 Vương An Thạch trong lúc du học ở đảo Hải Nam đã làm một bài thơ trong đó có hai câu rất lạ:

Minh
N
guyệt sơn đầu khiếu
Hoàng
K
huyển ngọa hoa tâm
Dịch nghĩa:
Trăng sáng hót đầu núi
Chó vàng nằm (trong) lòng hoa

Thi hào Tô Ðông Pha
tình cờ đọc được, thấy “sai” (trăng sáng làm sao hót trên đầu núi và chó vàng làm sao nằm trong lòng hoa được) nên đã sửa lại hai chữ cuối cho đúng
nghĩa hơn.

Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm
Dịch nghĩa:
Trăng sáng rọi đầu núi
Chó vàng nằm (dưới) bóng hoa


Chuyện sửa thơ đến tai Vương An Thạch
(lúc ấy đang là Tể Tướng) nên họ Vương đã bổ nhiệm Tô thi hào một chức quan ở Hải Nam. Sau đó Tô Ðông Pha mới khám phá ra ở địa phương này có loại chim tên là Minh Nguyệt, hay hót trên đầu núi, và có một loại sâu tên là Hoàng Khuyển, chỉ thích nằm trong lòng hoa! Và người kể chuyện kết luận “Lúc ấy Tô Ðông Pha mới biết là mình xớn xác, bồng bột và thấy được cái thâm trầm của Vương An Thạch.


Theo tôi, việc Tô Đông Pha sửa thơ không có gì là “xớn xác, bồng bột” hết. Người đọc thơ, bình thơ – trong thế giới thơ rộng lớn - không thể biết và không có bổn phận phải biết những chi tiết, sự việc chỉ có, chỉ xảy ra ở một địa phương nhỏ bé. Chính thi sĩ - để hoàn thành chức năng truyền thông của bài thơ - phải chú thích để người đọc biết, hiểu những chi tiết, sự việc có tính chất địa phương ấy. Lỗi và trách nhiệm ở đây nằm trên hai vai Vương An Thạch chứ không phải Tô Đông Pha.

Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com

 2/ CHỌN THƠ ĐỂ BÌNH
Người bình thơ phải tự trả lời 3 câu hỏi:

     1/ Bài thơ có đủ hay, đủ tiếng tăm, đủ hấp dẫn để có thể “mời gọi” độc giả đến với bài bình thơ của mình hay không?
     2/ Bài bình thơ của mình – phân tích, giải thích cái hay, cái dở (nếu có) của bài thơ dựa vào những Tiêu Chí thẩm định giá trị nghệ thuật thơ ca - có đem lại điều gì mới, bổ ích (về thơ) cho độc giả hay không? Lập luận của mình có đủ sức thuyết phục những độc giả hiểu biết, khó tính và cả giới phê bình không?

     3/ Nếu đã có những bài bình trước rồi thì liệu bài bình của mình có đem lại điều gì mới hơn những bài bình đó hay không?

Thơ được chọn bình hầu hết là thơ hay (theo nhận định của người bình) hoặc ít nhất cũng có một điểm gì đó nổi bật như tứ thơ, ý thơ mới lạ, khả năng diễn đạt ý tưởng của tác giả điêu luyện, ngôn từ trong sáng, sang cả, hình ảnh đẹp, được đặt đúng chỗ, đúng lúc làm tăng sức hấp dẫn của bài thơ. Bên cạnh đó có thể còn có sự xuất hiện của những “cầu thủ siêu sao” – những câu, đoạn thơ độc đáo – cách kết thúc đầy ấn tượng, phép ẩn dụ ý nhị, thủ pháp Show, Not Tell khéo léo, cảm xúc dạt dào. Đây là chỗ mà người yêu thơ đọc đi, đọc lại để thưởng thức, còn người bình thơ giải thích, phân tích để chia sẻ cái đẹp ấy với mọi người.

Đã bình thơ là phải có khen chê. Dĩ nhiên, cũng có (nhưng rất ít) những bài thơ toàn bích, còn thì đại đa số thơ được lưu hành thế nào tác giả cũng có một chút “không khéo” ở chỗ này, chỗ khác; người bình thơ cũng phải chỉ ra để độc giả (trong đó có rất nhiều thi sĩ khác) rút kinh nghiệm khi viết những bài thơ sau. Thấy khuyết điểm mà lờ đi vì những lý do không liên quan đến thơ thì, theo tôi, là hành vi “thiếu lương thiện trong văn chương”. Hơn nữa, bình thơ mà bài nào cũng khen tuốt luột từ đầu đến chân thì, nói như nhà văn Châu Thạch, là “nịnh thơ” chứ không phải bình thơ.
Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com


 3/ ANH BẰNG SỬA THƠ YÊN THAO
Tôi đứng bên này sông 
Bên kia vùng giặc đóng

 là 2 câu mở đầu trong bài thơ Nhà Tôi của Yên Thao.

Khi phổ nhạc bài thơ nhạc sĩ Anh Bằng sửa lại:

Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng lửa khói

 Nhà Tôi là tâm trạng hồi hộp, lo âu của một người lính trước giờ nổ súng mà mục tiêu của trận đánh lại chính là ngôi làng bên kia sông, có căn nhà nơi những người thân yêu nhất của mình, bà mẹ già và cô vợ trẻ, đang cư trú. Trước hết, đưa cụm từ “vùng lửa khói” vào không ăn khớp với thực tế trận địa; chưa nổ súng thì làm gì có “lửa khói!”

Hơn nữa, chi tiết làng tôi là “vùng giặc đóng” khiến việc đánh bật trại giặc để chiếm lĩnh mục tiêu trong một trận đánh có cả pháo binh sẽ rất nguy hiểm cho căn nhà và những người sống trong đó. Điều này làm nỗi lo của người lính thật hơn, khơi dậy nơi người đọc cảm xúc mạnh hơn. Anh Bằng đã làm tứ thơ dở đi rất nhiều khi thay cụm từ trên.

(Trích trong bài Khả Năng Hiểu Cảm Câu Chữ, Phạm Đức Nhì, t-van.net)

 4/ Ý TƯỞNG TRONG THƠ TTKH

 Ý tưởng chính, đề tài của bài thơ là một tiêu chí quan trọng để người phê bình đánh giá bài thơ. Ý tưởng hay sẽ nâng giá trị của bài thơ lên rất nhiều. Tôi tạm chia Ý TƯỞNG TRONG THƠ làm 4 hạng (từ cao xuống thấp):

      1/ Nhân bản, cao đẹp, khai phóng, thăng hoa tâm hồn con người, hoàn toàn mới lạ, độc đáo. (Điều này có thể đạt được nhưng rất khó và rất hiếm)

      2/ Tác phẩm xuất sắc nhất đại diện cho một hiện tượng, một lối sống, một cách nghĩ của một giai đoạn lịch sử (đã lác đác có người viết đề cập đến nhưng chưa có tác phẩm nào xuất sắc).          

      3/ Lách, thoát hẳn (hoặc ngược với) dòng thơ Phải Đạo (những suy nghĩ đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong tâm hồn con người).

      4/ Viết theo phong trào, xu hướng chính trị, theo thị hiếu của đám đông, chọn những đề tài muôn thuở chung chung (tình yêu, quê hương …), những con đường đã có hàng triệu dấu chân.

 
Vào thời TTKh viết Hai Sắc Hoa Ti Gôn (và 3 bài thơ khác) con người VN còn sống bó buộc trong cái khung của lễ giáo phong kiến: “Liệt nữ bất canh nhị phu” nghĩa là gái chính chuyên chỉ có một chồng. Sự chung thủy là một đức tính, một nguyên tắc ứng xử - chỉ áp dụng cho phái nữ - được hết mực ca ngợi. Đã “đeo gông vào cổ” rối mà còn “tơ tưởng đến ông láng giềng” hay bất cứ người đàn ông nào khác là đã “ngoại tình trong tư tưởng”, là đã phạm một điều đại cấm kỵ, bị xóm làng nguyền rủa, xã hội lên án.

Những bài thơ của TTKh đã đạp đổ cái luật lệ khắt khe bất nhân ấy, đã gột rửa lớp son phấn giả tạo của Khổng Giáo trên thân thể người phụ nữ, để lộ ra trước xã hội, trước cuộc đời một Con Người có trái tim, biết yêu thương, nhung nhớ, biết khổ đau. Ý tưởng của mấy bài thơ, lúc ấy, được coi là vô cùng táo bạo, không những thoát khỏi mà còn chảy ngược với dòng thơ phải đạo.

 Trước TTKh chắc cũng có nhiều bậc thức giả đã nhận ra khía cạnh bất nhân trong cái gọi là “tam tòng tứ đức” của đạo Khổng - đã ép buộc nhiều phụ nữ phải gạt nước mắt chia tay người mình hết lòng thương mến, để vì lễ giáo, vì môn đăng hộ đối, vì lệnh của song thân, phải lấy, rồi ăn ở suốt đời với người mình không hề yêu thương - nhưng họ hoặc không dám nói ra hoặc chỉ than thở lén lút và những lời than thở ấy cũng thoảng bay theo gió. Tuy vậy, thi đàn nước Việt có ít nhất 2 tác phẩm đề cập đến sự coi thường tình cảm của phụ nữ trong hôn nhân vẫn còn được lưu truyền: Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều và Cảnh Làm Lẽ của Hồ Xuân Hương.

Tôi có mấy nhận xét sau đây:
       1/ Đối tượng của CONK nhắm vào những cung nữ trong cung đình, chỉ là một bộ phận nhỏ trong cộng đồng phụ nữ của dân tộc. 

      2/Thể thơ song thất lục bát đã không còn được ưa thích và ngày càng ít xuất hiện trên thi đàn.

      3/ Khi tôi viết những dòng chữ này (2016) chế độ phong kiến đã cáo chung từ lâu. Không còn tam cung lục viện, không còn hàng ngàn cung phi, mỹ nữ, có người phải lén rải cỏ non trước cửa phòng với ước mơ xe dê của vua ngừng lại và tấm thân trong trắng ngọc ngà của mình được ngài đoái hoài đến. Ý tưởng chính của tác phẩm - “Tiếng thét oán hờn của trang nữ lưu” - đã không còn tính thời sự, không còn thôi thúc, không gây được ấn tượng mạnh như thời Nguyễn Gia Thiều.

 Có lẽ vì thế mà CONK dù vẫn có vị trí trong văn học sử, giá trị và ảnh hưởng của nó phải xếp phía sau mấy bài thơ của TTKh.

 Cảnh Làm Lẽ

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không ...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.

 (Hồ Xuân Hương)

 Đối tượng của Cảnh Làm Lẽ cũng chỉ là một thiểu số phụ nữ - vì một lý do nào đó - chấp nhận làm lẽ. Thể thơ đường luật chật hẹp quá, gò bó quá nên chỉ mới chạm vào lớp vỏ ngoài của nỗi khổ phải “lấy chồng chung”. Bài thơ gợi được mối thương cảm nơi người đọc nhưng mối thương cảm ấy không lớn, không sâu sắc.

 Trong khi đó đối tượng của mấy bài thơ của TTKh là toàn thể giới phụ nữ. Độ phủ sóng ở đây lớn hơn gấp bội. Thêm vào đó hôn nhân ép buộc kiểu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” đang xảy ra trước mắt mọi người, đang là một vấn nạn lớn của xã hội nên mấy bài thơ ấy – có thể nói mà không sợ bị cho là quá lời – đã góp đặt nền móng cho việc đạp đổ lễ giáo phong kiến của Khổng Tử, làm cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ sau này.

Thể thơ mới phóng khoáng, tự do hơn nên TTKh đã trải tâm sự của mình một cách thoải mái, đầy đủ, sâu sắc. Hơn nữa đội quân chữ nghĩa của bà thế trận chặt chẽ hơn, chia thành 4 đạo quân bao kín trận địa (4 bài thơ) và đã chinh phục hoàn toàn tim óc của người đọc thời bấy giờ.
Dưới cái nhìn của thơ ca hiện đại thì mấy bài thơ của TTKh – dù nhỉnh hơn CONK và Cảnh Làm Lẽ - chỉ ở mức khá hoặc trên khá một chút - nhưng nhờ có ý tưởng nhân bản và táo bạo – đòi lại  quyền làm chủ trái tim mình cho toàn thể phụ nữ - nên chúng, tuy chưa phải là tuyệt tác, vẫn có một vị trí đặc biệt trong văn học sử, trở thành cột mốc quan trọng trên chặng đường tiến hóa của dân tộc.

Ý tưởng trong thơ của TTKH có thể xếp vào hạng 1 và hạng 2 - vừa nhân bản, vừa có giá trị lịch sử.


 (Trích trong bài Tản Mạn Về Vai Trò Của Ý Tứ Trong Thơ, Phạm Đức Nhì, t-van.net)

 
5/ Ý TƯỞNG TRONG BÀI THƠ “NGỌN CỎ”

 Ngọn Cỏ
Tiếng nước đái
nhỏ giọt
trong bồn cầu tí tách
thứ nước ấm sóng sánh vàng
hổ phách
trong người tôi tuôn ra

 Phải rồi
tôi là đàn bà
hạng đàn bà đái không qua ngọn cỏ

Bây giờ
được ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệ
tương lai không chừng tôi sẽ
to con mập phệ
tí tách như mưa
ngọn cỏ gió đùa.

(Nguyễn Thị Hoàng Bắc)
Bài thơ đóng góp một lời kêu gọi mạnh mẽ cho cuộc cách mạng nữ quyền. Phụ nữ hãy vùng lên đòi quyền “đứng đái đàng hoàng” như nam giới. Tứ thơ mới lạ một cách táo bạo. Kỹ thuật thơ vững, nhuyễn, thể thơ có thể nói đã vượt qua thơ mới về số chữ trong câu, vần tự nhiên nhưng hơi “ngọt” (một chút thôi).  Tiếc là câu kết quá dở, “trật bàn đạp”, ngược với dòng chảy của tứ thơ.

Riêng về Ý Tưởng Trong Thơ có thể xếp vào hạng 1 và hạng 3.
(Trích ý trong bài Ngọn Cỏ: Một Bài Thơ Hay?, Phạm Đức Nhì, t-van.net)

 6/ ANH EM TRONG NGẬM NGÙI
Ngậm Ngùi do Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của Huy Cận rất được dân miền nam và sau này, ở hải ngoại, ưa thích. Cả nhạc sĩ lẫn người thưởng ngoạn đều tưởng rằng đó là bài thơ, bản nhạc tình; hai kẻ yêu nhau, khi bóng đã xế tà, đang tình tự trong một khu vườn hoang vắng. Khi hát, nam ca sĩ thì hát đúng lời của bài thơ, bản nhạc, còn nữ ca sĩ thì tự động hoán chuyển “anh” thành “em” và ngược lại.

Đến năm 2006 “trong chương trình âm nhạc cuối tuần của Đài RFA cũng như chương trình văn học nghệ thuật của Đài RFI, anh Hà Vũ (Cù Huy) khẳng định lại, bài thơ Ngậm Ngùi được viết cho người em gái ruột của nhà thơ mất khi còn nhỏ, độ tuổi trăng rằm, khi nhà thơ đến thăm mộ.” (1)


Và tôi đã viết lời bình cho đoạn cuối bài thơ:


Cây dài bóng xế ngẩn ngơ
Hồn anh đã chin mấy mùa thương đau


Thế rồi bóng cây đã dài, trời đã sắp tối, nỗi đau thương trong hồn đã chín, trái sầu đã trĩu nặng, thi sĩ vẫn nán lại để cùng cô em gái “sống” một giấc mơ, một kỷ niệm sau cùng trước khi từ giã. Cảnh và tình kết hợp, quyện lẫn với nhau thành một bức tranh thơ rất buồn, rất đẹp.


Tay anh em hãy tựa đầu
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi


Và chàng mơ thấy em tựa đầu lên tay mình như ngày xưa còn bé, mắt nhắm, giấc ngủ bình yên. Ôi! Đúng lúc ấy trái sầu trĩu nặng trong hồn chàng bấy lâu bỗng đứt cuống rụng rơi, biến mất. Người chàng nhẹ nhàng bay bổng; hạnh phúc ập đến choáng ngợp tâm hồn. (1)


Em ở đây không phải người yêu mà là “hồn ma bóng quế” của đứa em gái trong tâm tưởng của nhà thơ. Cho nên khi nữ ca sĩ hát mà tự động hoán chuyển giới tính, thay “anh” bằng “em” thì … trật lất. Thế mà thỉnh thoảng xem TV các chị ca sĩ vẫn cứ ung dung “Tay em anh hãy tựa đầu”, chẳng cần biết “trời trăng mây nước” gì hết thì quả là đáng … sợ thật.

Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com


Chú Thích:
1/ Ngậm Ngùi: Trái Sầu Trĩu Nặng, Phạm Đức Nhì, t-van.net

 7/ MỘT MONG ƯỚC THẬT ĐÁNG THƯƠNG
Theo lời kể của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu khi đến thăm Xuân Quỳnh thì:
Nhà thơ Xuân Quỳnh rất cảm xúc khi nghe ca khúc “Thuyền Và Biển”. Chị chỉ mong ước giữ nguyên văn câu thơ: “Nếu phải cách xa anh, em chỉ còn bão tố!” Mong các ca sĩ đừng đổi lại: “Nếu phải cách xa em, anh chỉ còn bão tố”. Chị không muốn xóa đi kỷ niệm buồn đau của mình trong cuộc tình đã qua, và theo chị chắc gì nam giới đã có được tình yêu đằm thắm, đắm say và có lúc bão tố như phụ nữ”
(http://vannghenamchau.net/thuyen-va-bien-moi-luong-duyen-giua-nhac-va-tho-huu-du/)

Tôi rất đồng cảm với Xuân Quỳnh về điều mong ước trên. Có điều theo tôi, tại sao lại để chị phải thốt ra những lời mong ước đó? Các ca sĩ nếu có một chút khả năng “hiểu cảm câu chữ”thì phải biết bản nhạc phổ thơ là tâm trạng của người phụ nữ trong chuyện tình của Thuyền Và Biển, thuyền là nam và biển là nữ. Bản nhạc này để nữ hát là đúng nhất, là hợp tình nhất. Nhưng nếu nam thích thì cũng vẫn có thể hát được, miễn là phải hiểu rằng “giọng nam của mình đang được mượn để chuyển tải tâm tình của một phụ nữ”nghĩa là phải hát đúng nguyên văn:


Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố


Chứ nếu đổi lại:

Nếu phải cách xa em
Anh chỉ còn bão tố


thì sai bét. Anh là thuyền chứ có phải là biển đâu mà bão với tố!

Tôi đã vào Youtube nghe vài nam ca sĩ hát Thuyền và Biển. Đáng buồn là nghe 5 ca sĩ hát thì cả 5 đều hát sai.(3) Rất mong các nam ca sĩ xem lại để hát cho đúng. Trước hết, để tỏ lòng tôn trọng Xuân Quỳnh, một nữ sĩ tài danh đã mất, thứ đến để chứng tỏ đẳng cấp nghệ sĩ của mình, có thể hiểu, cảm tâm trạng của tác giả và thả hết tâm hồn vào lời ca, nốt nhạc chứ không phải là người vô trách nhiệm, tự động sửa lời bản nhạc của người ta theo ý mình, chẳng cần biết đúng sai, và cứ thế nhắm mắt hát bừa, hát bậy.

 Dưới đây là 5 ca sĩ:
(
https://www.youtube.com/watch?v=OlDLsnO4gIE, nam ca sĩ Nguyên Trường)
(
https://www.youtube.com/watch?v=zKgiych7wPw, nam ca sĩ Quang Lý)
(
https://www.youtube.com/watch?v=hseI9n78c9k, nam ca sĩ Trung Đức)
(
https://www.youtube.com/watch?v=zrF1tNqLcvg, nam ca sĩ Cao Minh)
(
https://www.youtube.com/watch?v=2-4yQ-EVlEY, nam ca sĩ Ngọc Sơn)

(Trích trong Thuyền Và Biển - Ngọt Bùi Cay Đắng Của Tình Yêu, Phạm Đức Nhì, t-van.net)

 8/ PHÂN BIỆT TỨ VÀ Ý
Nếu nói thơ có phần xác và phần hồn, trái với nhận định của một số người, tôi cho tứ thơ thuộc về phần xác. Khi đã có chủ đích viết về cái gì (ý) thi sĩ sẽ chọn cách tiếp cận, cách truyền đạt ý của mình đến đọc giả. Công việc lựa chọn ấy - tìm tứ thơ – sẽ đóng góp lớn cho giá trị của bài thơ nếu tác giả chọn được tứ hay, mới lạ. Dù có vai trò quan trọng như vậy nhưng việc tìm tứ thơ lại do lý trí đảm nhiệm; tứ thơ, và cả ý, đều là sản phẩm của lý trí.

Ý: Điều tác giả muốn nói đến
Tứ: Cách để tiếp cận, diễn đạt ý

Khi tác giả chọn cách nói trực tiếp, nói thẳng vảo điều muốn nói, bài thơ có ý và tứ giống nhau. Ý là tứ, tứ là ý, ý với tứ là một.
Thí dụ:
Anh Lái Đò của Nguyễn Bính
Ý và Tứ là một: Anh lái đò nói về mối tình tuyệt vọng của mình.
Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác
Ý và Tứ là một: Hào khí của một sĩ phu trước cảnh đất nước điêu linh

Khi tác giả không muốn nói trực tiếp, không muốn nói thẳng vào điều muốn nói mà mượn một hình ảnh khác, một sự kiện khác để thố lộ lòng mình, bài thơ có ý và tứ khác nhau. Ý là điều muốn nói; tứ là hình ảnh mượn để thố lộ lòng mình.

Thí dụ:
Ông Đồ của Vũ Đình Liên
Tứ: Ông đồ ngồi bên phố viết câu đối thuê cho khách du xuân. Nay xuân đến, không thấy ông đồ nữa, nhiều người tiếc nhớ.
Ý: Tác giả muốn nói đến nền nho học đang lụi tàn.

Nhớ Rừng của Thế Lữ
Tứ: Con hổ trong vườn bách thú tiếc nhớ những ngày còn là chúa sơn lâm, tự do vùng vẫy nơi rừng sâu núi cao- giang sơn của mình.
Ý: Tác giả mượn lời con hổ để nói đến hào khí, ước mơ của chính mình.


 9/ TIẾC CHO NGUYỄN BÍNH
Mỗi lần đọc lại hoặc ngâm nga bài Giấc Mơ Anh Lái Đò trong đầu tôi lại hiện ra một câu hỏi: “Tại sao một tài thơ hiếm có như Nguyễn Bính lại vô ý đến độ đưa chữ “to” rất “thô”, rất vô duyên ấy vào bài thơ?” Chữ “to” ấy đã làm đoạn thứ 3 mất đi danh hiệu “đoạn thơ bày tỏ không kể lại” (show, not tell) và đáng tiếc nhất là do đó, ông đã để vuột khỏi tay chiếc huy chương dành cho thi sĩ có Thi Phẩm Hoàn Toàn Show, Not Tell.

Giấc Mơ Anh Lái Đò
Năm xưa chở chiếc thuyền này
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều


Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
“Tước đay se võng nhuộm điều ta đi

Tưng bừng vua mở khoa thi,
Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.”

Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn…

Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi!

Dẫu sao Giấc Mơ Anh Lái Đò vẫn là một bài thơ rất hay. Đặc biệt là 2 câu kết tuyệt vời, mở cửa đổ cả một dòng thác cảm xúc làm ướt đẫm tâm hồn người đọc và đã lưu lại trong lòng họ rất lâu cái cảm giác đau buồn tê tái của anh lái đò. Tuy không có tuyệt chiêu “thi hóa thân thành họa” như Ông Đồ của Vũ đình Liên nhưng bài thơ có những ưu điểm khác (đặc biệt là đoạn kết) tạo thành một thi phẩm độc đáo, góp phần đưa Nguyễn Bính vào hàng những nhà thơ được yêu mến nhất trong thời kỳ Thơ Mới.

Nói Với Các Bạn Trẻ Yêu Thơ
Show, not Tell là một thủ pháp nghệ thuật ở đó tác giả tránh không nói thẳng ý mình mà cung cấp dữ kiện, chi tiết để người đọc tự suy gẫm tìm ra. Nó tạo cho câu thơ, bài thơ cái vẻ đẹp “lung linh sương khói” và cho người đọc cơ hội tham gia tích cực vào tiến trình đọc và khám phá tứ, ý của bài thơ. Trong GMALĐ Nguyễn Bính đã áp dụng thủ pháp này một cách tài tình. Ông thành công ở 3 đoạn, nhưng ông đã đưa vào bài thơ chữ “to” rất vô duyên làm lộ ý của đoạn 3.
Đoạn kết của bài thơ hay tuyệt.
10/ TRẠNG QUỲNH NỠM VUA

Ông Trạng mời vua đến nhà chờ ăn món mầm đá rồi sau cùng khi vua thật đói thì đưa ra đĩa rau muống luộc và một cái lọ sành. Vua hỏi thì Trạng Quỳnh trả lời: Đó là món “đại phong”.

Đại phong là gió lớn
Gió lớn thì đổ chùa
Đổ chùa thì tượng lo
Tượng lo là lọ tương.


Và vua ăn cơm với rau muống chấm tương ngon lành.

Tôi có lần kể cho vài người bạn Mỹ nghe thì họ phán thẳng thừng: “Stupid joke.”(truyện cười ngu xuẩn).
Chúng ta thử xem cách liên tưởng của Trạng Quỳnh.
1/ Đại phong là gió lớn: đúng, không có gì bàn cãi.
2/ Gió lớn thì đổ chùa: gió lớn có thể gây ra hàng trăm thứ thiệt hại. Lý lẽ nào bắt óc liên tưởng của người đọc dừng ở chỗ “đổ chùa”?
3/ Đổ chùa thì tượng lo: đổ chủa cũng có hảng trăm hậu quả. Lý lẽ nào để bắt óc liên tưởng của người đọc dừng ở chỗ “tượng lo”?
4/ Tượng lo liên tưởng đến lọ tương thì tạm hợp lý, có thể chấp nhận.

Tôi không hiểu sao cái truyện cười vô lý và ngờ nghệch đến thế mà vẫn được truyền tụng trong nhân gian từ đó đến nay.

Nếu thi sĩ ở đoạn kết của bài thơ có thể mở ra trước mắt người đọc một khoảng không gian rộng lớn để mỗi người có thể nhờ óc tưởng tượng của mình “thả hồn vào mênh mông” – thì, với tôi, là hạnh phúc lớn cho người đọc, cho thi ca. Nhưng để đến được cái chỗ có thể như Nguyễn Khắc Phước:

chép giấc mơ vào con thuyền giấy
thả trôi vào mênh mông
(Mắt Bồ Câu, Nguyễn Khắc Phước, Văn Nghệ Quảng Trị)


cho hồn thi sĩ bềnh bồng theo dòng nước ra tận tít mù khơi, người đọc phải “vịn” vào mỗi câu thơ để tìm đường đi. Khi bài thơ chưa đến đọan kết, đừng tạo quá nhiều ngã rẽ mà không có lời chỉ dẫn kỹ càng. Xin đừng gợi trí tưởng tượng của người đọc qua những liên tưởng quái đản kiểu Trạng Quỳnh:

Gió lớn thì đổ chùa
Đổ chùa thì tượng lo

có hai điểm dừng, mỗi điểm có hàng trăm ngã rẽ. Người đọc chắc chắn sẽ đi lạc – không bắt được tứ thơ – và bài thơ thất bại. Viết kiểu đó người biết chuyện sẽ cười vào mũi thi sĩ cũng như người ta (có cả người ngoại quốc) đã cười vào mũi Trạng Quỳnh.

Phạm Đức Nhì


Blog Chuyên Về Bình Thơ

Phamnhibinhtho.blogspot.com

 

 





 

 

 

 

 

 

 

 

 

HỒN THƠ NƠI NGƯỜI ĐƯỢC LÀM NGƯỜI


                                HỒN THƠ : NƠI NGƯỜI ĐƯỢC LÀM NGƯỜI

 

Hiện đã có những bài thơ được sản xuất từ máy tính (computer generated poems). Chúng cũng có ngôn ngữ thơ, hình tượng, tứ thơ, cảm xúc … đủ cả. Nhưng dĩ nhiên, do từ máy tính, chúng không có hồn.

Khi đem những bài thơ này ra “trưng cầu dân ý” thì có rất đông người lầm lẫn cho rằng chúng được sáng tác bởi thi sĩ người thật chứ không phải bởi máy tính.

Cho nên khả năng cảm được cái hồn, cái chất thơ của bài thơ là rất quan trọng. Có nó, bạn sẽ được đứng về phía những con người thật –  nhận biết được tiếng Người, tiếng nói phát xuất từ trái tim của đồng loại. Còn phía bên kia, cũng là con người nhưng tim đã khô cứng bởi những quy luật, cung cách ứng xử của xã hội văn minh; họ rất hòa nhã, lễ phép, lịch sự nhưng rất “lạnh”, đang dần dà biến thành những người máy vô cảm. 

Riêng Thi Sĩ, nếu may mắn sáng tác được một bài thơ Có Hồn có nghĩa là Ngài đã ban cho nhân loại một ân huệ lớn, tặng họ một công cụ để học nói thứ tiếng Chân Thật (viết hoa) của con người.

Tôi có tin mừng thông báo đến những người yêu thơ. Hãy cứ tiếp tục làm thơ, đọc thơ, bình thơ, đem thơ vào những cuộc tán gẫu. Làm thế, các bạn đang bảo dưỡng cái tính người của mình, và qua đó, góp sức lôi kéo phần rất lớn kia của nhân loại trở về để cùng sống và xây dựng một thế giới nhân bản.

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2016

GẶP HỒN THƠ: NGƯỜI ĐƯỢC LÀM NGƯỜI


                    GẶP HỒN THƠ: NGƯỜI ĐƯỢC LÀM NGƯỜI

Việt Nam ta có câu tục ngữ “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Tại sao vậy? Vì trẻ con không biết nói dối. Trong kinh thánh Chúa Giê-Su cũng từng nói: “Này ta bảo thật cùng các ngươi, nếu không trở lại như con trẻ thì sẽ không vào được nước trời đâu.” Ngài cũng muốn nhấn mạnh đến sự chân thật. 

Người đời, trong đó có cả các thi sĩ, thường gian dối. Cầm bút lên là đã muốn vơ cái hay, cái đẹp về mình. Nhà thơ nào cũng vỗ ngực là yêu nước, thương dân, hiếu thảo với cha mẹ, tình nghĩa với anh chị em, chung thủy với vợ (chồng), hết lòng vì con, tốt bụng với bạn bè. Ngay cả khi kể một vài điều “không tốt” về mình cũng là muốn chứng tỏ mình thành thật. Có nhiều mức độ dối trá trong thơ:

 

            Có người vì ham quyền hành, lợi lộc đã nói dối lộ liễu trong thơ; vừa liếc mắt vào cái “tâm sự” của “hắn” bày tỏ trên trang giấy, không cần suy luận hoặc kiểm chứng, người đọc đã biết là tên này xạo, vì nó rõ ràng ràng như 2 với 2 là 4. Nhưng vì ham sống sợ chết, mê bả vinh hoa phú quý, mê mồi danh lợi nên hắn cũng cố bôi mặt, nhắm mắt mà viết. Chỉ cần một, hai câu thơ kiểu này hắn sẽ trở thành trò cười cho thiên hạ suốt đời.

 

        Có người cố che đậy sự dối trá của mình, hoặc trong thơ hứa một đàng, ngoài đời làm một nẻo, vô phúc bị đọc giả kiểm chứng, khám phá, vạch ra. Lúc ấy thì ôi thôi ê mặt. Không những bài thơ dối trá bị tẩy chay mà cả những bài thơ khác (cùng tác giả) có khi cũng bị “văng miểng”.

 

        Một số đông khác không nói thật lòng mình nhưng lại khéo léo che dấu bằng kỹ thuật thơ điêu luyện nên đọc giả không có bằng chứng để vạch trần sự dối trá; tuy nhiên trong lòng họ đã gợn lên một chút nghi ngờ. Trong lãnh vực pháp luật, không đủ bằng chứng buộc tội một nghi can thì nghi can đó phải được coi là vô tội. Còn trong thơ ca, đọc giả đã nghi ngờ sự thật lòng của tác giả thì bài thơ coi như “đi đoong”, hết đời, không còn giá trị.

 

        Có bài thơ từ đầu đến cuối đều rất thật, rất hợp lý, không có chi tiết nào, điểm nào dối trá nhưng lại được viết trong lúc “tỉnh” quá, không có dấu hiệu đặc biệt nào để người đọc biết là tác giả đang “lên cơn”, để cảm ngay được sự chân thật của tác giả. Chân tình trong thơ phải được bày tỏ (show) chứ không phải chỉ cần nói đến (tell). Thơ loại này đem phân tích thì không thấy cái sai, cái dở nhưng đọc lên thấy thiếu cái hơi nóng của cảm xúc, thiếu cái hồn thơ.

 

         Cuối cùng, chỉ có một số rất ít nhà thơ đặt bút làm thơ trong lúc “lạc thần trí”, trong lúc “lên cơn” (cơn giận, cơn ghen, cơn say tình …), lúc lý trí bị khối cảm xúc đầy ắp trong tâm hồn che phủ. Dòng thơ trải trên giấy chính là dòng cảm xúc, và chỉ có cảm xúc, cuồn cuộn từ trong lòng tác giả tuôn ra. Nếu chọn được thể thơ thích hợp tâm hồn đọc giả sẽ bị cuốn theo cái dòng cảm xúc đó, sẽ cảm nhận ngay tấm chân tình của nhà thơ. Và đọc giả sẽ tự nhủ “ta đã bắt gặp hồn thơ của tác giả”. Lúc đó, bài thơ đã đạt được mục đích cao đẹp của thơ ca: là nơi gặp gỡ của những tâm hồn đồng cảm.

 

MỘT CHÚT VÍ VON CHO DỄ HIỂU

Thể thơ: Con mương (kênh, dòng sông).

Ngôn ngữ thơ (chữ, câu) + kỹ thuật thơ ca: Dòng nước chảy trong mương.

Tứ thơ: Con thuyền được dòng nước đưa đi.

Hồn thơ: Gió (xuôi), đẩy con thuyền tứ thơ đi nhanh hơn. Gió không được “sinh ra” từ dòng nước mà đến từ bên trên, bên ngoài dòng nước. Gió càng mạnh bài thơ càng có hồn.

Bài Thơ Không Hồn Có Cảm Xúc Hay Không?

Dù không có gió con thuyền tứ thơ vẫn trôi, và có thể cũng trôi tới bến. Nhưng người đọc sành điệu sẽ chê bài thơ không có hồn. Xin quý vị đừng hiểu lầm bài thơ không hồn là không có cảm xúc. Dù không hồn nhưng đã gọi là thơ thì ít nhiều cũng có cảm xúc. Gặp trường hợp này, nếu tác giả yếu tay nghề, bài thơ sẽ khô khốc, đọc chán phèo. 

Nhưng nếu thi sĩ khéo tay, nhuần nhuyễn kỹ thuật thơ ca thì bài thơ cũng có chữ “đắt”, câu hay, hình ảnh đẹp và cũng có thể khơi dậy một lượng cảm xúc đáng kể trong lòng người đọc. Tuy nhiên, đó chỉ là cảm xúc từ ngôn ngữ thơ, từ kỹ thuật thơ mà tôi gọi là cảm xúc nội tại của bài thơ. Nó khác xa với thứ cảm xúc có được từ hồn thơ. Hồn thơ tươi mát hơn, đằm thắm hơn, gây cảm giác sảng khoái hơn.

Hồn Thơ

Tôi đã xem những trận túc cầu mà tài nghệ của hai đội quá chênh lệch. Thật tẻ nhạt. Đội mạnh vờn đội yếu như mèo vờn chuột. Họ ghi một vài bàn thắng rồi vờn bóng giữa sân để dưỡng sức cho những trận sau. Những trận đá giao hữu cũng thế. HLV đưa ra đội hình chỉ để thử nghiệm độ ăn ý, chỗ yếu, chỗ mạnh của đội mình. Thắng cũng tốt mà thua cũng không sao. Xem những trận như vậy chỉ phí thời gian và phí tiền mua vé.

Chỉ có những trận được ăn cả, ngã về không, thắng đi tiếp, bại “go home” là hấp dẫn. Lúc ấy cả 2 đội sẽ dồn hết thể lực, kỹ thuật và tinh thần vào trận đấu. Nếu đó lại là những trận bán kết, chung kết của những giải lớn quốc tế, khán giả cổ vũ cuồng nhiệt thì mọi người sẽ được thưởng thức một bữa “tiệc túc cầu” vô cùng ngoạn mục.

 Vâng, đúng vậy! Khi các cầu thủ đồng loạt bừng lên, quên mình, chơi xuất thần, hoàn toàn ngẫu hứng cái đẹp của túc cầu mới được đưa lên hàng nghệ thuật. Cái “chất nghệ thuật” đó không phát xuất từ kỹ thuật cá nhân, từ đấu pháp toàn đội mà từ cảm hứng trong trong tâm hồn của mỗi cầu thủ. “Đội của bạn hôm nay đá hay quá” chỉ là một lời khen bình thường; “Đội của bạn hôm nay đá xuất thần, có hồn quá” mới làm huấn luyện viên, cầu thủ mát lòng, hả dạ.

Gió không đến từ dòng nước chảy trong mương; “chất nghệ thuật” trong túc cầu, không đến từ kỹ thuật cá nhân của cầu thủ hoặc đấu pháp, chiến thuật toàn đội. Hồn thơ cũng không đến từ câu chữ và kỹ thuật thơ ca trong bài thơ mà đến từ trạng thái rung động mãnh liệt của thi sĩ khiến chàng (nàng) như cuồng, như điên; cuồng điên vì quá vui, giận, yêu, ghét, đau thương, sung sướng, sợ hãi, cuồng điên vì tham ái trong lòng: tham đẹp, tham ngon, tham dâm … đã dâng cao đến đỉnh điểm.

Trong trạng thái phấn khích, cuồng nhiệt, hứng khởi đó, tác giả đưa vào, thổi vào bài thơ một luồng hơi nóng bỏng, một luồng cảm xúc đặc biệt, khác hẳn với thứ cảm xúc nội tại đến từ câu chữ và kỹ thuật thơ ca. Vâng, luồng hơi nóng bỏng ấy chính là hồn thơ. Người đọc không thể nắm bắt, nhận biết nó bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận bằng tâm hồn.  

Nói khác đi, thơ là tiếng lòng, tiếng nói của con tim không qua sự gạn đục, khơi trong của lý trí. Có người bảo tôi “nếu giữ tâm hồn được ngây thơ, trong trắng như trẻ thơ mà lại có kinh nghiệm sống đầy ắp, kỹ thuật thơ điêu luyện trong tay chắc là làm thơ sẽ hay lắm.” 

Tôi đồng ý ngay. Với tôi, lý trí là kẻ thù số một của thơ ca. Chả thế mà những nhà thơ Siêu Thực đã sử dụng rất nhiều thủ pháp để đánh bật lý trí ra khỏi tâm hồn trong lúc đang chế tạo thơ ca. (Nhưng khi những mảng tâm tư, tình cảm từ trong vô thức được moi ra trải trên trang giấy, lý trí sẽ len lỏi vào, nhúng tay vào công việc sắp xếp lại thứ tự những mảng tâm tư, tình cảm đó, và sẽ “xúc phạm” đến cái Chân Thật làm nên hồn thơ.)

 

Chỉ có cách, theo tôi, kiên nhẫn tích tụ kinh nghiệm sống, miệt mài rèn luyện kỹ thuật thơ ca và chờ đến lúc cảm xúc trong lòng sôi lên phủ mờ lý trí. Chính lúc đó, nếu phóng bút sẽ tạo được những câu thơ có hồn. Khoảnh khắc đó đến bất chợt và ra đi rất nhanh không một lời từ giã. 

Tìm hồn thơ là lắng nghe lòng mình (hoặc tìm cách khuấy động lòng mình) để bắt gặp cái khoảnh khắc “lên cơn” đó. Và khi đã “lên cơn” thì đừng chần chờ, phải hối hả viết ngay. Bởi khi đã bình tâm suy nghĩ thì hào khí ngất trời cũng xẹp như bong bóng bị xì hơi để nghĩ đến miếng cơm manh áo, vợ (chồng) đẹp, con khôn. 

Khi lý trí đã trụ được ở trong lòng thì đau thương chất ngất cũng nguôi ngoai, hận thù đằng đằng cũng lắng xuống, tình yêu cháy bỏng cũng nguội dần đi. Lúc ấy dù kinh nghiệm sống có phong phú đến đâu đi nữa, kỹ thuật thơ ca có điêu luyện đến đâu đi nữa, cái mớ chữ nghĩa được viết ra cũng không còn hơi sức để lay động lòng người.

 

KẾT LUẬN

Hiện đã có những bài thơ được sản xuất từ máy tính (computer generated poems). Chúng cũng có ngôn ngữ thơ, hình tượng, tứ thơ, cảm xúc … đủ cả. Nhưng dĩ nhiên, do từ máy tính, chúng không có hồn.

Khi đem những bài thơ này ra “trưng cầu dân ý” thì có rất đông người lầm lẫn cho rằng chúng được sáng tác bởi thi sĩ người thật chứ không phải bởi máy tính.

Cho nên khả năng cảm được cái hồn, cái chất thơ của bài thơ là rất quan trọng. Có nó, bạn sẽ được đứng về phía những con người thật –  nhận biết được tiếng Người, tiếng nói phát xuất từ trái tim của đồng loại. Còn phía bên kia, cũng là con người nhưng tim đã khô cứng bởi những quy luật, cung cách ứng xử của xã hội văn minh; họ rất hòa nhã, lễ phép, lịch sự nhưng rất “lạnh”, đang dần dà biến thành những người máy vô cảm. Riêng Thi Sĩ, nếu may mắn sáng tác được một bài thơ Có Hồn có nghĩa là Ngài đã ban cho nhân loại một ân huệ lớn, tặng họ một công cụ để học nói thứ tiếng Chân Thật (viết hoa) của con người.

Tôi có tin mừng thông báo đến những người yêu thơ. Hãy cứ tiếp tục làm thơ, đọc thơ, bình thơ, đem thơ vào những cuộc tán gẫu. Làm thế, các bạn đang bảo dưỡng cái tính người của mình, và qua đó, góp sức lôi kéo phần rất lớn kia của nhân loại trở về để cùng sống và xây dựng một thế giới nhân bản.

Phạm Đức Nhì


Trang Web Chuyên Bình Thơ

Phamnhibinhtho.blogspot.com

 

 

 

 

Thứ Ba, 21 tháng 6, 2016

SO SÁNH CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA VÀ SÔNG LẤP


So Sánh CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA Và SÔNG LẤP

Chăn Trâu Đốt Lửa:

·         Ý tưởng độc đáo, tuyệt vời, “sâu sắc một triết lý nhân sinh” (3)

·         Hình ảnh đứa bé chăn trâu, con diều, củ khoai rất gần gũi, dân dã nhưng lại rất hợp, rất ăn khớp với đề tài; có thể nói tứ thơ rất khéo, hay và dễ thương.

·         Cái dở của CTĐL là có câu thơ nội gián, thế trận chữ nghĩa xộc xệch.

Sông Lấp:

·         Ý tưởng: nuối tiếc nền Nho học đang lụi tàn, cùng với một số bài thơ khác là chứng nhân của một giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam, không hay bằng CTĐL

·         Tứ thơ hay hơn vì có 2 tầng ẩn dụ rất khéo.

·         Chữ dùng rất đắt, thế trận chặt chẽ.

·         Bài thơ toàn bích, không một chút sơ hở.

Kết luận:

        Theo nhận định chủ quan của người viết thì Sông Lấp hay hơn. Chăn Trâu Đốt Lửa cũng như cô gái đẹp nhưng bị khuyết tật. Dưới con mắt của các anh hùng hảo hán đi tìm người yêu vẻ đẹp của cô gái ấy đã giảm đi quá nửa. Cũng vậy, ý tứ có hay cách mấy mà kỹ thuật thơ kém, thế trận chữ nghĩa xộc xệch thì bài thơ sẽ bị coi là hỏng, hoặc ít ra, giá trị cũng bị giảm đi rất nhiều.

 

 

Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016

CHỌN THƠ ĐỂ BÌNH



Lời Nói Đầu

Đây là những Lời Bình Ngắn, đứng riêng rẽ, nhắm vào một câu, một đoạn, một ý thơ riêng biệt. Đôi khi cũng bàn đến một điểm nhỏ (rất nhỏ) liên quan đến Thơ nói chung. Lời Bình Ngắn cũng có khi được trích từ một bài bình thơ hoặc một bài tiểu luận bàn về Lý Thuyết Thơ. Mục đích của việc “cắt nhỏ” như vậy là để “vừa miếng” cho những người mới làm quen với thơ, đang bước đầu tìm hiểu cách thưởng thức một bài thơ, đang tìm cách trả lời câu hỏi “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ hay?” Và “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ dở?” Một đôi khi cũng có Lời Bình Ngắn hơi “dài”. Lý do: người viết muốn bàn sâu về một điểm đặc biệt nào đó của lý thuyết thơ hay một tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Xin nhắc các bạn trẻ - đối tượng chính của những bài viết như thế này – nên luôn để mắt vào Cái Đẹp Tổng Thể Của Bài Thơ. Có những câu thơ đứng riêng một góc trời thì rất hay, rất tuyệt. Nhưng khi đưa vào bài thơ thì lại không hợp, có khi còn trở thành vật cản đối với dòng chảy của tứ thơ. Nhận biết được một câu thơ, đoạn thơ hay là một bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, phải đặt câu thơ , đoạn thơ đó vào khung cảnh bài thơ, cân nhắc, xem xét những tiêu chí khác - đặc biệt là dòng chảy của tứ thơ, hơi thơ và hồn thơ - để sau cùng đi đến kết luận chung cuộc, có tính tổng hợp về giá trị nghệ thuật của bài thơ.

 

                                   CHỌN THƠ ĐỂ BÌNH
Người bình thơ phải tự trả lời 3 câu hỏi:

     1/ Bài thơ có đủ hay, đủ tiếng tăm, đủ hấp dẫn để có thể “mời gọi” độc giả đến với bài bình thơ của mình hay không?

      2/ Bài bình thơ của mình – phân tích, giải thích cái hay, cái dở (nếu có) của bài thơ dựa vào những Tiêu Chí thẩm định giá trị nghệ thuật thơ ca - có đem lại điều gì mới, bổ ích (về thơ) cho độc giả hay không? Lập luận của mình có đủ sức thuyết phục những độc giả hiểu biết, khó tính và cả giới phê bình không?

       3/ Nếu đã có những bài bình trước rồi thì liệu bài bình của mình có đem lại điều gì mới hơn những bài bình đó hay không?

Thơ được chọn bình hầu hết là thơ hay (theo nhận định của người bình) hoặc ít nhất cũng có một điểm gì đó nổi bật như tứ thơ, ý thơ mới lạ, khả năng diễn đạt ý tưởng của tác giả điêu luyện, ngôn từ trong sáng, sang cả, hình ảnh đẹp, được đặt đúng chỗ, đúng lúc làm tăng sức hấp dẫn của bài thơ. Bên cạnh đó có thể còn có sự xuất hiện của những “cầu thủ siêu sao” – những câu, đoạn thơ độc đáo – cách kết thúc đầy ấn tượng, phép ẩn dụ ý nhị, thủ pháp Show, Not Tell khéo léo, cảm xúc dạt dào. Đây là chỗ mà người yêu thơ đọc đi, đọc lại để thưởng thức, còn người bình thơ giải thích, phân tích để chia sẻ cái đẹp ấy với mọi người.

Đã bình thơ là phải có khen chê. Dĩ nhiên, cũng có (nhưng rất ít) những bài thơ toàn bích, còn thì đại đa số thơ được lưu hành thế nào tác giả cũng có một chút “không khéo” ở chỗ này, chỗ khác; người bình thơ cũng phải chỉ ra để độc giả (trong đó có rất nhiều thi sĩ khác) rút kinh nghiệm khi viết những bài thơ sau. Thấy khuyết điểm mà lờ đi vì những lý do không liên quan đến thơ thì, theo tôi, là hành vi “thiếu lương thiện trong văn chương”. Hơn nữa, bình thơ mà bài nào cũng khen tuốt luột từ đầu đến chân thì, nói như nhà văn Châu Thạch, là “nịnh thơ” chứ không phải bình thơ.

Phạm Đức Nhì


 

 

Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2016

TÔ ĐÔNG PHA SỬA THƠ VƯƠNG AN THẠCH





Lời Nói Đầu

Đây là Lời Bình Ngắn, đứng riêng rẽ, nhắm vào một câu, một đoạn, một ý thơ riêng biệt. Đôi khi cũng bàn đến một điểm nhỏ (rất nhỏ) liên quan đến Thơ nói chung. Lời Bình Ngắn cũng có khi được trích từ một bài bình thơ hoặc một bài tiểu luận bàn về Lý Thuyết Thơ. Mục đích của việc “cắt nhỏ” như vậy là để “vừa miếng” cho những người mới làm quen với thơ, đang bước đầu tìm hiểu cách thưởng thức một bài thơ, đang tìm cách trả lời câu hỏi “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ hay?” Và “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ dở?” Một đôi khi cũng có Lời Bình Ngắn hơi “dài”. Lý do: người viết muốn bàn sâu về một điểm đặc biệt nào đó của lý thuyết thơ hay một tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Xin nhắc các bạn trẻ - đối tượng chính của những bài viết như thế này – nên luôn để mắt vào Cái Đẹp Tổng Thể Của Bài Thơ. Có những câu thơ đứng riêng một góc trời thì rất hay, rất tuyệt. Nhưng khi đưa vào bài thơ thì lại không hợp, có khi còn trở thành vật cản đối với dòng chảy của tứ thơ. Nhận biết được một câu thơ, đoạn thơ hay là một bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, phải đặt câu thơ , đoạn thơ đó vào khung cảnh bài thơ, cân nhắc, xem xét những tiêu chí khác - đặc biệt là dòng chảy của tứ thơ, hơi thơ và hồn thơ - để sau cùng đi đến kết luận chung cuộc, có tính tổng hợp về giá trị nghệ thuật của bài thơ.

 
Tô Đông Pha Sửa Thơ Vương An Thạch

 Vương An Thạch trong lúc du học ở đảo Hải Nam đã làm một bài thơ trong đó có hai câu rất lạ:
Minh
N
guyệt sơn đầu khiếu
Hoàng
K
huyển ngọa hoa tâm

Dịch nghĩa:
Trăng sáng hót đầu núi
Chó vàng nằm (trong) lòng hoa

Thi hào Tô Ðông Pha
tình cờ đọc được, thấy “sai” (trăng sáng làm sao hót trên đầu núi và chó vàng làm sao nằm trong lòng hoa được) nên đã sửa lại hai chữ cuối cho đúng
nghĩa hơn.

Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm

Dịch nghĩa:
Trăng sáng rọi đầu núi
Chó vàng nằm (dưới) bóng hoa


Chuyện sửa thơ đến tai Vương An Thạch
(lúc ấy đang là Tể Tướng) nên họ Vương đã bổ nhiệm Tô thi hào một chức quan ở Hải Nam. Sau đó Tô Ðông Pha mới khám phá ra ở địa phương này có loại chim tên là Minh Nguyệt, hay hót trên đầu núi, và có một loại sâu tên là Hoàng Khuyển, chỉ thích nằm trong lòng hoa! Và người kể chuyện kết luận “Lúc ấy Tô Ðông Pha mới biết là mình xớn xác, bồng bột và thấy được cái thâm trầm của Vương An Thạch.
Theo tôi, việc Tô Đông Pha sửa thơ không có gì là “xớn xác, bồng bột” hết. Người đọc thơ, bình thơ – trong thế giới thơ rộng lớn - không thể biết và không có bổn phận phải biết những chi tiết, sự việc chỉ có, chỉ xảy ra ở một địa phương nhỏ bé. Chính thi sĩ - để hoàn thành chức năng truyền thông của bài thơ - phải chú thích để người đọc biết, hiểu những chi tiết, sự việc có tính chất địa phương ấy. Lỗi và trách nhiệm ở đây nằm trên hai vai Vương An Thạch chứ không phải Tô Đông Pha.

TIẾN TRÌNH NÂNG CẤP TRÌNH ĐỘ THƯỞNG THỨC THƠ


Lời Nói Đầu

Đây là những Lời Bình Ngắn, đứng riêng rẽ, nhắm vào một câu, một đoạn, một ý thơ riêng biệt. Đôi khi cũng bàn đến một điểm nhỏ (rất nhỏ) liên quan đến Thơ nói chung. Lời Bình Ngắn cũng có khi được trích từ một bài bình thơ hoặc một bài tiểu luận bàn về Lý Thuyết Thơ. Mục đích của việc “cắt nhỏ” như vậy là để “vừa miếng” cho những người mới làm quen với thơ, đang bước đầu tìm hiểu cách thưởng thức một bài thơ, đang tìm cách trả lời câu hỏi “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ hay?” Và “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ dở?” Một đôi khi cũng có Lời Bình Ngắn hơi “dài”. Lý do: người viết muốn bàn sâu về một điểm đặc biệt nào đó của lý thuyết thơ hay một tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Xin nhắc các bạn trẻ - đối tượng chính của những bài viết như thế này – nên luôn để mắt vào Cái Đẹp Tổng Thể Của Bài Thơ. Có những câu thơ đứng riêng một góc trời thì rất hay, rất tuyệt. Nhưng khi đưa vào bài thơ thì lại không hợp, có khi còn trở thành vật cản đối với dòng chảy của tứ thơ. Nhận biết được một câu thơ, đoạn thơ hay là một bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, phải đặt câu thơ , đoạn thơ đó vào khung cảnh bài thơ, cân nhắc, xem xét những tiêu chí khác - đặc biệt là dòng chảy của tứ thơ, hơi thơ và hồn thơ - để sau cùng đi đến kết luận chung cuộc, có tính tổng hợp về giá trị nghệ thuật của bài thơ.

 
Tiến Trình Nâng Cấp Trình Độ Thưởng Thức Thơ

Tùy trình độ kiến thức và độ nhạy bén trong cảm nhận thơ tiến trình nâng cấp có thể mỗi người mỗi khác. Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy sự nâng cấp tiến triển theo trình tự như sau:

1/ Tiếp xúc với đám đông mới, tiếp cận thơ ở “đẳng cấp” mới

Nghe nhiều người nói nó hay, đọc những bài bình khen nó thấy cũng có lý nhưng lòng vẫn nửa tin, nửa ngờ.

2/ Vẫn khoái thơ ở “đẳng cấp” cũ, gắng đọc nhưng chưa thích thơ ở “đẳng cấp” mới

3/ Vẫn còn “lưu luyến” thơ ở “đẳng cấp” cũ; bắt đầu thích thơ ở “đẳng cấp” mới

Những lời đồn, những lời khen, những bài bình đã bắt đầu thấm; đọc thơ đẳng cấp mới với sự chú tâm nhiều hơn.

4/ Thích thơ ở “đẳng cấp” mới; chán thơ ở “đẳng cấp” cũ.

Khi cái mớ lý thuyết về thơ chất chứa trong người lâu ngày chầy tháng đã trở thành “nội công thâm hậu” của chính mình, để rồi một ngày nào đó đọc một bài thơ “cao cấp” mình bỗng nhiên “ngộ” ra cái hay của nó. Như thế là đã đến chỗ “lý sự dung thông”; ta đã ung dung an vị ở đẳng cấp mới.

 

CHỌN THỂ THƠ


 
Lời Nói Đầu

Đây là những Lời Bình Ngắn, đứng riêng rẽ, nhắm vào một câu, một đoạn, một ý thơ riêng biệt. Đôi khi cũng bàn đến một điểm nhỏ (rất nhỏ) liên quan đến Thơ nói chung. Lời Bình Ngắn cũng có khi được trích từ một bài bình thơ hoặc một bài tiểu luận bàn về Lý Thuyết Thơ. Mục đích của việc “cắt nhỏ” như vậy là để “vừa miếng” cho những người mới làm quen với thơ, đang bước đầu tìm hiểu cách thưởng thức một bài thơ, đang tìm cách trả lời câu hỏi “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ hay?” Và “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ dở?” Một đôi khi cũng có Lời Bình Ngắn hơi “dài”. Lý do: người viết muốn bàn sâu về một điểm đặc biệt nào đó của lý thuyết thơ hay một tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Xin nhắc các bạn trẻ - đối tượng chính của những bài viết như thế này – nên luôn để mắt vào Cái Đẹp Tổng Thể Của Bài Thơ. Có những câu thơ đứng riêng một góc trời thì rất hay, rất tuyệt. Nhưng khi đưa vào bài thơ thì lại không hợp, có khi còn trở thành vật cản đối với dòng chảy của tứ thơ. Nhận biết được một câu thơ, đoạn thơ hay là một bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, phải đặt câu thơ , đoạn thơ đó vào khung cảnh bài thơ, cân nhắc, xem xét những tiêu chí khác - đặc biệt là dòng chảy của tứ thơ, hơi thơ và hồn thơ - để sau cùng đi đến kết luận chung cuộc, có tính tổng hợp về giá trị nghệ thuật của bài thơ.

CHỌN THỂ THƠ

 
Làm thơ, có người chuyên về một thể loại; thí dụ: lục bát. Có người thể thơ nào cũng “thử” một đôi bài nhưng khi cao hứng gặp được tứ thơ hay thì sẽ chọn thể thơ mình thích nhất. Đọc thơ, tôi thường nghe những câu đại loại như “Tạng tôi không hợp với thơ ‘ông này’ mà gần với thơ ‘bà kia’ hơn.”

 
Khi mới tập làm thơ thầy giáo dạy Việt Văn, khi được hỏi ý kiến nên chọn thể thơ nào, đã cho tôi lời khuyên: “Thấy thích, hợp thể thơ nào thì cứ chọn thể thơ đó; có thích, có tự tin thì làm thơ mới hay. Hơn nữa, đó là quyền tự do của thi sĩ”. Sau này góp nhặt thông tin từ các bài bình thơ, các cuộc tranh luận về thơ, cộng với kinh nghiệm làm thơ của chính mình tôi đi đến kết luận:

 
Trên trang thơ của mình, đồng ý, thi sĩ là vua, có toàn quyền quyết định mọi thứ, nhưng đối với thể thơ, nếu cứ lẽo đẽo ở phía sau, không vươn lên cùng thời đại thì chính thi sĩ sẽ không được hưởng cái thoải mái tự do khi phóng bút mà bài thơ khi xuất xưởng sẽ bị giới thưởng ngoạn nhìn với đôi mắt thiếu thiện cảm.

 
Chọn thể thơ nên lưu ý một số điểm sau:

1/ Số chữ trong câu có thể tùy tiện, thoải mái, không bị luật lệ bó buộc.

2/ Không bị hội chứng nhàm chán vần nhưng cũng nên có vần thoang thoảng, tạo vị ngọt thơ ca vừa phải.

3/ Nếu bài thơ hơi dài, tránh thể thơ trường thiên vì tứ thơ sẽ bị phân mảnh, đứt đoạn, chọn cách gieo vần để bài thơ nhất khí, liền mạch.

4/ Đường Luật rất gò bó; song thất lục bát sẽ “giúp” bài thơ chết sớm; lục bát là con dao hai lưỡi: coi chừng thành vè hoặc “ầu ơ”; thơ mới vần liên tiếp dễ “ầu ơ”; thơ mới trường thiên: tứ thơ phân mảnh, đứt đoạn, nếu trên 4 đoạn cũng dễ “ầu ơ”; thơ kiểu văn xuôi không vần: trúc trắc, khó đọc, tứ thơ gập ghềnh, khi đọc lý trí phải làm việc cật lực, mất cơ hội để tâm hồn giao cảm
 
Phạm Đức Nhì
Blog chuyên bình thơ
phamnhibinhtho.blogspot.com
 

 

 
 
 

ANH BẰNG SỬA THƠ YÊN THAO


Lời Nói Đầu

Đây là những Lời Bình Ngắn, đứng riêng rẽ, nhắm vào một câu, một đoạn, một ý thơ riêng biệt. Đôi khi cũng bàn đến một điểm nhỏ (rất nhỏ) liên quan đến Thơ nói chung. Lời Bình Ngắn cũng có khi được trích từ một bài bình thơ hoặc một bài tiểu luận bàn về Lý Thuyết Thơ. Mục đích của việc “cắt nhỏ” như vậy là để “vừa miếng” cho những người mới làm quen với thơ, đang bước đầu tìm hiểu cách thưởng thức một bài thơ, đang tìm cách trả lời câu hỏi “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ hay?” Và “Thế nào là một câu, một đoạn, một bài thơ dở?” Một đôi khi cũng có Lời Bình Ngắn hơi “dài”. Lý do: người viết muốn bàn sâu về một điểm đặc biệt nào đó của lý thuyết thơ hay một tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Xin nhắc các bạn trẻ - đối tượng chính của những bài viết như thế này – nên luôn để mắt vào Cái Đẹp Tổng Thể Của Bài Thơ. Có những câu thơ đứng riêng một góc trời thì rất hay, rất tuyệt. Nhưng khi đưa vào bài thơ thì lại không hợp, có khi còn trở thành vật cản đối với dòng chảy của tứ thơ. Nhận biết được một câu thơ, đoạn thơ hay là một bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, phải đặt câu thơ , đoạn thơ đó vào khung cảnh bài thơ, cân nhắc, xem xét những tiêu chí khác - đặc biệt là dòng chảy của tứ thơ, hơi thơ và hồn thơ - để sau cùng đi đến kết luận chung cuộc, có tính tổng hợp về giá trị nghệ thuật của bài thơ.


Tôi đứng bên này sông  

Bên kia vùng giặc đóng

(Nhà Tôi, Yên Thao)

Khi phổ nhạc bài thơ nhạc sĩ Anh Bằng sửa lại:

         Tôi đứng bên này sông

         Bên kia vùng lửa khói

Nhà Tôi là tâm trạng hồi hộp, lo âu của một người lính trước giờ nổ súng mà mục tiêu của trận đánh lại chính là ngôi làng bên kia sông, có căn nhà nơi những người thân yêu nhất của mình, bà mẹ già và cô vợ trẻ, đang cư trú. Trước hết, đưa cụm từ “vùng lửa khói” vào không ăn khớp với thực tế trận địa; chưa nổ súng thì làm gì có “lửa khói!” Hơn nữa, chi tiết làng tôi là “vùng giặc đóng” khiến việc đánh bật trại giặc để chiếm lĩnh mục tiêu trong một trận đánh có cả pháo binh sẽ rất nguy hiểm cho căn nhà và những người sống trong đó. Điều này làm nỗi lo của người lính thật hơn, khơi dậy nơi người đọc cảm xúc mạnh hơn. Anh Bằng đã làm tứ thơ dở đi rất nhiều khi thay cụm từ trên.

Thứ Năm, 16 tháng 6, 2016

ĐOẠN KẾT CỦA BÀI THƠ "GIẤC MƠ ANH LÁI ĐÒ"


                           ĐOẠN KẾT CỦA BÀI THƠ “GIẤC MƠ ANH LÁI ĐÒ”

Đoạn kết cũng là một tiêu chí để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ.

Có những đội bóng, từ khi phát bóng cho đến lúc qua phần đất đối phương ở khoảng giữa sân cầu thủ chơi rất hay. Nhưng hễ tiến vào khu vực 16 mét 50 thì cầu thủ lạng quạng, hoặc để mất bóng, hoặc đá ra ngoài, hoặc đá vào cầu môn nhưng quá nhẹ, thủ môn bắt được một cách dễ dàng. Nói tóm lại, không có khả năng phối hợp để cuối cùng sút dứt điểm tung lưới đối phương, ghi bàn thắng. Với thơ cũng vậy. Có những bài thơ có đoạn kết hay, vừa xác nhận thông điệp của tác giả một cách trang trọng, khéo léo vừa tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Nhưng cũng có những bài thơ có đoạn kết nhạt nhẽo, bình thường, đôi khi còn “xa lạ” hoặc “ngược dòng” với tứ thơ.

Dưới đây là đọan thơ có 2 câu kết của bài Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:

            Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
            Nhà gái ăn
chín nghìn cau
            Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu
chín nghìn
            Lang thang tôi dạm bán thuyền
            Có người giả
chín quan tiền, lại thôi.


Tôi không tin là trong thực tế, con số
chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn. Ở đây thủ pháp “bày tỏ, không kể lại” được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời.

Phạm Đức Nhì