BA BÀI THƠ PHẢN
KHÁNG
LỜI BÌNH
VÀ SO SÁNH
Chúc bạn đọc yêu thơ có những giây phút thưởng thức văn chương lý thú.
Phạm Đức Nhì
BÀI
1: BÁNH VẼ VÀ NHÂN CÁCH MỘT NHÀ THƠ
Bánh vẽ
Chưa cần cầm lên
nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp.
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Ðêm vui
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
Thế thì đâu còn dịp nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi,
Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm...
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp.
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Ðêm vui
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
Thế thì đâu còn dịp nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi,
Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm...
(Chế Lan Viên, Văn học và Dư luận 8-1991) (1)
Lời Bình
Bánh Vẽ có
phép ẩn dụ toàn bài nên tứ và ý khác nhau.
Tứ: Tác giả
được mời ăn bánh vẽ - chỉ là hình vẽ chứ không phải bánh thật. Ông biết là bánh
vẽ nhưng vẫn cứ ngồi vào bàn nhai nhồm nhoàm để “giữ chỗ” hầu còn có dịp ăn thứ
thiệt.
Ý: Ông chấp
nhận “cùng hội cùng thuyền” với những người cộng sản bấy lâu nay chỉ là vì miếng
cơm manh áo, uy quyền và danh vọng chứ ngay từ đầu ông đã biết tỏng Xã Hội Chủ
Nghĩa chỉ là sự lừa bịp.
1/ Ngôn ngữ
thơ rất đời thường, dễ hiểu. Chức năng truyền thông thành công ở cả 2 mặt tứ và
ý. Tứ thì không nói làm gì vì hình ảnh bữa tiệc “bánh vẽ” đã quá rõ ràng. Nhưng
– không như một số bài thơ sử dụng phép ẩn dụ toàn bài khác - ở đây độc giả bước
lên cây cầu liên tuởng để đi từ tứ qua ý không khó khăn chút nào, và có thể nói
mười người như một tới cùng một điểm đến.
2/ Hình thức
thơ: tác giả biểu lộ một phong thái ung dung, tự tin trước hình thức thơ:
a/ Số chữ trong câu, số câu trong bài tùy
tiện thoải mái, không có biểu hiện gò bó, gượng gạo
b/ Luật bằng trắc: nhiều chỗ phải phá lệ để
tứ thơ được ung dung tiến bước.
b/ Vần: không quá nhạt, không quá ngọt,
thoang thoảng rất vừa độ.
c/ Dòng chảy của thơ lững lờ, êm ả, thích
hợp với tâm trạng buồn, cay đắng.
3/ Ẩn Dụ là “Nói cái này mà ngụ ý cái kia”.
Cái này cũng hợp tình hợp lý và cái kia cũng hợp lý hợp tình. Phép ẩn dụ kín kẽ
và hoàn hảo.
4 / Độ phủ
sóng (scope) của đề tài, ý thơ: rộng, bao trùm mọi mặt của chế độ, của xã hội,
5/ Phỉ nhổ,
bôi bác chế độ, chính quyền một cách cay độc, lời lẽ nhẹ nhàng nhưng ý tứ, nội
dung của câu chửi “nặng đến nghìn cân”. Cộng với vị trí của ông trong chính quyền,
làm công việc lãnh đạo tinh thần, tư tưởng nên câu chửi có căn cớ, gốc rễ, có độ
khả tín cực cao, chế độ không còn đường
nào biện minh, chối cãi.
6 / Làm thơ
trong lúc quá tỉnh, kỹ thuật thơ điêu luyện, hoàn hảo nhưng thiếu hơi nóng cảm
xúc. Thơ đầy chất trí tuệ nhưng lại không hồn.
Tóm lại, đây
là bài thơ được viết bởi một thi sĩ bậc thầy về kỹ thuật thơ nên có hình thức gần
như tối ưu, ngôn ngữ chắt lọc, hình tượng dễ cảm, ẩn dụ sắc sảo được thể hiện một
cách hoàn hảo, thơ đầy chất trí tuệ nhưng thiếu hồn. Qua Bánh Vẽ nhà thơ đã tự
tay trét bùn lên mặt mình nhưng ông cũng nhân tiện ném những nắm bùn hôi tanh
đó tung tóe vào mặt, vào người đám văn nghệ sĩ công thần của chế độ, những kẻ
nhắm mắt ca tụng một “Thiên Đường” mà chính mình đã biết là không có thật.
Nhân Cách Của Chế Lan Viên:
Thật tình
tôi vẫn rất kính trọng những người cộng sản chân chính, vào đảng vì lý tưởng,
vì bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, muốn đem tài sức của mình xây dựng một
xã hội công bằng, một đất nước Việt Nam giầu đẹp. Tôi đã gặp, trò chuyện với một
số người như thế. Nhưng đã từ khá lâu rất nhiều người đã thấy sự thật, biết
mình lầm lẫn, đã bỏ hết để về với cuộc sống dân thường, giữ chút danh dự của kẻ
sĩ.
Trường hợp
Chế Lan Viên thì khác. Ông là một thức giả, đã thấy sự thật ngay từ lúc đầu:
Chưa
cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Ông biết,
nhưng “vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn”
vì:
a/ Mê bả vinh hoa, tham quyền cố vị:
biết là bánh vẽ mà vẫn muối mặt ngồi cùng ăn và dùng tài thơ của mình hết lời
ca tụng đám người vẽ bánh để hưởng bổng lộc triều đình cho đến chết. (1989)
b/ Hèn: Không có sĩ khí của người cầm
bút, thấy cái sai to lớn, gây hại cho cả một dân tộc mà – vì sợ - vẫn ngậm miệng,
không dám lên tiếng, viết dấm dúi mấy bài thơ, chờ khi chết (mấy năm sau) mới
cho đem phổ biến.
c/ Và chính vì hèn, tham lợi lộc,
quyền chức nên đã góp sức gây nhiều tội ác.
-
Đẩy
cả mấy thế hệ thanh niên Việt Nam đi vào chỗ chết: Chính ông đã tự thú:
Mậu Thân 2.000 người
xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi!
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi!
(Ai? Tôi!, Chế Lan Viên)
Chỉ một trận
đánh mà đã gần 2000 (nói chính xác như trong bài thơ là 1970) người mất mạng.
Suốt mấy chục năm chiến tranh thì con số đó đã lên đến bao nhiêu? Rồi còn phía
bên kia? Cũng là những đứa con của mẹ Việt Nam máu đỏ da vàng.
-
Rủ
rê, lôi kéo biết bao con dân nước Việt đi vào con đường mà chính mình đã biết
là sai lầm tai hại.
Thơ của ông
có lúc tỉ tê, nỉ non như rót mật vào lòng, có lúc như những bản nhạc hùng tráng
thúc giục lên đường. Trong số nhiều triệu con em Việt Nam ưu tú, một số rất
đông vì nghe thơ, đọc thơ ông mà đã ra sức phấn đấu vào đoàn, vào đảng để cuối
cùng mang tội đày đọa dân tộc, dẫm nát quê hương.
Kết LuậnNhiều năm sau nữa người yêu thơ có lẽ cũng chưa quên Bánh Vẽ, một bài thơ có kỹ thuật thơ hoàn hảo, ý tứ sâu sắc (2). Thơ của ông, tên tuổi ông – nhà thơ Chế Lan Viên, tên thật là Phan Ngọc Hoan - sẽ đi vào văn học sử, lịch sử của dân tộc. Lớp trẻ sau này đọc thơ ông, xem tiểu sử ông chỉ cần nhớ 3 chữ: TÀI, Hèn và Ác. Chữ TÀI thật to (viết hoa) là TÀI THƠ của ông, 2 chữ Hèn và Ác nhỏ hơn nhưng thật đậm nét chính là nhân cách của ông.
Phạm Đức Nhì
Blog chuyên
bình thơ
phamnhibinhtho.blogspot.com
Chú Thích:
1/ Bộ Di cảo thơ gồm 3 tập I, II, III do NXB Thuận Hoá ấn hành lần lượt các năm 1992, 1993, 1996. Riêng Bánh Vẽ và Trừ Đi được xuất hiện năm 1991 trên Văn Học Và Dư Luận.
2/ Cũng giống
Ông Đồ (VĐL) và Sông Lấp (TTX) là chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử: nho học
lụi tàn, Bánh Vẽ (CLV), Nhìn Từ Xa Tổ Quốc (Nguyễn Duy) và Tạ Lỗi Với Trường
Sơn (ĐTQ) theo tôi, là 3 bài thơ tiêu biểu cho những vần thơ “ngược dòng”, dám
nói thẳng nói thật về “hậu quả tai hại của
việc áp đặt chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa trên quê hương”.
Bài
2: TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN
BÀI THƠ NGƯỢC DÒNG NÓNG BỎNG
Tôi biết đến Đỗ Trung Quân
và tài thơ của anh qua bản nhạc Quê Hương – thơ anh được Giáp Văn Thạch phổ nhạc.
Lúc ấy – còn ở trong tù - tôi chưa biết, chưa được đọc nguyên bài thơ Bài Học Đầu
Cho Con của anh. Mặc dầu hơi có cảm giác khó chịu khi nghe đoạn cuối:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không hiểu (sau này đổi hiểu thành nhớ)
Sẽ không lớn nổi thành người
Nhưng phải công nhận phần
còn lại của bản nhạc (thơ) là những bức tranh về quê hương thật dễ thương. Ở đó
– cũng giống Ông Đồ của Vũ Đình Liên – thi đã hoá thân thành họa; tác giả đã tặng
cho đời những bức tranh thơ tuyệt đẹp.
Sau đó tình cờ đọc Tạ Lỗi
Trường Sơn của ĐTQ trên Tiền Vệ tôi đã cao hứng viết bài thơ trong có đoạn:
Ngày xưa anh hát
“Quê hương là chùm khế ngọt”
Sao bây giờ cắn quả khế nào anh cũng che mặt bảo chua?
Có phải tại ngày xưa khế chua
nhưng muốn được lòng người anh yêu (1)
anh nói bừa là khế ngọt?
Hay tại sống với kẻ vô tình
lâu rồi
khế ngọt cũng thành chua? (2)
có ý muốn “đá giò lái”
anh một cái. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn khoái những câu chửi rất bộc trực, bốp
chát – không giữ ý tứ, không dòm trước ngó sau - của anh nên hôm nay cũng bày đặt
nhảy vô viết mấy lời bình.
Bài thơ là những lời đốp
chát nói thẳng (không ẩn dụ) nên ý với tứ là một: Sau khi chiếm được miền nam
năm 1975 “những người nhân danh Hà Nội” đã khinh khi dân Sài Gòn nói riêng và
dân miền nam nói chung như cỏ rác, dùng những từ xấu xa nhất để gán cho họ;
nhưng rồi chính “những người nhân danh Hà Nội” – trong đời sống thực tế - đã biểu
lộ một nhân cách còn tệ hại và đáng khinh khi hơn nhiều.
TLTS có vóc dáng của thơ mới nhưng đã
được tác giả đưa vào những thay đổi tích cực:
a/ Số câu không giới hạn. Viết cho đến khi hết hứng, hết ý thì thôi.
Theo cách đếm câu của PĐN thì bài thơ dài xấp xỉ 100 câu.
b/ Số chữ trong câu: Câu ngắn nhất 2 chữ
(Bây giờ), câu dài nhất 18 chữ (Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ
lạnh ti vi, casette, radio...) còn lại thì tùy hứng, không tuân theo
một luật lệ nào.
c/ Vần: Vần liên tiếp khá đều đặn nhưng nhờ số chữ trong câu thay đổi
tùy tiện, thỉnh thoảng tác giả lại chuyển đoạn thay vần, có chỗ sử dụng cả vần
gián cách (3) để chuyển âm bằng trắc nên độ ngọt vừa phải, không có hội chứng
nhàm chán vần. “Lối chơi vần” rất nhuyễn của ĐTQ khiến dòng thơ chảy trơn tru,
nhiều đoạn dòng chảy rất xiết, tạo cơ hội cho hồn thơ hình thành và lớn mạnh.
ngôn ngữ: Mạnh bạo, hằn học, vỗ thẳng mặt, “lấy
chữ của mày để chửi mày” nhưng rõ ràng, dễ hiểu, chức năng truyền thông của bài
thơ thành công. Một số hình tượng rất hay như:
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước
vành móng ngựa!!!
Và:
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những
rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Giải Thích Thêm Về Tứ Thơ:
Đỗ Trung Quân viết Tạ Lỗi Trường
Sơn với tâm thế của dân Sài Gòn (miền nam) nên dù đã từng đi TNXP, từng khoác
áo bộ đội giọng thơ cũng vẫn có mùi của bên thua cuộc. Nhưng trong cái đoàn dài
đến mấy chục triệu nguời của bên thua cuộc ấy ĐTQ đứng ở gần cuối hàng. Tâm hồn
anh đã gần như nghiêng hẳn về phía bên kia. Anh “Tội nghiệp Sài Gòn quá thể”
nhưng Sài Gòn với anh là ai?
Là:
anh thợ điện ra đi không về
là:
những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
là:
những người Sài Gòn đi xa
đi từ tuổi hai mươi
nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc.
Và qua đoạn thơ dưới đây:
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn
chương, thi ca, sách báo
Những vị giáo sư trên bục giảng
đường
Ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của
rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh – buồn nôn – phi
lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu thư
khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là trang sách
“hư vô”
Văn hóa lai căng không cội nguồn
dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn
Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi
tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là
“thú hoang” nổi loạn
Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập tòa án bằng
văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước
vành móng ngựa!!!
“đang
ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới”
“chửi vào tên những làng quê ghi
trong lí lịch của mình”
và
“sợ đến tái xanh
khi có ai nói bây giờ về lại Bắc”
ĐTQ viết tiếp:
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình
“trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như
kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã bờm xờm râu tóc, cũng quần
jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép
sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi
lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn
”khôn và dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở
đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những
rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
À! Thì
ra là “chúng mày nói phét, chúng mày lừa ông”. Và thi sĩ của chúng ta nổi trận
lôi đình, “chửi vung tít mẹt”. Bài thơ
nặng mùi của bên thua cuộc là vì thế.
Vâng! Có thể nói TLTS là tập hợp
một cách đầy nghệ thuật những lời đốp chát, vỗ thẳng mặt, nói hằn học trong cơn
giận dữ, phân định “mi”, “ta” rõ ràng. “Ta
nói thẳng cho mi biết: Bây giờ cái bản mặt đạo đức giả của mi đã lộ ra. Những xấu
xa bẩn thỉu ngày nào mi gán cho ta thì giờ này mi bẩn thỉu xấu xa còn gấp nhiều
lần hơn thế nữa.”
TLTS được nhiều người khoái (dĩ
nhiên là dân miền nam), tán tụng là bài thơ “hết sẩy” cũng nhờ một phần ở nội
dung của nó. Tác giả đã “không chịu trôi xuôi” mà dám “lội ngược dòng” (ý thơ
Nguyễn Duy), viết nên những vần thơ đối chọi vớì dòng thơ phải đạo, nói lên những
điều bị coi là cấm kỵ, không ai dám nói dù là sự thật. Chính vì thế mà bài thơ
phải chờ đến 27 năm sau mới được trình làng.
Hơi Thơ, Hồn Thơ:
Cái hay nhất, cái tuyệt vời của bài thơ là cảm xúc. Hơi thơ tỏa nhiệt
ngay từ những câu đầu, dẫn người đọc đi một lèo tới đích. Cảm xúc từ câu chữ tỏa
ra đã khá mạnh, rồi do - bài thơ nhất khí liền mạch – sóng sau dồn sóng trước
nên cảm xúc đến từ thế trận của toàn bài dâng lên cao ngất. Hơn nữa tác giả viết
trong lúc đang lên cơn - lửa giận phừng phừng – thoát khỏi sự
can thiệp của lý trí, nên không còn biết sợ, chữ nghĩa cứ hàng hàng lớp lớp tuôn
ra khiến hơi thơ rất mạnh và nóng bỏng, hồn thơ lai láng.
Bài thơ này phía “ta” nghe rất
sướng tai, nhưng phía “mi” thì “biết là nó nói đúng đấy nhưng cái kiểu ‘vuốt mặt
không chịu nể mũi’ như thế thì làm sao có thể chấp nhận được!”
Về Câu Kết Của Bài Thơ
Cuộc sống của
anh ở miền nam đang an lành, tiện nghi vật chất tương đối đầy đủ, tinh thần thì
tự do thoải mái. Người ta từ bắc vào “cầm chịch” mọi góc cạnh của đời anh. Người
ta chê anh đủ điều, khinh khi anh ra mặt, chửi anh như tát nước . Sau đó anh đã
nhận ra là người ta chỉ là bọn đạo đức giả; những gì người ta chê anh, khinh anh,
chửi anh thì bậy giờ người ta lại lậm vào còn gấp nhiều lần hơn thế nữa. Anh
đùng đùng nổi giận, chửi một hơi dài, rất văn hoa, rất có hồn, nghe rất đã.
Nhưng cuối cùng anh lại buông câu kết “Ai Bây Giờ Sẽ Tạ Lỗi Với Trường Sơn?”
nghĩa là anh vẫn “tôn thờ” cái việc vượt Trường Sơn của người ta, vẫn xem cái
việc người ta tự dưng từ bắc vào nam nắm đầu anh, cai quản cuộc đời anh là
đúng. Câu kết ấy phải nói là trật lất và lãng nhách.
Kết Luận
Dù TLTS chưa phải là toàn bích, và
cho đến thời điểm này (2016) bài thơ mới có trên dưới 7 năm thử thách với thời
gian nên chưa thể kết luận gì về sức sống của nó. Nhưng chỉ nhìn vào giá trị
nghệ thuật của bài thơ tôi phải công nhận là ĐTQ tài hoa. Mới 27 tuổi đã viết
được một thi phẩm giá trị, đã đưa được hơi nóng hừng hực của tuổi trẻ trong lúc
đang “nộ khí xung thiên” vào thơ. Cái giây phút “lên cơn” ấy đâu phải lúc nào cũng
đến với thi sĩ. Mà nếu may mắn nó có đến, đâu phải ai cũng nhanh tay chộp được
để đưa nó vào thơ. Cái hồn thơ, cái hơi thơ mạnh mẽ nhường ấy khiến TLTS đứng nổi
bật ở một góc riêng và tôi mạnh dạn tiên đoán rằng – cũng giống như Ông Đồ và Sông
Lấp là chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc, giai đoạn Nho Học lụi
tàn, Tạ Lỗi Trường Sơn của Đỗ Trung Quân – cùng với 2 bài thơ ngược dòng khác –
cũng sẽ đi vào văn học sử, là chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử khác, giai đoạn
chế độ XHCN bị áp đặt trên toàn cõi Việt Nam.
Blog phamnhibinhtho.blogspot.com
1/ nhưng lại không yêu
anh
2/ Quê Hương - Kẻ Đi Người
Ở, Phạm Đức Nhì, t-van.net
3/
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ”
của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng
me
4/
Trước khi vào nam (1975) dân miền bắc phải học tập để biết rằng những sự phát
triển và vẻ đẹp của Sài Gòn, của miền nam, những tiện nghi vật chất của người
dân chỉ là “phồn vinh giả tạo”
5/ Tên
khác của Sài Gòn được người ngoại quốc gọi một cách nể trọng.
PHỤ LỤC:
Tạ lỗi
Trường Sơn
1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các
anh từ Bắc vào Nam
Cuộc
trường chinh 30 năm dằng dặc
Các
anh đến
Và
nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì
ke, gái điếm, cao bồi
Của
tình dục, ăn chơi
“Hiện
sinh – buồn nôn – phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con
gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các
anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn
hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi
bút các anh thay súng
Bắn
điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào
những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các
anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các
anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là
thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các
anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang
tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội
nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh
thợ điện ra đi không về
Tội
nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa
khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi từ
tuổi hai mươi
Nhận
hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có ai
hỏi những hàng dương xanh
Xem đã
bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng nước
Tội
nghiệp những đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những
“người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo
chùng đen đẫm máu
Tội
nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
Những
vị giáo sư trên bục giảng đường
Ưu tư
nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn
của tôi – của chúng ta.
Có
tiếng cười
Và
tiếng khóc.
3.
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một
góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những
con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người
giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những
gã du đãng giang hồ
cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm
lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc
đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hi sinh...
4.
Và khi ấy
Thì
chính “các anh”
Những
người nhân danh Hà Nội
Các
anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi
đã đời
Chửi
hả hê
Chửi
vào tên những làng quê ghi trong lí lịch của chính mình
Các
anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có
ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những
bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những
bà mẹ làm ra hạt lúa
Những
năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những
bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
Để
những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những
đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang
nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các
anh
Đang
ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã bờm
xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng
phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các
anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...
Bia ôm
và gái
Các
anh ngông nghênh tuyên ngôn ”khôn và dại”
Các
anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các
anh cũng chạy đứt hơi
Rượt
bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài
Gòn 1982 lẽ nào...
Lại
bắt đầu ghẻ lở?
5.
Tội nghiệp em
Tội
nghiệp anh
Tội nghiệp
chúng ta những người thành phố
Những
ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những
ai đang cố tẩy rửa “lí lịch đen”
Để tìm
chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
6.
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan
toà trong sạch”
Xin
các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình
thản đổi thay lốt cũ
Hãy để
yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn
nhiên xanh muôn thuở
Để yên
cho xương rồng, gai góc
Chân
thật nở hoa.
Này
đây!
Xin
đổi chỗ không kì kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi
một góc (chỉ một góc thôi)
Sài
Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ...
Tin
chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào ”thượng đế”
Khi
sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với
Trường Sơn?
(1982)
Bài
3: NHÌN
TỪ XA … TỔ QUỐC
NỖI ĐAU QUẶN
THẮT CỦA MỘT NGƯỜI YÊU NƯỚC
Lời Nói Đầu
Nhìn Từ Xa …
Tổ Quốc - nằm trong danh
sách khá dài những bài thơ “phản kháng” - tự nó đã nặng mùi chính trị. Lưu chuyển
nó - nếu gặp người khắt khe - cũng có thể bị coi là có ý đồ không tốt. Nhưng chẳng
lẽ bình thơ mà gặp bài thơ nội dung súc tích như thế, kỹ thuật thơ hay như thế
lại đang tâm ngoảnh mặt làm ngơ? Thế là tôi quyết định viết Lời Bình cho bài
thơ.
Tôi không muốn
biến bài bình thơ của mình thành một phương tiện tuyên truyền. Đối với những độc
giả hiểu biết thì làm như thế là thừa, phí công vô ích. Đối với người khác thì
họ đâu có thèm để mắt tới những bài viết khô khan, khó đọc như thế này. Vì thế tôi chỉ chú trọng đến khía cạnh văn chương: kỹ thuật thơ, tứ thơ, hơi thơ, hồn thơ …
Nhưng khi giải thích một câu thơ - đặc biệt trong bài thơ này – nó sẽ ít nhiều đụng đến lập trường, quan điểm. Nói thì chưa chắc người đọc sẽ tin, nhưng tôi đã đứng ngay thẳng, nghiêm chỉnh để viết lời bình cho NTXTQ.
Dĩ nhiên bình thơ - ngoại trừ những bài thơ toàn bích rất hiếm gặp - phải có khen, có chê. Đụng đến khen chê thì có người đồng ý, có người không. Tôi sẵn sàng đón nhận mọi ý kiến của các bậc trương thượng, của các bạn văn, bạn thơ, của những người yêu văn chương, và của mọi độc giả. Khen chê gì xin quý vị cứ gởi đến. Tôi sẽ trả lời tất cả, không trừ một ai. Nếu ý kiến hay, sẽ được tuyển lựa để đưa vào bài viết tổng hợp: Ba Bài Thơ Phản Kháng - Lời Bình – So Sánh và Tranh Luận.
Ba bài thơ
đó là: NTXTQ của Nguyễn Duy, TLTS của Đỗ Trung Quân và Bánh Vẽ của Chế Lan Viên
Xin cám ơn bất
cứ ai đọc bài viết này.
Hạ tuần tháng 8 năm 1988 tôi đang nằm
ở khu C1 của Trại Giam Số 4 Phan Đăng Lưu chờ ra tòa (1) thì có một tù nhân mới
nhập phòng. Ông đã đứng tuổi (trên 50) là một cán bộ của Sở Thông Tin Văn Hóa
TP HCM. Nội vụ còn trong vòng điều tra nên ông chỉ cho biết ông bị nghi ngờ một
tội mà ông không liên can. Sau khi đã quen nước quen cái ông kể cho bạn đồng tù
nghe về một bài thơ lúc đó ở bên ngoài đang làm cả nước xôn xao; “nội dung thì
đụng đến những yếu huyệt của Chế Độ, còn kỹ thuật thơ thì ‘hết sẩy’, đọc là
khoái liền.” Rồi ông ta nói thêm: “Tác giả còn trẻ lắm. Sinh năm 49, 50 gì đó.
Chưa đến 40 tuổi đầu.”
Thế rồi do chính sách cởi mở của Nguyễn
Văn Linh chúng tôi được miễn tố và được trả tự do. Chật vật với cuộc sống ở
trong nam rồi lại ra bắc vượt biên 2 lần thất bại (1 lần bị lừa), cuối cùng tháng
6/1991 chuyến đi của tôi đến bến Hồng Kông, gần cuối 93 qua được Mỹ. Đến khi bị
đụng xe gẫy chân, phải nghỉ việc bắt cua, tôi xin tiền chính phủ vào học đại học
và dạy tiếng Việt cho trẻ em để phụ giúp cuộc sống của gia đình. Lúc ấy - nhờ có
cái computer - tôi mới được đọc Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc đầy đủ trọn vẹn. Mãi đến
những năm sau này, con cái lớn đi làm, sức ép tài chánh nhẹ hẳn đi, tôi mới mon
men bước vào chăm sóc vườn thơ của mình và bắt đầu bình thơ của người khác. Và
hôm nay – rà soát lại lưng vốn văn chương, thấy đã kha khá - mới “sờ” đến bài
thơ “nặng ký” của Nguyễn Duy.
Tứ Thơ: Bài thơ không có phép ẩn dụ toàn bài nên ý
với tứ là một - từ xa nhìn về tổ quốc thấy quê hương dân tộc có quá nhiều vấn
nạn (căn bệnh) quái ác mà không biết cách giải quyết (chữa trị) nên lòng đau
quặn thắt.
Hình Thức: Bài thơ vẫn còn vóc dáng của thơ mới nhưng
tác giả đã biết “phá luật”, tháo bỏ xích xiềng để có thể tự do phóng bút.
1/
Viết hết ý thì thôi, không cần biết bài thơ có bao nhiêu câu.
2/
Số chữ trong câu tự do thoải mái.
3/
Vần liên tiếp kiểu thơ mới nhưng nhiều “phá lệ” khéo léo, hợp lý nên độ ngọt
của thơ vừa phải, không có hội chứng “nhàm chán vần”.
Ngôn Ngữ
Hình Tượng: Rất xuất
sắc, đầy ấn tượng, đặc biệt ở phần chính của bài thơ - những vấn nạn của quê
hương dân tộc.
Bố Cục: Bài thơ có thể chia làm 4 phần:
1/
Nhập đề: Hoàn cảnh ra đời của bài thơ
2/
Phần đầu của thân bài: Những chứng bệnh (vấn nạn) trầm trọng của quê hương, dân
tộc.
3/
Phần sau của thân bài: Chẩn đoán (tìm nguyên nhân) và cách chữa trị
4/
Kết luận: Niềm tin ở tương lai dân tộc
Hoàn Cảnh Ra
Đời Của Bài Thơ
Bài thơ được (bắt đầu) viết vào một đêm ở
Moscow (Nga) nên tác giả thấy thấp thoáng cái bóng của mình dưới ngọn đèn và
nẩy ra ý định trò chuyện với nó để bày tỏ tâm sự và giàn trải tứ thơ. Ông viết
với tâm thế của “bên thắng cuộc” – là con cưng của chế độ (được du học ở Nga) -
một lòng một dạ sắt son yêu quê hương đất nước:
“Dù ở đâu
vẫn Tổ Quốc trong lòng
cột biên
giới đóng từ thương đến nhớ”
Những Căn Bệnh Quái Ác
Đây là phần chính của bài thơ - tác giả vạch
ra những vấn nạn lớn của quê hương, dân tộc.
1/ Hát đồng ca
Có một thời ta mê hát đồng ca
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta cứ mê ta(*)
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta cứ mê ta(*)
tất cả trôi xuôi – cấm lội ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
(*) Thơ Chế
Lan Viên
ợ lên thum
thủm cả tim gan
2/ Xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày?
Từ những bài học dạy con em ở trường, những
câu nói cửa miệng của cán bộ đảng và nhà nước đến những khẩu hiệu biểu ngữ đỏ
đường, đỏ thành phố trên khắp quê hương thường có đoạn mang ý nghĩa: Đất nước
ta giầu đẹp, nhân dân ta trong đấu tranh thì anh dũng, trong lao động thì cần
cù, chăm chỉ (1). Thế nhưng “sao thật lắm
ăn mày?” Chỉ có 2 cách để giải thích sự trái khoáy này. Một là, đó chỉ là
câu nói ba xạo, lừa bịp. Hai là, cơ chế chính quyền và cơ cấu xã hội bất công
đã làm nguội lạnh ý chí, nhiệt tình lao động của người dân; thà đi ăn mày còn
hơn “còng làm cho thẳng lưng ăn”.
3/ Thương binh liệt sĩ bị bỏ bê.
3/ Thương binh liệt sĩ bị bỏ bê.
Mậu Thân 2.000 người xuống đồng
bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi!
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi!
(Ai?
Tôi!, Chế Lan Viên)
Đến khi họ chết hoặc bị thương thì vì không dự trù ngân sách nên không có chích sách đãi ngộ, đành ngoảnh mặt làm ngơ, bỏ mặc họ với gia đình trong khốn quẫn.
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
Đoạn thơ đã quá rõ ràng, quá thật và quá mạnh,
không cần giải thích gì thêm nữa.
4/ Tín ngưỡng bị chà đạp
4/ Tín ngưỡng bị chà đạp
Đức tin, tín ngưỡng của con người bị ngang nhiên
xúc phạm, chà đạp. Tính vô thần của Chủ Nghĩa Cộng Sản lộ rõ mặt, không còn lấp
liếm chối cãi được nữa.
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
Đoạn thơ thật hay về cả 3 mặt: ngôn ngữ, hình
ảnh và âm điệu.
5/ Công việc giáo dục, đào tạo nhân tài cho tương
lai bị bỏ bê, coi thường.
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Tám câu thơ đã vẽ lên những bức tranh thê thảm
của tuổi trẻ Việt Nam, hoàn toàn trái ngược với những thông tin phét lác từ các
phương tiện tuyên truyền của nhà nước. Với một thế hệ trẻ như vậy, tương lai đất
nước thật vô cùng ảm đạm. Ở đây hình tượng thơ đã thừa sức thuyết phục, không cần
biện giải dài dòng.
6/ Nhân phẩm con người rẻ mạt
Và con người - để sống còn - phải học dối
gian, lừa đảo, trở thành những thứ điếm.
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
phải tự hủy hoại nhân phẩm và lắm lúc phải quên
đi mình cũng có một linh hồn.
7/ Cơ chế chính quyền, cơ cấu xã hội thối nát
7/ Cơ chế chính quyền, cơ cấu xã hội thối nát
Để úng phó với cơ chế bất công, xã hội thối nát
con người phải khôn vặt, trở nên lười biếng, ma giáo và vô cảm.
Xứ sở cần cù
sao thật lắm Lãn Ông
lắm mẹo lãn công
……………………
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
sao thật lắm Lãn Ông
lắm mẹo lãn công
……………………
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
buôn hàng lậu – buôn quan – buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
Xã hội thối nát đến mức mua quan bán tước, “quyền lực bày ra đấu giá trước công đường”
thì không còn gì để nói nữa, dân chỉ còn
nước bó tay.
8/ Nhiều chính sách tàn ác, phân biệt đối xử
8/ Nhiều chính sách tàn ác, phân biệt đối xử
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
……………………………………………
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Sau 30/4/75 có những người đang ở trên tàu
chuẩn bị ra khơi nhưng vì yêu đất nước và:
nên:
tôi bước lên
bờ ở lại quê hương (2)
Nhưng chính quyền của “xứ sở bao dung” đã đưa
họ và hàng trăm ngàn quân nhân, viên chức của chế độ cũ (VNCH) vào các trại tập
trung cải tạo.
trái tim vô
tình
tia nhìn thù
hận
các anh cướp
mất của tôi
những tháng
năm đẹp nhất cuộc đời” (2)
9/ Luật pháp như đùa, lãnh chúa và đủ loại vua xuất hiện
Các quan chức địa phương thì không do dân bầu
trực tiếp như các nước dân chủ mà từ tiền bạc và thế lực phe nhóm. Quan chức
cao thấp các ngành không được tuyển chọn do khả năng chuyên môn mà đều có “giá
cả” như một món hàng giữa chợ - chồng tiền là lãnh chức. Người mua chức sẽ trở
thành lãnh chúa một vùng, thành vua trong ngành và tha hồ vơ vét để lấy lại vốn.
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa sứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không có
một người đi chật cả con đường
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa sứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không có
một người đi chật cả con đường
Những thành phần lừa đảo, mánh mung chôm chỉa
cũng trở thành những vua con trong lãnh vực mình hoạt động. “Luật pháp như đùa
như có như không có” nghĩa là chỉ áp dụng với dân đen còn thì dung túng cho đám
có quyền, có tiền tự tung, tự tác.
Những Vấn Nạn Của Quê Hương Dân Tộc là phần
hay nhất, được nhắc đến và trích dẫn nhiều nhất của bài thơ. Ông bạn tù - cán bộ
Sở Thông Tin Văn Hóa - cho rằng nội dung đã “đụng đến những yếu huyệt của chế độ”
chắc là ông muốn nói đến phần này. Nguyễn Duy tạo ra được những đoạn thơ tuyệt
vời như thế, trước tiên, vì ông là người “nằm trong chăn” nên “biết chăn có rận”.
Nhưng có phải mình ông biết đâu. Con số “biết chăn có rận” lên đến hàng vạn, hàng
triệu người nhưng chỉ có ông lòng đau quặn thắt vì yêu nước thương dân, tài thơ
trác tuyệt, đởm lược hơn người, lại gặp lúc cao hứng - cảm xúc sôi lên phủ mờ lý
trí – không biết sợ, không suy tính thiệt hơn nên mới “tuôn ra” được những vần
thơ chân thật, có hồn. Ông viết về những xấu xa tệ hại của XHCN và con người Việt
Nam đúng và thật quá, ngôn ngữ hình tượng mạnh mẽ, sinh động và táo bạo quá. Chính
ông sau này cũng phải công nhận “khi viết xong thì chính bản thân tôi cũng bất ngờ bởi vì không nghĩ là mình
viết được những câu thơ như vậy.”
Chẩn Đoán
Bệnh Và Cách Chữa Trị
Muốn bắt đúng bệnh thì việc đầu tiên phải cho
bác sĩ thấy, sờ, khám những bộ phận của cơ thể bị che dấu bởi nhiều lớp áo quần
- phải “lột mặt nạ” để nhìn rõ chân tướng sự vật
Thì lột mặt đi lần lữa mãi mà chi
dù dối nữa cũng không lừa được nữa
khôn và ngu đều có tính mức độ
dù dối nữa cũng không lừa được nữa
khôn và ngu đều có tính mức độ
Và thi sĩ đã tìm ra mấy nguyên nhân đã gây ra
và ủ bệnh từ nhiều năm:
miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
1/ Áp đặt quá hấp tấp “bước quá
độ” của CNXH vào hoàn cảnh đất nước Việt Nam trong khi cơ sở vật chất còn chưa
đủ lớn, đủ vững.
2/ Tự hào vô lối, vô căn cứ đến độ “bội
thực”, cả nước vỗ ngực ngợi ca mình, ngợi ca đảng, ngợi ca chế độ, ngợi ca nhau
đến mức “ngộ độc ca ngợi”.
3/ Trên lừa dưới, dưới lừa trên, cả nước lừa
nhau để được sống “an lành”. Cụm từ “sự thật hôn mê” được dùng rất chính xác,
rất đắt.
Nhưng muốn chữa trị thì Nguyễn Duy bất lực:
“biết thế
nhưng mà biết làm thế nào”
Bốc thang chửi bới thì sợ bị lợi dụng, van
lạy để cầu xin đổi mới thì không biết:
“Đổi mới
thật hay giả vờ đổi mới”
nên đành buông một câu hỏi bâng quơ mà chính
mình không biết - và không ai có thể cho mình -
câu trả lời:
“Máu nhiễm
trùng ta có thể thay chăng?”
Đối Thoại
Với Cái Bóng Và Hồn Thơ
Nguyễn Duy trong lúc xác lập khung cảnh
(setting) của bài thơ đã có một sáng kiến. Để khỏi tự mình đơn độc kể lể giãi
bày tâm sự như các thi sĩ khác ông “đè” cái bóng của chính mình ra để nói
chuyện với nó. Làm thế có cái lợi trước mắt là giọng thơ bớt đơn điệu. Tôi đã
nghe ông đọc bài thơ trên Youtube. Mỗi lúc quay qua nhấn giọng hỏi cái bóng:
Ai? thì vài khán giả ngồi gần ông – cũng giống ông - mắt lại sáng lên khoái
chí; không khí bài thơ tươi, vui hơn.
Tuy nhiên, để có được cái không khí có vẻ tươi
vui ấy bài thơ đã phải trả một giá khá đắt. Một là, hỏi giật giọng như vậy một,
hai lần thì còn lôi cuốn sự chú ý của độc giả, tạo không khí sống động cho bài
thơ. Nhưng chơi cái mửng ấy đến 10 lần mà lần nào câu hỏi cũng là Ai? và câu trả
lời là dáng điệu bất tri, bất lực của cái bóng (3) thì càng về sau cảm giác nhàm
chán càng nặng nề. Hai là, về chữ nghĩa, ý tứ thì bài thơ nhất khí liền mạch nhưng
hơi thơ, dòng thơ thì vì phải qua hơi nhiều bảng Stop nên không có trớn, chảy
không được nhanh, được mạnh, không tận dụng được sự gia tăng tốc độ và cường độ
dòng chảy khi có “sóng sau dồn sóng trước”. Do đó, có sự thiệt thòi cho sự lớn
mạnh của hồn thơ.
Cũng là người làm thơ, tôi có cảm giác khi đặt
bút viết đoạn “Những Vấn Nạn Của Quê Hương Dân Tộc” Nguyễn Duy đang lên cơn điên
– điên vì quá đau thương, điên vì quá giận dữ. Và ông đã tạo được những vần thơ
rướm máu và tóe lửa - mà khi hoàn hồn định tâm dù có cố cách mấy cũng không thể
nào viết được. Tôi nghĩ rằng nếu không có quá nhiều bảng Stop do “đối thoại với
cái bóng” tạo ra thì hơi thơ, hồn thơ sẽ mạnh hơn nhiều và giá trị nghệ thuật của
bài thơ còn cao hơn nữa.
Đoạn Kết Thiếu Thuyết Phục
làm xốn xang, rung động
hàng triệu người yêu thơ, yêu nước bởi vì đó là nỗi băn khoăn chung của dân tộc
trước hiện tình đất nước..
Nguyễn Duy đã moi tâm
huyết, dùng tài thơ của mình vẽ lên bức tranh về con người và quê hương đất nước
Việt Nam rất sinh động, rất thật nhưng đen như mõm chó, đen như cái “sự đời”.
Vâng, bức tranh Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc đầy đủ, cụ thể, rõ nét, sinh động và “đen”
hơn bức tranh của cô giáo nhiều. Nhưng nhà thơ của chúng ta lại rất lạc quan bảo
người dân Việt Nam:
“Còn thơ còn dân
ta là dân - vậy thì ta tồn tại (sic!)
và
Dù có sao đừng thở dài
Còn da lông mọc còn chồi nảy cây
thì đúng là ngài nói cho
lấy được, chẳng “tâm lý” tý nào. Lạc quan của ngài chỉ là lạc quan tếu và niềm
tin của ngài chỉ nhẹ như những câu xã giao, đầu môi chót lưỡi của láng giềng an
ủi nhau khi gặp hoạn nạn:
“Thôi! Bác cũng đừng quá
buồn. Hết cơn bỉ cực tới hồi thái lai.” (Sau đó nếu nó cứ bỉ cực hoài mà không
thấy thái lai thì cũng cứ cố chịu vậy nhé)
Riêng câu “Dù có sao đừng thở dài” thì rất “chõi”,
như một cái gai nhọn và cứng đâm vào da thịt người đọc.
Tôi nhớ đã khá lâu rồi -
khi gặp nhau ở Cali (Mỹ) - một bạn thơ đã nói với tôi “Biết đâu nếu không có cái
đoạn kết lạc quan tếu ấy thì giờ này Nguyễn Duy đang mịt mù ở một vùng núi rừng
nào đó còng lưng cuốc đất như Trần Dần, Lê Đạt, Hữu Loan thời Nhân Văn Giai Phẩm.
Nguyễn Duy viết như thế là ‘hay’ đấy, chứ không phải ‘dở’ đâu.” Theo tôi, đó chỉ
là suy đoán; và “hay, dở” như ông bạn tôi nói là cách ứng xử của thi sĩ. Nhiệm
vụ của tôi - một người bình thơ - là dựa vào văn bản để tìm ra cái hay, cái dở
của kỹ thuật và nghệ thuật thơ. Và đoạn kết của NTXTQ với tôi, đã không cùng hướng
với dòng chảy của tứ thơ và là một đoạn kết dở.
Đởm Lược Của Nguyễn Duy
Nguyễn Duy nhìn quanh quất
rồi than một câu não nuột trong bài thơ của mình:
“Ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết”
Nhân
sĩ Bắc Hà và cả miền nam (13 năm sau 1975) biết rõ chế độ XHCN nó nguy hại như
thế mà miệng vẫn ngậm tăm. Để giải thích hiện tượng này nhà phê bình Chu Văn Sơn
đã viết “Rồi yêu nước cũng phải có chỉ đạo
nữa. Có phải thế không mà lòng yêu nước, nỗi đau đời lắm khi cứ phải nói chui
như một thứ hàng lậu. Thiện chí bị nghi ngờ, thiện tâm bị cảnh giác. Lời tâm
huyết bị kiểm duyệt, cắt xén sao cho hợp những cái khuôn cấm kỵ, lọt được những
lỗ tai đông đặc nghi kỵ. https://ngominhblog.wordpress.com/2015/02/26/nhin-tu-xa-to-quoc-tieng-tho-quan-quai-bi-hung/
Riêng Nguyễn Duy, ông không chỉ than suông mà đã viết
– viết đúng những vần thơ
tuẫn tiết - phổ biến là có thể mất mạng hoặc tù đày. Biết thế nhưng ông vẫn cứ
“chơi” và sẵn sàng chấp nhận hậu quả. Người đời kính trọng ông, yêu mến ông vì
tài thơ, vì lòng yêu nước, nhưng có lẽ còn kính trọng và yêu mến ông nhiều hơn
nữa vì đởm lược – thái độ anh hùng, hiên ngang bất khuất - của ông. Bàì thơ vì
thế xuất hiện đúng lúc, tính thời sự nóng hổi, có tiếng vang lớn cả bắc lẫn
trong nam.
Kết Luận
Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc là
một bài thơ rất hay - tứ thơ táo bạo, ngôn ngữ hình tượng tuyệt vời, viết trong
lúc cao hứng nên cảm xúc mạnh, thơ có hồn. Có chút “xộc xệch” về thế trận chữ
nghĩa nên bài thơ chưa phải là toàn bích. Nhưng chỉ với hình hài như thế thôi nó
đã làm chính quyền bối rối. “Nó cũng như một giọt nước đầy ly, tạp chí
Sông Hương đang có một số vấn đề mà gặp bài “Nhìn Từ Xa …
Tổ Quốc” này thành ra họ phải đình bản để kiểm điểm.”(4) Còn độc giả thì khỏi nói, trình độ thưởng thức
thơ càng cao thì càng khoái - đọc mà nở từng khúc ruột. Tôi đã mạn phép xếp nó
vào danh sách gồm 3 bài thơ “phản kháng”, về giá trị nghệ thuật đã đủ tầm vóc để
đại diện cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc – giai đoạn CNXH bị áp đặt trên
toàn nước Việt Nam.
Phạm Đức Nhì
1/ Vũ Ánh, một phóng viên tài ba, một
viên chức cao cấp trong ngành Truyền Thanh Truyền Hình VNCH (Sau này là chủ bút
báo Người Việt ở Califonia) trong thời gian ở Trại Trừng Giới A 20 Xuân Phước đã
thực hiện tờ Hợp Đoàn - một tờ báo “chui”, kiểu Nguyệt San - để đấu tranh chống
chính sách đối xử dã man với tù nhân của trại. Sau khi anh bị đưa đi biệt giam
dài hạn, tôi được đề cử phụ trách tờ báo. Được thêm 3 số nữa thì báo bị lộ. Những
người liên can bị giải về Số 4 Phan Đăng Lưu để thụ lý chờ ra tòa. Ngoài ra tôi
còn dính líu tới một “bài thơ phản động” mà người lưu giữ nó đã bị xử 12 năm tù.
2/ Bờ Vẫn Quá Xa, Phạm Đức
Nhì, t-van.net
3/ Mượn chữ của Chu Văn
Sơn trong bài Nhìn Từ Xa Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng
PHỤ LỤC:
Nhìn Từ Xa …
Tổ Quóc
Ðối diện ngọn đèn
trang giấy trắng như xeo bằng ánh sáng
Ðêm bắc bán cầu vần vụ trắng
nơm nớp ai rình sau lưng ta
Nhủ mình bình tâm nhìn về quê nhà
xa vắng
núi và sông
và vết rạn địa tầng
Nhắm mắt lại mà nhìn
thăm thẳm
yêu và đau
quằn quại bi hùng
Dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong lòng
cột biên giới đóng từ thương đến nhớ
*
Ngọn đèn sáng trắng nóng mắt quá
ai cứ sau mình lẩn quất như ma
Ai ?
im lặng
Ai ?
cái bóng !
A… xin chào người anh hùng bất lực dài ngoẵng
bóng máu bầm đen sõng soài nền nhà
Thôi thì ta quay lại
chuyện trò cùng cái bóng máu me ta
*
Có một thời ta mê hát đồng ca
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta cứ mê ta(*)
Vâng – đã có một thời hùng vĩ lắm
hùng vĩ đau thương hùng vĩ máu xương
mắt người chết trừng trừng không chịu nhắm
Vâng – một thời không thể nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi – cấm lội ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
*
Ta đã xuyên suốt cuộc chiến tranh
nỗi day dứt không nguôi vón sạn gót chân
nhói dài mỗi bước
Thời hậu chiến vẫn ta người trong cuộc
xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày ?
Ai ?
không ai
Vết bầm đen đấm ngực
*
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
Ai ?
không ai
Vết bầm đen quều quào giơ tay
*
Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
quỉ nhập tràng xiêu vẹo những hình hài
Ðêm huyền hoặc
dựng tóc gáy thấy lòng toang hoác
mắt ai xanh lè lạnh toát
lửa ma trơi
Ai ?
không ai
Vết bầm đen ngửa mặt lên trời
*
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
Ai ?
không ai
Vết bầm đen tọa thiền
*
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Ai ?
không ai
Vết bầm đen cúi đầu lặng thinh
*
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Ai ?
không ai
Vết bầm đen vò tai
*
Xứ sở cần cù
sao thật lắm Lãn Ông
lắm mẹo lãn công
Giả vờ lĩnh lương
giả vờ làm việc
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
Ðạo Chích thành tôn giáo phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
buôn hàng lậu – buôn quan – buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen nhún vai
*
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Ai ?
không ai
Vết bầm đen rứt tóc
*
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không có
một người đi chật cả con đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen gập vuông thước thợ
*
?…
?…
?…
*
Ai ?
Ai ?
Ai ?
Không ai !
Không ai !
Không ai !
Tự vấn – mỏi
vết bầm đen còng còng dấu hỏi
*
Thôi thì ta trở về
còn trang giấy trắng tinh chưa băng hoại
còn chút gì le lói ở trong lòng
*
Ðôi khi nổi máu lên đồng
hồn thoát xác
rũ ruột gan ra đếm
Chích một giọt máu thường xét nghiệm
tí trí thức – tí thợ cày – tí điếm
tí con buôn – tí cán bộ – tí thằng hề
phật và ma mỗi thứ tí ti…
Khốn nạn thân nhau
nặng kiếp phân thân mặt nạ
Thì lột mặt đi lần lữa mãi mà chi
dù dối nữa cũng không lừa được nữa
khôn và ngu đều có tính mức độ
*
Bụng dạ cồn cào bất ổn làm sao
miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại
biết thế nhưng mà biết làm thế nào
Chả lẽ bây giờ bốc thang chửi bới
thầy chửi bới nhe giàn nanh cơ hội
Chả lẽ bốc thang cỏ khô nhai lại
lạy ông-cơ-chế lạy bà-tư-duy
xin đừng hót những lời chim chóc mãi
Ðừng lớn lối khi dân lành ốm đói
vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn
Ðổi mới thật không hay giả vờ đổi mới?
máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?
*
Thật đáng sợ ai không có ai thương
càng đáng sợ ai không còn ai ghét
Ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết
ta là gì ?
ta cần thiết cho ai ?
*
Có thể ta không tin ai đó
có thể không ai tin ta nữa
dù có sao vẫn tin ở con người
Dù có sao
đừng khoanh tay
khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối
Cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn ?
những người tốt đang cần liên hiệp lại!
*
Dù có sao
vẫn Tổ Quốc trong lòng
mạch tâm linh trong sạch vô ngần
còn thơ còn dân
ta là dân – vậy thì ta tồn tại
*
Giọt từng giọt
nặng nhọc
Nặng nhọc thay
Dù có sao
đừng thở dài
còn da lông mọc còn chồi nảy cây.
Ta đã xuyên suốt cuộc chiến tranh
nỗi day dứt không nguôi vón sạn gót chân
nhói dài mỗi bước
Thời hậu chiến vẫn ta người trong cuộc
xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày ?
Ai ?
không ai
Vết bầm đen đấm ngực
*
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
Ai ?
không ai
Vết bầm đen quều quào giơ tay
*
Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
quỉ nhập tràng xiêu vẹo những hình hài
Ðêm huyền hoặc
dựng tóc gáy thấy lòng toang hoác
mắt ai xanh lè lạnh toát
lửa ma trơi
Ai ?
không ai
Vết bầm đen ngửa mặt lên trời
*
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
Ai ?
không ai
Vết bầm đen tọa thiền
*
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Ai ?
không ai
Vết bầm đen cúi đầu lặng thinh
*
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Ai ?
không ai
Vết bầm đen vò tai
*
Xứ sở cần cù
sao thật lắm Lãn Ông
lắm mẹo lãn công
Giả vờ lĩnh lương
giả vờ làm việc
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
Ðạo Chích thành tôn giáo phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
buôn hàng lậu – buôn quan – buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen nhún vai
*
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Ai ?
không ai
Vết bầm đen rứt tóc
*
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không có
một người đi chật cả con đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen gập vuông thước thợ
*
?…
?…
?…
*
Ai ?
Ai ?
Ai ?
Không ai !
Không ai !
Không ai !
Tự vấn – mỏi
vết bầm đen còng còng dấu hỏi
*
Thôi thì ta trở về
còn trang giấy trắng tinh chưa băng hoại
còn chút gì le lói ở trong lòng
*
Ðôi khi nổi máu lên đồng
hồn thoát xác
rũ ruột gan ra đếm
Chích một giọt máu thường xét nghiệm
tí trí thức – tí thợ cày – tí điếm
tí con buôn – tí cán bộ – tí thằng hề
phật và ma mỗi thứ tí ti…
Khốn nạn thân nhau
nặng kiếp phân thân mặt nạ
Thì lột mặt đi lần lữa mãi mà chi
dù dối nữa cũng không lừa được nữa
khôn và ngu đều có tính mức độ
*
Bụng dạ cồn cào bất ổn làm sao
miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại
biết thế nhưng mà biết làm thế nào
Chả lẽ bây giờ bốc thang chửi bới
thầy chửi bới nhe giàn nanh cơ hội
Chả lẽ bốc thang cỏ khô nhai lại
lạy ông-cơ-chế lạy bà-tư-duy
xin đừng hót những lời chim chóc mãi
Ðừng lớn lối khi dân lành ốm đói
vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn
Ðổi mới thật không hay giả vờ đổi mới?
máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?
*
Thật đáng sợ ai không có ai thương
càng đáng sợ ai không còn ai ghét
Ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết
ta là gì ?
ta cần thiết cho ai ?
*
Có thể ta không tin ai đó
có thể không ai tin ta nữa
dù có sao vẫn tin ở con người
Dù có sao
đừng khoanh tay
khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối
Cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn ?
những người tốt đang cần liên hiệp lại!
*
Dù có sao
vẫn Tổ Quốc trong lòng
mạch tâm linh trong sạch vô ngần
còn thơ còn dân
ta là dân – vậy thì ta tồn tại
*
Giọt từng giọt
nặng nhọc
Nặng nhọc thay
Dù có sao
đừng thở dài
còn da lông mọc còn chồi nảy cây.
____
1. Thơ Chế Lan Viên
1. Thơ Chế Lan Viên
SO SÁNH BA BÀI THƠ PHẢN KHÁNG
(Bài viết này có nhắc lại một vài ý trong ba
bài bình thơ)
KHÚC NHẠC DẠO ĐẦU
Đởm
Lược Của Thi Sĩ
1/ Đỗ Trung Quân:
Nhiều người yêu thơ tỏ vẻ tiếc và có ý trách ĐTQ
“quá cẩn thận”, đã nhét Tạ Lỗi Trường Sơn
vào “hộc tủ” quá lâu nên khi xuất hiện không còn nóng hổi tính thời sự.
Tôi hoàn toàn không đồng ý với kiểu trách móc đó. Năm 1983 tôi đã ở chung trại (cải
tạo) với một thầy giáo trở thành tù chính trị - bị kết án 18 năm tù vì đã sáng
tác một bài thơ chỉ hơi “đụng chạm” đến chế độ. Trong không khí chính trị như
thế nếu ĐTQ phổ biến bài thơ thì hậu quả sẽ khó lường. Với tôi, ĐTQ là dân miền
nam (Sài Gòn) mà dám viết bài thơ với nội dung “vượt lằn ranh” và với giọng điệu
“chửi thẳng mặt” “những người nhân danh Hà Nội” thì đã là có chút máu liều. Thế
rồi lại dám phổ biến bài thơ đó ở Việt Nam năm 2009 – lúc mình còn đang sống
nhăn – thì trong người anh chắc chắn máu cũng phải có thêm ít nhiều “chất” dũng
cảm. So với Chế Lan Viên thì lá gan của anh chắc phải nặng hơn vài chục gram.
Tiếc là tứ thơ của anh chỉ bó hẹp trong một số sự
việc “ngang tai trái mắt” của những năm đầu đổi thay chế độ cho nên sau 27 năm
nó đã nguội, mất gần hết tính thời sự, chỉ như “nhắc lại chuyện xưa cho biết
người biết ta vậy thôi”.
2/ Nguyễn
Duy:
Rất anh hùng. Biết đó là những vần thơ đã vượt qua
lằn ranh, “bước bào vòng cấm địa” của chế độ mà ông gọi là những vần thơ tuẫn
tiết - phổ biến là có thể tù đày hoặc mất mạng – nhưng vẫn cứ “chơi”, và sẵn
sàng chấp nhận hậu quả. Người đời kính trọng ông, yêu mến ông vì tài thơ, vì
lòng yêu nước, nhưng có lẽ còn kính trọng và yêu mến ông nhiều hơn nữa vì đởm
lược – thái độ anh hùng, hiên ngang bất khuất - của ông.
3/ Chế Lan
Viên:
Hèn nhát, thiếu sĩ khí. Đã nhận ra sự hoang tưởng của
CNXH ngay từ lúc đầu:
“Chưa cần cầm lên nếm anh đã biết là bánh vẽ”
nhưng vẫn ngậm tăm, tiếp tay cho những người vẽ
bánh lừa dối dân tộc. Viết dấm dúi mấy bài thơ, đợi mấy năm sau khi chết mới
cho phổ biến.
Ảnh
Hưởng, Tiếng Vang Của Bài Thơ
1/ Tạ Lỗi
Trường Sơn
Hơi thơ nóng bỏng, hồn thơ lai láng, nhưng khi bài
thơ xuất hiện thì tứ thơ đã “nguội”, không còn tính thời sự. Người yêu thơ tìm
đọc TLTS là để thưởng thức tài thơ của ĐTQ và để “biết người biết ta”. Sau 27
năm nằm trong hộc tủ bài thơ đã mất rất nhiều sức hấp dẫn lẽ ra phải có nếu xuất
hiện “đúng thời vụ”.
2/ Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc
Khi báo Sông Hương bị đình bản để kiểm điểm, thi sĩ
như cá nằm trên thớt, nhà bị công an theo dõi rình mò (1) nhưng người dân thì hả
lòng, hả dạ. Họ đã thấy, đã trải nghiệm, đã chịu đựng những căn bệnh quái ác của
chế độ, của đất nước từ rất lâu nhưng vì sợ cho bản thân và gia đình, không dám
nói ra thì bỗng nhiên tất cả những điều ấm ức ấy được tuyên bố một cách long trọng,
đầy nghệ thuật bằng một
bài thơ … nặng ký. Sự xuất hiện của Nhìn Từ Xa …
Tổ Quốc do đó, rất đúng lúc, tính thời sự nóng hổi, trở thành một sự kiện văn học
lớn, làm xôn xao dư luận trong nước cả bắc lẫn nam.
3/ Bánh Vẽ
Bài thơ đã bôi bác, phỉ nhổ chế độ một cách
cay độc, lời lẽ nhẹ nhàng nhưng ý tứ, nội dung của câu chửi “nặng đến nghìn
cân”, độ phủ sóng của tứ thơ rất rộng, bao trùm mọi mặt của chế độ, của xã hội.
Cộng với vị trí của ông trong chính quyền, làm công việc lãnh đạo tinh thần, tư
tưởng nên câu chửi có căn cớ, gốc rễ, có độ khả tín cực cao, chế độ không còn đường nào biện minh, chối
cãi. Bài thơ làm tan rã (hoặc lung lay) nền tảng lý tưởng của ngay cả những người
cộng sản lâu năm.
Được
Mất Của Thi Sĩ Khi Trình Làng Bài Thơ
a/ Đỗ Trung Quân: Đưa đội quân chữ nghĩa của
mình vào thử lửa trong một trận đánh lớn và đã thành công ở mặt tài thơ. Do tầm
nhìn chưa thấu đáo ở tứ thơ cộng thêm bài thơ bị “ngâm tôm” quá lâu nên ảnh hưởng
về mặt chính trị và xã hội giới hạn.
b/ Nguyễn
Duy: Qua NTXTQ đã biểu lộ một tấm lòng yêu nước sắt son, một đởm lược phi thường
(rất anh hùng), một tài thơ trác tuyệt – đã thành công khi đưa các con chữ của
mình vào một trận đánh lớn (hơn cả ĐTQ). Uy tín của Nguyễn Duy đã lên rất cao ở
cả 2 mặt tài thơ và nhân cách.
c/ Chế
Lan Viên: Qua Bánh Vẽ CLV đã biểu lộ một tầm nhìn xa và sâu sắc (về mặt chính
trị) một tài thơ điêu luyện, kỹ thuật thơ hoàn hảo. Nhưng qua đó cũng lộ ra một
nhân cách kém cỏi: ham hố chức vị, quyền lợi vật chất, tâm địa gian ác, kẻ sĩ cầm
bút mà rất hèn, đã tích cực tham gia Vẽ Bánh để lừa cả dân tộc.
CHỌN
BÀI THƠ HAY NHẤT
Trong một bài bình thơ, sau khi phân tích và đưa ra
nhận định về giá trị nghệ thuật của bài thơ, nhà phê bình thường bàn thêm về mối
tương quan giữa tác giả, tác phẩm và bối cảnh lịch sử xã hội để biết vị trí, tầm
quan trọng của tác phẩm trong dòng vận động của văn học, văn học sử, lịch sử của
đất nước và - nếu là tác phẩm lớn - của cả nhân loại. Nhưng khi muốn “chọn bài
thơ hay nhất” tức là muốn nói đến giá trị nghệ thuật – cái hay, cái dở - của những
bài thơ được so sánh nhà phê bình phải chặt hết dây mơ rễ má, cắt đứt mọi mối
quan hệ để bài thơ không còn bất cứ một chỗ nào dựa dẫm mà phải tự đứng trên
đôi chân của nó. Lúc ấy đởm lược của tác giả (anh hùng hay “anh hèn”), yêu nước thương nòi hay chỉ là loại sâu dân mọt nước, tiếng vang của bài thơ (ít người chú ý đến hay làm xôn xao dư luận của cả nước), chỗ đứng trong văn học sử hay lịch sử (bài thơ có đại diện cho một giai đoạn lịch sử, hay không) … đều phải bỏ qua một bên mà chỉ chú tâm đến mấy tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ là: Tứ Thơ, Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ.
Bình chọn chỉ dựa theo những tiêu chí này thì bài thơ được lợi nhất là Bánh Vẽ của Chế Lan Viên. Những điểm tệ hại trong nhân cách của nhà thơ như Hèn, Gian Ác, Sâu Dân Mọt Nước - lẽ ra sẽ bị điểm rất xấu - đều không được nhắc đến. Kế đến là TLTS của ĐTQ. Khuyết điểm “tứ thơ đã mất hẳn tính thời sự” - lẽ ra sẽ bị trừ điểm – thì lại được cho qua. Và bài thơ chịu thiệt thòi nhất là Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy. Đởm lược anh hùng, lòng yêu nước sắt son của nhà thơ, nhận được rất nhiều thiện cảm của nhà phê bình, của người đọc - lẽ ra sẽ được thêm điểm – thì lại phải vứt qua một bên.
Và bây giờ tôi sẽ thực hiện công việc mà tiêu đề của
bài viết đã đưa ra là so sánh giá trị nghệ thuật của 3 bài thơ.
Ý,
Tứ Thơ
1/ Tạ Lỗi
Trường Sơn:
a/
Đối tượng: Những người nhân danh Hà Nội – dân bắc kỳ 75
b/
Những điều chê trách:
-
Ham hố, tìm kiếm những tiện nghi vật chất,
những cái xấu của Sài Gòn (miền nam) mà chính miệng mình đã lên tiếng miệt thị,
chửi rủa
-
cố bám trụ ở nam, không về bắc, quê
hương xứ sở của mình.
Về điều chê trách thứ nhất, ĐTQ chê không đúng đối
tượng. Những kẻ “đẻ” ra những lời lẽ, giọng điệu miệt thị dân nam là đám chóp
bu Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng và đám cán bộ (Văn Hóa, Báo Chí) cấp trung bị
bắt buộc phải nói như thế, chứ hầu hết bộ đội (và sau này là gia đình họ) chắc
là mặt cũng không đủ dầy để nói những lời như vậy trước mặt dân Sài Gòn. Hơn nữa,
ăn ngon mặc đẹp, sống đầy đủ tiện nghi vật chất là ước mơ thiết thực của con
người. Dân bắc lúc ấy có “mê mồi” tìm kiếm những thứ ấy cũng là lẽ thường,
không đáng để bị khinh khi.
Về điều chê trách thứ hai, ở miền bắc đất hẹp người
đông, người khôn của khó lại phải trải qua hơn 20 năm dưới chế độ kém phát triển
về kinh tế nên đời sống của người dân cơ cực. Vào nam thấy thoải mái, dễ sống - đất lành chim đậu -
họ muốn ở lại cũng là điều dễ hiểu. May mắn là nhờ đọc “giữa hai hàng kẻ” độc giả đã hiểu được 2 điều mà đám chóp bu Hà Nội ra sức dấu diếm: Một là, những cái “ưu việt” của chế độ và con người XHCH chỉ là phét lác. Dân miền bắc ngạc nhiên đến choáng ngợp (2) trước sức phát triển và vẻ đẹp của “Hòn Ngọc Viễn Đông” (3) và các thành phố lớn ở miền nam. Mức sống của dân miền nam lúc đó khá cao - đặc biệt là thực phẩm và tiện nghi vật chất - đã vượt xa mức sống của người dân miền bắc. Hai là, chính quyền đã có hẳn một chính sách đẩy dân miền nam đi vủng kinh tế mới để đưa dân miền bắc vào “chiếm” những “điểm then chốt” trong những thành phố lớn - đặc biệt là Sài Gòn.
-
tính
vô thần của chế độ:
Xứ sở linh
thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
-
độc tài:
tất cả trôi
xuôi - cấm lội ngược dòng
Nhà phê bình
Chu Văn Sơn, Tiến Sĩ Văn Chương của chế độ đã than vãn “Rồi yêu nước cũng phải có chỉ đạo nữa. Có phải thế không mà lòng yêu nước,
nỗi đau đời lắm khi cứ phải nói chui như một thứ hàng lậu. Thiện chí bị nghi ngờ,
thiện tâm bị cảnh giác. Lời tâm huyết bị kiểm duyệt, cắt xén sao cho hợp những
cái khuôn cấm kỵ, lọt được những lỗ tai đông đặc nghi kỵ. (4)
- và thối nát:
- và thối nát:
quyền lực bày ra
đấu giá trước công đường
-
Một
xã hội băng hoại, một dân tộc không còn nhân phẩm
Xứ sở từ bi sao
thật lắm thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Ông hơn hẳn ĐTQ là đã chỉ ra mấy nguyên nhân,
mà theo ông, đã gây ra những chứng bệnh quái ác kia:
1/ miếng quá độ
nuốt vội vàng sống sít
Áp đặt quá hấp tấp “bước quá độ” của CNXH vào
hoàn cảnh đất nước Việt Nam trong khi cơ sở vật chất còn chưa đủ lớn, đủ vững.
Tôi suy ra rằng lúc ấy ông vẫn tin ở Chủ Nghĩa Cộng Sản nhưng trách những người
lãnh đạo không đủ kiên nhẫn chờ đợi thời cơ chín mùi, thích hợp.
2/ mất vệ sinh
bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
Tự hào vô lối, vô căn cứ đến độ “bội thực”,
cả nước vỗ ngực ngợi ca mình, ngợi ca đảng, ngợi ca chế độ, ngợi ca nhau đến
mức “ngộ độc ca ngợi”.
Trên lừa dưới, dưới lừa trên, cả nước lừa
nhau để được sống “an lành”. Cụm từ “sự thật hôn mê” được dùng rất chính xác,
rất đắt.
Ông không nhận ra được rằng, thật ra, bội thực tự hào, ngộ độc ca ngợi và sự thật
hôn mê chính là con đẻ của CNXH – dù áp dụng ngay những năm 50s hay chờ đế
mấy thập kỷ sau cũng thế thôi.
Nguyễn Duy viết NTXTQ với tâm thế của bên thắng
cuộc (con cưng của chế độ, được đi du học ở Nga, đầu tàu của phong trào Xã Hội
Chủ Nghĩa) nhưng ông - đã rất khéo - nhân danh một con dân VN yêu nước, nói tiếng
nói chung cho cả dân tộc, tầm nhìn xa hơn, nhắm đến khối độc giả đông đảo hơn.
Thêm vào đó, những vấn nạn ông đưa ra to lớn, nghiêm trọng hơn, “nỗi đau” của
ông sâu nặng hơn, nhân bản hơn, lời trách móc của ông nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc
hơn. Mỗi vấn nạn ông trình bày trước mắt độc giả - bằng thứ ngôn ngữ và hình tượng
đặc biệt cộng với cảm xúc nóng bỏng trong tâm hồn – là một đoạn thơ trác tuyệt,
vừa cụ thể, rõ ràng, sinh động vừa đầy tính nghệ thuật. Có thể nói mỗi vấn nạn
là một yếu huyệt của cơ chế XHCN và ông đã đâm vào rất nhiều yếu huyệt như thế của
chế độ nhưng – vì còn quá nhiều ràng buộc – ông
không thể từ bỏ vị thế của mình. Người đọc đã từng có ít nhiều kinh nghiệm
với chế độ rất dễ dàng thông cảm với ông. Tuy nhiên chính vì thế về phương diện
tứ thơ, NTXTQ của ông phải đứng sau Bánh Vẽ của CLV một khoảng ngắn.
Xếp
Hạng Tứ Thơ
Trong 3 bài thơ phản kháng – nêu lên những vấn nạn
của tổ quốc, dân tộc do hậu quả của việc áp đặt chế độ XHCN trên toàn cõi Viết
Nam, xét về ý tứ, thì TLTS của ĐTQ yếu kém nhất. Những hiện tượng xã hội mà anh
nêu lên để chửi vỗ mặt “những người nhân danh Hà Nội” thật ra chỉ là những cảnh
đời ngang tai trái mắt của một giai đoạn chuyển tiếp - hậu quả của việc thay đổi
chế độ từ dân chủ tự do sang độc tài chuyên chế. Những hiện tượng ấy sẽ dần dần đi vào lãng quên với bộn bề khó khăn của cuộc sống mới,
không đáng gọi là vấn nạn của dân tộc.
Kế đến là NTXTQ của Nguyễn Duy. Ông đã chỉ ra được
những vấn nạn lớn, chính yếu của chế độ nhưng nói đến nguyên nhân thì “cái thấy”
của ông còn mù mờ cho nên khi bàn đến phương cách chữa trị thì ông ú ớ “biết thế
nhưng mà biết làm thế nào”.
Bài thơ có ý tứ xuất sắc nhất là Bánh Vẽ của CLV.
Ông đã thấy hết ngay từ đầu và qua bài thơ đã trình bày rất chính xác, rõ ràng
và đầy nghệ thuật nguyên nhân và cách chữa trị những vấn nạn to lớn của đất nước.
Phép ẩn dụ hoàn hảo đã tạo thêm nét duyên dáng cho tứ thơ vô cùng sâu sắc của
ông.
Xếp hạng:
Hạng nhất:
Bánh Vẽ.
Hạng
nhì: Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc.
Hạng ba:
Tạ Lỗi Trường Sơn.
Kỹ Thuật Thơ
1/ Bánh Vẽ
Chế Lan Viên
là một thi sĩ bậc thầy về kỹ thuật thơ nên Bánh Vẽ có hình thức gần như tối ưu,
ngôn ngữ chắt lọc, hình tượng dễ cảm, ẩn dụ sắc sảo được thể hiện một cách hoàn
hảo, thơ đầy chất trí tuệ
a/ Số câu không giới hạn.
b/ Số chữ trong câu tùy tiện.
c/ Vần: không quá nhạt, không quá ngọt,
thoang thoảng rất vừa độ. Dòng chảy của thơ lững lờ, êm ả, thích hợp với tâm trạng
buồn, cay đắng.
d/ Kỹ
thuật thơ hoàn hảo
e/ Kết
thúc không độc đáo, ấn tượng nhưng hợp lý, không lộ vẻ yếu kém.
f/ Bài
thơ có 91 chữ - tương đối ngắn so với hai bài kia – nên việc chỉ huy đội quân
chữ nghĩa dễ dàng hơn. Với tôi, đây là một chi tiết quan trọng để cân nhắc, xếp
hạng Kỹ Thuật Thơ.
2/ Tạ Lỗi
Trường Sơn
a/ Số câu không giới hạn. Viết cho đến
khi hết hứng, hết ý thì thôi. Theo cách đếm câu của PĐN thì bài thơ dài xấp xỉ
100 câu.
b/ Số chữ trong câu: Câu ngắn nhất 2 chữ,
câu dài nhất 18 chữ (Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti
vi, casette, radio...) còn lại thì tùy hứng, không tuân theo
một luật lệ nào.
c/ Vần: Vần liên tiếp khá đều đặn nhưng
nhờ số chữ trong câu thay đổi tùy tiện, thỉnh thoảng tác giả lại chuyển đoạn
thay vần nên độ ngọt vừa phải, không có hội chứng nhàm chán vần mà dòng thơ vẫn
chảy trơn tru, nhiều đoạn dòng chảy rất xiết.
d/ Kết
thúc Trật bàn đạp, không nhất quán với tứ thơ, “lãng nhách”.
e/ Bài
thơ dài (795 chữ) có nghĩa là ĐTQ chỉ huy đội quân chữ nghĩa đông hơn - gần gấp
9 lần Bánh Vẽ của CLV – trong một trận đánh lớn hơn, thế trận phức tạp hơn mà
chỉ đến câu cuối cùng mới phạm một lỗi (về tứ thơ) nên xét về Kỹ Thuật Thơ thì
– tuy chưa phải là toàn bích – TLTS nếu không ở phía trước thì cũng không thể xếp
sau Bánh Vẽ được.
3/ Nhìn Từ Xa Tổ Quốc
a/ Số
câu không giới hạn. Viết hết hứng, hết ý thì thôi.
b/ Số
chữ trong câu tùy ý, tùy hứng, không có cảm giác bó buộc.
c/ Vần:
vần liên tiếp kiểu Nhớ Rừng nhưng nhiều phá lệ khéo léo, hợp lý nên độ ngọt của
thơ vừa phải, không có hội chứng “nhàm chán vần”. Nhiều bảng Stop phát sinh đo
“đối thoại với cái bóng” khiến tốc độ, cường độ dòng chảy của tứ thơ không có
hiệu ứng “sóng sau dồn sóng trước” ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của hồn thơ.
d/ Kết
thúc: gượng, yếu, không thuyết phục.
e/ Là
bài thơ dài nhất (1105 chữ) nên tài điều binh khiển tướng trong đội quân chữ
nghĩa của ND được đánh giá rất cao. Mặc dù NTXTQ có đến 2 khuyết điểm: một là kết
thúc gượng, yếu, hai là nhiều bảng Stop, nhưng xét về Kỹ Thuật Thơ, theo tôi, ít
nhất cũng phải xếp bài thơ ngang hảng với Bánh Vẽ và TLTS.
Xếp
Hạng Kỹ Thuật Thơ
Đồng hạng nhất.
Cảm
Xúc, Hơi Thơ, Hồn Thơ
a/ Tạ Lỗi
Trường Sơn
Cảm xúc mạnh ngay từ tầng 1 – ngôn ngữ hằn học,
nóng bỏng, hình tượng sống động. Thế trận chữ nghĩa khá chặt chẽ, vần liên tiếp
nên tứ thơ tuôn chảy, cảm xúc ở tầng 2 mạnh. Đặc biệt là thi sĩ viết trong cơn
điên tiết, lửa giận phừng phừng nên hơi thơ (hơi nóng của cảm xúc) tỏa ra rát bỏng,
hồn thơ (thứ cảm xúc cao cấp nhất của thơ) tràn trề, lai láng. Được nghe hoặc đọc
bài thơ này rất “đã”. Theo tôi, TLTS đã thắng - một cách rõ ràng - 2 bài thơ
kia ở lãnh vực Hồn Thơ
b/ Nhìn
Từ Xa Tổ Quốc
Cũng là người
làm thơ, tôi có cảm giác Nguyễn Duy đang lên cơn điên – điên vì quá đau thương,
điên vì quá giận dữ. Ông đã không đắn đo hơn thiệt, không biết sợ hãi, để mặc
cho các con chữ tuôn ra. Cảm xúc từ mỗi chữ, mỗi câu tỏa ra nóng hổi. Ý này nối
tiếp ý kia, vấn nạn sau nối tiếp vấn nạn trước, chảy xiết cứ như dòng sông vào
mùa nước lũ.
Nhưng sao thật
lạ! Ở những đoạn sau, cảm xúc từ mỗi câu thơ vẫn nóng như lửa, cơn điên của tác
giả hình như vẫn chưa hạ, mà sao có một “cái gì đó”, một “lực nào đó” trì kéo lại,
không cho tứ thơ chuyển động nhanh như trước. Tìm hiểu kỹ thì được biết chính sáng
kiến “đối thoại với cái bóng” đã làm dòng chảy của tứ thơ không thông, ảnh hưởng
đến sự lớn mạnh của hồn thơ. Cho nên, dù NTXTQ có hồn thơ khá mạnh, cũng phải xếp
sau TLTS về tiêu chí Hồn Thơ tuy độ khác biệt chỉ khoảng một 10 một 8.
c/ Bánh
Vẽ
Có thể nói trong Bánh Vẽ chất trí tuệ đặc biệt tỏa
sáng. Trong tiến trình chế tạo bài thơ lý trí đóng vai trò chủ đạo; tác giả đã
rất tỉnh táo, suy nghĩ chín chắn trước khi phóng bút. Vì thế bài thơ tuy thành
công vượt bậc về kỹ thuật thơ - cảm xúc nội tại của bài thơ (ở tầng 1 và tầng 2
rất mạnh) - lại thiếu cái mà dân đọc thơ sành điệu thích nhất: hồn thơ. Bánh Vẽ
đã thua rất xa hai bài thơ kia về tiêu chí Hồn Thơ.
Xếp hạng Hồn Thơ
Hạng nhất:
Tạ Lỗi Trường Sơn
Hạng
Nhì: Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc
Hạng ba:
Bánh Vẽ
XẾP
HẠNG TỔNG KẾT
1/ Phẩm chất quý giá nhất của bài thơ,
theo tôi, là Hồn Thơ. Vì thế tôi đọc TLTS của ĐTQ với rất nhiều hứng thú. Ngôn
ngữ, hình tượng anh sử dụng trong thơ rất hợp với vai trò của một tay thợ chửi
chuyên nghiệp. Anh chửi hay quá! Nghe đã quá! Tôi hình dung được khuôn mặt đang
lên cơn điên của anh, cảm được nỗi bực tức của anh, cảm được hơi nóng – không
phải từ con chữ - mà từ một chỗ vô hình nào đó trong bài thơ tỏa ra. Và cái luồng
hơi nóng đó tuôn chảy thành dòng, càng về cuối bài thơ càng mạnh. Đó là cảm xúc
ở tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất của thơ – mà người thưởng thức thơ từ kha
khá đến sành điệu sẽ cảm nhận được ngay. Đó chính là Hồn Thơ. Tôi đã định kéo
bài thơ lên vị trí đầu bảng nhưng câu kết của anh đã làm tôi chới với và cụt hứng.
Tôi chợt nghĩ đến đội bóng mà mình yêu thích – có
giàn cầu thủ rất hay cả về kỹ thuật cá nhân lẫn phối hợp toàn đội. Các cầu thủ
đá hoàn toàn ngẫu hứng, lên xuống rất nhịp nhàng. Lấy được bóng từ tiền đạo đối
phương dâng lên vượt qua hàng tiếp ứng và rồi rất nghệ thuật, vượt qua từng cầu
thủ của hàng hậu vệ để đối diện với thủ thành. Cả cầu trường không một tiếng động;
khán giả nín thở chời đợi. Rồi thủ thành cũng bị lừa ra, bỏ trống cầu môn; khán
giả đứng dậy chuẩn bị vỗ tay vang dội chào đón bàn thắng của đội nhà. Đúng lúc ấy
thì tiền đạo đang có bóng tung chân sút mạnh. Hình như anh không nhìn thấy cầu
môn. Bóng vượt xà dọc ra ngoài … rất xa. Câu kết của TLTS chính là cú sút dứt
điểm – mà không nhìn thấy cầu môn - của ĐTQ.
Sau cuộc họp thống nhất đất nước cuối năm 1975 một
thời gian (5) MTGPMN đã bị - thẳng thừng và công khai - loại khỏi chính trường.
Một số đông thấy mình bị phản bội đã ra mặt chống lại. Tùy theo mức độ chống đối,
kẻ bị thủ tiêu, người xộ khám Chí Hòa, người bị quản thúc tại gia (đuổi gà cho
vợ). Dân miền nam - đặc biệt là những người ăn cơm Quốc Gia mà lòng dạ lại gởi
hết cho Cộng Sản - lúc ấy đã sáng mắt. Có người đã nghĩ ra một câu nói đùa rất thâm
thúy: “Văn Vỉ đang lái Honda chạy khắp Sài Gòn” (6). Một người đọc TLTS đã viết
cảm nhận: “Nhưng đọc hết bài, tiếc thay, Đỗ Trung Quân năm ấy, chỉ sáng có một
con mắt” (7). Theo tôi, dựa vào tứ thơ - đặc biệt là câu kết – ĐTQ lúc viết
bài thơ vẫn còn chưa sáng mắt.
Và thế là mặc dù hơi thơ nóng bỏng, hồn thơ lai
láng, kỹ thuật thơ điêu luyện, tôi vẫn gạt TLTS qua một bên. Vị trí đầu bảng (của
3 bài thơ) vẫn còn bỏ trống.
2/ Qua Bánh Vẽ CLV tiết lộ là ông bìết XHCN chỉ là ảo
tưởng ngay khi chấp nhận cùng hội cùng thuyền với những người cộng sản. Bài thơ
có kỹ thuật thơ hoàn hảo, ẩn dụ tuyệt vời. Riêng ý tứ thì sâu sắc, biểu lộ một
tầm nhìn hơn hẳn TLTS và NTXTQ – không những chỉ ra cội nguồn của những vấn nạn
mà còn gián tiếp nói đến cách giải quyết vấn đề: “Muốn không phải ăn Bánh Vẽ
thì làm Bánh Thiệt mà ăn.” Với những ưu điểm vượt trội như vậy Bánh Vẽ có thể xếp
ở vị trí đầu bảng được lắm chứ. Tuy nhiên, bài thơ có một khuyết điểm lớn là được
viết trong lúc quá tỉnh táo nên thiếu Chất Thơ, thiếu Hồn Thơ. Hơn nữa, nó chỉ
là một bài thơ “ngắn”, thế trận chữ nghĩa chỉ ở cấp “thấp” so với tầm vóc của
TLTS và NTXTQ. Chỉ huy một trận đánh chỉ có 91 binh sĩ chắc chắn dễ dàng tránh
sơ xuất hơn trận đánh có 795 (TLTS) hay 1105 (NTXTQ) binh sĩ tham chiến. Chính vì
thế tôi đã không chọn Bánh Vẽ và, vị trí đầu bảng trong 3 bài thơ, một lần nữa,
vẫn được bỏ trống.
3/ Về tứ thơ NTXTQ đã trình bày
được - rất thật, rất sinh động - những vấn nạn của tổ quốc. Nguyên nhân của
chúng, theo ông là “miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít” và:
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
Ông chưa nhận
ra rằng tất cả những căn nguyên ông nêu lên ở trên đều do cơ chế XHCN mà ra cả.
Ông viết NTXTQ đang lúc cao hứng tột độ như người lên cơn điên nên cảm xúc ở cả
3 tầng đều mạnh; ở vài đoạn đầu của phần Vấn Nạn hơi thơ nóng hổi. Nhưng càng về
sau do phân tâm “đối thoại với cái bóng”, dòng cảm xúc bị ngăn lại bởi những bảng
Stop nên Hồn Thơ không có trớn để đạt tới tốc độ và cường độ lẽ ra còn cao hơn
nữa. Về kỹ thuật thơ, ông như một vị tướng tài, chỉ huy đại quân trong một trận
đánh lớn và đã thành công về nhiều mặt. Tuy nhiên, do tầm nhìn chưa thấu đáo ở
tứ thơ và đoạn kết gượng gạo, thiếu thuyết phục nên tôi đã không xếp NTXTQ vào
vị trí đầu bảng của 3 bài thơ.
Và bảng xếp hạng sau cùng sẽ là: Cả Ba Đồng Hạng Nhất.Phạm Đức Nhì
Blog: phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
2/
Trước khi vào nam (1975) dân miền bắc phải học tập để biết rằng những sự phát
triển và vẻ đẹp của Sài Gòn, của miền nam, những tiện nghi vật chất của người
dân chỉ là “phồn vinh giả tạo”
3/ Tên
khác của Sài Gòn được người ngoại quốc gọi một cách nể trọng.
5/ Từ ngày 15 đến ngày 21 tháng 11 năm 1975, Hội nghị Hiệp
thương chính trị thống nhất Tổ quốc đã được tổ chức tại Sài Gòn. Đồng chí Trường
Chinh - Trưởng đoàn Đại biểu miền Bắc và đồng chí Phạm Hùng - Trưởng đoàn
Đại biểu miền Nam thống nhất ký vào ngày 21 tháng 11 năm 1975. http://www.archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?itemid=432&listId=c2d480fb-e285-4961-b9cd-b018b58b22d0&ws=content
6/ Một nhạc sĩ cổ nhạc nổi tiếng, bị mù cả hai mắt ở Sài Gòn.
7/ https://hoangdaiduong.wordpress.com/2009/10/18/c%E1%BA%A3m-nghi-d%E1%BB%8Dc-th%C6%A1-t%E1%BA%A1-l%E1%BB%97i-v%E1%BB%9Bi-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-s%C6%A1n-c%E1%BB%A7a-d%E1%BB%97-trung-quan/
Thư Của Nhà Thơ Nguyễn Khôi
Theo thiển ý của NK thì Phạm Đức Nhì nên đổi lại đầu đề là : SO SÁNH 3 SIÊU PHẨM THƠ PHẢN BIỆN
Lý giải :
Ba bài đều HAY, đạt mức SIÊU PHẨM THƠ PHẢN BIỆN...
Trong 3 bài thì bài "Nhìn từ xa Tổ Quốc của Nguyễn Duy" là hay hơn cả, nó là "một tác phẩm lớn" có tác dụng thức tỉnh rất rộng và rất sâu đối với mọi tầng lớp người Việt Nam trong và ngoài nước (kiểu hãy mở mắt ra mà nhìn thực trạng Đất nước...) : ý mới, tứ lạ, hình tượng thơ sống động ,ngôn ngữ điêu luyện...Thi pháp Nguyễn Duy ở bài thơ này đã đạt đỉnh cao về "thơ hiện thực phê phán" có giá trị phúng dụ cao.
Bài "Bánh vẽ " của Chế lan Viên... qua lời bình của Phạm Đức Nhì đã bóc mẽ rất thật "chân tướng Chế lan Viên " : thông minh /tài - cơ hội- ác. Bài thơ là một sự phản tỉnh "huỵch toẹt" của Chế , nhưng vẫn "rất cơ hội" để phải khi đã chết rồi mới dám cho vợ công bố (kiểu để hạ cánh an toàn một cách chắc chắn đã...), Thơ khô, khó đọc, không hấp dẫn ...chỉ số ít người hiểu được "thâm ý" của Chế, nên tác dụng không rộng rãi...
Bài "Tạ Lỗi Trường Sơn" của "Nhà thơ Quê hương là chùm khế ngọt" khá HAY, đượm...tuy vậy nó chỉ như một cơn gió thoảng qua. ít người để ý.
Đôi lời thô thiển , cảm nghĩ...NK xin được bày tỏ, chia sẻ cùng Nhà thơ Phạm Đức Nhì...có điều gì bất cập, xin được lượng thứ.
Hà Nội 17-8-2016
Kính : Nguyễn Khôi
TRAO
ĐỔI VỚI ÔNG HÀ ĐỊNH VĂN
Lời
nói đầu: Thư Của Nhà Thơ Nguyễn Khôi
Thân
gửi : Nhà thơ Phạm Đức Nhì ,
Đây là một "Tiểu luận bình thơ" xưa nay chưa từng có ở Việt Nam (cả trong/ ngoài nước) kể từ khi nhóm Nhân Văn -Giai Phẩm "phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu" (1956). Có thể nói là lý lẽ rất sắc sảo, rất HAY, rất xác đáng và đích đáng, có tác dụng làm thức tỉnh những ai đã mấy chục năm qua chỉ quen thưởng thức một chiều (lề phải) về Thơ Tố Hữu , Chế Lan Viên (ở mảng Ngợi ca "Người thay đổi đời tôi/Người thay đổi Thơ Tôi", chứ chưa phải thời viết Di cảo , trước khi chết).
Đây là một "Tiểu luận bình thơ" xưa nay chưa từng có ở Việt Nam (cả trong/ ngoài nước) kể từ khi nhóm Nhân Văn -Giai Phẩm "phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu" (1956). Có thể nói là lý lẽ rất sắc sảo, rất HAY, rất xác đáng và đích đáng, có tác dụng làm thức tỉnh những ai đã mấy chục năm qua chỉ quen thưởng thức một chiều (lề phải) về Thơ Tố Hữu , Chế Lan Viên (ở mảng Ngợi ca "Người thay đổi đời tôi/Người thay đổi Thơ Tôi", chứ chưa phải thời viết Di cảo , trước khi chết).
Theo thiển ý của NK thì Phạm Đức Nhì nên đổi lại đầu đề là : SO SÁNH 3 SIÊU PHẨM THƠ PHẢN BIỆN
Lý giải :
- Phản kháng là nói trái lại, chống đối 1 chiều, quyết liệt nhưng
chưa chắc đã có tính thuyết phục.
- Phản biện, tuy cũng là nói trái lại, nhưng là nói có lý lẽ, phân tích phải/ trái, đúng sai... của "người cùng đội ngũ / lề phải" (không thuộc phe lề trái / phản động) nhằm "giải mê", làm thức tỉnh đồng chí/ đồng bào thấy được "sự thật" (bản chất của chế độ xã hội/ thời thế mà họ đang sống).
- Phản biện, tuy cũng là nói trái lại, nhưng là nói có lý lẽ, phân tích phải/ trái, đúng sai... của "người cùng đội ngũ / lề phải" (không thuộc phe lề trái / phản động) nhằm "giải mê", làm thức tỉnh đồng chí/ đồng bào thấy được "sự thật" (bản chất của chế độ xã hội/ thời thế mà họ đang sống).
Ba bài đều HAY, đạt mức SIÊU PHẨM THƠ PHẢN BIỆN...
Trong 3 bài thì bài "Nhìn từ xa Tổ Quốc của Nguyễn Duy" là hay hơn cả, nó là "một tác phẩm lớn" có tác dụng thức tỉnh rất rộng và rất sâu đối với mọi tầng lớp người Việt Nam trong và ngoài nước (kiểu hãy mở mắt ra mà nhìn thực trạng Đất nước...) : ý mới, tứ lạ, hình tượng thơ sống động ,ngôn ngữ điêu luyện...Thi pháp Nguyễn Duy ở bài thơ này đã đạt đỉnh cao về "thơ hiện thực phê phán" có giá trị phúng dụ cao.
Bài "Bánh vẽ " của Chế lan Viên... qua lời bình của Phạm Đức Nhì đã bóc mẽ rất thật "chân tướng Chế lan Viên " : thông minh /tài - cơ hội- ác. Bài thơ là một sự phản tỉnh "huỵch toẹt" của Chế , nhưng vẫn "rất cơ hội" để phải khi đã chết rồi mới dám cho vợ công bố (kiểu để hạ cánh an toàn một cách chắc chắn đã...), Thơ khô, khó đọc, không hấp dẫn ...chỉ số ít người hiểu được "thâm ý" của Chế, nên tác dụng không rộng rãi...
Bài "Tạ Lỗi Trường Sơn" của "Nhà thơ Quê hương là chùm khế ngọt" khá HAY, đượm...tuy vậy nó chỉ như một cơn gió thoảng qua. ít người để ý.
Đôi lời thô thiển , cảm nghĩ...NK xin được bày tỏ, chia sẻ cùng Nhà thơ Phạm Đức Nhì...có điều gì bất cập, xin được lượng thứ.
Hà Nội 17-8-2016
Kính : Nguyễn Khôi
Trong thời gian viết lời bình cho Ba Bài Thơ Phản Kháng tôi có trao đổi emails với một độc giả là ông Hà Định Văn. Sau khi 3 bài viết hoàn thành, đọc lại emails thấy những điều chúng tôi trao đổi có liên quan đến Thơ, đặc biệt là bài Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy nên theo tôi, có thể xem là một cuộc đối thoại văn học nho nhỏ. Được sự đồng ý của ông Hà Định Văn xin được chia sẻ với bạn đọc để rộng đường dư luận.(Phần in đậm là theo ý của ông Hà Định Văn)
Kính gửi Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì.
Thưa ông, tôi một người đã khá lớn tuổi (U 60) quê gốc
Việt Trì – Phú Thọ hiện đang sống ở Cam Ranh – Khánh Hòa. Lâu nay, tôi vẫn thường
đọc các bài phê bình của ông trên các trang mạng. Những bài viết của ông dù ngắn
hay dài đều giúp tôi có thêm những nhận thức mới về giá trị đích thực của một
tác phẩm văn học. Vì vậy, nếu có thể và không có gì phiền, tôi rất mong được
ông gửi cho tôi theo địa chỉ email này, tuyển tập những bài lý luận, phê bình của
ông về văn học trong nước, hải ngoại và quốc tế. Xin trân trọng cảm ơn ông.
Kính chúc ông những ngày cuối tuần có nhiều niềm vui.
Kính thư.
Hà Định Văn.
Thưa ông Hà Định Văn,
Cám ơn ông đã quan tâm đến những bài viết của tôi.
Tôi bình thơ với mục đích đem kiến thức và khả năng cảm nhận thơ ca của mình truyền
cho lớp trẻ VN. Mỗi bài bình thơ, dù ngắn hay dài, đều chứa một "điểm gì
đó" giúp người đọc nâng cao trình độ của mình khi thưởng thức thơ hoặc làm
thơ. Ông nhận ra điều đó tức là công việc của tôi đã phần nào thành công.
Tôi mới lập một trang web chuyên về bình thơ phamnhibinhtho.blogspot.com
Một số kha khá những bài bình thơ của tôi được đăng ở
đó. Trang web tổ chức còn luộm thuộm vì tôi bận tra cứu viết bài. Mời ông Hà Định
Văn vào thăm.
Phạm Đức Nhì
3/
Thưa ông Phạm
Đức Nhì,
Tối qua tôi đã vào được trang Web của ông, lần lượt
đọc tất cả các bài, và tôi rất thích. Tôi thấy thật tiếc là bây giờ tôi mới được
biết và được đọc những bài lý luận phê bình sắc sảo, khách quan, kiến thức sâu
rộng, ý tứ uyên thâm của ông. Ở trong nước tôi chỉ đọc các ông : Lại Nguyên Ân;
Hoàng Ngọc Hiến; Đặng Văn Sinh; Nguyễn Chính; Phạm Xuân Nguyên và một vài người
khác thôi. Sau 1975 được đọc các tác phẩm văn học (thơ, văn...) của các tác giả
phía Nam, tôi mới thấy những điều tôi đọc trước đây đúng
là thứ văn nghệ nô bộc, cùng đám văn nô, bồi bút của đám "cuốc doanh"
thật là thảm hại. Một lần nữa xin được cảm ơn ông. Tôi sẽ thường xuyên vào
trang Web của ông để học hỏi.
Kính chào ông.
Hà Định Văn.
4/
Chào
ông Hà Định Văn, Cám ơn ông đã có thiện cảm với cách viết của tôi. Tôi bình thơ không hoa mỹ, đao to búa lớn như những nhà phê bình "lớn" khác. Đối tượng tôi hướng đến là lớp trẻ Việt Nam. Tôi thực hiện trang web cũng là hướng đến họ. Tôi cũng làm thơ nên cũng đem kinh nghiệm của mình vào phê bình.
Những
Tiêu Chí để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ tôi tổng hợp từ các trang
web văn học ở VN và hải ngoại. Thêm vào đó tôi có một nhóm "thầy và bạn
văn chương" người Mỹ giúp ý kiến nên những bài bình của tôi có thể chưa
Hay nhưng không đến nỗi sai lạc. Mà nếu có sai lạc tôi sẽ nhận lỗi và sửa chữa.
Chúc
ông vui khỏe
Phạm
Đức Nhì
Thưa
Nhà thơ, Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì.
Hôm
nay vào Blog Phamducnhi đọc bài phê bình của ông “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Nỗi
Đau Quặn Thắt Của Một Người Việt Yêu Nước”, tôi thấy hay quá. Hồi đầu năm nay,
tôi đã đọc trên trang Vanviet bài của Chu Văn Sơn (1) bình bài thơ này, tôi đã
lập tức gửi cho BBT của VanViet mấy dòng như sau :
Kg
BBT.
Xin
trân trọng cảm ơn BBT đã đưa toàn bài thơ “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” và cả đoạn
băng Nhà thơ Nguyễn Duy trực tiếp đọc bài thơ này của mình. Lâu nay tôi vào
trang VanViet đọc các trang mà tôi yêu thích: thơ, truyện ngắn, lý luận phê
bình, với tâm thế các tác phẩm được BBT sử dụng phải khác hẳn với những tác phẩm
từng được đưa trên các báo, tạp chí v.v… của Hội nhà văn VN. Vì vậy, với tinh
thần nói thẳng, nói thật, rất mong được BBT chuyển một ý kiến ngắn sau của tôi
đến tác giả Chu Văn Sơn.
Thưa
ông Chu Văn Sơn. Tôi, thuộc thế hệ bạn đọc được “hưởng thụ” hầu như gần hết đời
dòng văn học gọi là “cách mạng VN”. Thế hệ tôi, thế hệ sau chúng tôi, rồi cả thế
hệ người đọc tiếp sau nữa đã bị đầu độc bời dòng văn học đó. Và, trong cái sự đầu
độc khốn nạn này có sự đóng góp phải nói là rất tích cực bởi những nhà lý luận
phê bình bồi bút, nô bộc hướng thượng như: Phan Cự Đệ; Hà Minh Đức, v.v… Những
năm gần đây còn có cả loại bút nô cơ hội, như Nguyễn Hòa, Chu Giang, Nguyễn Văn Lưu, Đông La… nữa. Chính họ, đã góp
phần làm hỏng cả một nền văn học.
Sau
khi đọc rất kỹ bài “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng” của
ông, tôi đã có ý kiến gửi BBT như sau : “Tôi rất yêu thơ Nguyễn Duy. Tôi đã
có hẳn một sưu tập những bài thơ tôi thích nhất của nhà thơ này. Hôm nay vào
VanViet , thấy có bài phê bình của tác giả Chu Văn Sơn là tôi đọc ngay. Nhưng
thật tiếc, bài viết quá dài mà chỉ toàn chữ nghĩa "nhà trường" thôi,
nên tác giả đã "bình" không ra cái "nhân", cái "cốt"
của bài thơ. Tôi cố đọc, mong có được một đoạn bình "trúng", nhưng đã
thất vọng. Tác giả lấy cái tựa là: "NHÌN TỪ XA… TỔ QUỐC - TIẾNG THƠ QUẰN
QUẠI BI HÙNG", nhưng lại vòng vo chữ nghĩa, nên người đọc như tôi không bị
thuyết phục bởi hiệu ứng từ bài phê bình. Trong khi tôi đọc riêng cả bài thơ
thì cảm nhận có được từ tư duy, ngôn ngữ và thông điệp của bài thơ thật khác với
bài phê bình”.
Thưa
ông Chu Văn Sơn. Chắc ông cũng biết với một người phê bình có tài, có tâm thì
không thể có kiểu phê bình hời hợt, nửa vời, vô bổ như vậy. Tôi nghĩ, chắc chắn
“trường phái lý luận phê bình quan phương, hướng thượng kiểu Phan Cự Đệ - Hà
Minh Đức” v.v… đã, đang và sẽ không thể còn có chỗ trong lòng thế hệ người đọc
hiện nay. Cách đây hơn ¼ thế kỷ, sự truy vấn trách nhiệm về căn nguyên, cội nguồn
cái ác, cái lưu manh, cái khốn nạn đã tàn phá nhân dân này, đất nước này của
bài thơ “ Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” , đến nay (2015) vẫn nóng bỏng tính thời sự. Đó
mới là cốt lõi của thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến người đọc. Bình không ra
cái thông điệp đó là thất bại của nhà phê bình đấy, thưa ông . Nhân ngày đầu
năm, có mấy lời mạo muội gửi tới ông.
Trân
trọng! Hà Định Văn.
Xin
cảm ơn ông Phạm Đức Nhì về bài phê bình sâu sắc rất thuyết phục này. Kính chúc
ông thật nhiều sức khỏe, ngày cuối tuần có nhiều niềm vui.
Kính
thư. Hà Định Văn.
Không biết đâu là Họ, đâu là Tên - nếu sai, mong lượng thứ.
Cám ơn ông đã đọc bài Bình Thơ mà tôi đã bỏ vào khá nhiêu công sức.
Tôi đã viết Lời Bình cho 3 bài thơ phản kháng. Đang viết một bài Tổng Hợp để So Sánh. Nếu ông không phản đối, có thê tôi sẽ trích một phần (hay toàn thể) thư ông vừa gởi cho tôi để đưa vào bài viết trên. Coi như đây là lời xin phép.
Nhân tiện gởi ông Lời Bình của 2 bài thơ phản kháng khác.
Chúc ông vui khỏe.
Phạm
Đức Nhì
Chiều
nay tôi đã đọc xong lần thứ hai chùm 3 bài phê bình của ông: Bánh Vẽ – Tạ Lỗi
Trường Sơn – Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc.
Thật
là quá hay, quá sâu sắc. Rất cảm ơn ông. Trong email trước, với tư cách một người
đọc, tôi có nêu một số ý kiến cá nhân về bài của ông Chu Văn Sơn bình bài thơ Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc trên VanViet, nếu thấy có
chút ít gì chia sẻ được cùng bạn đọc, ông cứ tùy nghi sử dụng.
Trân
trọng kính chào ông.
Kính
thư Hà Định Văn.
8/
Thưa
ông Hà Định Văn,
Bài
viết tổng hợp của tôi chưa xong nhưng tôi đã góp nhặt thư từ trao đổi của ông
và tôi thành một "bài" với cái tựa Trao Đổi Với Ông Hà Định Văn. Tôi
có bỏ một vài đoạn không cần thiết.
Tôi
gởi đến ông đọc thử. Nếu ông cho phép tôi sẽ phổ biến bài viết coi như một cuộc
đối thoại văn học nho nhỏ.
Mong
tin ông,
Phạm
Đức Nhì
9/
Nhà
Thơ , Nhà Phê Bình Phạm Đức Nhì kính mến.
Cảm
ơn ông đã gửi cho tôi đọc lại các ý kiến nhỏ mà chúng ta đã trao đổi và đã được
ông "góp nhặt" như ông nói là một cuộc "đối thoại văn học nho nhỏ".
Vâng! Xin ông cứ đưa lên trang Web để bạn đọc cùng tham khảo. Kính thư
Hà Định Văn.
dinhvan213@gmail.com
1/
Tiến Sĩ Văn Chương, tác giả bài viết Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại
Bi Hùng. Độc giả có thể đọc bài viết ấy qua link:
Hà Định
Văn.
Ý KIẾN BẠN ĐỌC VỀ BA BÀI THƠ PHẢN
KHÁNG
Kính gởi ông Phạm Đức Nhì,
Tôi đã đọc lời bình của ông cho
ba bài thơ “phản kháng”. Rất sâu sắc và thú vị. Tôi được biết ông là người miền
nam, và hình như vì thế, khi luận về “anh hùng, anh hèn” ông có vẻ nhẹ tay với
Đỗ Trung Quân và xử ép Chế Lan Viên. Bây giờ bình tâm suy nghĩ lại, ông có thấy
như thế không?
Không phải riêng tôi mà nhiều người
yêu thơ và có hiểu biết khá sâu sắc về thơ mà tôi biết, đều cho rằng NTXTQ hay
hơn hẳn TLTS và Bánh Vẽ. Có lẽ ông chưa “thấy” được cái hay của nó chăng?
Trân trọng kính chào ông,
Hoàng Ngọc Thưởng.
Huế/ Việt Nam
Trong 3 bài thơ tôi “tuyển chọn” đại
diện cho dòng thơ phản kháng thì – tùy “gu” thơ của mỗi người vị trí đầu bảng có
thể khác nhau. Nếu ông chỉ nói “Theo tôi (HNT), NTXTQ hay hơn hẳn TLTS và Bánh
Vẽ” thì tôi sẽ không có ý kiến gì vì đó là quyền của ông. Đàng này lý do ông đưa
ra để hỗ trợ cho sự chọn lựa ấy lại là “Không phải riêng tôi mà nhiều người yêu
thơ và có hiểu biết khá sâu sắc về thơ” đều nói như thế, thì với tôi, không đủ
sức thuyết phục. Lý do ấy quá yếu. Bởi có rất nhiều người yêu thích một bài thơ,
cho nó là hay, là “hết sẩy” đôi khi vì những lý do rất “ngoài thơ”, không liên
quan gì đến giá trị nghệ thuật của bài thơ cả. Tôi không biết ông (và những người
ông biết) dựa vào tiêu chí nào để đánh giá bài thơ này hay hơn hẳn bài thơ kia
nên đành chịu. Tuy nhiên, để tỏ lòng tôn trọng ý kiến của độc giả tôi xin phân
tích thêm một chút về quyết định bình chọn của mình.
Trong So Sánh Ba Bài Thơ Phản Kháng
tôi đã viết:
Nhưng khi muốn “chọn bài thơ hay nhất” tức
là muốn nói đến giá trị nghệ thuật – cái hay, cái dở - của những bài thơ được
so sánh nhà phê bình phải chặt hết dây mơ rễ má, cắt đứt mọi mối quan hệ để bài
thơ không còn bất cứ một chỗ nào dựa dẫm mà phải tự đứng trên đôi chân của nó.
Lúc ấy đởm lược của tác giả (anh
hùng hay “anh hèn”), yêu nước thương nòi hay chỉ là loại sâu dân mọt nước, tiếng
vang của bài thơ (ít người chú ý đến hay làm xôn xao dư luận của cả nước), chỗ
đứng trong văn học sử hay lịch sử (bài thơ có đại diện cho một giai đoạn lịch sử,
hay không) … đều phải bỏ qua một bên mà chỉ chú tâm đến mấy tiêu chí quan trọng
để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ là: Tứ
Thơ, Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ.
Kính gửi ông Phạm Đức Nhì,
Ông nghĩ sao về bài Nhìn Từ Xa …
Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng của nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn?
Một người yêu văn học
Trần Ngọc Ca
Nam Định
Chào
ông Trần Ngọc Ca,
NTXTQ
của Nguyễn Duy là một bài thơ … nặng ký. Trước khi viết lời bình tôi đã bỏ ra hơn
một thời gian khá lâu để tra cứu, tìm đọc tất cả những “lời qua tiếng lại” về bài
thơ, và dĩ nhiên, cũng đọc được bài bình của Tiến Sĩ Chu Văn Sơn.
Một số khá đông
người bình thơ (thơ tiếng Việt) thường chú trọng phần ngôn ngữ, ý tứ: lời đẹp,
chữ đắt, ý tứ hay. Họ phân tích tứ thơ của tác giả rồi dùng sự hiểu biết và cảm
nhận của riêng mình tán rộng ra. Bài viết của Tiến Sĩ Chu Văn Sơn theo tôi, thuộc
loại này. Đọc một số bài bình thơ như thế đôi lúc cũng gặp những điều thú vị nhưng
mục đích của bài bình là thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ – bài thơ hay
hoặc dở, hay dở ở chỗ nào - thường không được chú trọng đúng mức.
Trong những bài bình thơ, tôi dùng phương cách “tiếp cận toàn diện tác phẩm”.
Mặc dù nhiều khi không nói rõ ra, tôi dựa vào 3 tiêu chí chính để định giá trị
nghệ thuật một bài thơ: Tứ (Ý) Thơ, Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ. Trong 3 tiêu chí
chính này, có khi còn có nhiều tiêu chí “nhỏ” khác.
Thưa ông Trần Ngọc Ca,
Tôi chỉ nói qua về phương cách phê bình. Nhận định hay dở xin nhường cho
độc giả.
Ý KIẾN BẠN ĐỌC VỀ BA BÀI THƠ PHẢN
KHÁNG
Kính gởi ông Phạm Đức Nhì,
Tôi đã đọc lời bình của ông cho
ba bài thơ “phản kháng”. Rất sâu sắc và thú vị. Tôi được biết ông là người miền
nam, và hình như vì thế, khi luận về “anh hùng, anh hèn” ông có vẻ nhẹ tay với
Đỗ Trung Quân và xử ép Chế Lan Viên. Bây giờ bình tâm suy nghĩ lại, ông có thấy
như thế không?
Không phải riêng tôi mà nhiều người
yêu thơ và có hiểu biết khá sâu sắc về thơ mà tôi biết, đều cho rằng NTXTQ hay
hơn hẳn TLTS và Bánh Vẽ. Có lẽ ông chưa “thấy” được cái hay của nó chăng?
Trân trọng kính chào ông,
Hoàng Ngọc Thưởng.
Huế/ Việt Nam
Trong 3 bài thơ tôi “tuyển chọn” đại
diện cho dòng thơ phản kháng thì – tùy “gu” thơ của mỗi người vị trí đầu bảng có
thể khác nhau. Nếu ông chỉ nói “Theo tôi (HNT), NTXTQ hay hơn hẳn TLTS và Bánh
Vẽ” thì tôi sẽ không có ý kiến gì vì đó là quyền của ông. Đàng này lý do ông đưa
ra để hỗ trợ cho sự chọn lựa ấy lại là “Không phải riêng tôi mà nhiều người yêu
thơ và có hiểu biết khá sâu sắc về thơ” đều nói như thế, thì với tôi, không đủ
sức thuyết phục. Lý do ấy quá yếu. Bởi có rất nhiều người yêu thích một bài thơ,
cho nó là hay, là “hết sẩy” đôi khi vì những lý do rất “ngoài thơ”, không liên
quan gì đến giá trị nghệ thuật của bài thơ cả. Tôi không biết ông (và những người
ông biết) dựa vào tiêu chí nào để đánh giá bài thơ này hay hơn hẳn bài thơ kia
nên đành chịu. Tuy nhiên, để tỏ lòng tôn trọng ý kiến của độc giả tôi xin phân
tích thêm một chút về quyết định bình chọn của mình.
Trong So Sánh Ba Bài Thơ Phản Kháng
tôi đã viết:
Nhưng khi muốn “chọn bài thơ hay nhất” tức
là muốn nói đến giá trị nghệ thuật – cái hay, cái dở - của những bài thơ được
so sánh nhà phê bình phải chặt hết dây mơ rễ má, cắt đứt mọi mối quan hệ để bài
thơ không còn bất cứ một chỗ nào dựa dẫm mà phải tự đứng trên đôi chân của nó.
Lúc ấy đởm lược của tác giả (anh
hùng hay “anh hèn”), yêu nước thương nòi hay chỉ là loại sâu dân mọt nước, tiếng
vang của bài thơ (ít người chú ý đến hay làm xôn xao dư luận của cả nước), chỗ
đứng trong văn học sử hay lịch sử (bài thơ có đại diện cho một giai đoạn lịch sử,
hay không) … đều phải bỏ qua một bên mà chỉ chú tâm đến mấy tiêu chí quan trọng
để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ là: Tứ
Thơ, Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ.
Kính gửi ông Phạm Đức Nhì,
Ông nghĩ sao về bài Nhìn Từ Xa …
Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng của nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn?
Một người yêu văn học
Trần Ngọc Ca
Nam Định
Chào
ông Trần Ngọc Ca,
NTXTQ
của Nguyễn Duy là một bài thơ … nặng ký. Trước khi viết lời bình tôi đã bỏ ra hơn
một thời gian khá lâu để tra cứu, tìm đọc tất cả những “lời qua tiếng lại” về bài
thơ, và dĩ nhiên, cũng đọc được bài bình của Tiến Sĩ Chu Văn Sơn.
Một số khá đông
người bình thơ (thơ tiếng Việt) thường chú trọng phần ngôn ngữ, ý tứ: lời đẹp,
chữ đắt, ý tứ hay. Họ phân tích tứ thơ của tác giả rồi dùng sự hiểu biết và cảm
nhận của riêng mình tán rộng ra. Bài viết của Tiến Sĩ Chu Văn Sơn theo tôi, thuộc
loại này. Đọc một số bài bình thơ như thế đôi lúc cũng gặp những điều thú vị nhưng
mục đích của bài bình là thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ – bài thơ hay
hoặc dở, hay dở ở chỗ nào - thường không được chú trọng đúng mức.
Trong những bài bình thơ, tôi dùng phương cách “tiếp cận toàn diện tác phẩm”.
Mặc dù nhiều khi không nói rõ ra, tôi dựa vào 3 tiêu chí chính để định giá trị
nghệ thuật một bài thơ: Tứ (Ý) Thơ, Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ. Trong 3 tiêu chí
chính này, có khi còn có nhiều tiêu chí “nhỏ” khác.
Thưa ông Trần Ngọc Ca,
Tôi chỉ nói qua về phương cách phê bình. Nhận định hay dở xin nhường cho
độc giả.
Blog
phamnhibinhtho.blogspot.com