Thứ Hai, 15 tháng 8, 2016

SO SÁNH BA BÀI THƠ PHẢN KHÁNG



        


      SO SÁNH BA BÀI THƠ PHẢN KHÁNG  

 

 (Ba bài thơ đó là Tạ Lỗi Trường Sơn của Đỗ Trung Quân, Bánh Vẽ của Chế Lan Viên và Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy.     Bài viết này có nhắc lại một vài ý trong ba bài bình thơ)

 


KHÚC NHẠC DẠO ĐẦU

 

 

Đởm Lược Của Thi Sĩ 

 

     1/ Đỗ Trung Quân:

Nhiều người yêu thơ tỏ vẻ tiếc và có ý trách ĐTQ “quá cẩn thận”, đã nhét Tạ Lỗi Trường Sơn  vào “hộc tủ” quá lâu nên khi xuất hiện không còn nóng hổi tính thời sự. Tôi hoàn toàn không đồng ý với kiểu trách móc đó.

 

Năm 1983 tôi đã ở chung trại (cải tạo) với một thầy giáo trở thành tù chính trị - bị kết án 18 năm tù vì đã sáng tác một bài thơ chỉ hơi “đụng chạm” đến chế độ. Trong không khí chính trị như thế nếu ĐTQ phổ biến bài thơ thì hậu quả sẽ khó lường.

 

Với tôi, ĐTQ là dân miền nam (Sài Gòn) mà dám viết bài thơ với nội dung “vượt lằn ranh” và với giọng điệu “chửi thẳng mặt” “những người nhân danh Hà Nội” thì đã là có chút máu liều. Thế rồi lại dám phổ biến bài thơ đó ở Việt Nam năm 2009 – lúc mình còn đang sống nhăn – thì trong người anh chắc chắn máu cũng phải có thêm ít nhiều “chất” dũng cảm. So với Chế Lan Viên thì lá gan của anh chắc phải nặng hơn vài chục gram.


Tiếc là tứ thơ của anh chỉ bó hẹp trong một số sự việc “ngang tai trái mắt” của những năm đầu đổi thay chế độ cho nên sau 27 năm nó đã nguội, mất gần hết tính thời sự, chỉ như “nhắc lại chuyện xưa cho biết người biết ta vậy thôi”.

 

     2/ Nguyễn Duy:


Rất anh hùng. Biết đó là những vần thơ đã vượt qua lằn ranh, “bước vào vòng cấm địa” của chế độ mà ông gọi là những vần thơ tuẫn tiết - phổ biến là có thể tù đày hoặc mất mạng – nhưng vẫn cứ “chơi”, và sẵn sàng chấp nhận hậu quả. Người đời kính trọng ông, yêu mến ông vì tài thơ, vì lòng yêu nước, nhưng có lẽ còn kính trọng và yêu mến ông nhiều hơn nữa vì đởm lược – thái độ anh hùng, hiên ngang bất khuất - của ông.

 

   3/ Chế Lan Viên:


Hèn nhát, thiếu sĩ khí. Đã nhận ra sự hoang tưởng của CNXH ngay từ lúc đầu:

Chưa cần cầm lên nếm anh đã biết là bánh vẽ”

nhưng vẫn ngậm tăm, tiếp tay cho những người vẽ bánh lừa dối dân tộc. Viết dấm dúi mấy bài thơ, đợi mấy năm sau khi chết mới cho phổ biến.


Ảnh Hưởng, Tiếng Vang Của Bài Thơ

 

   1/ Tạ Lỗi Trường Sơn


Hơi thơ nóng bỏng, hồn thơ lai láng, nhưng khi bài thơ xuất hiện thì tứ thơ đã “nguội”, không còn tính thời sự. Người yêu thơ tìm đọc TLTS là để thưởng thức tài thơ của ĐTQ và để “biết người biết ta”. Sau 27 năm nằm trong hộc tủ bài thơ đã mất rất nhiều sức hấp dẫn lẽ ra phải có nếu xuất hiện “đúng thời vụ”.

 

  2/ Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc


Khi báo Sông Hương bị đình bản để kiểm điểm, thi sĩ như cá nằm trên thớt, nhà bị công an theo dõi rình mò (1) nhưng người dân thì hả lòng, hả dạ. Họ đã thấy, đã trải nghiệm, đã chịu đựng những căn bệnh quái ác của chế độ, của đất nước từ rất lâu nhưng vì sợ cho bản thân và gia đình, không dám nói ra thì bỗng nhiên tất cả những điều ấm ức ấy được tuyên bố một cách long trọng bằng một bài thơ … nặng ký, đầy tính nghệ thuật. Sự xuất hiện của Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc do đó, rất đúng lúc, tính thời sự nóng hổi, trở thành một sự kiện văn học lớn, làm xôn xao dư luận trong nước cả bắc lẫn nam.

 

     3/ Bánh Vẽ  


 Bài thơ đã bôi bác, phỉ nhổ chế độ một cách cay độc, lời lẽ nhẹ nhàng nhưng ý tứ, nội dung của câu chửi “nặng đến nghìn cân”, độ phủ sóng của tứ thơ rất rộng, bao trùm mọi mặt của chế độ, của xã hội. Cộng với vị trí của ông trong chính quyền, làm công việc lãnh đạo tinh thần, tư tưởng nên câu chửi có căn cớ, gốc rễ, có độ khả tín cực cao,  chế độ không còn đường nào biện minh, chối cãi. Bài thơ làm tan rã (hoặc lung lay) nền tảng lý tưởng của ngay cả những người cộng sản lâu năm. 

 

Được Mất Của Thi Sĩ Khi Trình Làng Bài Thơ


     1/ Đỗ Trung Quân:

 

Đưa đội quân chữ nghĩa của mình vào thử lửa trong một trận đánh lớn và đã thành công ở mặt tài thơ. Do tầm nhìn chưa thấu đáo ở tứ thơ cộng thêm bài thơ bị “ngâm tôm” quá lâu nên ảnh hưởng về mặt chính trị và xã hội giới hạn.

     2/ Nguyễn Duy:

 

Qua NTXTQ đã biểu lộ một tấm lòng yêu nước sắt son, một đởm lược phi thường (rất anh hùng), một tài thơ trác tuyệt – đã thành công khi đưa các con chữ của mình vào một trận đánh lớn (hơn cả ĐTQ). Uy tín của Nguyễn Duy đã lên rất cao ở cả 2 mặt tài thơ và nhân cách.

     3/ Chế Lan Viên:

 

Qua Bánh Vẽ CLV đã biểu lộ một tầm nhìn xa và sâu sắc (về mặt chính trị) một tài thơ điêu luyện, kỹ thuật thơ hoàn hảo. Nhưng qua đó cũng lộ ra một nhân cách kém cỏi: ham hố chức vị, quyền lợi vật chất, tâm địa gian ác, kẻ sĩ cầm bút mà rất hèn, đã tích cực tham gia Vẽ Bánh để lừa cả dân tộc.


CHỌN BÀI THƠ HAY NHẤT  

 

Trong một bài bình thơ, sau khi phân tích và đưa ra nhận định về giá trị nghệ thuật của bài thơ, nhà phê bình thường bàn thêm về mối tương quan giữa tác giả, tác phẩm và bối cảnh lịch sử xã hội để biết vị trí, tầm quan trọng của tác phẩm trong dòng vận động của văn học, văn học sử, lịch sử của đất nước và - nếu là tác phẩm lớn - của cả nhân loại.

 

Nhưng khi muốn “chọn bài thơ hay nhất” tức là muốn nói đến giá trị nghệ thuật – cái hay, cái dở - của những bài thơ được so sánh nhà phê bình phải chặt hết dây mơ rễ má, cắt đứt mọi mối quan hệ để bài thơ không còn bất cứ một chỗ nào dựa dẫm mà phải tự đứng trên đôi chân của nó.


Lúc ấy đởm lược của tác giả (anh hùng hay “anh hèn”), yêu nước thương nòi hay chỉ là loại sâu dân mọt nước, tiếng vang của bài thơ (ít người chú ý đến hay làm xôn xao dư luận của cả nước), chỗ đứng trong văn học sử hay lịch sử (bài thơ có đại diện cho một giai đoạn lịch sử, hay không) … đều phải bỏ qua một bên mà chỉ chú tâm đến mấy tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ là: Tứ Thơ, Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ.

 

Bình chọn chỉ dựa theo những tiêu chí này thì bài thơ được lợi nhất là Bánh Vẽ của Chế Lan Viên. Những điểm tệ hại trong nhân cách của nhà thơ như Hèn, Gian Ác, Sâu Dân Mọt Nước - lẽ ra sẽ bị điểm rất xấu - đều không được nhắc đến.

 

Kế đến là TLTS của ĐTQ. Khuyết điểm “tứ thơ đã mất hẳn tính thời sự” - lẽ ra sẽ bị trừ điểm – thì lại được cho qua.

 

Và bài thơ chịu thiệt thòi nhất là Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy. Đởm lược anh hùng, lòng yêu nước sắt son của nhà thơ, nhận được rất nhiều thiện cảm của nhà phê bình, của người đọc - lẽ ra sẽ được thêm điểm – thì lại phải vứt qua một bên.


Và bây giờ tôi sẽ thực hiện công việc mà tiêu đề của bài viết đã đưa ra là so sánh giá trị nghệ thuật của 3 bài thơ.

 

Ý, Tứ Thơ


     1/ Tạ Lỗi Trường Sơn:

            a/ Đối tượng: Những người nhân danh Hà Nội – dân bắc kỳ 75

            b/ Những điều chê trách:


-          Ham hố, tìm kiếm những tiện nghi vật chất, những cái xấu của Sài Gòn (miền nam) mà chính miệng mình đã lên tiếng miệt thị, chửi rủa



-          cố bám trụ ở nam, không về bắc, quê hương xứ sở của mình.

 

Về điều chê trách thứ nhất, ĐTQ chê không đúng đối tượng. Những kẻ “đẻ” ra những lời lẽ, giọng điệu miệt thị dân nam là đám chóp bu Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng và đám cán bộ (Văn Hóa, Báo Chí) cấp trung bị bắt buộc phải nói như thế, chứ hầu hết bộ đội (và sau này là gia đình họ) chắc là mặt cũng không đủ dầy để nói những lời như vậy trước mặt dân Sài Gòn. Hơn nữa, ăn ngon mặc đẹp, sống đầy đủ tiện nghi vật chất là ước mơ thiết thực của con người. Dân bắc lúc ấy có “mê mồi” tìm kiếm những thứ ấy cũng là lẽ thường, không đáng để bị khinh khi. 


Về điều chê trách thứ hai, ở miền bắc đất hẹp người đông, người khôn của khó lại phải trải qua hơn 20 năm dưới chế độ kém phát triển về kinh tế nên đời sống của người dân cơ cực. Vào nam  thấy thoải mái, dễ sống - đất lành chim đậu - họ muốn ở lại cũng là điều dễ hiểu.

 

May mắn là nhờ đọc “giữa hai hàng kẻ” độc giả đã hiểu được 2 điều mà đám chóp bu Hà Nội ra sức giấu giếm: Một là, những cái “ưu việt” của chế độ và con người XHCH chỉ là phét lác. Dân miền bắc ngạc nhiên đến choáng ngợp (2) trước sức phát triển và vẻ đẹp của “Hòn Ngọc Viễn Đông” (3) và các thành phố lớn ở miền nam. Mức sống của dân miền nam lúc đó khá cao - đặc biệt là thực phẩm và tiện nghi vật chất - đã vượt xa mức sống của người dân miền bắc. Hai là, chính quyền đã có hẳn một chính sách đẩy dân miền nam đi vùng kinh tế mới để đưa dân miền bắc vào “chiếm” những “điểm then chốt” trong những thành phố lớn - đặc biệt là Sài Gòn.                                        


     2/ Nhìn Từ Xa Tổ Quốc

ĐTQ khi viết TLTS (1982) mới chỉ biết “những người nhân danh Hà Nội” có 7 năm - thời gian chưa đủ để những hậu quả to lớn và lâu dài của chế độ XHCH hằn rõ nét trên mặt những con người miền nam yêu dấu của anh.

 

Nguyễn Duy đã biết và sống với XHCN có thể nói gần cả cuộc đời, và trong chừng mực nào đó – chính ông cũng là một trong “những người nhân danh Hà Nội”. Khác biệt ở chỗ ông hết lòng yêu nước và dũng cảm dám nói lên sự thật.


Ông nói đến nhiều vấn nạn to lớn của đất nước. Sau đây là vài thí dụ:



-          tính vô thần của chế độ:

 

Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh



-          độc tài:



tất cả trôi xuôi - cấm lội ngược dòng



Nhà phê bình Chu Văn Sơn, Tiến Sĩ Văn Chương của chế độ đã than vãn “Rồi yêu nước cũng phải có chỉ đạo nữa. Có phải thế không mà lòng yêu nước, nỗi đau đời lắm khi cứ phải nói chui như một thứ hàng lậu. Thiện chí bị nghi ngờ, thiện tâm bị cảnh giác. Lời tâm huyết bị kiểm duyệt, cắt xén sao cho hợp những cái khuôn cấm kỵ, lọt được những lỗ tai đông đặc nghi kỵ. (4)


       - và thối nát:

 

quyền lực bày ra đấu giá trước công đường

    -          Một xã hội băng hoại, một dân tộc không còn nhân phẩm


Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…

Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn



   -          Và chẳng thể hy vọng gì ở thế hệ mai sau:



Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu



Ông hơn hẳn ĐTQ là đã chỉ ra mấy nguyên nhân, mà theo ông, đã gây ra những chứng bệnh quái ác kia:



        a/ miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít



Áp đặt quá hấp tấp “bước quá độ” của CNXH vào hoàn cảnh đất nước Việt Nam trong khi cơ sở vật chất còn chưa đủ lớn, đủ vững. Tôi suy ra rằng lúc ấy ông vẫn tin ở Chủ Nghĩa Cộng Sản nhưng trách những người lãnh đạo không đủ kiên nhẫn chờ đợi thời cơ chín mùi, thích hợp.



        b/ mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi



Tự hào vô lối, vô căn cứ đến độ “bội thực”, cả nước vỗ ngực ngợi ca mình, ngợi ca đảng, ngợi ca chế độ, ngợi ca nhau đến mức “ngộ độc ca ngợi”.



Trên lừa dưới, dưới lừa trên, cả nước lừa nhau để được sống “an lành”. Cụm từ “sự thật hôn mê” được dùng rất chính xác, rất đắt.



Ông không nhận ra được rằng, thật ra, bội thực tự hào, ngộ độc ca ngợi và sự thật hôn mê chính là con đẻ của CNXH – dù áp dụng ngay những năm 50s hay chờ đế mấy thập kỷ sau cũng thế thôi.



Nguyễn Duy viết NTXTQ với tâm thế của bên thắng cuộc (con cưng của chế độ, được đi du học ở Nga, đầu tàu của phong trào Xã Hội Chủ Nghĩa) nhưng ông - đã rất khéo - nhân danh một con dân VN yêu nước, nói tiếng nói chung cho cả dân tộc, tầm nhìn xa hơn, nhắm đến khối độc giả đông đảo hơn.

 

Thêm vào đó, những vấn nạn ông đưa ra to lớn, nghiêm trọng hơn, “nỗi đau” của ông sâu nặng hơn, nhân bản hơn, lời trách móc của ông nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc hơn. Mỗi vấn nạn ông trình bày trước mắt độc giả - bằng thứ ngôn ngữ và hình tượng đặc biệt cộng với cảm xúc nóng bỏng trong tâm hồn – là một đoạn thơ trác tuyệt, vừa cụ thể, rõ ràng, sinh động vừa đầy tính nghệ thuật.

 

Có thể nói mỗi vấn nạn là một yếu huyệt của cơ chế XHCN và ông đã đâm vào rất nhiều yếu huyệt như thế của chế độ nhưng – vì còn quá nhiều ràng buộc – ông  không thể từ bỏ vị thế của mình. Người đọc đã từng có ít nhiều kinh nghiệm với chế độ rất dễ dàng thông cảm với ông. Tuy nhiên chính vì thế về phương diện tứ thơ, NTXTQ của ông phải đứng sau Bánh Vẽ của CLV một khoảng ngắn.



   3/ Bánh Vẽ

 

Bài thơ có ý tứ sâu sắc là Bánh Vẽ của CLV.  Tác giả chính là một trong “những người nhân danh Hà Nội” và đã thấy cội nguồn của vấn đề từ rất sớm.

 

Nguyên nhân những vấn nạn của tổ quốc, theo ông, là việc áp đặt chế độ XHCN tên toàn cõi Việt Nam. Thiên đường mà cả dân tộc đang hướng đến chỉ là Bánh Vẽ. Và người đọc hiểu ngay cách chữa trị mà ông ngụ ý trong bài thơ: muốn không phải ăn Bánh Vẽ thì làm Bánh Thiệt mà ăn. Với ý tứ như thế Bánh Vẽ của CLV sẽ còn là cái gai, là một đối lực to lớn cho khối cán bộ làm công tác văn hóa tư tưởng và là mối đe dọa rất nặng nề, rất thật cho sự sống còn của chế độ.                                       


Xếp Hạng Tứ Thơ

Trong 3 bài thơ phản kháng – nêu lên những vấn nạn của tổ quốc, dân tộc do hậu quả của việc áp đặt chế độ XHCN trên toàn cõi Viết Nam, xét về ý tứ, thì TLTS của ĐTQ yếu kém nhất. Những hiện tượng xã hội mà anh nêu lên để chửi vỗ mặt “những người nhân danh Hà Nội” thật ra chỉ là những cảnh đời ngang tai trái mắt của một giai đoạn chuyển tiếp - hậu quả của việc thay đổi chế độ từ dân chủ tự do sang độc tài chuyên chế. Những hiện tượng ấy sẽ dần dần đi vào lãng quên với bộn bề khó khăn của cuộc sống mới, không đáng gọi là vấn nạn của dân tộc.


Kế đến là NTXTQ của Nguyễn Duy. Ông đã chỉ ra được những vấn nạn lớn, chính yếu của chế độ nhưng nói đến nguyên nhân thì “cái thấy” của ông còn mù mờ cho nên khi bàn đến phương cách chữa trị thì ông ú ớ “biết thế nhưng mà biết làm thế nào”.

 

Bài thơ có ý tứ xuất sắc nhất là Bánh Vẽ của CLV. Ông đã thấy hết ngay từ đầu và qua bài thơ đã trình bày rất chính xác, rõ ràng và đầy nghệ thuật nguyên nhân và cách chữa trị những vấn nạn to lớn của đất nước. Phép ẩn dụ hoàn hảo đã tạo thêm nét duyên dáng cho tứ thơ vô cùng sâu sắc của ông.


Xếp hạng:

Hạng nhất: Bánh Vẽ.
Hạng nhì: Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc.
Hạng ba: Tạ Lỗi Trường Sơn.


 Kỹ Thuật Thơ

 

   1/ Bánh Vẽ


Chế Lan Viên là một thi sĩ bậc thầy về kỹ thuật thơ nên Bánh Vẽ có hình thức gần như tối ưu, ngôn ngữ chắt lọc, hình tượng dễ cảm, ẩn dụ sắc sảo được thể hiện một cách hoàn hảo, thơ đầy chất trí tuệ

        a/ Số câu không giới hạn.

        b/ Số chữ trong câu tùy tiện.

 

        c/ Vần: không quá nhạt, không quá ngọt, thoang thoảng rất vừa độ. Dòng chảy của thơ lững lờ, êm ả, thích hợp với tâm trạng buồn, cay đắng.

        d/ Kỹ thuật thơ hoàn hảo


         e/ Kết thúc không độc đáo, ấn tượng nhưng hợp lý, không lộ vẻ yếu kém.

         f/ Bài thơ có 91 chữ - tương đối ngắn so với hai bài kia – nên việc chỉ huy đội quân chữ nghĩa dễ dàng hơn. Với tôi, đây là một chi tiết quan trọng để cân nhắc, xếp hạng Kỹ Thuật Thơ.


 2/ Tạ Lỗi Trường Sơn

 

        a/ Số câu không giới hạn. Viết cho đến khi hết hứng, hết ý thì thôi. Theo cách đếm câu của PĐN thì bài thơ dài xấp xỉ 100 câu.


        b/ Số chữ trong câu: Câu ngắn nhất 2 chữ, câu dài nhất 18 chữ (Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...) còn lại thì tùy hứng, không tuân theo một luật lệ nào.



        c/ Vần: Vần liên tiếp khá đều đặn nhưng nhờ số chữ trong câu thay đổi tùy tiện, thỉnh thoảng tác giả lại chuyển đoạn thay vần nên độ ngọt vừa phải, không có hội chứng nhàm chán vần mà dòng thơ vẫn chảy trơn tru, nhiều đoạn dòng chảy rất xiết. 



        d/ Kết thúc Trật bàn đạp, không nhất quán với tứ thơ, “lãng nhách”.

 

        e/ Bài thơ dài (795 chữ) có nghĩa là ĐTQ chỉ huy đội quân chữ nghĩa đông hơn - gần gấp 9 lần Bánh Vẽ của CLV – trong một trận đánh lớn hơn, thế trận phức tạp hơn mà chỉ đến câu cuối cùng mới phạm một lỗi (về tứ thơ) nên xét về Kỹ Thuật Thơ thì – tuy chưa phải là toàn bích – TLTS nếu không ở phía trước thì cũng không thể xếp sau Bánh Vẽ được.


3/ Nhìn Từ Xa Tổ Quốc

 

        a/ Số câu không giới hạn. Viết hết hứng, hết ý thì thôi.

        b/ Số chữ trong câu tùy ý, tùy hứng, không có cảm giác bó buộc.

 

        c/ Vần: vần liên tiếp kiểu Nhớ Rừng nhưng nhiều phá lệ khéo léo, hợp lý nên độ ngọt của thơ vừa phải, không có hội chứng “nhàm chán vần”. Nhiều bảng Stop phát sinh đo “đối thoại với cái bóng” khiến tốc độ, cường độ dòng chảy của tứ thơ không có hiệu ứng “sóng sau dồn sóng trước” ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của hồn thơ.


        d/ Kết thúc: gượng, yếu, không thuyết phục.

        e/ Là bài thơ dài nhất (1105 chữ) nên tài điều binh khiển tướng trong đội quân chữ nghĩa của ND được đánh giá rất cao. Mặc dù NTXTQ có đến 2 khuyết điểm: một là kết thúc gượng, yếu, hai là nhiều bảng Stop, nhưng xét về Kỹ Thuật Thơ, theo tôi, ít nhất cũng phải xếp bài thơ ngang hảng với Bánh Vẽ và TLTS.


Xếp Hạng Kỹ Thuật Thơ

Đồng hạng nhất.


Cảm Xúc, Hơi Thơ, Hồn Thơ

     1/ Tạ Lỗi Trường Sơn


Cảm xúc mạnh ngay từ tầng 1 – ngôn ngữ hằn học, nóng bỏng, hình tượng sống động. Thế trận chữ nghĩa khá chặt chẽ, vần liên tiếp nên tứ thơ tuôn chảy, cảm xúc ở tầng 2 mạnh. Đặc biệt là thi sĩ viết trong cơn điên tiết, lửa giận phừng phừng nên hơi thơ (hơi nóng của cảm xúc) tỏa ra rát bỏng, hồn thơ (thứ cảm xúc cao cấp nhất của thơ) tràn trề, lai láng. Được nghe hoặc đọc bài thơ này rất “đã”. Theo tôi, TLTS đã thắng - một cách rõ ràng - 2 bài thơ kia ở lãnh vực Hồn Thơ

 

     2/ Nhìn Từ Xa Tổ Quốc


Cũng là người làm thơ, tôi có cảm giác Nguyễn Duy đang lên cơn điên – điên vì quá đau thương, điên vì quá giận dữ. Ông đã không đắn đo hơn thiệt, không biết sợ hãi, để mặc cho các con chữ tuôn ra. Cảm xúc từ mỗi chữ, mỗi câu tỏa ra nóng hổi. Ý này nối tiếp ý kia, vấn nạn sau nối tiếp vấn nạn trước, chảy xiết cứ như dòng sông vào mùa nước lũ.

 

Nhưng sao thật lạ! Ở những đoạn sau, cảm xúc từ mỗi câu thơ vẫn nóng như lửa, cơn điên của tác giả hình như vẫn chưa hạ, mà sao có một “cái gì đó”, một “lực nào đó” trì kéo lại, không cho tứ thơ chuyển động nhanh như trước.

 

Tìm hiểu kỹ thì được biết chính sáng kiến “đối thoại với cái bóng” đã làm dòng chảy của tứ thơ không thông, ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của hồn thơ. Cho nên, dù NTXTQ có hồn thơ khá mạnh, cũng phải xếp sau TLTS về tiêu chí Hồn Thơ tuy độ khác biệt chỉ khoảng một 10 một 8.

     3/ Bánh Vẽ


Có thể nói trong Bánh Vẽ chất trí tuệ đặc biệt tỏa sáng. Trong tiến trình chế tạo bài thơ lý trí đóng vai trò chủ đạo; tác giả đã rất tỉnh táo, suy nghĩ chín chắn trước khi phóng bút. Vì thế bài thơ tuy thành công vượt bậc về kỹ thuật thơ - cảm xúc nội tại của bài thơ (ở tầng 1 và tầng 2 rất mạnh) - lại thiếu cái mà dân đọc thơ sành điệu thích nhất: hồn thơ. Bánh Vẽ đã thua rất xa hai bài thơ kia về tiêu chí Hồn Thơ.

 

Xếp hạng Hồn Thơ


     Hạng nhất: Tạ Lỗi Trường Sơn

     Hạng Nhì: Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc 


     Hạng ba: Bánh Vẽ


XẾP HẠNG TỔNG KẾT

 

     1/ Phẩm chất quý giá nhất của bài thơ, theo tôi, là Hồn Thơ.

 

Vì thế tôi đọc TLTS của ĐTQ với rất nhiều hứng thú. Ngôn ngữ, hình tượng anh sử dụng trong thơ rất hợp với vai trò của một tay thợ chửi chuyên nghiệp. Anh chửi hay quá! Nghe đã quá! Tôi hình dung được khuôn mặt đang lên cơn điên của anh, cảm được nỗi bực tức của anh, cảm được hơi nóng – không phải từ con chữ - mà từ một chỗ vô hình nào đó trong bài thơ tỏa ra.

 

Và cái luồng hơi nóng đó tuôn chảy thành dòng, càng về cuối bài thơ càng mạnh. Đó là cảm xúc ở tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất của thơ – mà người thưởng thức thơ từ kha khá đến sành điệu sẽ cảm nhận được ngay. Đó chính là Hồn Thơ. Tôi đã định kéo bài thơ lên vị trí đầu bảng nhưng câu kết của anh đã làm tôi chới với và cụt hứng.


Tôi chợt nghĩ đến đội bóng mà mình yêu thích – có giàn cầu thủ rất hay cả về kỹ thuật cá nhân lẫn phối hợp toàn đội. Các cầu thủ đá hoàn toàn ngẫu hứng, lên xuống rất nhịp nhàng. Lấy được bóng từ tiền đạo đối phương dâng lên vượt qua hàng tiếp ứng và rồi rất nghệ thuật, vượt qua từng cầu thủ của hàng hậu vệ để đối diện với thủ thành. Cả cầu trường không một tiếng động; khán giả nín thở chời đợi. Rồi thủ thành cũng bị lừa ra, bỏ trống cầu môn; khán giả đứng dậy chuẩn bị vỗ tay vang dội chào đón bàn thắng của đội nhà.

 

Đúng lúc ấy thì tiền đạo đang có bóng tung chân sút mạnh. Hình như anh không nhìn thấy cầu môn. Bóng vượt xà dọc ra ngoài … rất xa. Câu kết của TLTS chính là cú sút dứt điểm – mà không nhìn thấy cầu môn - của ĐTQ.

 

Sau cuộc họp thống nhất đất nước cuối năm 1975 một thời gian (5) MTGPMN đã bị - thẳng thừng và công khai - loại khỏi chính trường. Một số đông thấy mình bị phản bội đã ra mặt chống lại. Tùy theo mức độ chống đối, kẻ bị thủ tiêu, người xộ khám Chí Hòa, người bị quản thúc tại gia (đuổi gà cho vợ). Dân miền nam - đặc biệt là những người ăn cơm Quốc Gia mà lòng dạ lại gởi hết cho Cộng Sản - lúc ấy đã sáng mắt.

 

Có người đã nghĩ ra một câu nói đùa rất thâm thúy: “Văn Vỉ đang lái Honda chạy khắp Sài Gòn” (6). Một người đọc TLTS đã viết cảm nhận: “Nhưng đọc hết bài, tiếc thay, Đỗ Trung Quân năm ấy, chỉ sáng có một con mắt” (7). Theo tôi, dựa vào tứ thơ - đặc biệt là câu kết – ĐTQ lúc viết bài thơ vẫn còn chưa sáng mắt.


Và thế là mặc dù hơi thơ nóng bỏng, hồn thơ lai láng, kỹ thuật thơ điêu luyện, tôi vẫn gạt TLTS qua một bên. Vị trí đầu bảng (của 3 bài thơ) vẫn còn bỏ trống.

 

     2/ Qua Bánh Vẽ CLV tiết lộ là ông bìết XHCN chỉ là ảo tưởng ngay khi chấp nhận cùng hội cùng thuyền với những người cộng sản. Bài thơ có kỹ thuật thơ hoàn hảo, ẩn dụ tuyệt vời. Riêng ý tứ thì sâu sắc, biểu lộ một tầm nhìn hơn hẳn TLTS và NTXTQ – không những chỉ ra cội nguồn của những vấn nạn mà còn gián tiếp nói đến cách giải quyết vấn đề: “Muốn không phải ăn Bánh Vẽ thì làm Bánh Thiệt mà ăn.”

 

 Với những ưu điểm vượt trội như vậy Bánh Vẽ có thể xếp ở vị trí đầu bảng được lắm chứ. Tuy nhiên, bài thơ có một khuyết điểm lớn là được viết trong lúc quá tỉnh táo nên thiếu Chất Thơ, thiếu Hồn Thơ. Hơn nữa, nó chỉ là một bài thơ “ngắn”, thế trận chữ nghĩa chỉ ở cấp “thấp” so với tầm vóc của TLTS và NTXTQ. Chỉ huy một trận đánh chỉ có 91 binh sĩ chắc chắn dễ dàng tránh sơ xuất hơn trận đánh có 795 (TLTS) hay 1105 (NTXTQ) binh sĩ tham chiến. Chính vì thế tôi đã không chọn Bánh Vẽ và, vị trí đầu bảng trong 3 bài thơ, một lần nữa, vẫn được bỏ trống.


     3/ Về tứ thơ NTXTQ đã trình bày được - rất thật, rất sinh động - những vấn nạn của tổ quốc. Nguyên nhân của chúng, theo ông là “miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít” và:



mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi



 Ông chưa nhận ra rằng tất cả những căn nguyên ông nêu lên ở trên đều do cơ chế XHCN mà ra cả. Ông viết NTXTQ đang lúc cao hứng tột độ như người lên cơn điên nên cảm xúc ở cả 3 tầng đều mạnh; ở vài đoạn đầu của phần Vấn Nạn hơi thơ nóng hổi.

 

Nhưng càng về sau do phân tâm “đối thoại với cái bóng”, dòng cảm xúc bị ngăn lại bởi những bảng Stop nên Hồn Thơ không có trớn để đạt tới tốc độ và cường độ lẽ ra còn cao hơn nữa. Về kỹ thuật thơ, ông như một vị tướng tài, chỉ huy đại quân trong một trận đánh lớn và đã thành công về nhiều mặt. Tuy nhiên, do tầm nhìn chưa thấu đáo ở tứ thơ và đoạn kết gượng gạo, thiếu thuyết phục nên tôi đã không xếp NTXTQ vào vị trí đầu bảng của 3 bài thơ.

 

Xếp Hạng Sau Cùng: 

 

Cả Ba Đồng Hạng Nhất.


 KẾT LUẬN

 

Kết quả bình chọn đã xong, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và bài viết lẽ ra đã kết thúc. Nhưng khi chuẩn bị ký tên (ở cuối bài) rồi tắt computer đi ngủ đầu óc tôi cứ nghĩ đến cảnh tượng Nguyễn Duy ngồi trong nhà phập phồng lo sợ khi thấy “người lạ” lảng vảng ở trước sân mà thương cảm cho nhà thơ. Từ thương cảm đến nể phục cái anh hùng bất khuất của kẻ sĩ. Và tôi lại nghĩ đến bài thơ của ông.

 

Lý trí của một người bình thơ bắt tôi phải công tâm khi bình chọn và kết quả bình chọn đã minh bạch. Nhưng trong lòng tôi – có khuôn mặt và vóc dáng của Nguyễn Duy - vị trí của NTXTQ hình như cao hơn hai bài thơ kia một tý.

 

Tôi biết như thế là thiên vị - là một tính xấu, nhưng biết làm thế nào được. Chỉ mong độc giả thông cảm cho cái tính xấu này của tôi. Bởi vì Thơ và con người của Thi Sĩ đâu phải lúc nào cũng rạch ròi tách biệt.


Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com


Blog: phamnhibinhtho.blogspot.com

 CHÚ THÍCH:


1/ http://hatranghn.blogtiengviet.net/2013/05/15/bani_thai_nhann_tarl_xa_tar_quar_c_carsa

2/ Trước khi vào nam (1975) dân miền bắc phải học tập để biết rằng những sự phát triển và vẻ đẹp của Sài Gòn, của miền nam, những tiện nghi vật chất của người dân chỉ là “phồn vinh giả tạo”


3/ Tên khác của Sài Gòn được người ngoại quốc gọi một cách nể trọng.



4/ https://ngominhblog.wordpress.com/2015/02/26/nhin-tu-xa-to-quoc-tieng-tho-quan-quai-bi-hung/

5/ Từ ngày 15 đến ngày 21 tháng 11 năm 1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc đã được tổ chức tại Sài Gòn. Đồng chí Trường Chinh - Trưởng đoàn Đại biểu miền Bắc và  đồng chí Phạm Hùng - Trưởng đoàn Đại biểu miền Nam thống nhất ký vào ngày 21 tháng 11 năm 1975. http://www.archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?itemid=432&listId=c2d480fb-e285-4961-b9cd-b018b58b22d0&ws=content


6/ Một nhạc sĩ cổ nhạc nổi tiếng, bị mù cả hai mắt ở Sài Gòn.

7/ https://hoangdaiduong.wordpress.com/2009/10/18/c%E1%BA%A3m-nghi-d%E1%BB%8Dc-th%C6%A1-t%E1%BA%A1-l%E1%BB%97i-v%E1%BB%9Bi-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-s%C6%A1n-c%E1%BB%A7a-d%E1%BB%97-trung-quan/




 

 

 TRAO ĐỔI VỚI ÔNG HÀ ĐỊNH VĂN

 

Lời nói đầu:

Trong thời gian viết lời bình cho Ba Bài Thơ Phản Kháng tôi có trao đổi emails với một độc giả là ông Hà Định Văn. Sau khi 3 bài viết hoàn thành, đọc lại emails thấy những điều chúng tôi trao đổi có liên quan đến Thơ, đặc biệt là bài Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy nên theo tôi, có thể xem là một cuộc đối thoại văn học nho nhỏ. Được sự đồng ý của ông Hà Định Văn xin được chia sẻ với bạn đọc để rộng đường dư luận.(Phần in đậm là theo ý của ông Hà Định Văn)

 

 1/

 

Kính gửi Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì.

 

Thưa ông, tôi một người đã khá lớn tuổi (U 60) quê gốc Việt Trì – Phú Thọ hiện đang sống ở Cam Ranh – Khánh Hòa. Lâu nay, tôi vẫn thường đọc các bài phê bình của ông trên các trang mạng. Những bài viết của ông dù ngắn hay dài đều giúp tôi có thêm những nhận thức mới về giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Vì vậy, nếu có thể và không có gì phiền, tôi rất mong được ông gửi cho tôi theo địa chỉ email này, tuyển tập những bài lý luận, phê bình của ông về văn học trong nước, hải ngoại và quốc tế. Xin trân trọng cảm ơn ông. Kính chúc ông những ngày cuối tuần có nhiều niềm vui.

 

Kính thư.

Hà Định Văn.

 

 2/

Thưa ông Hà Định Văn,

 

Cám ơn ông đã quan tâm đến những bài viết của tôi. Tôi bình thơ với mục đích đem kiến thức và khả năng cảm nhận thơ ca của mình truyền cho lớp trẻ VN. Mỗi bài bình thơ, dù ngắn hay dài, đều chứa một "điểm gì đó" giúp người đọc nâng cao trình độ của mình khi thưởng thức thơ hoặc làm thơ. Ông nhận ra điều đó tức là công việc của tôi đã phần nào thành công.

 

Tôi mới lập một trang web chuyên về bình thơ phamnhibinhtho.blogspot.com

 

Một số kha khá những bài bình thơ của tôi được đăng ở đó. Trang web tổ chức còn luộm thuộm vì tôi bận tra cứu viết bài. Mời ông Hà Định Văn vào thăm.

 

Phạm Đức Nhì

 

3/

 

 Thưa ông Phạm Đức Nhì,

 

Tối qua tôi đã vào được trang Web của ông, lần lượt đọc tất cả các bài, và tôi rất thích. Tôi thấy thật tiếc là bây giờ tôi mới được biết và được đọc những bài lý luận phê bình sắc sảo, khách quan, kiến thức sâu rộng, ý tứ uyên thâm của ông. Ở trong nước tôi chỉ đọc các ông : Lại Nguyên Ân; Hoàng Ngọc Hiến; Đặng Văn Sinh; Nguyễn Chính; Phạm Xuân Nguyên và một vài người khác thôi. Sau 1975 được đọc các tác phẩm văn học (thơ, văn...) của các tác giả phía Nam, tôi mới thấy những điều tôi đọc trước đây đúng là thứ văn nghệ nô bộc, cùng đám văn nô, bồi bút của đám "cuốc doanh" thật là thảm hại. Một lần nữa xin được cảm ơn ông. Tôi sẽ thường xuyên vào trang Web của ông để học hỏi.

 

Kính chào ông.

Hà Định Văn.

 

4/

Chào ông Hà Định Văn,

Cám ơn ông đã có thiện cảm với cách viết của tôi. Tôi bình thơ không hoa mỹ, đao to búa lớn như những nhà phê bình "lớn" khác. Đối tượng tôi hướng đến là lớp trẻ Việt Nam. Tôi thực hiện trang web cũng là hướng đến họ. Tôi cũng làm thơ nên cũng đem kinh nghiệm của mình vào phê bình.

 

Những Tiêu Chí để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ tôi tổng hợp từ các trang web văn học ở VN và hải ngoại. Thêm vào đó tôi có một nhóm "thầy và bạn văn chương" người Mỹ giúp ý kiến nên những bài bình của tôi có thể chưa Hay nhưng không đến nỗi sai lạc. Mà nếu có sai lạc tôi sẽ nhận lỗi và sửa chữa.

 

Chúc ông vui khỏe

 

Phạm Đức Nhì

 

 5/

Kính Gởi Nhà thơ, Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì,

 

Thưa Nhà thơ, Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì.

 

Hôm nay vào Blog Phamducnhi đọc bài phê bình của ông “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Nỗi Đau Quặn Thắt Của Một Người Việt Yêu Nước”, tôi thấy hay quá. Hồi đầu năm nay, tôi đã đọc trên trang Vanviet bài của Chu Văn Sơn (1) bình bài thơ này, tôi đã lập tức gửi cho BBT của VanViet mấy dòng như sau :

 

Kg BBT.

 

Xin trân trọng cảm ơn BBT đã đưa toàn bài thơ “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” và cả đoạn băng Nhà thơ Nguyễn Duy trực tiếp đọc bài thơ này của mình. Lâu nay tôi vào trang VanViet đọc các trang mà tôi yêu thích: thơ, truyện ngắn, lý luận phê bình, với tâm thế các tác phẩm được BBT sử dụng phải khác hẳn với những tác phẩm từng được đưa trên các báo, tạp chí v.v… của Hội nhà văn VN. Vì vậy, với tinh thần nói thẳng, nói thật, rất mong được BBT chuyển một ý kiến ngắn sau của tôi đến tác giả Chu Văn Sơn.

 

Thưa ông Chu Văn Sơn. Tôi, thuộc thế hệ bạn đọc được “hưởng thụ” hầu như gần hết đời dòng văn học gọi là “cách mạng VN”. Thế hệ tôi, thế hệ sau chúng tôi, rồi cả thế hệ người đọc tiếp sau nữa đã bị đầu độc bời dòng văn học đó. Và, trong cái sự đầu độc khốn nạn này có sự đóng góp phải nói là rất tích cực bởi những nhà lý luận phê bình bồi bút, nô bộc hướng thượng như: Phan Cự Đệ; Hà Minh Đức, v.v… Những năm gần đây còn có cả loại bút nô cơ hội, như Nguyễn Hòa, Chu Giang,  Nguyễn Văn Lưu, Đông La… nữa. Chính họ, đã góp phần làm hỏng cả một nền văn học.

 

Sau khi đọc rất kỹ bài “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng” của ông, tôi đã có ý kiến gửi BBT như sau : “Tôi rất yêu thơ Nguyễn Duy. Tôi đã có hẳn một sưu tập những bài thơ tôi thích nhất của nhà thơ này. Hôm nay vào VanViet , thấy có bài phê bình của tác giả Chu Văn Sơn là tôi đọc ngay. Nhưng thật tiếc, bài viết quá dài mà chỉ toàn chữ nghĩa "nhà trường" thôi, nên tác giả đã "bình" không ra cái "nhân", cái "cốt" của bài thơ. Tôi cố đọc, mong có được một đoạn bình "trúng", nhưng đã thất vọng. Tác giả lấy cái tựa là: "NHÌN TỪ XA… TỔ QUỐC - TIẾNG THƠ QUẰN QUẠI BI HÙNG", nhưng lại vòng vo chữ nghĩa, nên người đọc như tôi không bị thuyết phục bởi hiệu ứng từ bài phê bình. Trong khi tôi đọc riêng cả bài thơ thì cảm nhận có được từ tư duy, ngôn ngữ và thông điệp của bài thơ thật khác với bài phê bình”.

 

Thưa ông Chu Văn Sơn. Chắc ông cũng biết với một người phê bình có tài, có tâm thì không thể có kiểu phê bình hời hợt, nửa vời, vô bổ như vậy. Tôi nghĩ, chắc chắn “trường phái lý luận phê bình quan phương, hướng thượng kiểu Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức” v.v… đã, đang và sẽ không thể còn có chỗ trong lòng thế hệ người đọc hiện nay. Cách đây hơn ¼ thế kỷ, sự truy vấn trách nhiệm về căn nguyên, cội nguồn cái ác, cái lưu manh, cái khốn nạn đã tàn phá nhân dân này, đất nước này của bài thơ “ Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” , đến nay (2015) vẫn nóng bỏng tính thời sự. Đó mới là cốt lõi của thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến người đọc. Bình không ra cái thông điệp đó là thất bại của nhà phê bình đấy, thưa ông . Nhân ngày đầu năm, có mấy lời mạo muội gửi tới ông.

 

Trân trọng! Hà Định Văn.

 

Xin cảm ơn ông Phạm Đức Nhì về bài phê bình sâu sắc rất thuyết phục này. Kính chúc ông thật nhiều sức khỏe, ngày cuối tuần có nhiều niềm vui.

 

Kính thư. Hà Định Văn.

 

dinhvan213@gmail.com

 

 6/

Chào ông Hà Định Văn

Không biết đâu là Họ, đâu là Tên - nếu sai, mong lượng thứ.

Cám ơn ông đã đọc bài Bình Thơ mà tôi đã bỏ vào khá nhiêu công sức.

Tôi đã viết Lời Bình cho 3 bài thơ phản kháng. Đang viết một bài Tổng Hợp để So Sánh. Nếu ông không phản đối, có thê tôi sẽ trích một phần (hay toàn thể) thư ông vừa gởi cho tôi để đưa vào bài viết trên. Coi như đây là lời xin phép.

Nhân tiện gởi ông Lời Bình của 2 bài thơ phản kháng khác.

Chúc ông vui khỏe.

 

Phạm Đức Nhì

 

 7/

Kg Nhà Thơ, Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì.

 

Chiều nay tôi đã đọc xong lần thứ hai chùm 3 bài phê bình của ông: Bánh Vẽ – Tạ Lỗi Trường Sơn – Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc.

Thật là quá hay, quá sâu sắc. Rất cảm ơn ông. Trong email trước, với tư cách một người đọc, tôi có nêu một số ý kiến cá nhân về bài của ông Chu Văn Sơn bình bài thơ  Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc trên VanViet, nếu thấy có chút ít gì chia sẻ được cùng bạn đọc, ông cứ tùy nghi sử dụng.

 

Trân trọng kính chào ông.

Kính thư

Hà Định Văn.

 

 

8/

 

Thưa ông Hà Định Văn,

 

Bài viết tổng hợp của tôi chưa xong nhưng tôi đã góp nhặt thư từ trao đổi của ông và tôi thành một "bài" với cái tựa Trao Đổi Với Ông Hà Định Văn. Tôi có bỏ một vài đoạn không cần thiết.

 

Tôi gởi đến ông đọc thử. Nếu ông cho phép tôi sẽ phổ biến bài viết coi như một cuộc đối thoại văn học nho nhỏ.

 

Mong tin ông,

 

Phạm Đức Nhì

 

 

9/

 

Nhà Thơ , Nhà Phê Bình Phạm Đức Nhì kính mến.

Cảm ơn ông đã gửi cho tôi đọc lại các ý kiến nhỏ mà chúng ta đã trao đổi và đã được ông "góp nhặt" như ông nói là một cuộc "đối thoại văn học nho nhỏ". Vâng! Xin ông cứ đưa lên trang Web để bạn đọc cùng tham khảo.

Kính thư

Hà Định Văn.

dinhvan213@gmail.com

 

 Chú Thích:

 

1/ Tiến Sĩ Văn Chương, tác giả bài viết Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng. Độc giả có thể đọc bài viết ấy qua link:

 

https://ngominhblog.wordpress.com/2015/02/26/nhin-tu-xa-to-quoc-tieng-tho-quan-quai-bi-hung/

 

 Rất cảm ơn Nhà thơ, Nhà phê bình Phạm Đức Nhì. Tôi vừa cùng hai người bạn đồng niên yêu văn học đã đọc bài viết này (So Sánh Ba Bài Thơ Phản Kháng). Chúng tôi đều rất tâm đắc về sự phân tích, so sánh sâu sắc, khách quan , xác đáng của ông. Ở trong nước, cho đến nay vẫn chưa thấy (hoặc có mà chưa xuất hiện) một thầy giáo chuyên ngành ngữ văn nào ở bậc đại học và trên đại học có những bài giảng như vậy, để giúp học trò hiểu đúng về một tác giả và tác phẩm nổi tiếng của họ.

Xin trân trọng cảm ơn ông.

 

Hà Định Văn    

 

 

 

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2016

CŨNG CHỈ LÀ LỜI ĐỐN


                        CŨNG  CHỈ    LỜI  ĐỒN

          (Trao đổi với Lưu Na về bài thơ Sông Lấp)
Khi bài viết Sông Lấp -  Một Bài Thơ Toàn Bích phóng đi được ít hôm tôi nhận được vài emails – khen có, và chê cũng có. Tôi đã trả lời độc giả bằng thư riêng. Người khen thì dĩ nhiên không có ý kiến gì thêm, còn người chê có hài lòng với câu trả lời của tôi hay không, thú thật là tôi không biết. Đặc biệt có một nữ độc giả, Lưu Na trẻ hơn tôi mấy tuổi, là một cây viết kỳ cựu (ít nhất cũng hơn tôi) trên trang web văn học T- Vấn & Bạn Hữu, đã có hẳn một bài viết (ngắn) trên trang web ấy liên quan đế bài Sông Lấp - Một Bài Thơ Toàn Bích của tôi.
Và sau đây là nguyên văn bài viết:

                                                        ĐỒN
Nhân đọc bài Sông Lấp –Một Bài Thơ Toàn Bích của Phạm Đức Nhì, chợt nhớ một lời đồn.
Đại khái là Tú Xương có giao tình với Phan Bội Châu lúc đó đang trong phong trào chống Pháp. Chỗ bến đò mà Tú Xương cảm hoài chính là chỗ ban đêm nghĩa quân lén qua sông nên giả tiếng ếch kêu để làm hiệu. Khi đã xảy đàn tan nghé, ông tú Vị Xương mới đêm nằm nghe ếch bên tai mà nhớ lúc xưa, và giật mình còn ngỡ (tưởng) tiếng ai gọi đò. 

Không biết điều ấy thật bao nhiêu vì Tú Xương không bao giờ nói cho chúng ta biết, nhưng cái lời đồn đó làm cho bài thơ càng thêm nỗi ngậm ngùi, vì tang thương của đất trời chồng lên thêm với cái dâu bể của thời cuộc. Cái buồn trong hơi thơ của Tú Xương càng sâu lắng.
Cũng trong cái khoảng thời gian chống Pháp ấy thì nghĩa quân phải sinh hoạt như một hội kín, lúc hội họp gặp nhau hân hoan tình đồng chí đệ huynh, mà ra khỏi chốn bí mật ấy thì buồn bã phải coi nhau như người dưng nước lã, nên thành câu
sao đang vui vẻ ra buồn bã _ vừa mới quen thân đã lạ lùng.


Đó là bài thơ Nhớ Bạn Phương Trời của Trần Tế Xương:
Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa có nhớ ta không
Sao đang vui vẻ ra buồn bã
Vừa mới quen thân đã lạ lùng
Khi thấy thấy gì trong mộng tưởng
Nỗi riêng riêng đến cả tình chung
Tương tư lọ phải là trai gái
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng

Bài thơ được cho là lời nhắn gửi âm thầm đến Phan Bội Châu, một tâm tình nhớ bạn - ta nhớ người xa cách núi sông, người xa, xa có nhớ ta không. Những câu sau nói lên hoàn cảnh tâm tình của lớp người chống Pháp.  Sinh hoạt trốn lánh kiểu hội kín (mượn chữ của Tạ Chí Đại Trường), nỗi niềm riêng phải sống để dạ chết mang theo chứ không thể thổ lộ ngay cả với người đồng tịch đồng sàng -nỗi riêng riêng đến cả tình chung
Trong đêm vắng nỗi buồn thật mênh mang _ một ngọn đèn một tiếng trống, lại nhuốm chút đắng cay chua chát, đó chính một trademark trong hơi thơ của Tú Xương, trong những lời kiêu bạc mà chứa đầy nỗi cô đơn:

Tương tư lọ phải là trai gái
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng

Nói cho ngay tình, cả cái tựa của bài bài thơ nhớ bạn tôi cũng không dám chắc là đúng, và những gì đọc được cũng chỉ là đồn đoán (bàn đề!!!!) khi còn đang học trung học, nhưng lúc đó đọc được 2 câu đầu thôi mà nỗi buồn man mác không nói ra lời vương mãi vào lòng.

Phải chăng lời đồn cũng có lời thi vị làm mình muốn nhớ hoài?
Lưu Na
01/09/2014
nguồn: t-van.net

Và đây là bài viết trả lời của Phạm Đức Nhì:

                                          CŨNG  CHỈ    LỜI  ĐỒN
“Mẩu viết ngắn” với cái tựa chỉ có một chữ Đồn nhưng đã thổi một luồng gió mát vào bài viết khá khô khan của tôi. Trong số những phản hồi về bài viết Sông Lấp -Một Bài Thơ Toàn Bích, tôi thích nhất là “mẩu viết ngắn” ấy. Nó đã cho người đọc một góc nhìn mới về bài thơ Sông Lấp và đưa dẫn tứ, ý của bài thơ về một chân trời mới. Theo Lưu Na, tác giả của “luồng gió mát”, thì có lời đồn như sau:

Đại khái là Tú Xương có giao tình với Phan Bội Châu lúc đó đang trong phong trào chống Pháp.  Chỗ bến đò mà Tú Xương cảm hoài chính là chỗ ban đêm nghĩa quân lén qua sông nên giả tiếng ếch kêu để làm hiệu.  Khi đã xảy đàn tan nghé, ông Tú Vị Xương mới đêm nằm nghe tiếng ếch bên tai mà nhớ lúc xưa, và giật mình còn ngỡ (tưởng) tiếng ai gọi đò…

Lời đồn ấy có thể tin được lắm chứ! Phan Bội Châu sinh năm 1867, lớn hơn Tú Xương 3 tuổi, đỗ Giải Nguyên năm 1900.

Trong vòng 5 năm sau khi đỗ Giải nguyên, Phan Bội Châu bôn ba khắp nước Việt Nam kết giao với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh,Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện, Lê Huân, Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê Đại,...(1)

Tuy Tú Xương không nằm trong danh sách những nhà yêu nước - cùng với Phan Bội Châu - có những hoạt động tích cực chống Pháp, nhưng với văn tài, với những bài thơ thấm đẫm lòng yêu nước của ông, việc Phan Bội Châu có giao tình với ông là việc có thể xảy ra lắm. Thêm vào đó lại còn bài thơ Nhớ Bạn Phương Trời (2)
Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa, xa lắm, nhớ ta không?
Sao đang vui vẻ ra buồn bã?
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng
Lúc nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng
Nỗi riêng riêng cả đến tình chung
Tương tư lọ phải là trai gái
Một ngọn đèn khuya trống điểm thùng

thì tra cứu trong tập Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Thơ Trữ Tình, tôi thấy ở phần chú thích đã được ghi rõ ràng là: “Bài này tác giả viết tặng Phan Bội Châu”. Như vậy, phần đầu của lời đồn về mối giao tình đã trở thành sự thật. Riêng phần còn lại của lời đồn:
Chỗ bến đò mà Tú Xương cảm hoài chính là chỗ ban đêm nghĩa quân lén qua sông nên giả tiếng ếch kêu để làm hiệu.  Khi đã xảy đàn tan nghé, ông Tú Vị Xương mới đêm nằm nghe tiếng ếch bên tai mà nhớ lúc xưa, và giật mình còn ngỡ (tưởng) tiếng ai gọi đò…

thì chưa thể kiểm chứng được.
Thôi thì cứ cho toàn bộ lời đồn ấy là thật và xem lại bài Sông Lấp của Tú Xương:

Sông xưa rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

trong đó tiếng ai gọi đò (chữ nghiêng) ám chỉ tiếng ếch kêu làm hiệu của nghĩa quân để gọi đò qua sông. Bốn chữ tiếng ai gọi đò được viết nghiêng là để phân biệt với tiếng gọi đò bình thường của khách trong cuộc sống hàng ngày ở bến đò. Để người đọc có thể hiểu được cái ẩn ý ấy người làm thơ phải có một đoạn chú thích.
Nhưng có những bài thơ sử dụng phép ẩn dụ mà lại ở vào thế “tấn thối lưỡng nan”, nghĩa là có hai đặc tính mâu thuẫn: bất khả chú thíchbất khả liên tưởng. Tác giả không thể chú thích rõ ràng để người đọc dễ hiểu, thường là vì ba lý do:

1/ An ninh: có thể bị tù tội, có khi mất đầu.

2/ Tế nhị: không muốn công khai xúc phạm đối tượng của phép ẩn dụ; như thế sỗ sàng quá.

3/ Kỹ thuật thơ: chú thích sẽ “bật mí” ẩn ý, sẽ giết chết phép ẩn dụ.
Còn người đọc thì không thể dùng khả năng liên tưởng để hiểu ý được vì khoảng cách giữa tứ và ý quá xa, không thể bắc cầu.
Bài thơ Sông Lấp (nếu chấp nhận toàn bộ lời đồn là thật) ở vào trường hợp này.

Nhà thơ ở vào thế “bị triệt buộc”: bất khả chú thích , bất khả liên tưởng. Nếu chú thích sẽ vô hiệu hóa phép ẩn dụ; nếu không chú thích thì người đọc sẽ không thể lần ra ẩn ý của mình. Trường hợp chấp nhận hy sinh phép ẩn dụ để đi về hướng lời đồn, đưa đoạn chú thích vào bài bình thơ thì, bài thơ, dù vẫn còn nguyên 4 câu, 28 chữ (không thay đổi chữ nào) nhưng cấu tứ đã trở nên rời rạc, lỏng lẻo.
Hồn cốt của bài thơ hoàn toàn nằm trong tiếng ếch và tiếng gọi đò. Con sông còn đấy hay đã bị lấp cũng không quan trọng. Giả sử gia đình ông Tú dời nhà xa hẳn con sông Vị Hoàng. Cơn mưa đêm vừa tạnh; tiếng ếch kêu từ ruộng mạ nhà ai vọng lại; ông giật thót mình rồi cao hứng viết bài thơ. Lúc ấy chỉ tiếng ếch kêu cũng đủ gợi nhớ đến tiếng gọi đò của nghĩa quân. Hai câu đầu và cả cái tựa Sông Lấp của bài thơ cũng có thể vứt đi để thay bằng hai câu khác, cái tựa khác, mà vẫn không ảnh hưởng gì đến tứ thơ.

Mất đi phép ẩn dụ tài tình, mất đi tính chất đắc địa của câu chữ, Sông Lấp, với cách hiểu ấy, đã mất hẳn bản sắc của nó, chắc không thể có chỗ đứng trang trọng trong lòng người yêu thơ như ngày hôm nay. 
Để viết những bài bình thơ tác giả thường dựa vào văn bản, lịch sử, văn học sử, sự hiểu biết về thơ, kinh nghiệm làm thơ và một chút trực giác trong việc cảm nhận thơ ca của mình. Những giai thoại, những lời đồn trong làng thơ, theo tôi, chỉ nên được xem như những chiếc lá, những bông hoa trang điểm chứ không nên đưa vào làm thân, làm gốc cho một bài bình thơ.

Nhưng dù sao đi nữa cũng xin thành thật cám ơn Lưu Na. “Mẩu viết ngắn” của Lưu Na đã làm bài viết của tôi tươi mát hơn. Tôi đã có dịp nhìn lại bài thơ Sông Lấp một lần nữa, kỹ càng hơn, cẩn trọng hơn. Và đã nhận ra rằng: “Lời đồn, dù có căn cứ, dù đầy tính thuyết phục, cũng chỉ là …lời đồn.”
Chú thích:

(1)               Wikipedia.org

(2)               Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Thơ Trữ Tình, NXB Giáo Dục, 2004 (tr.914)

Phạm Đức Nhì

Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2016

TRAO ĐỔI VỚI ÔNG HÀ ĐỊNH VĂN


TRAO ĐỔI VỚI ÔNG HÀ ĐỊNH VĂN

 Lời nói đầu:
Trong thời gian viết lời bình cho Ba Bài Thơ Phản Kháng tôi có trao đổi emails với một độc giả là ông Hà Định Văn. Sau khi 3 bài viết hoàn thành, đọc lại emails thấy những điều chúng tôi trao đổi có liên quan đến Thơ, đặc biệt là bài Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy nên theo tôi, có thể xem là một cuộc đối thoại văn học nho nhỏ. Được sự đồng ý của ông Hà Định Văn xin được chia sẻ với bạn đọc để rộng đường dư luận.(Phần in đậm là theo ý của ông Hà Định Văn)

1/

Kính gửi Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì.

Thưa ông, tôi một người đã khá lớn tuổi (U 60) quê gốc Việt Trì – Phú Thọ hiện đang sống ở Cam Ranh – Khánh Hòa. Lâu nay, tôi vẫn thường đọc các bài phê bình của ông trên các trang mạng. Những bài viết của ông dù ngắn hay dài đều giúp tôi có thêm những nhận thức mới về giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Vì vậy, nếu có thể và không có gì phiền, tôi rất mong được ông gửi cho tôi theo địa chỉ email này, tuyển tập những bài lý luận, phê bình của ông về văn học trong nước, hải ngoại và quốc tế. Xin trân trọng cảm ơn ông. Kính chúc ông những ngày cuối tuần có nhiều niềm vui.
Kính thư. Hà Định Văn.

 2/
Thưa ông Hà Định Văn,


Cám ơn ông đã quan tâm đến những bài viết của tôi. Tôi bình thơ với mục đích đem kiến thức và khả năng cảm nhận thơ ca của mình truyền cho lớp trẻ VN. Mỗi bài bình thơ, dù ngắn hay dài, đều chứa một "điểm gì đó" giúp người đọc nâng cao trình độ của mình khi thưởng thức thơ hoặc làm thơ. Ông nhận ra điều đó tức là công việc của tôi đã phần nào thành công.


Tôi mới lập một trang web chuyên về bình thơ phamnhibinhtho.blogspot.com


Một số kha khá những bài bình thơ của tôi được đăng ở đó. Trang web tổ chức còn luộm thuộm vì tôi bận tra cứu viết bài. Mời ông Hà Định Văn vào thăm.


Phạm Đức Nhì


3/


 Thưa ông Phạm Đức Nhì,
Tối qua tôi đã vào được trang Web của ông, lần lượt đọc tất cả các bài, và tôi rất thích. Tôi thấy thật tiếc là bây giờ tôi mới được biết và được đọc những bài lý luận phê bình sắc sảo, khách quan, kiến thức sâu rộng, ý tứ uyên thâm của ông. Ở trong nước tôi chỉ đọc các ông : Lại Nguyên Ân; Hoàng Ngọc Hiến; Đặng Văn Sinh; Nguyễn Chính; Phạm Xuân Nguyên và một vài người khác thôi. 

Sau 1975 được đọc các tác phẩm văn học (thơ, văn...) của các tác giả phía Nam, tôi mới thấy những điều tôi đọc trước đây đúng là thứ văn nghệ nô bộc, cùng đám văn nô, bồi bút của đám "cuốc doanh" thật là thảm hại. Một lần nữa xin được cảm ơn ông. Tôi sẽ thường xuyên vào trang Web của ông để học hỏi.


Kính chào ông.
Hà Định Văn.


4/
Chào ông Hà Định Văn,
Cám ơn ông đã có thiện cảm với cách viết của tôi. Tôi bình thơ không hoa mỹ, đao to búa lớn như những nhà phê bình "lớn" khác. Đối tượng tôi hướng đến là lớp trẻ Việt Nam. Tôi thực hiện trang web cũng là hướng đến họ. Tôi cũng làm thơ nên cũng đem kinh nghiệm của mình vào phê bình.

Những Tiêu Chí để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ tôi tổng hợp từ các trang web văn học ở VN và hải ngoại. Thêm vào đó tôi có một nhóm "thầy và bạn văn chương" người Mỹ giúp ý kiến nên những bài bình của tôi có thể chưa Hay nhưng không đến nỗi sai lạc. Mà nếu có sai lạc tôi sẽ nhận lỗi và sửa chữa.
Chúc ông vui khỏe
Phạm Đức Nhì

5/
Kính Gởi Nhà thơ, Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì,

Thưa Nhà thơ, Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì.

Hôm nay vào Blog Phamducnhi đọc bài phê bình của ông “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Nỗi Đau Quặn Thắt Của Một Người Việt Yêu Nước”, tôi thấy hay quá. Hồi đầu năm nay, tôi đã đọc trên trang Vanviet bài của Chu Văn Sơn (1) bình bài thơ này, tôi đã lập tức viết cho ông Chu Văn Sơn mấy dòng như sau :

Sau khi đọc rất kỹ bài “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng” của ông, tôi đã có ý kiến gửi BBT như sau : “Tôi rất yêu thơ Nguyễn Duy. Tôi đã có hẳn một sưu tập những bài thơ tôi thích nhất của nhà thơ này. Hôm nay vào VanViet , thấy có bài phê bình của tác giả Chu Văn Sơn là tôi đọc ngay. Nhưng thật tiếc, bài viết quá dài mà chỉ toàn chữ nghĩa "nhà trường" thôi, nên tác giả đã "bình" không ra cái "nhân", cái "cốt" của bài thơ. Tôi cố đọc, mong có được một đoạn bình "trúng", nhưng đã thất vọng. Tác giả lấy cái tựa là: "NHÌN TỪ XA… TỔ QUỐC - TIẾNG THƠ QUẰN QUẠI BI HÙNG", nhưng lại vòng vo chữ nghĩa, nên người đọc như tôi không bị thuyết phục bởi hiệu ứng từ bài phê bình. Trong khi tôi đọc riêng cả bài thơ thì cảm nhận có được từ tư duy, ngôn ngữ và thông điệp của bài thơ thật khác với bài phê bình”.

Thưa ông Chu Văn Sơn, 

Chắc ông cũng biết với một người phê bình có tài, có tâm thì không thể có kiểu phê bình hời hợt, nửa vời, vô bổ như vậy. Tôi nghĩ, chắc chắn “trường phái lý luận phê bình quan phương, hướng thượng kiểu Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức” v.v… đã, đang và sẽ không thể còn có chỗ trong lòng thế hệ người đọc hiện nay. Cách đây hơn ¼ thế kỷ, sự truy vấn trách nhiệm về căn nguyên, cội nguồn cái ác, cái lưu manh, cái khốn nạn đã tàn phá nhân dân này, đất nước này của bài thơ “ Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” , đến nay (2015) vẫn nóng bỏng tính thời sự. Đó mới là cốt lõi của thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến người đọc. Bình không ra cái thông điệp đó là thất bại của nhà phê bình đấy, thưa ông . Nhân ngày đầu năm, có mấy lời mạo muội gửi tới ông.
Trân trọng! Hà Định Văn.

Xin cảm ơn ông Phạm Đức Nhì về bài phê bình sâu sắc rất thuyết phục này. Kính chúc ông thật nhiều sức khỏe, ngày cuối tuần có nhiều niềm vui.

Kính thư. Hà Định Văn.


6/
Chào ông Hà Định Văn
Không biết đâu là Họ, đâu là Tên - nếu sai, mong lượng thứ.
Cám ơn ông đã đọc bài Bình Thơ mà tôi đã bỏ vào khá nhiêu công sức.

Tôi đã viết Lời Bình cho 3 bài thơ phản kháng. Đang viết một bài Tổng Hợp để So Sánh. Nếu ông không phản đối, có thê tôi sẽ trích một phần (hay toàn thể) thư ông vừa gởi cho tôi để đưa vào bài viết trên. Coi như đây là lời xin phép.
Nhân tiện gởi ông Lời Bình của 2 bài thơ phản kháng khác.

Chúc ông vui khỏe.
Phạm Đức Nhì

7/
Kg Nhà Thơ, Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì.

Chiều nay tôi đã đọc xong lần thứ hai chùm 3 bài phê bình của ông: Bánh Vẽ – Tạ Lỗi Trường Sơn – Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc.

Thật là quá hay, quá sâu sắc. Rất cảm ơn ông. Trong email trước, với tư cách một người đọc, tôi có nêu một số ý kiến cá nhân về bài của ông Chu Văn Sơn bình bài thơ  Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc trên VanViet, nếu thấy có chút ít gì chia sẻ được cùng bạn đọc, ông cứ tùy nghi sử dụng.

Trân trọng kính chào ông.
Kính thư
Hà Định Văn.

8/
Thưa ông Hà Định Văn,
Bài viết tổng hợp của tôi chưa xong nhưng tôi đã góp nhặt thư từ trao đổi của ông và tôi thành một "bài" với cái tựa Trao Đổi Với Ông Hà Định Văn. Tôi có bỏ một vài đoạn không cần thiết.

Tôi gởi đến ông đọc thử. Nếu ông cho phép tôi sẽ phổ biến bài viết coi như một cuộc đối thoại văn học nho nhỏ.
Mong tin ông,
Phạm Đức Nhì

9/
Nhà Thơ , Nhà Phê Bình Phạm Đức Nhì kính mến.

Cảm ơn ông đã gửi cho tôi đọc lại các ý kiến nhỏ mà chúng ta đã trao đổi và đã được ông "góp nhặt" như ông nói là một cuộc "đối thoại văn học nho nhỏ". Vâng! Xin ông cứ đưa lên trang Web để bạn đọc cùng tham khảo.

Kính thư
Hà Định Văn.


Chú Thích:

1/ Tiến Sĩ Văn Chương, tác giả bài viết Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng. Độc giả có thể đọc bài viết ấy qua link:



10/
Rất cảm ơn Nhà Thơ, Nhà Phê Bình Phạm Đức Nhì.
Tôi vừa cùng hai người bạn đồng niên yêu văn học đã đọc bài viết này (So Sánh Ba Bài Thơ Phản Kháng). https://binhthochonloc.blogspot.com/2021/09/ba-bai-tho-phan-khang-loi-binh-va-so.html

 

Chúng tôi đều rất tâm đắc về sự phân tích, so sánh sâu sắc, khách quan , xác đáng của ông. Ở trong nước, cho đến nay vẫn chưa thấy (hoặc có mà chưa xuất hiện) một thầy giáo chuyên ngành ngữ văn nào ở bậc đại học và trên đại học có những bài giảng như vậy, để giúp học trò hiểu đúng về một tác giả và tác phẩm nổi tiếng của họ.
Xin trân trọng cảm ơn ông.
Hà Định Văn.


Thư Của Nhà Thơ Nguyễn Khôi

Thân gửi : Nhà thơ Phạm Đức Nhì,

Đây là một "Tiểu luận bình thơ" xưa nay chưa từng có ở Việt Nam (cả trong/ ngoài nước) kể từ khi nhóm Nhân Văn -Giai Phẩm "phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu" (1956). Có thể nói là lý lẽ rất sắc sảo, rất HAY, rất xác đáng và đích đáng, có tác dụng làm thức tỉnh những ai đã mấy chục năm qua chỉ quen thưởng thức một chiều (lề phải) về Thơ Tố Hữu , Chế Lan Viên (ở mảng Ngợi ca "Người thay đổi đời tôi/Người thay đổi Thơ Tôi", chứ chưa phải thời viết Di cảo , trước khi chết).

Theo thiển ý của NK thì Phạm Đức Nhì nên đổi lại đầu đề là : SO SÁNH 3 SIÊU PHẨM THƠ PHẢN BIỆN
Lý giải :
- Phản kháng là nói trái lại, chống đối 1 chiều, quyết liệt nhưng chưa chắc đã có tính thuyết phục.
- Phản biện, tuy cũng là nói trái lại, nhưng là nói có lý lẽ, phân tích phải/ trái, đúng sai... của "người cùng đội ngũ / lề phải" (không thuộc phe lề trái / phản động) nhằm "giải mê", làm thức tỉnh đồng chí/ đồng bào thấy được "sự thật" (bản chất của chế độ xã hội/ thời thế mà họ đang sống).

Ba bài đều HAY, đạt mức SIÊU PHẨM THƠ PHẢN BIỆN...
Trong 3 bài thì bài "Nhìn từ xa Tổ Quốc của Nguyễn Duy" là hay hơn cả, nó là "một tác phẩm lớn" có tác dụng thức tỉnh rất rộng và rất sâu đối với mọi tầng lớp người Việt Nam trong và ngoài nước (kiểu hãy mở mắt ra mà nhìn thực trạng Đất nước...) : ý mới, tứ lạ, hình tượng thơ sống động ,ngôn ngữ điêu luyện...Thi pháp Nguyễn Duy ở bài thơ này đã đạt đỉnh cao về "thơ hiện thực phê phán" có giá trị phúng dụ cao.

Bài "Bánh vẽ " của Chế lan Viên... qua lời bình của Phạm Đức Nhì đã bóc mẽ rất thật "chân tướng Chế lan Viên " : thông minh /tài - cơ hội- ác. Bài thơ là một sự phản tỉnh "huỵch toẹt" của Chế , nhưng vẫn "rất cơ hội" để phải khi đã chết rồi mới dám cho vợ công bố (kiểu để hạ cánh an toàn một cách chắc chắn đã...), Thơ khô, khó đọc, không hấp dẫn ...chỉ số ít người hiểu được "thâm ý" của Chế, nên tác dụng không rộng rãi...

Bài "Tạ Lỗi Trường Sơn" của "Nhà thơ Quê hương là chùm khế ngọt" khá HAY, đượm...tuy vậy nó chỉ như một cơn gió thoảng qua. ít người để ý.

Đôi lời thô thiển , cảm nghĩ...NK xin được bày tỏ, chia sẻ cùng Nhà thơ Phạm Đức Nhì...có điều gì bất cập, xin được lượng thứ.

Hà Nội 17-8-2016
Kính : Nguyễn Khôi

Thứ Tư, 10 tháng 8, 2016

AI HOÀI CỔ HƠN AI?


                   AI  HOÀI  CỔ  HƠN  AI?

 Khoảng cuối năm 2011, một người bạn văn chương ở trong nước gởi cho tôi 4 bài thơ kèm theo một câu hỏi như kiểu đánh đố: “Ai hoài cổ hơn ai?” Tôi hiểu ý anh bạn, nhưng theo tôi, cách đặt vấn đề của anh không được chính xác lắm. Với một người thích đọc thơ và thỉnh thoảng cũng làm thơ như tôi, câu hỏi đó phải là: “Trong 4 bài thơ thể hiện tâm tình hoài cổ, bài thơ nào hay hơn? Hoặc tài thơ của tác giả nào cao hơn?”
Đến khi tra cứu để bình bài thơ Sông Lấp tôi lại đọc được bài Về Bài Thơ Sông Lấp Của Tú Xương (1) của Vũ Bình Lục, trong đó tác giả cho rằng: “… Tú Xương và Nguyễn Khuyến, căn cốt vẫn là những nhà thơ trữ tình đặc sắc của dân tộc. Phải nói thêm là cả hai cụ, đều trữ tình ngay cả trong trào phúng và ngược lại. Riêng về thơ, về tài thơ thì tôi cũng muốn xếp cụ Tú Xương cao hơn một tí. Cụ Nguyễn Khuyến kinh điển hơn, uyên bác hơn, nhưng đó lại chính là chỗ gây khó cho nhà thơ nổi tiếng này.”

Với tôi, thi sĩ, ngay cả trong cùng một loại thơ, như thơ trữ tình chẳng hạn, không phải lúc nào cũng sáng tác đều tay như một cỗ máy sản xuất một món hàng công nghệ. Có khi cao hứng, chữ nghĩa, ý tứ từ trên trời rơi xuống, viết được bài thơ rất hay. Nhưng cũng có khi, bài thơ viết ra chỉ muốn vứt vào sọt rác, hoặc giả đem trình làng, thì chỉ như viên sỏi vứt xuống biển, chẳng thấy tăm hơi gì cả.

Có thi sĩ chỉ viết có vài bài mà nổi danh, nhưng cũng có người in hết tập này đến tập khác mà khi xưng tên thì chả ai biết ngài là ai cả. Bởi vậy, tôi không dám dùng phương cách đem “gia tài thơ” của cả hai thi sĩ đặt lên bàn cân rồi kết luận ai tài hơn ai. Công việc ấy không phải là không làm được, nhưng phải cần một ê-kíp những nhà phê bình văn học có tài, phải ra công tra cứu ngọn ngành, phân tích chi li, kỹ lưỡng, phải có óc tổng hợp, phải cân nhắc đủ chiều, đủ mặt. Mà dù có làm được việc ấy, kết luận đưa ra vẫn còn đầy tính chủ quan, còn gây nhiều tranh cãi.

Thôi thì “mèo bé bắt chuột con”, thỉnh thoảng tôi chỉ dám đem bài thơ này so sánh với bài thơ kia (nhưng chỉ giới hạn scope của việc so sánh vào một đặc điểm nào đó thôi). Theo tôi, nếu chọn hai bài thơ thuộc loại “những con tương cận”, nghĩa là có chung một đặc điểm nào đó (chung một đề tài, chung một thủ pháp nghệ thuật…) thì việc so sánh sẽ dễ hơn. Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác và Cảm Hoài của Đặng Dung là “những con tương cận” vì có chung một đề tài, một tâm sự; đó là hào khí của một sĩ phu trước cảnh nước nhà nguy biến. Dĩ nhiên, khi so sánh, có người coi trọng cách dùng chữ, có người coi trọng cái thâm trầm, sâu sắc, người khác lại thích cái hào sảng, phóng khoáng, hơi thơ nóng bỏng, dòng chảy cuồn cuộn như thác đổ. Và từ đó họ có sự đánh giá cao thấp khác nhau.

Trong tinh thần đó tôi thấy việc tìm câu trả lời cho câu hỏi của anh bạn về 4 bài thơ là khả thi. Bốn bài thơ đó là:

1)    Nhớ Quy Nhơn của Vương Linh.

2)    Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan.

3)    Ông Đồ của Vũ Đình Liên.

4)    Sông Lấp của Tú Xương.

 Hoài cổ là nhớ thương, tiếc nuối một thời đã qua. Như vậy, Nhớ Quy Nhơn, đúng ra, là tâm tình hoài hương chứ không hẳn là hoài cổ. Dĩ nhiên, trong hoài hương đã ẩn chứa hoài cổ (Nhớ Quy Nhơn là nhớ cả cái thời gian mình đã sống ở Quy Nhơn). Tuy nhiên, ở đây khung trời quê hương mới chính là tâm điểm của bài thơ. Ba bài còn lại thì đúng là hoài cổ; nhớ thương, tiếc nuối đều xoáy vào “một thời đã mất”.

 

NHỚ  QUY  NHƠN (2)

                   Không đủ ban ngày để nhớ nhau

                   Tối nằm chợp mắt đã chiêm bao

                   Nửa đêm trở dậy hương rừng thoảng

                   Tương biển Quy Nhơn gió thổi vào.

                             (Vương Linh, 1921-1992)

 Không rõ trước khi rời quê hương miền trung, tập kết ra bắc (1954), chàng thanh niên Lê Công Đao (Vương Linh) có được đọc và học thơ Trần Tế Xương không, chứ đọc Nhớ Quy Nhơn của ông tôi thấy rất đậm mùi … Sông Lấp. Tuy không sử dụng phép ẩn dụ, Nhớ Quy Nhơn cũng dùng cách bày tỏ, diễn tả chứ không kể lể, biện giải dài dòng (show, not tell), cũng ngửi cái này, tưởng cái kia. Riêng mức độ tài năng thì cao thấp rất rõ nét. Thôi thì cứ cho hoàn toàn là do tình cờ mà hai bài thơ có hơi hướm giống nhau, chỉ riêng thủ pháp “show, not tell” đã cho người đọc thấy rõ sự “không khéo” của Vương Linh. Trước hết, thay vì dùng hình ảnh khác để người đọc liên tưởng đến Quy Nhơn thì Vương Linh lại bí bách đến độ ôm hai chữ Quy Nhơn, rất vụng về, nhét vào câu thứ tư:

                   Tưởng biển Quy Nhơn gió thổi vào

 Rồi cái tựa Nhớ Quy Nhơn của bài thơ thì lại “lạy ông tôi ở bụi này”, khiến cái phương cách “show, not tell” trở thành “half-show, half- tell”, nửa đời, nửa đoạn.

 Nhớ Quy Nhơn đưọc chọn đăng trong tập Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Thơ Trữ Tình và được Nguyễn Bùi Vợi khá mạnh miệng ngợi khen. (2)

 Theo tôi, giá trị nghệ thuật của Nhớ Quy Nhơn chỉ ở mức trung bình. Không kể cái “tội” na ná vóc dáng của Sông Lấp, mà chỉ riêng cái thủ pháp “half-show, half-tell” nửa đời, nửa đoạn cũng đủ xếp bài thơ ở cuối bảng trong số 4 bài thơ mà tôi được “yêu cầu” bình phẩm.

 Với Nhớ Quy Nhơn của Vương Linh ở hạng tư, vị trí hạng ba sẽ dành cho Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan (3). Lý do: TLTHC là một bài thơ Đường luật hay, ngôn ngữ sang cả, cảm xúc dạt dào nhưng có hai khuyết điểm mang tính thời đại là hình ảnh khuôn sáo và thể thơ gò bó.
Còn Ông Đồ (4) và Sông Lấp (5) đều là tuyệt tác, đều có những “tuyệt chiêu” trong thơ ca. Việc chọn lựa vị trí hạng nhì và hạng nhất cũng làm tôi có một chút đắn đo, suy nghĩ. Sau đây là một vài điểm so sánh, cân nhắc:

-         Cả hai đều áp dụng thủ pháp “show, not tell” thành công.

-         Cả hai đều có phép ẩn dụ hoàn hảo, kín kẽ (không sơ hở); tuy nhiên, phép ẩn dụ của Sông Lấp tài tình hơn, sâu kín hơn.

-         Tứ thơ của cả hai bài đều mạch lạc; cảm xúc, hình ảnh tuôn chảy theo một trình tự hợp lý.

-         Trận địa chữ nghĩa của Ông Đồ lớn hơn, bề thế hơn; nhưng câu chữ, âm thanh, hình ảnh, cảm xúc của Sông Lấp được xếp đặt, nối kết như một thế trận chặt chẽ hơn.

-         Ông Đồ có “tuyệt chiêu” thi hóa thân thành họa; Sông Lấp không có.

-         “Tuyệt chiêu” thi hóa thân thành họa của Ông Đồ không hoàn hảo; bức tranh thứ năm vẫn cồm cộm chữ nghĩa.

-         Sông Lấp không có hội chứng nhàm chán vần; vị ngọt thơ ca của Ông Đồ hơi đậm.

 Dựa vào những phân tích trên đây, tôi, với cái nhìn chủ quan của mình, chọn Sông Lấp vào vị trí hạng nhất. Như vậy, thứ tự (từ cao xuống thấp) của 4 bài như sau:

1)    Sông Lấp.

2)    Ông Đồ

3)    Thăng Long Thành Hoài Cổ

4)    Nhớ Quy Nhơn.

       Nếu có ai trong số người đọc có cái nhìn khác, nhận định khác, cách xếp hạng khác xin e-mail cho tôi biết. Tôi sẽ thêm vào phần “ý kiến bạn đọc”.

 Phạm Đức Nhì

Galveston, đầu năm 2014

Rất mong nhận được chỉ điểm, bổ khuyết, phê bình của những người yêu thơ. (nhidpham@gmail.com)

 

 

 

 

 

Chú thích

(1) lethieunhon.com

(2) Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Thơ Trữ Tình, Nhà xuất bản Giáo Dục 2004, trang 418.

(3) Xin xem thêm Đọc Thăng Long Thành Hoài Cổ Nghĩ Về Vị Trí Của Thơ Đường Luật (t-van.net)

(4) Xin xem thêm Ông Đồ: Những Bức Tranh Thơ. (t-van.net)

(5) Xin xem thêm Sông Lấp: Một Bài Thơ Toàn Bích (t-van.net)