SO SÁNH BA BÀI THƠ PHẢN KHÁNG
(Ba bài thơ đó là Tạ
Lỗi Trường Sơn của Đỗ Trung Quân, Bánh Vẽ của Chế Lan Viên và Nhìn Từ Xa … Tổ
Quốc của Nguyễn Duy. Bài viết này có
nhắc lại một vài ý trong ba bài bình thơ)
KHÚC NHẠC DẠO ĐẦU
Đởm Lược Của Thi Sĩ
1/ Đỗ Trung Quân:
Nhiều người yêu thơ tỏ vẻ tiếc và có ý trách ĐTQ “quá cẩn thận”, đã nhét Tạ Lỗi
Trường Sơn vào “hộc tủ” quá lâu nên khi xuất hiện không còn nóng hổi
tính thời sự. Tôi hoàn toàn không đồng ý với kiểu trách móc đó.
Năm 1983 tôi đã ở chung
trại (cải tạo) với một thầy giáo trở thành tù chính trị - bị kết án 18 năm tù
vì đã sáng tác một bài thơ chỉ hơi “đụng chạm” đến chế độ. Trong không khí
chính trị như thế nếu ĐTQ phổ biến bài thơ thì hậu quả sẽ khó lường.
Với tôi, ĐTQ là dân miền
nam (Sài Gòn) mà dám viết bài thơ với nội dung “vượt lằn ranh” và với giọng
điệu “chửi thẳng mặt” “những người nhân danh Hà Nội” thì đã là có chút máu
liều. Thế rồi lại dám phổ biến bài thơ đó ở Việt Nam năm 2009 – lúc mình còn
đang sống nhăn – thì trong người anh chắc chắn máu cũng phải có thêm ít nhiều
“chất” dũng cảm. So với Chế Lan Viên thì lá gan của anh chắc phải nặng hơn vài
chục gram.
Tiếc là tứ thơ của anh chỉ bó hẹp
trong một số sự việc “ngang tai trái mắt” của những năm đầu đổi thay chế độ cho
nên sau 27 năm nó đã nguội, mất gần hết tính thời sự, chỉ như “nhắc lại chuyện
xưa cho biết người biết ta vậy thôi”.
2/
Nguyễn Duy:
Rất anh hùng. Biết đó là những vần
thơ đã vượt qua lằn ranh, “bước vào vòng cấm địa” của chế độ mà ông gọi là
những vần thơ tuẫn tiết - phổ biến là có thể tù đày hoặc mất mạng – nhưng vẫn
cứ “chơi”, và sẵn sàng chấp nhận hậu quả. Người đời kính trọng ông, yêu mến ông
vì tài thơ, vì lòng yêu nước, nhưng có lẽ còn kính trọng và yêu mến ông nhiều
hơn nữa vì đởm lược – thái độ anh hùng, hiên ngang bất khuất - của ông.
3/ Chế
Lan Viên:
Hèn nhát, thiếu sĩ khí. Đã nhận ra
sự hoang tưởng của CNXH ngay từ lúc đầu:
“Chưa cần cầm lên nếm
anh đã biết là bánh vẽ”
nhưng vẫn ngậm tăm, tiếp tay cho những người vẽ bánh lừa dối dân tộc. Viết dấm
dúi mấy bài thơ, đợi mấy năm sau khi chết mới cho phổ biến.
Ảnh Hưởng, Tiếng Vang Của Bài Thơ
1/ Tạ Lỗi
Trường Sơn
Hơi thơ nóng bỏng, hồn thơ lai
láng, nhưng khi bài thơ xuất hiện thì tứ thơ đã “nguội”, không còn tính thời
sự. Người yêu thơ tìm đọc TLTS là để thưởng thức tài thơ của ĐTQ và để “biết
người biết ta”. Sau 27 năm nằm trong hộc tủ bài thơ đã mất rất nhiều sức hấp
dẫn lẽ ra phải có nếu xuất hiện “đúng thời vụ”.
2/ Nhìn Từ Xa … Tổ
Quốc
Khi báo Sông Hương bị đình bản để
kiểm điểm, thi sĩ như cá nằm trên thớt, nhà bị công an theo dõi rình mò (1)
nhưng người dân thì hả lòng, hả dạ. Họ đã thấy, đã trải nghiệm, đã chịu đựng
những căn bệnh quái ác của chế độ, của đất nước từ rất lâu nhưng vì sợ cho bản
thân và gia đình, không dám nói ra thì bỗng nhiên tất cả những điều ấm ức ấy
được tuyên bố một cách long trọng bằng một bài thơ … nặng ký, đầy tính
nghệ thuật. Sự xuất hiện của Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc do đó, rất đúng lúc, tính
thời sự nóng hổi, trở thành một sự kiện văn học lớn, làm xôn xao dư luận trong
nước cả bắc lẫn nam.
3/ Bánh Vẽ
Bài thơ đã bôi bác, phỉ nhổ
chế độ một cách cay độc, lời lẽ nhẹ nhàng nhưng ý tứ, nội dung của câu chửi
“nặng đến nghìn cân”, độ phủ sóng của tứ thơ rất rộng, bao trùm mọi mặt của chế
độ, của xã hội. Cộng với vị trí của ông trong chính quyền, làm công việc lãnh
đạo tinh thần, tư tưởng nên câu chửi có căn cớ, gốc rễ, có độ khả tín cực cao, chế
độ không còn đường nào biện minh, chối cãi. Bài thơ làm tan rã (hoặc lung lay)
nền tảng lý tưởng của ngay cả những người cộng sản lâu năm.
Được Mất Của Thi Sĩ Khi
Trình Làng Bài Thơ
1/ Đỗ
Trung Quân:
Đưa đội quân chữ nghĩa của mình
vào thử lửa trong một trận đánh lớn và đã thành công ở mặt tài thơ. Do tầm nhìn
chưa thấu đáo ở tứ thơ cộng thêm bài thơ bị “ngâm tôm” quá lâu nên ảnh hưởng về
mặt chính trị và xã hội giới hạn.
2/ Nguyễn Duy:
Qua NTXTQ đã biểu lộ một
tấm lòng yêu nước sắt son, một đởm lược phi thường (rất anh hùng), một tài thơ
trác tuyệt – đã thành công khi đưa các con chữ của mình vào một trận đánh lớn
(hơn cả ĐTQ). Uy tín của Nguyễn Duy đã lên rất cao ở cả 2 mặt tài thơ và nhân
cách.
3/ Chế Lan Viên:
Qua Bánh Vẽ CLV đã biểu lộ
một tầm nhìn xa và sâu sắc (về mặt chính trị) một tài thơ điêu luyện, kỹ thuật
thơ hoàn hảo. Nhưng qua đó cũng lộ ra một nhân cách kém cỏi: ham hố chức vị,
quyền lợi vật chất, tâm địa gian ác, kẻ sĩ cầm bút mà rất hèn, đã tích cực tham
gia Vẽ Bánh để lừa cả dân tộc.
CHỌN BÀI THƠ HAY NHẤT
Trong một bài bình thơ,
sau khi phân tích và đưa ra nhận định về giá trị nghệ thuật của bài thơ, nhà
phê bình thường bàn thêm về mối tương quan giữa tác giả, tác phẩm và bối cảnh
lịch sử xã hội để biết vị trí, tầm quan trọng của tác phẩm trong dòng vận động
của văn học, văn học sử, lịch sử của đất nước và - nếu là tác phẩm lớn - của cả
nhân loại.
Nhưng khi muốn “chọn bài
thơ hay nhất” tức là muốn nói đến giá trị nghệ thuật – cái hay, cái dở - của
những bài thơ được so sánh nhà phê bình phải chặt hết dây mơ rễ má, cắt đứt mọi
mối quan hệ để bài thơ không còn bất cứ một chỗ nào dựa dẫm mà phải tự đứng
trên đôi chân của nó.
Lúc ấy đởm lược của tác giả (anh
hùng hay “anh hèn”), yêu nước thương nòi hay chỉ là loại sâu dân mọt nước,
tiếng vang của bài thơ (ít người chú ý đến hay làm xôn xao dư luận của cả
nước), chỗ đứng trong văn học sử hay lịch sử (bài thơ có đại diện cho một giai
đoạn lịch sử, hay không) … đều phải bỏ qua một bên mà chỉ chú tâm đến mấy tiêu
chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ là: Tứ Thơ,
Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ.
Bình chọn chỉ dựa theo
những tiêu chí này thì bài thơ được lợi nhất là Bánh Vẽ của Chế Lan Viên. Những
điểm tệ hại trong nhân cách của nhà thơ như Hèn, Gian Ác, Sâu Dân Mọt Nước - lẽ
ra sẽ bị điểm rất xấu - đều không được nhắc đến.
Kế đến là TLTS của ĐTQ.
Khuyết điểm “tứ thơ đã mất hẳn tính thời sự” - lẽ ra sẽ bị trừ điểm – thì lại
được cho qua.
Và bài thơ chịu thiệt thòi
nhất là Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy. Đởm lược anh hùng, lòng yêu nước
sắt son của nhà thơ, nhận được rất nhiều thiện cảm của nhà phê bình, của người
đọc - lẽ ra sẽ được thêm điểm – thì lại phải vứt qua một bên.
Và bây giờ tôi sẽ thực hiện công
việc mà tiêu đề của bài viết đã đưa ra là so sánh giá trị nghệ thuật của 3 bài
thơ.
Ý, Tứ Thơ
1/
Tạ Lỗi Trường Sơn:
a/ Đối tượng: Những người nhân danh Hà Nội – dân bắc kỳ 75
b/ Những
điều chê trách:
- Ham
hố, tìm kiếm những tiện nghi vật chất, những cái xấu của Sài Gòn (miền nam) mà
chính miệng mình đã lên tiếng miệt thị, chửi rủa
- cố
bám trụ ở nam, không về bắc, quê hương xứ sở của mình.
Về điều chê trách thứ
nhất, ĐTQ chê không đúng đối tượng. Những kẻ “đẻ” ra những lời lẽ, giọng điệu
miệt thị dân nam là đám chóp bu Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng và đám cán bộ
(Văn Hóa, Báo Chí) cấp trung bị bắt buộc phải nói như thế, chứ hầu hết bộ đội
(và sau này là gia đình họ) chắc là mặt cũng không đủ dầy để nói những lời như
vậy trước mặt dân Sài Gòn. Hơn nữa, ăn ngon mặc đẹp, sống đầy đủ tiện nghi vật
chất là ước mơ thiết thực của con người. Dân bắc lúc ấy có “mê mồi” tìm kiếm
những thứ ấy cũng là lẽ thường, không đáng để bị khinh khi.
Về điều chê trách thứ hai, ở miền
bắc đất hẹp người đông, người khôn của khó lại phải trải qua hơn 20 năm dưới
chế độ kém phát triển về kinh tế nên đời sống của người dân cơ cực. Vào
nam thấy thoải mái, dễ sống - đất lành chim đậu - họ muốn ở lại cũng
là điều dễ hiểu.
May mắn là nhờ đọc “giữa
hai hàng kẻ” độc giả đã hiểu được 2 điều mà đám chóp bu Hà Nội ra sức giấu giếm:
Một là, những cái “ưu việt” của chế độ và con người XHCH chỉ là phét lác. Dân
miền bắc ngạc nhiên đến choáng ngợp (2) trước sức phát triển và vẻ đẹp của “Hòn
Ngọc Viễn Đông” (3) và các thành phố lớn ở miền nam. Mức sống của dân miền nam
lúc đó khá cao - đặc biệt là thực phẩm và tiện nghi vật chất - đã vượt xa mức
sống của người dân miền bắc. Hai là, chính quyền đã có hẳn một chính sách đẩy dân
miền nam đi vùng kinh tế mới để đưa dân miền bắc vào “chiếm” những “điểm then
chốt” trong những thành phố lớn - đặc biệt là Sài
Gòn.
2/
Nhìn Từ Xa Tổ Quốc
ĐTQ khi viết TLTS (1982)
mới chỉ biết “những người nhân danh Hà Nội” có 7 năm - thời gian chưa đủ để
những hậu quả to lớn và lâu dài của chế độ XHCH hằn rõ nét trên mặt những con
người miền nam yêu dấu của anh.
Nguyễn Duy đã biết và sống
với XHCN có thể nói gần cả cuộc đời, và trong chừng mực nào đó – chính ông cũng
là một trong “những người nhân danh Hà Nội”. Khác biệt ở chỗ ông hết lòng yêu
nước và dũng cảm dám nói lên sự thật.
Ông nói đến nhiều vấn nạn
to lớn của đất nước. Sau đây là vài thí dụ:
- tính
vô thần của chế độ:
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
- độc
tài:
tất cả trôi xuôi - cấm lội
ngược dòng
Nhà phê bình Chu Văn Sơn, Tiến Sĩ
Văn Chương của chế độ đã than vãn “Rồi yêu nước cũng phải có chỉ đạo nữa. Có
phải thế không mà lòng yêu nước, nỗi đau đời lắm khi cứ phải nói chui như một
thứ hàng lậu. Thiện chí bị nghi ngờ, thiện tâm bị cảnh giác. Lời tâm huyết bị
kiểm duyệt, cắt xén sao cho hợp những cái khuôn cấm kỵ, lọt được những lỗ tai
đông đặc nghi kỵ. (4)
-
và thối nát:
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
- Một xã hội băng
hoại, một dân tộc không còn nhân phẩm
Xứ sở
từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
- Và
chẳng thể hy vọng gì ở thế hệ mai sau:
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Ông hơn hẳn ĐTQ là đã chỉ
ra mấy nguyên nhân, mà theo ông, đã gây ra những chứng bệnh quái ác kia:
a/ miếng quá độ
nuốt vội vàng sống sít
Áp đặt quá hấp tấp “bước
quá độ” của CNXH vào hoàn cảnh đất nước Việt Nam trong khi cơ sở vật chất còn
chưa đủ lớn, đủ vững. Tôi suy ra rằng lúc ấy ông vẫn tin ở Chủ Nghĩa Cộng Sản
nhưng trách những người lãnh đạo không đủ kiên nhẫn chờ đợi thời cơ chín mùi,
thích hợp.
b/ mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
Tự hào vô lối, vô căn cứ
đến độ “bội thực”, cả nước vỗ ngực ngợi ca mình, ngợi ca đảng, ngợi ca chế độ,
ngợi ca nhau đến mức “ngộ độc ca ngợi”.
Trên lừa dưới, dưới lừa
trên, cả nước lừa nhau để được sống “an lành”. Cụm từ “sự thật hôn mê” được
dùng rất chính xác, rất đắt.
Ông không nhận ra được
rằng, thật ra, bội thực tự hào, ngộ độc ca ngợi và sự thật hôn mê chính
là con đẻ của CNXH – dù áp dụng ngay những năm 50s hay chờ đế mấy thập kỷ sau
cũng thế thôi.
Nguyễn Duy viết NTXTQ với
tâm thế của bên thắng cuộc (con cưng của chế độ, được đi du học ở Nga, đầu tàu
của phong trào Xã Hội Chủ Nghĩa) nhưng ông - đã rất khéo - nhân danh một con
dân VN yêu nước, nói tiếng nói chung cho cả dân tộc, tầm nhìn xa hơn, nhắm đến
khối độc giả đông đảo hơn.
Thêm vào đó, những vấn nạn
ông đưa ra to lớn, nghiêm trọng hơn, “nỗi đau” của ông sâu nặng hơn, nhân bản
hơn, lời trách móc của ông nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc hơn. Mỗi vấn nạn ông
trình bày trước mắt độc giả - bằng thứ ngôn ngữ và hình tượng đặc biệt cộng với
cảm xúc nóng bỏng trong tâm hồn – là một đoạn thơ trác tuyệt, vừa cụ thể, rõ
ràng, sinh động vừa đầy tính nghệ thuật.
Có thể nói mỗi vấn nạn là
một yếu huyệt của cơ chế XHCN và ông đã đâm vào rất nhiều yếu huyệt như thế của
chế độ nhưng – vì còn quá nhiều ràng buộc – ông không thể từ bỏ vị
thế của mình. Người đọc đã từng có ít nhiều kinh nghiệm với chế độ rất dễ dàng
thông cảm với ông. Tuy nhiên chính vì thế về phương diện tứ thơ, NTXTQ của ông
phải đứng sau Bánh Vẽ của CLV một khoảng ngắn.
3/ Bánh Vẽ
Bài thơ có ý tứ sâu sắc là
Bánh Vẽ của CLV. Tác giả chính là một trong “những người nhân danh
Hà Nội” và đã thấy cội nguồn của vấn đề từ rất sớm.
Nguyên nhân những vấn nạn
của tổ quốc, theo ông, là việc áp đặt chế độ XHCN tên toàn cõi Việt Nam. Thiên
đường mà cả dân tộc đang hướng đến chỉ là Bánh Vẽ. Và người đọc hiểu ngay cách
chữa trị mà ông ngụ ý trong bài thơ: muốn không phải ăn Bánh Vẽ thì làm Bánh
Thiệt mà ăn. Với ý tứ như thế Bánh Vẽ của CLV sẽ còn là cái gai, là một đối lực
to lớn cho khối cán bộ làm công tác văn hóa tư tưởng và là mối đe dọa rất nặng
nề, rất thật cho sự sống còn của chế
độ.
Xếp Hạng Tứ Thơ
Trong 3 bài thơ phản kháng
– nêu lên những vấn nạn của tổ quốc, dân tộc do hậu quả của việc áp đặt chế độ
XHCN trên toàn cõi Viết Nam, xét về ý tứ, thì TLTS của ĐTQ yếu kém nhất. Những
hiện tượng xã hội mà anh nêu lên để chửi vỗ mặt “những người nhân danh Hà Nội”
thật ra chỉ là những cảnh đời ngang tai trái mắt của một giai đoạn chuyển tiếp
- hậu quả của việc thay đổi chế độ từ dân chủ tự do sang độc tài chuyên chế.
Những hiện tượng ấy sẽ dần dần đi vào lãng quên với bộn bề khó khăn của
cuộc sống mới, không đáng gọi là vấn nạn của dân tộc.
Kế đến là NTXTQ của Nguyễn Duy.
Ông đã chỉ ra được những vấn nạn lớn, chính yếu của chế độ nhưng nói đến nguyên
nhân thì “cái thấy” của ông còn mù mờ cho nên khi bàn đến phương cách chữa trị
thì ông ú ớ “biết thế nhưng mà biết làm thế nào”.
Bài thơ có ý tứ xuất sắc
nhất là Bánh Vẽ của CLV. Ông đã thấy hết ngay từ đầu và qua bài thơ đã trình
bày rất chính xác, rõ ràng và đầy nghệ thuật nguyên nhân và cách chữa trị những
vấn nạn to lớn của đất nước. Phép ẩn dụ hoàn hảo đã tạo thêm nét duyên dáng cho
tứ thơ vô cùng sâu sắc của ông.
Xếp hạng:
Hạng nhất: Bánh Vẽ.
Hạng nhì: Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc.
Hạng ba: Tạ Lỗi Trường Sơn.
Kỹ Thuật Thơ
1/ Bánh Vẽ
Chế Lan Viên là một thi sĩ bậc
thầy về kỹ thuật thơ nên Bánh Vẽ có hình thức gần như tối ưu, ngôn ngữ chắt
lọc, hình tượng dễ cảm, ẩn dụ sắc sảo được thể hiện một cách hoàn hảo, thơ đầy
chất trí tuệ
a/
Số câu không giới hạn.
b/ Số chữ
trong câu tùy tiện.
c/ Vần: không quá nhạt, không quá ngọt, thoang thoảng rất vừa độ. Dòng chảy của
thơ lững lờ, êm ả, thích hợp với tâm trạng buồn, cay đắng.
d/ Kỹ thuật thơ hoàn hảo
e/
Kết thúc không độc đáo, ấn tượng nhưng hợp lý, không lộ vẻ yếu kém.
f/ Bài thơ có 91 chữ - tương đối ngắn so với hai bài kia – nên việc chỉ huy đội
quân chữ nghĩa dễ dàng hơn. Với tôi, đây là một chi tiết quan trọng để cân
nhắc, xếp hạng Kỹ Thuật Thơ.
2/ Tạ Lỗi Trường Sơn
a/ Số câu không giới hạn. Viết cho đến khi hết hứng, hết ý thì thôi. Theo cách
đếm câu của PĐN thì bài thơ dài xấp xỉ 100 câu.
b/
Số chữ trong câu: Câu ngắn nhất 2 chữ, câu dài nhất 18 chữ (Các anh cũng chạy
bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...) còn lại thì tùy
hứng, không tuân theo một luật lệ nào.
c/
Vần: Vần liên tiếp khá đều đặn nhưng nhờ số chữ trong câu thay đổi tùy tiện,
thỉnh thoảng tác giả lại chuyển đoạn thay vần nên độ ngọt vừa phải, không có
hội chứng nhàm chán vần mà dòng thơ vẫn chảy trơn tru, nhiều đoạn dòng chảy rất
xiết.
d/
Kết thúc Trật bàn đạp, không nhất quán với tứ thơ, “lãng nhách”.
e/ Bài thơ dài (795 chữ) có nghĩa là ĐTQ chỉ huy đội quân chữ nghĩa đông hơn -
gần gấp 9 lần Bánh Vẽ của CLV – trong một trận đánh lớn hơn, thế trận phức tạp
hơn mà chỉ đến câu cuối cùng mới phạm một lỗi (về tứ thơ) nên xét về Kỹ Thuật
Thơ thì – tuy chưa phải là toàn bích – TLTS nếu không ở phía trước thì cũng không
thể xếp sau Bánh Vẽ được.
3/ Nhìn Từ Xa Tổ Quốc
a/ Số câu không giới hạn. Viết hết hứng, hết ý thì thôi.
b/ Số chữ
trong câu tùy ý, tùy hứng, không có cảm giác bó buộc.
c/ Vần: vần liên tiếp kiểu Nhớ Rừng nhưng nhiều phá lệ khéo léo, hợp lý nên độ
ngọt của thơ vừa phải, không có hội chứng “nhàm chán vần”. Nhiều bảng Stop phát
sinh đo “đối thoại với cái bóng” khiến tốc độ, cường độ dòng chảy của tứ thơ
không có hiệu ứng “sóng sau dồn sóng trước” ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của hồn
thơ.
d/
Kết thúc: gượng, yếu, không thuyết phục.
e/ Là bài thơ dài nhất (1105 chữ) nên tài điều binh khiển tướng trong đội quân
chữ nghĩa của ND được đánh giá rất cao. Mặc dù NTXTQ có đến 2 khuyết điểm: một
là kết thúc gượng, yếu, hai là nhiều bảng Stop, nhưng xét về Kỹ Thuật Thơ, theo
tôi, ít nhất cũng phải xếp bài thơ ngang hảng với Bánh Vẽ và TLTS.
Xếp Hạng Kỹ Thuật Thơ
Đồng hạng nhất.
Cảm Xúc, Hơi Thơ, Hồn Thơ
1/ Tạ Lỗi Trường Sơn
Cảm xúc mạnh ngay từ tầng 1 – ngôn
ngữ hằn học, nóng bỏng, hình tượng sống động. Thế trận chữ nghĩa khá chặt chẽ,
vần liên tiếp nên tứ thơ tuôn chảy, cảm xúc ở tầng 2 mạnh. Đặc biệt là thi sĩ
viết trong cơn điên tiết, lửa giận phừng phừng nên hơi thơ (hơi nóng của cảm
xúc) tỏa ra rát bỏng, hồn thơ (thứ cảm xúc cao cấp nhất của thơ) tràn trề, lai
láng. Được nghe hoặc đọc bài thơ này rất “đã”. Theo tôi, TLTS đã thắng - một
cách rõ ràng - 2 bài thơ kia ở lãnh vực Hồn Thơ
2/ Nhìn Từ Xa Tổ Quốc
Cũng là người làm thơ, tôi có cảm
giác Nguyễn Duy đang lên cơn điên – điên vì quá đau thương, điên vì quá giận dữ.
Ông đã không đắn đo hơn thiệt, không biết sợ hãi, để mặc cho các con chữ tuôn
ra. Cảm xúc từ mỗi chữ, mỗi câu tỏa ra nóng hổi. Ý này nối tiếp ý kia, vấn nạn
sau nối tiếp vấn nạn trước, chảy xiết cứ như dòng sông vào mùa nước lũ.
Nhưng sao thật lạ! Ở những đoạn
sau, cảm xúc từ mỗi câu thơ vẫn nóng như lửa, cơn điên của tác giả hình như vẫn
chưa hạ, mà sao có một “cái gì đó”, một “lực nào đó” trì kéo lại, không cho tứ
thơ chuyển động nhanh như trước.
Tìm hiểu kỹ thì được biết chính
sáng kiến “đối thoại với cái bóng” đã làm dòng chảy của tứ thơ không thông, ảnh
hưởng đến sự lớn mạnh của hồn thơ. Cho nên, dù NTXTQ có hồn thơ khá mạnh, cũng
phải xếp sau TLTS về tiêu chí Hồn Thơ tuy độ khác biệt chỉ khoảng một 10 một 8.
3/ Bánh Vẽ
Có thể nói trong Bánh Vẽ chất trí
tuệ đặc biệt tỏa sáng. Trong tiến trình chế tạo bài thơ lý trí đóng vai trò chủ
đạo; tác giả đã rất tỉnh táo, suy nghĩ chín chắn trước khi phóng bút. Vì thế
bài thơ tuy thành công vượt bậc về kỹ thuật thơ - cảm xúc nội tại của bài thơ
(ở tầng 1 và tầng 2 rất mạnh) - lại thiếu cái mà dân đọc thơ sành điệu thích
nhất: hồn thơ. Bánh Vẽ đã thua rất xa hai bài thơ kia về tiêu chí Hồn Thơ.
Xếp hạng Hồn Thơ
Hạng
nhất: Tạ Lỗi Trường Sơn
Hạng Nhì: Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc
Hạng ba: Bánh Vẽ
XẾP HẠNG TỔNG KẾT
1/ Phẩm chất quý giá nhất của bài thơ, theo tôi, là Hồn Thơ.
Vì thế tôi đọc TLTS của
ĐTQ với rất nhiều hứng thú. Ngôn ngữ, hình tượng anh sử dụng trong thơ rất hợp
với vai trò của một tay thợ chửi chuyên nghiệp. Anh chửi hay quá! Nghe đã quá!
Tôi hình dung được khuôn mặt đang lên cơn điên của anh, cảm được nỗi bực tức
của anh, cảm được hơi nóng – không phải từ con chữ - mà từ một chỗ vô hình nào
đó trong bài thơ tỏa ra.
Và cái luồng hơi nóng đó
tuôn chảy thành dòng, càng về cuối bài thơ càng mạnh. Đó là cảm xúc ở tầng 3 -
thứ cảm xúc cao cấp nhất của thơ – mà người thưởng thức thơ từ kha khá đến sành
điệu sẽ cảm nhận được ngay. Đó chính là Hồn Thơ. Tôi đã định kéo bài thơ lên vị
trí đầu bảng nhưng câu kết của anh đã làm tôi chới với và cụt hứng.
Tôi chợt nghĩ đến đội bóng mà mình
yêu thích – có giàn cầu thủ rất hay cả về kỹ thuật cá nhân lẫn phối hợp toàn
đội. Các cầu thủ đá hoàn toàn ngẫu hứng, lên xuống rất nhịp nhàng. Lấy được
bóng từ tiền đạo đối phương dâng lên vượt qua hàng tiếp ứng và rồi rất nghệ
thuật, vượt qua từng cầu thủ của hàng hậu vệ để đối diện với thủ thành. Cả cầu
trường không một tiếng động; khán giả nín thở chời đợi. Rồi thủ thành cũng bị
lừa ra, bỏ trống cầu môn; khán giả đứng dậy chuẩn bị vỗ tay vang dội chào đón
bàn thắng của đội nhà.
Đúng lúc ấy thì tiền đạo đang có
bóng tung chân sút mạnh. Hình như anh không nhìn thấy cầu môn. Bóng vượt xà dọc
ra ngoài … rất xa. Câu kết của TLTS chính là cú sút dứt điểm – mà không nhìn
thấy cầu môn - của ĐTQ.
Sau cuộc họp thống nhất
đất nước cuối năm 1975 một thời gian (5) MTGPMN đã bị - thẳng thừng và công
khai - loại khỏi chính trường. Một số đông thấy mình bị phản bội đã ra mặt
chống lại. Tùy theo mức độ chống đối, kẻ bị thủ tiêu, người xộ khám Chí Hòa,
người bị quản thúc tại gia (đuổi gà cho vợ). Dân miền nam - đặc biệt là những
người ăn cơm Quốc Gia mà lòng dạ lại gởi hết cho Cộng Sản - lúc ấy đã sáng mắt.
Có người đã nghĩ ra một
câu nói đùa rất thâm thúy: “Văn Vỉ đang lái Honda chạy khắp Sài Gòn” (6). Một
người đọc TLTS đã viết cảm nhận: “Nhưng đọc hết bài, tiếc thay, Đỗ Trung
Quân năm ấy, chỉ sáng có một con mắt” (7). Theo tôi, dựa vào tứ thơ - đặc
biệt là câu kết – ĐTQ lúc viết bài thơ vẫn còn chưa sáng mắt.
Và thế là mặc dù hơi thơ nóng
bỏng, hồn thơ lai láng, kỹ thuật thơ điêu luyện, tôi vẫn gạt TLTS qua một bên.
Vị trí đầu bảng (của 3 bài thơ) vẫn còn bỏ trống.
2/ Qua Bánh Vẽ CLV tiết lộ là ông bìết XHCN chỉ là ảo tưởng ngay khi chấp nhận
cùng hội cùng thuyền với những người cộng sản. Bài thơ có kỹ thuật thơ hoàn
hảo, ẩn dụ tuyệt vời. Riêng ý tứ thì sâu sắc, biểu lộ một tầm nhìn hơn hẳn TLTS
và NTXTQ – không những chỉ ra cội nguồn của những vấn nạn mà còn gián tiếp nói
đến cách giải quyết vấn đề: “Muốn không phải ăn Bánh Vẽ thì làm Bánh Thiệt mà
ăn.”
Với những ưu điểm vượt trội như vậy Bánh Vẽ có
thể xếp ở vị trí đầu bảng được lắm chứ. Tuy nhiên, bài thơ có một khuyết điểm
lớn là được viết trong lúc quá tỉnh táo nên thiếu Chất Thơ, thiếu Hồn Thơ. Hơn
nữa, nó chỉ là một bài thơ “ngắn”, thế trận chữ nghĩa chỉ ở cấp “thấp” so với
tầm vóc của TLTS và NTXTQ. Chỉ huy một trận đánh chỉ có 91 binh sĩ chắc chắn dễ
dàng tránh sơ xuất hơn trận đánh có 795 (TLTS) hay 1105 (NTXTQ) binh sĩ tham
chiến. Chính vì thế tôi đã không chọn Bánh Vẽ và, vị trí đầu bảng trong 3 bài
thơ, một lần nữa, vẫn được bỏ trống.
3/ Về tứ thơ NTXTQ đã trình bày được - rất thật, rất sinh động - những vấn nạn
của tổ quốc. Nguyên nhân của chúng, theo ông là “miếng quá độ nuốt vội vàng
sống sít” và:
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
Ông chưa nhận ra rằng tất cả
những căn nguyên ông nêu lên ở trên đều do cơ chế XHCN mà ra cả. Ông viết NTXTQ
đang lúc cao hứng tột độ như người lên cơn điên nên cảm xúc ở cả 3 tầng đều
mạnh; ở vài đoạn đầu của phần Vấn Nạn hơi thơ nóng hổi.
Nhưng càng về sau do phân tâm “đối
thoại với cái bóng”, dòng cảm xúc bị ngăn lại bởi những bảng Stop nên Hồn Thơ
không có trớn để đạt tới tốc độ và cường độ lẽ ra còn cao hơn nữa. Về kỹ thuật
thơ, ông như một vị tướng tài, chỉ huy đại quân trong một trận đánh lớn và đã
thành công về nhiều mặt. Tuy nhiên, do tầm nhìn chưa thấu đáo ở tứ thơ và đoạn
kết gượng gạo, thiếu thuyết phục nên tôi đã không xếp NTXTQ vào vị trí đầu bảng
của 3 bài thơ.
Xếp Hạng Sau Cùng:
Cả Ba Đồng Hạng Nhất.
KẾT LUẬN
Kết quả bình chọn đã xong,
tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và bài viết lẽ ra đã kết thúc. Nhưng khi chuẩn bị ký
tên (ở cuối bài) rồi tắt computer đi ngủ đầu óc tôi cứ nghĩ đến cảnh tượng
Nguyễn Duy ngồi trong nhà phập phồng lo sợ khi thấy “người lạ” lảng vảng ở
trước sân mà thương cảm cho nhà thơ. Từ thương cảm đến nể phục cái anh hùng bất
khuất của kẻ sĩ. Và tôi lại nghĩ đến bài thơ của ông.
Lý trí của một người bình
thơ bắt tôi phải công tâm khi bình chọn và kết quả bình chọn đã minh bạch.
Nhưng trong lòng tôi – có khuôn mặt và vóc dáng của Nguyễn Duy - vị
trí của NTXTQ hình như cao hơn hai bài thơ kia một tý.
Tôi biết như thế là thiên
vị - là một tính xấu, nhưng biết làm thế nào được. Chỉ mong độc giả thông cảm
cho cái tính xấu này của tôi. Bởi vì Thơ và con người của Thi Sĩ đâu phải lúc
nào cũng rạch ròi tách biệt.
Phạm Đức Nhì
Blog: phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
1/ http://hatranghn.blogtiengviet.net/2013/05/15/bani_thai_nhann_tarl_xa_tar_quar_c_carsa
2/ Trước khi vào nam
(1975) dân miền bắc phải học tập để biết rằng những sự phát triển và vẻ đẹp của
Sài Gòn, của miền nam, những tiện nghi vật chất của người dân chỉ là “phồn vinh
giả tạo”
3/ Tên khác của Sài Gòn
được người ngoại quốc gọi một cách nể trọng.
4/ https://ngominhblog.wordpress.com/2015/02/26/nhin-tu-xa-to-quoc-tieng-tho-quan-quai-bi-hung/
5/ Từ ngày 15 đến
ngày 21 tháng 11 năm 1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc đã
được tổ chức tại Sài Gòn. Đồng chí Trường Chinh - Trưởng đoàn Đại biểu miền Bắc
và đồng chí Phạm Hùng - Trưởng đoàn Đại biểu miền Nam thống nhất ký vào
ngày 21 tháng 11 năm 1975. http://www.archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?itemid=432&listId=c2d480fb-e285-4961-b9cd-b018b58b22d0&ws=content
6/ Một nhạc sĩ cổ nhạc nổi tiếng,
bị mù cả hai mắt ở Sài Gòn.
TRAO ĐỔI VỚI ÔNG
HÀ ĐỊNH VĂN
Lời nói đầu:
Trong thời gian viết lời
bình cho Ba Bài Thơ Phản Kháng tôi có trao đổi emails với một độc giả là ông Hà
Định Văn. Sau khi 3 bài viết hoàn thành, đọc lại emails thấy những điều chúng
tôi trao đổi có liên quan đến Thơ, đặc biệt là bài Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của
Nguyễn Duy nên theo tôi, có thể xem là một cuộc đối thoại văn học nho nhỏ. Được
sự đồng ý của ông Hà Định Văn xin được chia sẻ với bạn đọc để rộng đường dư
luận.(Phần in đậm là theo ý của ông Hà Định Văn)
1/
Kính gửi Nhà Phê Bình Văn
Học Phạm Đức Nhì.
Thưa ông, tôi một người đã
khá lớn tuổi (U 60) quê gốc Việt Trì – Phú Thọ hiện đang sống ở Cam Ranh –
Khánh Hòa. Lâu nay, tôi vẫn thường đọc các bài phê bình của ông trên các trang
mạng. Những bài viết của ông dù ngắn hay dài đều giúp tôi có thêm những nhận
thức mới về giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Vì vậy, nếu có thể và
không có gì phiền, tôi rất mong được ông gửi cho tôi theo địa chỉ email này,
tuyển tập những bài lý luận, phê bình của ông về văn học trong nước, hải ngoại
và quốc tế. Xin trân trọng cảm ơn ông. Kính chúc ông những ngày cuối tuần có
nhiều niềm vui.
Kính thư.
Hà Định Văn.
2/
Thưa ông Hà Định Văn,
Cám ơn ông đã quan tâm đến
những bài viết của tôi. Tôi bình thơ với mục đích đem kiến thức và khả năng cảm
nhận thơ ca của mình truyền cho lớp trẻ VN. Mỗi bài bình thơ, dù ngắn hay dài,
đều chứa một "điểm gì đó" giúp người đọc nâng cao trình độ của mình
khi thưởng thức thơ hoặc làm thơ. Ông nhận ra điều đó tức là công việc của tôi
đã phần nào thành công.
Tôi mới lập một trang web
chuyên về bình thơ phamnhibinhtho.blogspot.com
Một số kha khá những bài
bình thơ của tôi được đăng ở đó. Trang web tổ chức còn luộm thuộm vì tôi bận
tra cứu viết bài. Mời ông Hà Định Văn vào thăm.
Phạm Đức Nhì
3/
Thưa ông Phạm Đức
Nhì,
Tối qua tôi đã vào được
trang Web của ông, lần lượt đọc tất cả các bài, và tôi rất thích. Tôi thấy thật
tiếc là bây giờ tôi mới được biết và được đọc những bài lý luận phê bình sắc
sảo, khách quan, kiến thức sâu rộng, ý tứ uyên thâm của ông. Ở trong nước tôi
chỉ đọc các ông : Lại Nguyên Ân; Hoàng Ngọc Hiến; Đặng Văn Sinh; Nguyễn Chính;
Phạm Xuân Nguyên và một vài người khác thôi. Sau 1975 được đọc các tác phẩm văn
học (thơ, văn...) của các tác giả phía Nam, tôi mới thấy những điều tôi đọc
trước đây đúng là thứ văn nghệ nô bộc, cùng đám văn nô, bồi bút của đám
"cuốc doanh" thật là thảm hại. Một lần nữa xin được cảm ơn ông. Tôi
sẽ thường xuyên vào trang Web của ông để học hỏi.
Kính chào ông.
Hà Định Văn.
4/
Chào ông Hà Định Văn,
Cám ơn ông đã có thiện cảm
với cách viết của tôi. Tôi bình thơ không hoa mỹ, đao to búa lớn như những nhà
phê bình "lớn" khác. Đối tượng tôi hướng đến là lớp trẻ Việt Nam. Tôi
thực hiện trang web cũng là hướng đến họ. Tôi cũng làm thơ nên cũng đem kinh
nghiệm của mình vào phê bình.
Những Tiêu Chí để thẩm
định giá trị nghệ thuật một bài thơ tôi tổng hợp từ các trang web văn học ở VN
và hải ngoại. Thêm vào đó tôi có một nhóm "thầy và bạn văn chương"
người Mỹ giúp ý kiến nên những bài bình của tôi có thể chưa Hay nhưng không đến
nỗi sai lạc. Mà nếu có sai lạc tôi sẽ nhận lỗi và sửa chữa.
Chúc ông vui khỏe
Phạm Đức Nhì
5/
Kính Gởi Nhà thơ, Nhà Phê
Bình Văn Học Phạm Đức Nhì,
Thưa Nhà thơ, Nhà Phê Bình
Văn Học Phạm Đức Nhì.
Hôm nay vào Blog
Phamducnhi đọc bài phê bình của ông “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Nỗi Đau Quặn Thắt
Của Một Người Việt Yêu Nước”, tôi thấy hay quá. Hồi đầu năm nay, tôi đã đọc
trên trang Vanviet bài của Chu Văn Sơn (1) bình bài thơ này, tôi đã lập tức gửi
cho BBT của VanViet mấy dòng như sau :
Kg BBT.
Xin trân trọng cảm ơn BBT
đã đưa toàn bài thơ “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” và cả đoạn băng Nhà thơ Nguyễn Duy
trực tiếp đọc bài thơ này của mình. Lâu nay tôi vào trang VanViet đọc các trang
mà tôi yêu thích: thơ, truyện ngắn, lý luận phê bình, với tâm thế các tác phẩm
được BBT sử dụng phải khác hẳn với những tác phẩm từng được đưa trên các báo,
tạp chí v.v… của Hội nhà văn VN. Vì vậy, với tinh thần nói thẳng, nói thật, rất
mong được BBT chuyển một ý kiến ngắn sau của tôi đến tác giả Chu Văn Sơn.
Thưa ông Chu Văn Sơn. Tôi,
thuộc thế hệ bạn đọc được “hưởng thụ” hầu như gần hết đời dòng văn học gọi là
“cách mạng VN”. Thế hệ tôi, thế hệ sau chúng tôi, rồi cả thế hệ người đọc tiếp
sau nữa đã bị đầu độc bời dòng văn học đó. Và, trong cái sự đầu độc khốn nạn
này có sự đóng góp phải nói là rất tích cực bởi những nhà lý luận phê bình bồi
bút, nô bộc hướng thượng như: Phan Cự Đệ; Hà Minh Đức, v.v… Những năm gần đây
còn có cả loại bút nô cơ hội, như Nguyễn Hòa, Chu Giang, Nguyễn Văn
Lưu, Đông La… nữa. Chính họ, đã góp phần làm hỏng cả một nền văn học.
Sau khi đọc rất kỹ bài
“Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng” của ông, tôi đã có ý kiến
gửi BBT như sau : “Tôi rất yêu thơ Nguyễn Duy. Tôi đã có hẳn một sưu
tập những bài thơ tôi thích nhất của nhà thơ này. Hôm nay vào VanViet , thấy có
bài phê bình của tác giả Chu Văn Sơn là tôi đọc ngay. Nhưng thật tiếc, bài viết
quá dài mà chỉ toàn chữ nghĩa "nhà trường" thôi, nên tác giả đã
"bình" không ra cái "nhân", cái "cốt" của bài
thơ. Tôi cố đọc, mong có được một đoạn bình "trúng", nhưng đã thất
vọng. Tác giả lấy cái tựa là: "NHÌN TỪ XA… TỔ QUỐC - TIẾNG THƠ QUẰN QUẠI
BI HÙNG", nhưng lại vòng vo chữ nghĩa, nên người đọc như tôi không bị
thuyết phục bởi hiệu ứng từ bài phê bình. Trong khi tôi đọc riêng cả bài thơ
thì cảm nhận có được từ tư duy, ngôn ngữ và thông điệp của bài thơ thật khác
với bài phê bình”.
Thưa ông Chu Văn Sơn. Chắc
ông cũng biết với một người phê bình có tài, có tâm thì không thể có kiểu phê
bình hời hợt, nửa vời, vô bổ như vậy. Tôi nghĩ, chắc chắn “trường phái lý luận
phê bình quan phương, hướng thượng kiểu Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức” v.v… đã, đang
và sẽ không thể còn có chỗ trong lòng thế hệ người đọc hiện nay. Cách đây hơn ¼
thế kỷ, sự truy vấn trách nhiệm về căn nguyên, cội nguồn cái ác, cái lưu manh,
cái khốn nạn đã tàn phá nhân dân này, đất nước này của bài thơ “ Nhìn Từ Xa …
Tổ Quốc” , đến nay (2015) vẫn nóng bỏng tính thời sự. Đó mới là cốt lõi của
thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến người đọc. Bình không ra cái thông điệp đó
là thất bại của nhà phê bình đấy, thưa ông . Nhân ngày đầu năm, có mấy lời mạo
muội gửi tới ông.
Trân trọng! Hà Định Văn.
Xin cảm ơn ông Phạm Đức
Nhì về bài phê bình sâu sắc rất thuyết phục này. Kính chúc ông thật nhiều sức
khỏe, ngày cuối tuần có nhiều niềm vui.
Kính thư. Hà Định Văn.
dinhvan213@gmail.com
6/
Chào ông Hà Định Văn
Không biết đâu là Họ, đâu
là Tên - nếu sai, mong lượng thứ.
Cám ơn ông đã đọc bài Bình
Thơ mà tôi đã bỏ vào khá nhiêu công sức.
Tôi đã viết Lời Bình cho 3
bài thơ phản kháng. Đang viết một bài Tổng Hợp để So Sánh. Nếu ông không phản
đối, có thê tôi sẽ trích một phần (hay toàn thể) thư ông vừa gởi cho tôi để đưa
vào bài viết trên. Coi như đây là lời xin phép.
Nhân tiện gởi ông Lời Bình
của 2 bài thơ phản kháng khác.
Chúc ông vui khỏe.
Phạm Đức Nhì
7/
Kg Nhà Thơ, Nhà Phê Bình
Văn Học Phạm Đức Nhì.
Chiều nay tôi đã đọc xong
lần thứ hai chùm 3 bài phê bình của ông: Bánh Vẽ – Tạ Lỗi Trường Sơn – Nhìn Từ
Xa … Tổ Quốc.
Thật là quá hay, quá sâu
sắc. Rất cảm ơn ông. Trong email trước, với tư cách một người đọc, tôi có nêu
một số ý kiến cá nhân về bài của ông Chu Văn Sơn bình bài thơ Nhìn
Từ Xa … Tổ Quốc trên VanViet, nếu thấy có chút ít gì chia sẻ được cùng bạn đọc,
ông cứ tùy nghi sử dụng.
Trân trọng kính chào ông.
Kính thư
Hà Định Văn.
8/
Thưa ông Hà Định Văn,
Bài viết tổng hợp của tôi
chưa xong nhưng tôi đã góp nhặt thư từ trao đổi của ông và tôi thành một
"bài" với cái tựa Trao Đổi Với Ông Hà Định Văn. Tôi có bỏ một vài
đoạn không cần thiết.
Tôi gởi đến ông đọc thử.
Nếu ông cho phép tôi sẽ phổ biến bài viết coi như một cuộc đối thoại văn học
nho nhỏ.
Mong tin ông,
Phạm Đức Nhì
9/
Nhà Thơ , Nhà Phê Bình
Phạm Đức Nhì kính mến.
Cảm ơn ông đã gửi cho tôi
đọc lại các ý kiến nhỏ mà chúng ta đã trao đổi và đã được ông "góp
nhặt" như ông nói là một cuộc "đối thoại văn học nho nhỏ". Vâng!
Xin ông cứ đưa lên trang Web để bạn đọc cùng tham khảo.
Kính thư
Hà Định Văn.
dinhvan213@gmail.com
Chú Thích:
1/ Tiến Sĩ Văn Chương, tác
giả bài viết Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng. Độc giả có thể
đọc bài viết ấy qua link:
https://ngominhblog.wordpress.com/2015/02/26/nhin-tu-xa-to-quoc-tieng-tho-quan-quai-bi-hung/
Rất cảm ơn Nhà thơ,
Nhà phê bình Phạm Đức Nhì. Tôi vừa cùng hai người bạn đồng niên yêu văn học đã
đọc bài viết này (So Sánh Ba Bài Thơ Phản Kháng). Chúng tôi đều rất tâm
đắc về sự phân tích, so sánh sâu sắc, khách quan , xác đáng của ông. Ở trong
nước, cho đến nay vẫn chưa thấy (hoặc có mà chưa xuất hiện) một thầy giáo
chuyên ngành ngữ văn nào ở bậc đại học và trên đại học có những bài giảng như
vậy, để giúp học trò hiểu đúng về một tác giả và tác phẩm nổi tiếng của họ.
Xin trân trọng cảm ơn ông.
Hà Định Văn
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.