Thứ Ba, 14 tháng 6, 2016

YÊU THƠ NÊN PHẢI HẾT LÒNG VỚI THƠ


YÊU THƠ NÊN PHẢI HẾT LÒNG VỚI THƠ

 

Đọc xong Một Chút Tâm Tình khá đông bạn bè và người đọc đã gởi đến tôi những lời bình phẩm. Đồng tình cũng nhiều mà chỉ trích cũng không ít. Một vị (lớn tuổi, có uy tín) đã trách tôi “không còn cái tinh thần của người lính, nghe hiệu lệnh là cùng đồng đội xung phong chiếm lĩnh mục tiêu.” Một người khác cho rằng bài thơ của tôi đã “lạc giọng, lỗi nhịp với giàn đồng ca của người Việt hải ngoại.”

Biết trả lời sao bây giờ? Bèn viết bài thơ. 

 

 Có một thời bị đọa đày hành hạ

thơ của tôi rực lửa căm thù

máu và nước mắt

ướt đẫm những trang thơ

nực mùi tử khí

 
Thơ cũng đậm màu chính trị

màu này thật dễ thương

còn màu đó…

thấy mà ghê!

Ôi! Đẹp quá phe mình

còn phe bên kia

phải chọn góc nhìn

để chỉ thấy toàn điều xấu

 
Mỗi câu thơ

một bài ca chiến đấu

một viên đạn đồng đen

bắn vào chế độ cộng sản bạo tàn

tôi trở thành người lính hiên ngang

cầm bút

 
Nhiều lúc

nhìn cảnh đời

dạt dào cảm xúc

bật ra mấy vần thơ

bạn bè nghe qua

đầu lắc

tay xua

“Không hợp với trào lưu của người Việt hải ngoại”

 
Thỉnh thoảng xem lại một số thơ mình

thơ bạn bè đồng đội

rất lý tưởng

vững lập trường

có kỷ cương

kẻ trước dẫn dắt người sau

riêng hồn thơ

thì chẳng thấy đâu

 

Tôi lao vào đọc

mới đầu là những bài thơ tuyệt tác

tìm hiểu thêm kỹ thuật thơ ca

và rồi hầu như tất cả những gì về thơ

từ  Âu Á Tây Tầu Anh Mỹ

các trang web văn chương

Talawas, Da Màu, Tiền Vệ

ôn cố tri tân

tạo cho thơ mình một vóc dáng riêng

nhưng người lính trong tôi

quá đỗi kiên cường?

nên tôi vẫn “được” đứng chung hàng

với rất đông nhà thơ - chiến sĩ

 

Một hôm cao hứng

tình quê hương đất nước dâng tràn

nghĩ đến những thôn xóm, phố phường

có tên gọi Việt Nam

đến mẹ già

đàn em

bà con

bạn bè thân thiết

đến những người chưa quen biết

và cả những người đã chết từ lâu

 
Niềm thương cảm

từ trong từng thớ thịt

mỗi tế bào

chảy ào trên trang giấy

 
Nhưng chính ngay giây phút ấy

gió bão nổi lên

cát bụi mịt mù

và trong cái không khí rờn rợn âm u

xuất hiện một chàng trai trẻ tuổi

quân phục bạc màu

mặt buồn rười rượi

lấy cả thân người

che khuất bài thơ đang viết dở của tôi

Khi con chữ vẫn cứ hàng hàng lớp lớp

bay về tới tấp

như sóng biển dồn dập

và khiến tôi trong cơn say, cơn điên

vung bút đâm phập vào trái tim

người lính

 
Tôi đang sống trên nước Mỹ

đất nước tự do

làm thơ

không phải lấm lét nhìn trước, ngó sau

nỗi lo sợ theo vào

cả trong giấc ngủ

giật thót mình nghe tiếng chó sủa

ban đêm

 
Nhưng sao trước mặt vẫn chập chờn

những bóng ma quá khứ

ánh mắt van lơn

bàn tay níu giữ

khiến đã biết bao lần

dòng thơ đang băng băng tuôn chảy

phải khựng lại

luồn lách qua hướng khác

 
Để có thể hết lòng hết dạ

trọn tình trọn nghĩa

với nàng thơ

tôi

tay cầm bút viết

tay nắm dao quơ

đuổi, giết bằng sạch những hồn ma, bóng quỷ

(truyền thống, khuôn phép lễ giáo, thước đo giá trị

của người đời)

 
Trên trang thơ của mình

tôi chỉ trung thành

với nhịp đập

của chính trái tim tôi.

 

San Leon cuối tháng 1 năm 2013

Phạm Đức Nhì 


 

 

 

 

 

Ý TƯỞNG TRONG THƠ TTKH


                    Ý TƯỞNG TRONG THƠ TTKH

 

Ý tưởng chính, đề tài của bài thơ là một tiêu chí quan trọng để người phê bình đánh giá bài thơ. Ý tưởng hay sẽ nâng giá trị của bài thơ lên rất nhiều. Tôi tạm chia Ý TƯỞNG TRONG THƠ làm 4 hạng (từ cao xuống thấp):

     1/ Nhân bản, cao đẹp, khai phóng, thăng hoa tâm hồn con người, hoàn toàn mới lạ, độc đáo. (Điều này có thể đạt được nhưng rất khó và rất hiếm)

     2/ Tác phẩm xuất sắc nhất đại diện cho một hiện tượng, một lối sống, một cách nghĩ của một giai đoạn lịch sử (đã lác đác có người viết đề cập đến nhưng chưa có tác phẩm nào xuất sắc).         

     3/ Lách, thoát hẳn (hoặc ngược với) dòng thơ Phải Đạo (những suy nghĩ đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong tâm hồn con người).

     4/ Viết theo phong trào, xu hướng chính trị, theo thị hiếu của đám đông, chọn những đề tài muôn thuở chung chung (tình yêu, quê hương …), những con đường đã có hàng triệu dấu chân.

 

 

Vào thời TTKh viết Hai Sắc Hoa Ti Gôn (và 3 bài thơ khác) con người VN còn sống bó buộc trong cái khung của lễ giáo phong kiến: “Liệt nữ bất canh nhị phu” nghĩa là gái chính chuyên chỉ có một chồng. Sự chung thủy là một đức tính, một nguyên tắc ứng xử - chỉ áp dụng cho phái nữ - được hết mực ca ngợi. Đã “đeo gông vào cổ” rối mà còn “tơ tưởng đến ông láng giềng” hay bất cứ người đàn ông nào khác là đã “ngoại tình trong tư tưởng”, là đã phạm một điều đại cấm kỵ, bị xóm làng nguyền rủa, xã hội lên án. Những bài thơ của TTKh đã đạp đổ cái luật lệ khắt khe bất nhân ấy, đã gột rửa lớp son phấn giả tạo của Khổng Giáo trên thân thể người phụ nữ, để lộ ra trước xã hội, trước cuộc đời một Con Người có trái tim, biết yêu thương, nhung nhớ, biết khổ đau. Ý tưởng của mấy bài thơ, lúc ấy, được coi là vô cùng táo bạo, không những thoát khỏi mà còn chảy ngược với dòng thơ phải đạo.

 

  Trước TTKh chắc cũng có nhiều bậc thức giả đã nhận ra khía cạnh bất nhân trong cái gọi là “tam tòng tứ đức” của đạo Khổng - đã ép buộc nhiều phụ nữ phải gạt nước mắt chia tay người mình hết lòng thương mến, để vì lễ giáo, vì môn đăng hộ đối, vì lệnh của song thân, phải lấy, rồi ăn ở suốt đời với người mình không hề yêu thương - nhưng họ hoặc không dám nói ra hoặc chỉ than thở lén lút và những lời than thở ấy cũng thoảng bay theo gió. Tuy vậy, thi đàn nước Việt có ít nhất 2 tác phẩm đề cập đến sự coi thường tình cảm của phụ nữ trong hôn nhân vẫn còn được lưu truyền: Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều và Cảnh Làm Lẽ c ủa Hồ Xuân Hương.

 

Tôi có mấy nhận xét sau đây:

     1/ Đối tượng của CONK nhắm vào những cung nữ trong cung đình, chỉ là một bộ phận nhỏ trong cộng đồng phụ nữ của dân tộc. 

     2/Thể thơ song thất lục bát đã không còn được ưa thích và ngày càng ít xuất hiện trên thi đàn.

     3/ Khi tôi viết những dòng chữ này (2016) chế độ phong kiến đã cáo chung từ lâu. Không còn tam cung lục viện, không còn hàng ngàn cung phi, mỹ nữ, có người phải lén rải cỏ non trước cửa phòng với ước mơ xe dê của vua ngừng lại và tấm thân trong trắng ngọc ngà của mình được ngài đoái hoài đến. Ý tưởng chính của tác phẩm - “Tiếng thét oán hờn của trang nữ lưu” - đã không còn tính thời sự, không còn thôi thúc, không gây được ấn tượng mạnh như thời Nguyễn Gia Thiều.

Có lẽ vì thế mà CONK dù vẫn có vị trí trong văn học sử, giá trị và ảnh hưởng của nó phải xếp phía sau mấy bài thơ của TTKh.

 

Cảnh Làm Lẽ

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không ...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.

 (Hồ Xuân Hương)

 

Đối tượng của Cảnh Làm Lẽ cũng chỉ là một thiểu số phụ nữ - vì một lý do nào đó - chấp nhận làm lẽ. Thể thơ đường luật chật hẹp quá, gò bó quá nên chỉ mới chạm vào lớp vỏ ngoài của nỗi khổ phải “lấy chồng chung”. Bài thơ gợi được mối thương cảm nơi người đọc nhưng mối thương cảm ấy không lớn, không sâu sắc.

 

Trong khi đó đối tượng của mấy bài thơ của TTKh là toàn thể giới phụ nữ. Độ phủ sóng ở đây lớn hơn gấp bội. Thêm vào đó hôn nhân ép buộc kiểu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” đang xảy ra trước mắt mọi người, đang là một vấn nạn lớn của xã hội nên mấy bài thơ ấy – có thể nói mà không sợ bị cho là quá lời – đã góp đặt nền móng cho việc đạp đổ lễ giáo phong kiến của Khổng Tử, làm cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ sau này.


Thể thơ mới phóng khoáng, tự do hơn nên TTKh đã trải tâm sự của mình một cách thoải mái, đầy đủ, sâu sắc. Hơn nữa đội quân chữ nghĩa của bà thế trận chặt chẽ hơn, chia thành 4 đạo quân bao kín trận địa (4 bài thơ) và đã chinh phục hoàn toàn tim óc của người đọc thời bấy giờ.


Dưới cái nhìn của thơ ca hiện đại thì mấy bài thơ của TTKh – dù nhỉnh hơn CONK và Cảnh Làm Lẽ - chỉ ở mức khá hoặc trên khá một chút - nhưng nhờ có ý tưởng nhân bản và táo bạo – đòi lại  quyền làm chủ trái tim mình cho toàn thể phụ nữ - nên chúng, tuy chưa phải là tuyệt tác, vẫn có một vị trí đặc biệt trong văn học sử, trở thành cột mốc quan trọng trên chặng đường tiến hóa của dân tộc.


Ý tưởng trong thơ của TTKH có thể xếp vào hạng 1 và hạng 2 - vừa nhân bản, vừa có giá trị lịch sử.

 

Ý TƯỞNG TRONG BÀI THƠ "NGỌN CỎ"



                        Ý TƯỞNG TRONG BÀI THƠ “NGỌN CỎ”


 


Ý tưởng chính, đề tài của bài thơ là một tiêu chí quan trọng để người phê bình đánh giá bài thơ. Ý tưởng hay sẽ nâng giá trị của bài thơ lên rất nhiều. Tôi tạm chia Ý TƯỞNG TRONG THƠ làm 4 hạng (từ cao xuống thấp):


     1/ Nhân bản, cao đẹp, khai phóng, thăng hoa tâm hồn con người, hoàn toàn mới lạ, độc đáo. (Điều này có thể đạt được nhưng rất khó và rất hiếm)


     2/ Tác phẩm xuất sắc nhất đại diện cho một hiện tượng, một lối sống, một cách nghĩ của một giai đoạn lịch sử (đã lác đác có người viết đề cập đến nhưng chưa có tác phẩm nào xuất sắc).         


     3/ Lách, thoát hẳn (hoặc ngược với) dòng thơ Phải Đạo (những suy nghĩ đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong tâm hồn con người).


     4/ Viết theo phong trào, xu hướng chính trị, theo thị hiếu của đám đông, chọn những đề tài muôn thuở chung chung (tình yêu, quê hương …), những con đường đã có hàng triệu dấu chân.


 


                      Ngọn Cỏ


 


Tiếng nước đái


nhỏ giọt


trong bồn cầu tí tách


thứ nước ấm sóng sánh vàng


hổ phách


trong người tôi tuôn ra


 


Phải rồi


tôi là đàn bà


hạng đàn bà đái không qua ngọn cỏ


bây giờ


được ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệ


tương lai không chừng tôi sẽ


to con mập phệ


tí tách như mưa


ngọn cỏ gió đùa.


(Nguyễn Thị Hoàng Bắc)


Đóng góp một lời kêu gọi mạnh mẽ cho cuộc cách mạng nữ quyền. Phụ nữ hãy vùng lên đòi quyền “đứng đái đàng hoàng” như nam giới. Tứ thơ mới lạ một cách táo bạo. Kỹ thuật thơ vững, nhuyễn, thể thơ có thể nói đã vượt qua thơ mới về số chữ trong câu, vần tự nhiên nhưng hơi “ngọt” (một chút thôi).  Tiếc là câu kết quá dở, “trật bàn đạp”, ngược với dòng chảy của tứ thơ.


Riêng về Ý Tưởng Trong Thơ có thể xếp vào hạng 1 và hạng 3.


(Xin đọc thêm Ngọn Cỏ: Một Bài Thơ Hay?)


 


 


 

Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2016

KẾT LUẬN CỦA BÀI TẢN MẠN VỀ VAI TRÒ CỦA Ý TỨ TRONG THƠ


 KẾT LUẬN CŨA BÀI TẢN MẠN VỀ VAI TRÒ CỦA Ý TỨ TRONG THƠ


Cá nhân tôi, rất nhiều khi nẩy ra một ý thơ định ngồi dậy cầm bút viết thì nhận ra cái ý ấy người ta – không phải một mà vô số người – đã viết từ lâu rồi. Một đề tài về bất cứ khía cạnh nào của cuộc sống, thường là đã được - ở chỗ này hay chỗ khác, ở thời điểm này hay thời điểm khác, bằng cách này hay cách khác - đề cập đến. Cho nên nghĩ ra một ý tưởng hay, mới lạ, độc đáo để đưa vào thơ là cực kỳ khó. Chỉ có những tài năng đặc biệt, có khi phải nhờ may mắn, cộng thêm một chút duyên nữa mới có thể nghĩ ra, và đôi lúc, còn cần đến lòng dũng cảm vượt bậc mới dám viết về cái “ý mới” ấy. Còn số đông nhà thơ khác đều lũ lượt nối đuôi nhau tìm đến những đề tài muôn thuở: tình yêu, quê hương, chính trị xu thời, thị hiếu của đám đông và những đề tài phải đạo khác.

Đến đây tôi mới hiểu ra lời dặn dò của 2 ông bạn Mỹ, tuy có vẻ đối nghịch nhau nhưng bổ khuyết cho nhau và đều rất hữu lý. Nếu tổng hợp hai ý kiến ấy cộng với một số tìm hiểu của riêng tôi, vai trò của ý tứ trong thơ có thể được trình bày như sau:

Ý tưởng chính, đề tài của bài thơ có thể được chia làm mấy hạng (từ cao xuống thấp):

     1/ Cao đẹp, khai phóng, thăng hoa tâm hồn con người, hoàn toàn mới lạ, độc đáo. (Điều này có thể đạt được nhưng rất khó và rất hiếm)

     2/ Lách, thoát hẳn ra khỏi (hoặc ngược với) dòng thơ Phải Đạo.

     3/ Một hiện tượng, một lối sống, một cách nghĩ của một giai đoạn lịch sử đã lác đác có người viết đề cập đến nhưng chưa có tác phẩm nào xuất sắc.

     4/ Viết theo phong trào, xu hướng chính trị, theo thị hiếu của đám đông, chọn những đề tài muôn thuở (tình yêu, quê hương …), những con đường đã có hàng triệu dấu chân.

Nghĩ được một ý tưởng hay thì phải bắt lấy ngay vì bài thơ có ý hay, độc đáo sẽ được đánh giá cao gấp bội. Nhưng nếu thi hứng của mình cứ nghiêng về phía “đường xưa lối cũ” thì hãy chọn con đường ít dấu chân hoặc chưa có dấu chân nào đậm nét. Thi sĩ cũng có thể tạo một khung cảnh mới để tiếp cận đề tài (thí dụ: Sông Lấp); ý chưa được mới lạ thì ít nhất cũng có tứ hay.

Ý tứ là quan trọng đấy; tuy nhiên, còn quan trọng hơn chính là tay nghề của thi sĩ. Kỹ thuật thơ mà kém cỏi thì ý tứ có hay bài thơ cũng chìm xuồng, không thể nổi đình, nổi đám trong tâm hồn người đọc được

Tóm lại, Ý Tứ chỉ là một trong nhiều tiêu chí để thẩm định giá trị một bài thơ. Tìm được ý tưởng hay, hoàn toàn mới lạ, độc đáo (không phải dễ và không phải cứ nỗ lực là sẽ tim được) sẽ nâng giá trị bài thơ lên rất nhiều. Với thơ, ý tưởng là một tiêu chí rất khó đạt điểm tối đa. Tuy nhiên, nếu đặc biệt quan tâm đến việc chọn cách tiếp cận đề tài, tạo được khung cảnh thích hợp, bài thơ sẽ có tứ hay. Riêng về Ý, dù biết là cực khó để đạt được điểm 10 nhưng cũng đừng để phải ăn một con số không (0) to tướng.

NAM QUỐC SƠN HÀ


              NAM QUỐC SƠN HÀ

           Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

           Tiệt nhiên phân định tại Thiên thư.

           Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

           Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.


             SÔNG NÚI NƯỚC NAM


           Sông núi nước Nam, vua Nam ở

           Rành rành phân định tại sách trời

           Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

           Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

           (Trần Trọng Kim dịch)


Năm 1076, hơn 30 vạn quân nhà Tống (Trung Quốc) do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược Đại Việt (tên nước Việt Nam thời đó). Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến tại sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn địch. Quân của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn. Nhiều trận quyết chiến ác liệt đã xảy ra tại đây nhưng quân Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh. Đang đêm, Lý Thường Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở phía nam bờ sông Như Nguyệt, giả làm thần đọc vang bài thơ trên. Nhờ thế tinh thần binh sĩ lên rất cao. Lý Thường Kiệt liền cho quân vượt sông, tổ chức một trận quyết chiến, đánh thẳng vào trại giặc. Phần vì bất ngờ, phần vì sĩ khí quân Đại Việt đang lên, quân Tống chống đỡ yếu ớt, số bị chết, bị thương đã hơn quá nửa. Lý Thường Kiệt liền cho người sang nghị hòa, mở đường cho quân Tống rút quân về nước, giữ vững bờ cõi nước Đại Việt. (9)


Ý và tứ của bài thơ giống nhau và rất rõ ràng, một người dân bình thường cũng có thể hiểu được, không cần giải thích. Lúc ấy ý niệm về Luật Quốc Tế (International Law) còn rất xa lạ. Tác giả đã khéo léo lồng ý tứ bài thơ – quan niệm về chủ quyền quốc gia - vào thuyết thiên mệnh, một học thuyết gần gũi với suy nghĩ của người dân. Ý thơ hay và đầy sức thuyết phục nên binh sĩ đã hết lòng chiến đấu và đã đánh thắng quân Tống, giữ vững cõi bờ Đại Việt. Nhờ ý tứ mới lạ và độc đáo đó bài thơ đã được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nuớc. Hơn một ngàn năm trôi qua nó được tôn xưng là bài thơ có ý tưởng hay nhất của văn học Việt Nam và tôi tin rằng ngày nào nước Việt còn tồn tại bài thơ Nam Quốc Sơn Hà sẽ không bao giờ đi vào quên lãng.

NHÌN TỪ XA TỔ QUỐC


Nhìn Từ Xa Tổ Quốc (8/1988)

 

Xin trích vài đoạn chính:

 

Vâng – một thời không thể nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi – cấm lội ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan

………………………………..

Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan

…………………………………………………………….

Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn

Ðạo Chích thành tôn giáo phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
buôn hàng lậu – buôn quan – buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường

…………………………………………………….


Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về

…………………………………………………………………..

Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không
một người đi chật cả con đường
(7)

…………………………………………………………..

 

 

Với tôi, đây là bài thơ rất hay, có thể nói là một “bài thơ lớn”, ngôn ngữ, hình tượng sắc sảo, thật và sống động; hơi thơ dài và mạnh, cảm xúc nóng bỏng, hồn thơ lai láng. Bằng tấm lòng yêu nước sắt son, bằng những vần thơ như dao sắc của mình, Nguyễn Duy đã gởi đến độc giả những lời tâm tình khó nghe nhưng rất thật; đó là những tiêu cực, những tệ nạn xấu xa của con người nói riêng và xã hội VN nói chung, mà sau hơn 13 năm chấm dứt chiến tranh vẫn tồn tại, vẫn hiện ra nhan nhản mà chưa được công khai nói đến. Ngay từ lúc mới phổ biến bài thơ đã gây sóng gió trên thi đàn, xôn xao dư luận. “Nó cũng như một giọt nước đầy ly, tạp chí Sông Hương đang có một số vấn đề mà gặp bài “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” này thành ra họ phải đình bản để kiểm điểm.” (8) Nhưng sau đó sóng gió cũng qua, sự thật vẫn là sự thật; bài thơ đã được chấp nhận và công khai in ấn.

Cả 2 bài thơ đều hay. Hơi thơ của TLTS mạnh hơn nên đọc lên nghe hấp dẫn hơn, sướng tai hơn. Còn Nguyễn Duy viết NTXTQ với tâm thế của bên thắng cuộc (con cưng của chế độ, được đi du học ở Nga, đầu tàu của phong trào Xã Hội Chủ Nghĩa) nhưng ông - đã rất khéo - nhân danh một con dân VN yêu nước, nói tiếng nói chung cho cả dân tộc, tầm nhìn xa hơn, nhắm đến khối độc giả lớn hơn. Hơn nữa, những vấn nạn ông đưa ra to lớn, nghiêm trọng hơn, lời trách móc của ông nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc hơn, “nỗi đau” trong thơ lớn hơn, nhân bản hơn, sâu sắc hơn.

ĐTQ và ND là 2 nhà thơ tài năng, kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn, đã viết TLTS và NTXTQ trong lúc thi hứng ngất trời, để lại cho đời 2 bài thơ “rất nặng ký”. Nhưng chính ý tứ (ở đây là nội dung) của bài thơ – dám bước vào khu vườn cấm, lội ngược với dòng thơ phải đạo – đã khiến hai bài thơ đã hay lại càng thêm hấp dẫn.

 

TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN


Tạ Lỗi Trường Sơn (1982)

 

Xin trích mấy đoạn:

 

Các anh đến

Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác

Của xì ke, gái điếm, cao bồi

Của tình dục, ăn chơi

“Hiện sinh – buồn nôn – phi lý!!!”


Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy

Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ

Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”

Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc

Ngòi bút các anh thay súng

Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi

Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ

Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản

Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn

Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn

Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương

Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!

 

 

Và khi ấy

Thì chính “các anh”

Những người nhân danh Hà Nội

Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới

Chửi đã đời

Chửi hả hê

Chửi vào tên những làng quê ghi trong lí lịch của chính mình

Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh

Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!

 

 

 

Bây giờ

Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”

Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân

Các anh

Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân

Đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu

Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô

Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...

Bia ôm và gái

Các anh ngông nghênh tuyên ngôn ”khôn và dại”

Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”

Các anh cũng chạy đứt hơi

Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ

Sài Gòn 1982 lẽ nào...

Lại bắt đầu ghẻ lở?

 

 

Tội nghiệp em

Tội nghiệp anh

Tội nghiệp chúng ta những người thành phố

Những ai ngổn ngang quá khứ của mình

Những ai đang cố tẩy rửa “lí lịch đen”

Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật (6)

 

 

Đỗ Trung Quân viết Tạ Lỗi Trường Sơn với tâm thế của dân Sài Gòn (miền nam) nên dù đã từng đi TNXP, từng khoác áo bộ đội giọng thơ cũng vẫn nặng mùi của bên thua cuộc. Đó là tập hợp một cách nghệ thuật những lời đốp chát, vỗ thẳng mặt, nói hằn học trong cơn giận dữ, phân định “mi”, “ta” rõ ràng. “Ta nói thẳng cho mi biết: Bây giờ cái bản mặt đạo đức giả của mi đã lộ ra. Những xấu xa bẩn thỉu ngày nào mi gán cho ta thì giờ này mi bẩn thỉu xấu xa còn nhiều hơn thế nữa.” Bài thơ này phía “ta” nghe rất sướng tai, nhưng phía “mi” thì “biết là nó nói đúng đấy nhưng cái kiểu ‘vuốt mặt mà không nể mũi’ như nó thì khó chấp nhận quá.”

Tôi không đi vào chi tiết của kỹ thuật thơ ca như một bài bình thơ nhưng cũng cần nói lên một điểm: đây là bài thơ rất hay; cảm xúc dạt dào, hồn thơ lai láng, hơi thơ rất mạnh, có khả năng lôi cuốn người đọc từ câu đầu đến câu cuối. Đặc biệt là nội dung (ở đây ý và tứ là một), tác giả đã “lội ngược dòng”, viết nên những vần thơ đối chọi vớì dòng thơ phải đạo, nói lên những điều bị coi là cấm kỵ, không ai dám nói dù là sự thật. Chính vì thế mà bài thơ phải chờ đến 27 năm sau mới được trình làng.

Và cũng nhờ ý tứ không trôi xuôi, không phải đạo ấy giá trị và sức hấp dẫn của bài thơ đã gia tăng đáng kể.

 

Ý TƯỞNG TRONG BÀI THƠ CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA


Ý TƯỞNG TRONG BÀI THƠ "CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA"

Ý tưởng chính, đề tài của bài thơ là một tiêu chí quan trọng để người phê bình đánh giá bài thơ. Ý tưởng hay sẽ nâng giá trị của bài thơ lên rất nhiều. Tôi tạm chia Ý TƯỞNG TRONG THƠ làm 4 hạng (từ cao xuống thấp):

     1/ Nhân bản, cao đẹp, khai phóng, thăng hoa tâm hồn con người, hoàn toàn mới lạ, độc đáo. (Điều này có thể đạt được nhưng rất khó và rất hiếm)
     2/ Tác phẩm xuất sắc nhất đại diện cho một hiện tượng, một lối sống, một cách nghĩ của một giai đoạn lịch sử (đã lác đác có người viết đề cập đến nhưng chưa có tác phẩm nào xuất sắc).         
     3/ Lách, thoát hẳn (hoặc ngược với) dòng thơ Phải Đạo (những suy nghĩ đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong tâm hồn con người).
     4/ Viết theo phong trào, xu hướng chính trị, theo thị hiếu của đám đông, chọn những đề tài muôn thuở chung chung (tình yêu, quê hương …), những con đường đã có hàng triệu dấu chân.


Chăn Trâu Đốt Lửa

Chăn trâu đốt lửa trên đồng

Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều

Mải mê đuổi một con diều

Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.

(Đồng Đức Bốn)

 Bài thơ ngắn nhưng tứ thơ rất hay: mê thả diều để củ khoai nướng, có thể là bữa ăn đạm bạc của trẻ chăn trâu, cháy thành tro. Khung cảnh rất thực, rất dân dã của bài thơ khiến tứ thơ dễ bắt, người đọc có thể hiểu ngay. Nhưng ngụ ý của tác giả thì hơi có vẻ mờ mờ ảo ảo, bềnh bồng, lung linh sương khói đòi hỏi một trực giác nhạy bén, một khả năng liên tưởng mạnh mẽ và chính xác để cảm nhận.
Sau đây xin trích dẫn liên tưởng của nhà bình thơ Đức Thọ:

“Trẻ chăn trâu mải mê theo đuổi một con diều (cái đó là tất yếu sẽ diễn ra với trẻ chăn trâu). Nhưng trong cuộc sống ngày nay có biết bao nhiêu cá thể cũng mải mê theo đuổi một “con diều”. Một con diều không hơn không kém và đúng nghĩa là một thú vui của trẻ chăn trâu, nhưng còn “con diều” của những cá thể chúng ta thì nó nhiều vô kể. Mải mê vậy để một củ khoai nướng đốt cả chiều thành tro thì quả là một kết cục rất thực đời. Mải mê nghe điện thoại khi đang điều khiển xe dẫn đến mất mạng sống. Mải mê theo đuổi ánh kim của tiền bạc dẫn đến tan cửa nát nhà hoặc lâm vào trong vòng lao lý và mải mê… v.v. và v.v.…” (5)

 Đúng là bài thơ có ý tưởng rất tuyệt, tuyệt đến mức ông Đức Thọ đã đưa nó lên hàng “triết lý nhân sinh”. Tôi nể phục và đồng ý với việc nâng cấp ấy nhưng lại có ý kiến rất khác với ông về những thí dụ minh họa.

Cái chuyện “Mải mê nghe điện thoại khi đang điều khiển xe dẫn đến mất mạng sống. ” hoặc “Mải mê theo đuổi ánh kim của tiền bạc dẫn đến tan cửa nát nhà hoặc lâm vào trong vòng lao lý” làm sao có thể cho là một “triết lý nhân sinh” được. Đó chỉ là một sự dại dột và bướng bỉnh đến độ coi thường mạng sống hoặc tham lam đến độ mờ mắt, coi thường đạo lý và pháp luật, để rồi trong một phút bất cẩn gây tai nạn, hoặc đổ bể sự việc – không những mất mạng mình mà còn mang khổ ải đến cho bao nhiêu người khác. Đó không phải “triết lý” mà là cái dại, cái tham làm hại cái thân. 

Nếu hiểu như ông Đức Thọ thì bài thơ Chăn Trâu Đốt Lửa đã đi vào quên lãng từ lâu rồi chứ đâu còn được lưu truyền đến ngày hôm nay để người này nguời kia tham gia lý sự. 
Có một cách hiểu khác có vẻ có lý hơn là “Hãy sống thực tế, đừng mơ mộng viển vông”. Miền bắc Việt Nam vào những năm ĐĐB viết CTĐL là một vùng “người khôn của khó”, quần quật suốt ngày kiếm đủ cơm khoai dưa mắm cho gia đình đã là may mắn lắm rồi. 

Hơn nữa, trận đói năm Ất Dậu (1945) là một cơn ác mộng, một nỗi kinh hoàng lúc nào cũng ám ảnh tâm trí mỗi người. Nắm gạo, củ khoai, con cá, lá rau là những món thiết thực, gần gũi với mọi gia đình. Những câu “Có thực mới vực được đạo” hay “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông lại nhất nông nhì sĩ” đã là những câu nói cửa miệng nhắc nhở con cháu trong nhà – hãy bước đi bằng đôi chân chạm đất chứ đừng có bay lơ lửng trên không kẻo lại “giật mình tỉnh dậy thấy mình đói meo”. 

Nhưng nếu hiểu theo cách này thì ý tưởng trong bài thơ của ĐĐB có gì đặc biệt đâu, cũng chỉ lập lại những điều mà người dân đồng bằng Bắc Bộ đã nhắc nhở nhau, dặn dò nhau đến nhàm đến chán.

Theo tôi, ngụ ý của Đồng Đức Bốn như sau:

Con người nhiều khi chạy theo những cái viển vông, cao tít trên trời mà quên đi những thứ thiết thực, gắn bó với cuộc sống, ngay trên mặt đất. Nhưng cũng chẳng có gì nuối tiếc vì những thứ viển vông, cao tít đó chính là thức ăn cho tinh thần, cho phần hồn của con người; đó chính là niềm vui, hạnh phúc mà vật chất không thể tạo ra được.

Ở môi trường xã hội mà cái đói luôn là nỗi ám ảnh - dầm mưa dãi nắng từ sáng tinh mơ đến tối mịt mới có được 2 bữa ăn - con người lắm khi bị kéo xuống rất gần với con vật. Vâng ở cái môi trường đó mà dám “coi thường” củ khoai (mặc cho nó cháy thành tro) để đánh đổi lấy một niềm vui tinh thần, được cùng với con diều bay bổng trên bầu trời chiều thì theo tôi, đó là hành vi vô cùng dũng cảm. Ở đây cũng có một chút vô tâm, bất cẩn và sau đó là một chút tiếc rẻ khi bụng – vì thiếu củ khoai – đã bắt đầu cồn cào. 

Nhưng việc đổi củ khoai lấy những giây phút sảng khoái, hạnh phúc trên cánh đồng vẫn là một thương vụ có lời. Cậu bé trong thơ ĐĐB tối hôm ấy có thể bị lên giường ngủ với cái bụng trống không nhưng chắc là miệng sẽ mỉm cười và có một giấc mơ thật đẹp. Cậu bé đã dám “quên” củ khoai, chấp nhận chịu đói để được hưởng những giây phút sảng khoái trong tâm hồn. 

ĐĐB đã cho cậu bé chăn trâu bước ra khỏi “cái trại mà ở đó con người gần ngang hàng với con vật”, lùa trâu về chuồng trên con đường làng mà lòng tràn ngập niềm vui và tự hào vì thấy hồn mình đang bay lên một tầm cao mới, tầm cao của CON NGƯỜI được viết hoa thật đẹp. Ý tưởng của bài thơ tuyệt vời là ở chỗ ấy. Và triết lý nhân sinh cũng là ở chỗ ấy. 
Rất tiếc ĐĐB đã phạm một lỗi nặng trong kỹ thuật thơ ca là dung dưỡng một câu thơ nội gián. Câu “rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều” tuy không tệ hại, mâu thuẫn, câu sau chửi cha câu trước như bài thơ:

Trên đường có nhị chàng trai

Đầu râu tóc bạc cỡi hai ngựa hồng

Ngựa thì trắng toát như bông

Giữa đường cát trắng bụi hồng tung bay”

nhưng đã làm mạch thơ, con thuyền tứ thơ - đang băng băng chảy thì bị một dòng đối lưu cản lại – tròng trành như muốn vỡ. Cuối cùng nhờ tài lèo lái của tài công, thuyền cũng trôi tới bờ, tới bến nhưng đã bị tổn thương nặng.

 Có 2 cách phát biểu về bài thơ Chăn Trâu Đốt Lửa:
     1/ Nếu không có phần ý và tứ tuyệt vời như thế thì với cái lỗi “dung dưỡng một câu thơ nội gián” trong bài thơ chỉ có 4 câu người đọc đã có thể gạt bài thơ qua một bên để đọc những bài thơ khác. Và bài thơ sẽ hoàn toàn đi vào quên lãng.

     2/ Nếu ĐĐB không phạm lỗi “dung dưỡng một câu thơ nội gián” thì với phần ý và tứ thơ tuyệt vời như thế Chăn Trâu Đốt Lửa chắc sẽ chiếm một vị trí trang trọng trong kho tàng thơ ca Việt Nam và theo tôi, còn cao hơn Sông Lấp của Tú Xương một bậc. 
   
Ngoài ra, qua CTĐL mối tương quan giữa tác giả, ý, tứ và độc giả cũng hiện ra rõ ràng:

Tác giả đã hoàn thành chức năng truyền thông của bài thơ, tạo được nhịp cầu để người đọc ai cũng có thể “bắt” được, đến được với tứ thơ, hiểu được nghĩa đen (trên văn bản) của bài thơ và hiểu giống nhau (không thể có chuyện người hiểu tứ thơ thế này, người hiểu tứ thơ thế khác). Dĩ nhiên có thể mỗi người mỗi ý khi nói đến cái hay (hoặc dở) của câu chữ, hình tượng, kỹ thuật thơ … nhưng nội dung của bài thơ phải hiểu đúng như ngôn ngữ đã chuyên chở nó.

Riêng với ngụ ý của bài thơ thì tùy theo óc tưởng tượng, khả năng liên tưởng và trực giác thơ ca của mình, mỗi người đọc có thể sẽ cảm nhận khác nhau (có khi khác với tác giả). Một trong những nhiệm vụ của người bình thơ là tìm ra, thuyết phục để người yêu thơ đến với, và chấp nhận cách hiểu vừa hợp lý vừa nâng giá trị của bài thơ lên cao nhất.

Ý tưởng trong bài thơ Chăn Trâu Đốt Lửa được xếp loại hạng 1: nhân bản, khai phóng, thăng hoa tâm hồn con người

ÔNG ĐỒ CỦA VŨ ĐÌNH LIÊN


Ông Đồ của Vũ Đình Liên

 

             ÔNG  ĐỒ

 

            Mỗi năm hoa đào nở

            Lại thấy ông đồ già

            Bày mực tàu, giấy đỏ

            Bên phố đông người qua

 

            Bao nhiêu người thuê viết

            Tấm tắc ngợi khen tài

            Hoa tay thảo những nét

            Như phượng múa rồng bay

 

            Nhưng mỗi năm mỗi vắng

            Người thuê viết nay đâu?

            Giấy đỏ buồn không thắm

            Mực đọng trong nghiên sầu

 

            Ông đồ vẫn ngồi đấy

            Qua đường không ai hay

            Lá vàng rơi trên giấy

            Ngoài trời mưa bụi bay

 

            Năm nay đào lại nở

            Không thấy ông đồ xưa

            Những người muôn năm cũ

            Hồn ở đâu bây giờ?

              (Vũ Đình Liên)

 

Cũng cái ý về sự lụi tàn của nền Nho học nhưng bài thơ Ông Đồ bề thế hơn, đạo quân chữ nghĩa đông hơn, và đặc biệt, thủ pháp Show, Do Not Tell đã đến mức tuyệt luân. Hơn thế nữa, tác giả đã ra lệnh cho các con chữ của mình học phép tàng hình (khi đọc thì chữ hiện ra, khi đọc xong thì chữ biến mất) để hóa thân thành những bức tranh – đúng ra là một truyện bằng tranh - sống động. Đây là trình độ thượng thừa trong thơ ca; ở đó chữ nghĩa đã mất biệt, lý trí bị đuổi việc, không còn chõ miệng vào chỗ này, chỗ kia bàn tính thiệt hơn. Người đọc thả hồn theo dòng chữ như có phép tàng hình để thưởng ngoạn những bức tranh thơ tuyệt đẹp.

Rất tiếc Những Bức Tranh Thơ của Ông Đồ đã có một chỗ hoen ố; đó là 2 câu cuối của bài thơ:

          “Những người muôn năm cũ

            hồn ở đâu bây giờ”

Nhiều nhà phê bình đã khen 2 câu thơ này hết lời.

Riêng tôi, về ý tứ thì đồng ý với họ, nhưng xét về Kỹ Thuật Thơ thì 2 câu ấy đã làm giảm giá trị của bài thơ rất nhiều. Những con chữ đột nhiên mất phép tàng hình và nổi lên cồm cộm. Bức tranh cuối - nửa tranh, nửa chữ - trông rất mất vẻ mỹ thuật. Đưa 2 câu ấy vào bài thơ tác giả đã để vuột mất chiếc huy chương vàng - giải thưởng cao quý nhất trong thơ ca.

Nếu không có cái lỗi ấy Ông Đồ không những đã có thể đẩy Sông Lấp qua một bên để giành vị trí “bài thơ tiêu biểu, chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam: giai đoạn cáo chung của nền văn học chữ Nho”, mà hơn thế nữa, sẽ là một viên ngọc quý của thơ ca, không những chỉ đẹp lộng lẫy, chói lọi trên thi đàn Việt Nam mà ngay cả khi đứng trước kho tàng văn chương Trung quốc – nó cũng không chịu nhường một bước. Chắc nhiều người yêu thơ, thông hiểu chữ Hán đều biết hai câu thơ được coi là niềm tự hào của thi ca Trung Quốc:

          Lạc hà dữ cô vụ tề phi

          Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc

          Ráng chiều rơi xuống, với cánh cò đơn chiếc cùng bay

          Làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc

          (Trần Trọng San dịch)

vì đó là một bức tranh thơ tuyệt đẹp.

Tôi tra cứu thì được biết người ta đã bới tung bài Đằng Vương Các Tự (dài trên trăm câu) nổi tiếng của Vương Bột (2) mới tuyển chọn được bức tranh thơ ấy. Trong khi Ông Đồ của Vũ Đình Liên là cả một bộ truyện lịch sử bằng tranh sinh động. Đọc Đằng Vương Cát Tự độc giả phải “đãi cát tìm vàng”, còn với Ông Đồ họ sẽ thấy trước mắt mình nằm xếp lớp những thỏi vàng óng ánh.

BA BÀI THƠ CỦA TÚ XƯƠNG CÙNG VIẾT VỀ MỘT ĐỀ TÀI


Ba bài thơ của Tú Xương cùng viết về một đề tài:

CÁI HỌC NHÀ NHO
Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
Mười người đi học, chín người thôi .
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi.
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo,
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi .
Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ?
Trình có quan tiên thứ chỉ tôi.
 
CHỮ NHO
Nào có ra gì cái chữ nho!
Ông nghè, ông Cống cũng nằm co.
Chi bằng đi học làm thầy Phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò!
 
ĐỔI THI
Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cố đỗ mau đi!
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì.
 
Theo tôi, làm thơ mà sử dụng cái phương cách kể lại, nói thẳng, nói trực tiếp những suy nghĩ trong đầu mình như Trần Tế Xương trong 3 bài trên là hạ sách. Ở đây ý và tứ giống nhau: tâm trạng ngao ngán, chán chường của tác giả trước sự suy tàn của nền Nho học. Trong những bài thơ này cái vẻ lung linh sương khói, mờ mờ ảo ảo - một trong những nét đẹp của thơ ca – thường vắng bóng, hoặc nếu có thì cũng rất ít (vì chỉ phát xuất từ ngôn từ). Nó rõ ràng như một “bài toán văn chương” nên người đọc không có cơ hội vận dụng khả năng liên tưởng của mình, không có cơ hội dùng đến thứ vốn quý của người đọc thơ là cái “tài cảm nhận thơ” của mình. Trong khung cảnh ấy, môi trường ấy, người sính thơ, sành thơ và người dốt thơ, mù thơ hình như cũng chẳng khác gì nhau mấy tý. Chính vì thế trong văn chương, đặc biệt là thơ, thủ pháp Show, Not Tell, đưa ra những sự kiện để người đọc tự hiểu ra, tự cảm nhận điều tác giả muốn nói đến, hoặc cao hơn nữa là phép ẩn dụ, rất được coi trọng.