Bài 1
Nhận Diện Thơ
GÓP Ý VỚI CUỘC ĐỐI THOẠI "THẾ NÀO THÌ GỌI LÀ THƠ?"
1/ Nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, đến từ bề mặt của ý thức; tâm của tác giả chưa có cơ hội đối diện với, hoặc bước vào, khung cảnh của bài thơ.
1/
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
Không làm các việc ác
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Thân như bóng chớp có rồi không
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không
Để nhờ không khí đẩy lên trăng
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi
Để hớp tinh anh của nguyệt cầu
Và để thoát ly ngoài thế giới
Để cười, để trững, để yêu nhau.
Con ếch tung mình xuống
Và vang tiếng nước xao
(Bashô)
THƠ CON CÓC CÓ PHẢI LÀ THƠ?
Bài thơ Đồng Dao Cho Người Lớn của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, theo em thấy nó "khô" quá. Vậy có phải là thơ không anh?
BÀI 4
Nhận Diện Thơ
TRAO ĐỔI VỀ "BÀI THƠ" ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN
Tôi đã đọc bình luận của bác dưới bài viết và thấy rằng nhìn nhận và đánh giá của bác và tôi về bài ĐDCNL của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, quả thật, có khác nhau. Xin phép được làm rõ vài điểm trong bình luận của bác.
1/ Xét về mặt hình thức, ĐDCNL có phải là Vè không?
Theo Đỗ Trọng Khơi, “Đồng Dao của Nguyễn Trọng Tạo viết ở nhịp 8 chữ nhưng soi chẻ rạch ròi vẫn thấy cái dư khí của hồn bốn chữ dân gian”. Tôi đồng ý với anh ở điểm này. Cho nên ĐDCNL – đúng như cái tựa của nó – là một bài đồng dao (biến thể). Mà đồng dao, theo đoạn trích trong Wikipedia Tiếng Việt ở trong bài viết của tôi, là một loại vè. Chính vì thế, theo tôi, khi chọn cái tựa ấy, về mặt hình thức, tác giả đã vô tình tự xếp loại nó là vè.
Tuy nhiên, để khỏi lầm trường hợp mà theo bác, “Nguyễn Trọng Tạo chỉ ‘mượn’ hình thức đồng dao thôi” nên tôi phải nhìn vào nội dung. Nếu nó có cảm xúc từ cái tôi riêng tư của tác giả thì đúng là một bài thơ mượn hình thức đồng dao. Nếu nó tuyệt nhiên không có một tý ty cảm xúc của “cái tôi riêng tư” thì trong trường hợp này, vì đã có hình thức đồng dao, nó sẽ là bài Vè. Tôi sẽ bàn về điểm này ở phần số 4.
2/ Cũng không thể nói rằng VÈ thì kém THƠ. Vè là một thể loại văn học dân gian. Một bài VÈ Hay thì quý gấp nhiều lần một bài THƠ Dở. Đó là điều không thể phản bác.
Tôi đã gặp một y tá già, giầu kinh nghiệm lại mát tay nên chạy rong chữa bệnh cho bà con trong thôn xóm được nhiều người thích. Có người phát biểu: “Y tá mà như ông M. thì còn hơn mấy anh bác sĩ mới ra trường”. Nói thì nói thế chứ đi vào thực tế thì y tá và bác sĩ ở hai đẳng cấp khác nhau, cao thấp cách nhau một trời một vực.
Vè với Thơ cũng thế. Vè là Vè, Thơ là Thơ. Hai loại ở hai đẳng cấp riêng biệt, cao thấp khác nhau. Tôi có thằng bạn nói đùa về thơ một thằng bạn khác “Thơ của mày cứ như Vè ấy”. Thằng làm thơ coi đó là điều sỉ nhục, và hai đứa giận nhau rất lâu. Hồi mới bập bẹ làm thơ, thầy giáo môn Việt Văn của tôi thường nhắc “Khéo đấy! Coi chừng thơ thành vè thì tổ làm trò cười cho thiên hạ.”
Vì thế tôi cho rằng y tá có kinh nghiệm cách mấy cũng cũng không thể vỗ ngực coi mình ngang hàng với bác sĩ; và Vè rõ ràng không thể cùng đẳng cấp với Thơ.
3/ Bác Vũ Nho viết: “Những bài đồng dao, hay vè, yếu tố cá nhân, cái tôi của tác giả hầu như khá mờ nhạt”.
Theo tôi, nếu đúng là đồng dao thì cái tôi riêng tư của tác giả không phải là “hầu như khá mờ nhạt” mà hoàn toàn vắng bóng. Bởi chỉ cần một tý tẹo teo cái tôi riêng tư thì nó đã không còn là vè nữa mà được nâng cấp thành thơ.
Trong câu thơ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo:
“Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi”
chữ “tôi” nằm sờ sờ ra đó nên rất dễ hiểu lầm là “cái tôi” của tác giả đã có mặt trong câu thơ.
Có hai điểm cần lưu ý trong “câu thơ” này:
a/ Cụm từ “Có cánh rừng chết” nói chung chung, không cụ thể, không nói rõ “cánh đồng chết” nào nên chỉ là một hình tượng đã lôi ra từ trong ký ức, là sản phẩm của lý trí chứ không phải cảnh thơ. Nếu có một đoạn trước đó nói về “cánh rừng chết” và ở đây dùng cụm từ “Cánh rừng chết ấy” thì chúng ta đã có cảnh thơ. Thí dụ như đoạn thơ dưới đây:
Cánh rừng sát bên Xóm Đạo
sau những đợt mưa bom, mưa pháo
đã thành cánh rừng chết
với người đời
nhưng trong tôi
vẫn tươi mát một màu xanh.
“Cánh rừng chết” đã là cảnh thơ nên 2 câu thơ cuối:
"nhưng trong tôi
vẫn tươi mát một màu xanh"
đã là tâm tình của cái tôi riêng tư (tác giả), ít nhiều đã có cảm xúc và đã xứng đáng được gọi là thơ. (Hay dở chưa bàn đến).
b/ Sự xuất hiện của chữ “Có” đã khiến chữ “tôi” trở thành nhân vật trong “câu kể” của tác giả chứ không phải chính tác giả - người đang sáng tác thơ. Thi sĩ Nguyễn Trọng Tạo ở đây phải đóng 2 vai. Một, là nhân vật “tôi” trong “câu kể”, đã xuất hiện trong quá khứ và đã trốn trong ký ức, giờ bị lôi ra trình làng. Hai, là người bằng xương bằng thịt đang ngồi cầm bút làm thơ.
Kết quả là câu “Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi” chỉ là hình tượng được lội ra từ ký ức, không có cái tôi riêng tư của tác giả dự phần nên không có cảm xúc và không phải là thơ.
Bài ĐDCNL chỉ có câu đầu dễ hiểu lầm là thơ, còn lại những câu khác đều là những “câu kể” phát xuất từ bề mặt ý thức, rất dễ nhận ra. Sau khi đã chấp nhận phần giải thích lý do tại sao câu đầu không phải là thơ, độc giả có thể tự kết luận cả bài không phải là thơ. ĐDCNL có hình thức là đồng dao - một loại Vè – nên nó là một bài Vè.
5/ Riêng câu nhận xét của chị KIm Phương rằng bài đó "khô" cho nên hoài nghi không biết có phải thơ không thì...thật là phiến diện. Có thơ trữ tình, có thơ trí tuệ, có thơ văn xuôi...sao cứ phải "ướt" hay "không khô" mới là THƠ?
Theo tôi hiểu, chị Kim Phượng nói “khô” với nghĩa không có tý cảm xúc riêng tư nào của tác giả. Thơ trữ tình thì không nói làm gì, còn thơ trí tuệ, thơ văn xuôi hay thơ … gì gì nữa cũng phải có cảm xúc riêng tư của tác giả thì mới gọi là thơ. Chứ “khô queo” thì nếu không là vè thì cũng là thứ dị chủng, khác loại với thơ.
ĐÀN BÀ
Có hai loại đàn bà
loại chính chuyên chung thủy với chồng
Loại không lấy chồng
suốt đời đến với đàn ông
chỉ để thỏa mãn nhu cầu xác thịt
tìm vui trong chốc lát.
Sáu câu trên chỉ là cách nhìn của tác giả về đàn bà, đến từ bề mặt ý thức, chưa phải là thơ. Nhưng chỉ cần thêm câu sau đây:
Tôi thích loại đàn bà thứ hai
thì đã có cảm xúc, tình đã xuất hiện, cả bài đã trở thành thơ. Câu “Tôi thích loại đàn bà thứ hai” là câu thơ sinh tình.
Bài ĐDCNL, tôi trộm nghĩ, do cấu trúc của đồng dao “không thành chương khúc” nên khó đưa vào một câu thơ sinh tình thích hợp.
Kết Luận
Với tôi, trang web Vũ Nho Ninh Bình của bác là một trang văn học đứng đắn. Tôi rất thích câu chào “Đây là quán tha hồ muôn khách đến!” Cám ơn bác đã cho tôi hân hạnh có một số bài được đăng ở đấy. Phần cuối của bình luận về bài viết bác đã nhắn “dù khác ý kiến với anh tôi vẫn tôn trọng đưa bài viết này”. Đó là thái độ người lớn, công tâm trong giao lưu văn học.
Với nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo, tôi một lòng kính trọng ở tài năng và uy tín của ông. Mặc dù chưa trực tiếp trò chuyện, tôi đã “gặp” ông nhiều lần trong những Ngày Thơ Nguyên Tiêu ở Văn Miếu Quốc Tử Giám. Nhận xét về tính thơ trong bài ĐDCNL của ông tôi đâu dám giỡn chơi. Tôi đã tra cứu, vận dụng kiến thức của mình về thơ ca và viết rất cẩn trọng.
Bình luận của bác đã cho tôi cơ hội nhìn lại bài viết của mình một cách kỹ càng hơn để trả lời những chất vấn của bác. Tôi tin ở những điều mình viết, nhưng với đề tài liên quan đến lý thuyết thơ, ai dám chắc là mình không sai sót? Ai dám chắc là mình được sự đồng thuận của mọi người? Tôi sẵn sàng đón nhận những phê bình, góp ý của bác và của những độc giả khác.
Một lần nữa, xin chân thành cảm ơn bác.
Đi Tìm "Cô Em Sự Thật" Trong Thơ
THI SĨ CÓ XẠO KHÔNG?
Người Đời Thường Gian Dối
Tôi học Đệ Nhất ở Lý Thường Kiệt, một trường trung học công lập quận Hốc Môn, nhưng vì nghe tiếng giáo sư Trần Bích Lan nên thỉnh thoảng cũng “vù” lên trường Văn Học ở Sài Gòn học ké mấy giờ Triết. Phải công nhận thi sĩ Nguyên Sa giảng Triết nghe đã thiệt. Có lần, không nhớ trong bài nào, thầy phát biểu:
“Do tính sĩ diện nên người đời thường gian dối; mở miệng ra là vơ cái hay, cái tốt về mình; ngay cả khi tiết lộ một chút gì xấu của cái Tôi là cũng muốn chứng tỏ mình thành thật.”
Sau khi “mất” Khánh Ngọc, Phạm Đình Chương đã sáng tác nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau trong đó có câu:
“Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin những người, ôi những người khóc lẻ loi một mình”.
Ý nhạc sĩ muốn nói chỉ những người khóc lẻ loi một mình (như ông đang khóc Khánh Ngọc) mới đáng tin là có nỗi đau buồn chân thật.
“Bởi đàng sau những giọt nước mắt
giữa đám đông
rất có thể
ẩn hiện bóng hình
loài cá sấu.”
(Kẻ Giết Chết Hồn Thơ, Phạm Đức Nhì, vandanviet.com)
Nhưng nhiểu trường hợp người ta còn dàn cảnh để “con mồi” được tận mắt xem tấn tuồng “khóc lẻ loi một mình” rồi tin và hiên ngang bước vào bẫy. (1)
Phạm Đình Chương, khi viết Nửa Hồn Thương Đau, không ngờ rằng ngay cả tiếng khóc lúc lẻ loi cũng có thể sản sinh những giọt nước mắt cá sấu. Tính gian dối của người đời sâu đậm đến như thế đấy.
Thi Sĩ Có Xạo Không?
Trở lại buổi học Triết với thầy Trần Bích Lan. Lúc ấy, vốn có tiếng nghịch ngợm lại bạo mồm, tôi ngồi tại chỗ “hỏi chõ” lên:
“Thế thi sĩ có xạo không thầy?”
Thầy nhìn về hướng tôi ngồi, trả lời tỉnh bơ:
“Có chứ, sao lại không! Khác nhau là cố ý hoặc vô tình.”
Không ngờ mấy chục năm sau, vướng “đậm” vào cái nghiệp thi ca, tôi lại phải trả lời câu hỏi của chính mình. Không biết lúc ấy thầy Trần Bích Lan trả lời thật hay đùa; tôi cũng không có cơ hội để hỏi thầy đến nơi, đến chốn.
Nhưng đọc khá nhiều thơ, thỉnh thoảng lại chất vấn tâm hồn mình – cũng là người múa bút làm thơ – tôi thấy quả đúng như thầy nói, thi sĩ nhiều người, nhiều lúc cũng “xạo tới bến”.
Tại Sao Thi Sĩ Xạo?
Lý do cũng dễ hiểu. Người đời trong giao tiếp hàng ngày, đôi lúc ở chỗ này chỗ khác, nói năng có điều gì thất thố, có xúc phạm ai thì cũng chỉ một số ít người biết. Sau đó lời nói sẽ bay đi như gió thoảng.
Còn thi sĩ, bài thơ xuất xưởng là sẽ vượt khỏi sự kiểm soát của mình, nếu sai sót điều gì hoặc đụng chạm đến ai đó, hậu quả của những dòng thơ trên giấy trắng mực đen sẽ đọng lại rất lâu.
Cho nên đặt bút viết phải cẩn trọng. Cẩn trọng sẽ mời gọi lý trí. Có lý trí xuất hiện, thi sĩ - dù muốn dù không – cũng sẽ Xạo.
CHÚ THÍCH
1/ Trong Cô Gái Đồ Long của Kim Dung tên Trường Linh đã giả vờ khóc trước bàn thờ Tạ Tốn để lừa Trương Vô Kỵ, hy vọng được Vô Kỵ tin tưởng dẫn ra Băng Hỏa Đảo.
BÀI 6
Đi Tìm "Cô Em Sự Thật" Trong Thơ
1/ Xạo Vì Ham Danh Lợi, Sắc Dục
Đây là kiểu xạo theo đúng nghĩa đen của từ “xạo” – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật - nhằm mưu cầu danh lợi, thỏa mãn sắc dục. Thi sĩ nếu vướng vào kiểu xạo này không chỉ làm mất đẹp thanh danh của mình mà còn làm ô uế chữ Thơ (viết hoa) trong sạch, cao quý của nhân loại.
Phạm tội hình sự nhiều khi có thể “qua mặt” pháp luật chứ phạm tội cố ý xạo (vì danh lợi) trong thơ thì sớm muộn gì cũng bị vạch mặt, chỉ tên.
2/ Xạo Vì Sợ, Vì Hèn, Vì Teo Chim
Đây cũng là kiểu xạo theo đúng nghĩa đen của từ “xạo” – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật. Thi sĩ để “cái tôi teo chim” lấn át “cái tôi văn hóa” và “cái tôi đích thực”. Biến chứng của nó là thái độ “nâng bi” chế độ, lãnh tụ, cấp trên - những người có quyền quyết định sự an nguy, thăng tiến hoặc tụt hậu của mình và gia đình.
Giữa “cái tôi văn hóa” và “cái tôi teo chim” thì “cái tôi teo chim” mạnh hơn, có uy thế hơn nhiều. Nghĩ đến chết chóc, tù đày, gia đình bị tước đoạt mọi phương tiện, nguồn sống, ngòi bút của thi sĩ đôi lúc phải cong lại hoặc vừa viết lại vừa phải “lách”. Cái xấu phủ đến đen mặt thì lờ đi, cái tốt thì có ít xít ra nhiều, nếu không có thì bịa ra, “bốc thơm” đến tận trời xanh. Thí dụ cụ thể về kiểu xạo này không thiếu nhưng tôi không trích dẫn. Sợ bị trách nặng tay bên này, nhẹ tay bên kia.
Làm thơ mà xạo là không đẹp. Trước tiên, nó làm mất đẹp thanh danh của mình. Sau nữa còn làm ô uế chữ Thơ (viết hoa) trong sạch, cao quý của nhân loại. Tuy nhiên, xạo vì teo chim dù sao cũng có chỗ để châm chước, thông cảm. Sống trong hoàn cảnh bó buộc như thế đâu phải ai cũng có máu anh hùng.
3/ Xạo Vì Đứng Về Một Phía Của Một Vấn Đề Hai Mặt
Đây là kiểu xạo “xoay trở tứ thơ” để có góc nhìn thuận lợi cho phe mình, mục đích để giành chiến thắng trong một cuộc tranh luận. Chủ thể đối luận có thể trực tiếp tranh cãi nhưng cũng có thể vắng mặt để thi sĩ một mình một chợ dàn trải quan điểm của mình. Đây là kiểu xạo
còn phe bên kia
phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu.
Kiểu xạo này rất thường gặp, dính líu đến lập trường, quan điểm, được cả thi sĩ và độc giả chấp nhận. Dĩ nhiên, nó đỡ xấu hơn xạo vì danh lợi riêng tư.
4/ Xạo Vì Xê Dịch Kịch Bản Của Bài Thơ
Kịch Bản Thơ
Đã làm thơ, khi chữ nghĩa cùng với cảm xúc tuôn ra, chúng phải “chảy” về một hướng nào đó, bằng một “con kênh” nào đó. Con kênh có thể có trước, cũng có thể xuất hiện cùng thời điểm lúc chữ nghĩa và cảm xúc tuôn ra. (Trường hợp sau thì thơ dễ có hồn hơn).
Trong thực tế, ít ai từ lúc cầm bút viết những chữ đầu tiên của bài thơ cho đến khi buông bút là có “đứa con tinh thần” chào đời. Có khi ngày hôm sau, tuần sau, nhiều trường hợp còn lâu hơn nữa, phải quay trở lại tiếp tục công việc đang bỏ dở. Lúc ấy, đoạn sau phải viết sao cho ăn khớp với đoạn trước và phải phù hợp với bức tranh toàn cảnh của bài thơ.
Có điều chắc chắn rằng khi bài thơ hoàn tất, cả thi sĩ và người đọc sẽ nhận ra – có thể độ đậm nhạt khác nhau - hình ảnh của con kênh đó. Đó chính là bố cục mà riêng tôi có khi gọi là thế trận chữ nghĩa, hoặc kịch bản của bài thơ.
Kịch Bản Xê Dịch
Xin lập lại một đoạn trong bài viết khác:
Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện.
Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy.
Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được. (1)
Chúng ta thử đọc đoạn kết bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:
Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Tôi không tin là trong thực tế, con số chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn.
Ở đây thủ pháp “bộc lộ, không kể” (Show, Don’t Tell) được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời.
Chắc Độc giả cũng đồng ý với tôi sự xê dịch kịch bản chút ít của Giấc Mơ Anh Lái Đò là có thể chấp nhận được.
Trường hợp này khác với “lối nói thậm xưng” tôi sẽ đề cập ở phần sau.
Kịch Bản Xê Dịch Quá Nhiều Thành Xạo
Nhưng đôi khi có những kịch bản bị xê dịch quá nhiều, đi đến chỗ không hợp tình, hợp lý. Độc giả sẽ cho rằng thi sĩ “xạo”, và bài thơ thất bại.
Bài thơ Tình Yêu Không Lời của thi sĩ Phạm Trung Dũng có tứ thơ khá lạ và cảm động về mối tình của một chàng trai với cô gái câm điếc. Nhưng kịch bản của bài thơ đã được tác giả nêm nếm quá tay.
TÌNH YÊU KHÔNG LỜI
Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái nhành tim tím sang nhà em chơi
Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu...
Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi
Lặng yên... Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ.
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao thì cháy hết mình vẫn trao.
Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?
Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy, em ngồi lặng im.
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm.
Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ.
Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi.
(Phạm Trung Dũng)
Là hàng xóm sát mái, kề hè với nhau mấy tháng trời - có khi cả năm - (mấy mùa cây khế trổ hoa), lại sang nhà cô chơi mấy lần mà phải chờ đến khi hai người “tò tí” xong, đọc mẩu giấy cô gái nhét vào tay, mới biết cô gái bị câm điếc và bàng hoàng thương cảm, thì thật không thể nào tin nổi.
Phạm Trung Dũng không những chỉ nêm nếm quá tay mà – trong quá trình làm thơ và kiểm soát lại trước khi phổ biến – anh đã tự bịt mắt mình để không thấy những điều phi lý lẽ ra phải thấy.
Khi nhận ra chi tiết chính trong kịch bản của bài thơ không phải chỉ “không hợp tình hợp lý” mà còn xạo một cách trắng trợn, cảm xúc có được qua việc đọc thơ chỉ là thứ cảm xúc giả tạo, độc giả cảm thấy bẽ bàng vì bị xúc phạm. Bài thơ thất bại một cách ê chề.
CHÚ THÍCH:
1/ (Giấc Mơ Anh Lái Đò Hay Mối Tình Vô Vọng, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com)
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/giac-mo-anh-lai-o-hay-moi-tinh-vo-vong_1.html
5/ Xạo Nghệ Thuật - Lối Nói Thậm Xưng
Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (1)
Thí dụ:
Trong bài thơ Muốn Gởi Cho Em của thi sĩ Phạm Hữu T (tặng Phượng Kim Ngọc Huỳnh) thì câu:
Muốn gởi cho em
chút gió biển Galveston
là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galveston (ở Mỹ) làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có lý trong nghệ thuật”.
Gió từ Mỹ gởi về:
để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.
Có lý quá đi chứ! Và hai câu kế tiếp:
nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát
rồi bồi hồi
nhớ nhớ thương thương.
vừa trữ tình lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo Lụa Hà Đông - lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ mở đầu thật tuyệt vời. (2)
(Xin mở ngoặc nói thêm: Bài thơ là của Phạm Hữu T với cái tựa Muốn Gởi Cho Em; thí dụ trên được trích trong bài bình thơ Mối Tình Xuyên Lục Địa của PĐN)
Đây là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, nâng cao giá trị của bài thơ.
Xạo Nghệ Thuật – Ca Từ Trịnh Công Sơn
Nhiều người khen ca từ của Trịnh Công Sơn nhiều câu hay hơn cả thơ. Tôi chọn câu sau đây trong bài Như Cánh Vạc Bay:
Tóc em từng sợi nhỏ
rớt xuống đời làm sóng lênh đênh
Ôi! Chỉ có mấy sợi tóc nàng rớt xuống – không phải xuống hồ hay sông, biển - mà là xuống đời cũng đủ làm đời “dậy sóng”, làm biết bao phận người chao đảo, ngả nghiêng. Làm sao mà thực được. Nhưng lại rất đẹp, rất “thơ” và rất tuyệt. Nghe rất khoái, rất đã.
Tôi có cảm tưởng, bằng câu ca từ trên (và một số câu khác nữa), TCS không làm thơ nhưng ca từ của ông – không những đẹp hơn, hay hơn – mà hình như đã bước lên một tầng bậc mới, cao hơn hẳn thứ ngôn ngữ thường thấy ở trong thơ.
CHÚ THÍCH
1/ Diên Hồng Dương, Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ Xạo” https://www.facebook.com/dienhong.duong.5/posts/98668014146907
2/ Mối Tình Xuyên Lục Địa
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/06/moi-tinh-xuyen-luc-ia.html
Bài 7
Đi Tìm "Cô Em Sự Thật" Trong Thơ
KIỂU XẠO CUỐI CÙNG - XẠO VÌ NÉ TRÁNH "CĂN PHÒNG BÍ MẬT"
Câu Hỏi Làm Thi Sĩ Nhìn Kỹ Lại Tâm Hồn Mình
Giả sử có một thi sĩ nào đó, không có tật nói dóc, không thích “nổ”, viết bài thơ, tứ thơ không kẹt chân ở một bên nào đó của một vấn đề hai mặt, câu hỏi được đặt ra là: “Lúc ấy thi sĩ có xạo không?”
Sau đây là một đoạn trích từ một bài viết của tôi (PĐN): (
Để có thể hội nhập và thích ứng với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều.
Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có hai cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: “Cái tôi đích thực” và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là “cái tôi văn hóa”.
Tuổi đời càng cao “cái tôi văn hóa” càng mạnh, càng rõ nét và “cái tôi đích thực” càng yếu kém, càng mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia.
“Cái tôi văn hóa” (cái tôi để sống với xã hội) và “cái tôi đích thực” có một sự khác biệt lớn. Đó chính là những gì tiềm ẩn trong vô thức (của “cái tôi văn hóa”), kín đáo điều khiển suy nghĩ và hành động của con người. Cho nên mặc dù thi sĩ 100% chân thật với “cái tôi văn hóa”, viết bài thơ (về tình yêu, chẳng hạn) không nằm ở bên nào của một vấn đề hai mặt, bài thơ đó cũng chưa phải là tâm tình của “cái tôi đích thực”, vì vẫn còn những điều đã ăn sâu vào tâm khảm, theo tập quán, thói quen, phải che giấu.
Câu Trả Lời Của Trần Hạ Vi
Về điểm này Trần Hạ Vi có câu trả lời sinh động bằng bài thơ Căn Phòng Bí Mật. Xin giới thiệu 2 đoạn hay nhất của bài thơ:
Có những điều sẽ chẳng nói ra
cho dù chúng ta
có yêu nhau đến thế nào chăng nữa
mấy ngàn ngày…
và có thể mấy vạn ngày tiếp lửa
chuyện anh
chuyện em
vẫn ẩn chứa bí mật của mỗi người
Có những góc tối ở trong hồn
của riêng ta
không bao giờ chia sẻ
chẳng phải vì niềm tin không vẹn vẽ
nhưng vì đó là căn phòng bí mật
chẳng nên mở bao giờ.
Khi còn giấu “những điều không thể nói ra”, “những góc tối ở trong hồn” trong Căn Phòng Bí Mật thì làm sao có sự chân thật hoàn toàn trong thơ.
Như vậy, Căn Phòng Bí Mật – Sigmund Freud gọi là vô thức - gần như là chướng ngại vật cuối cùng của con người đương đại nói chung và thi sĩ nói riêng để trở về “cái tôi đích thực”. Có thể nói tuyệt đại đa số công dân của trái đất, đặc biệt ở các nước văn minh, đã phải đối diện với chướng ngại vật này. Và gần như tất cả đã giơ tay đầu hàng.
Không mở được cửa Căn Phòng Bí Mật là một chuyện, họ còn khuyên bảo nhau đừng đụng đến Căn Phòng Bí Mật ấy để giữ “cái hạnh phúc” mà họ đang được hưởng.
Chúng ta ân ân ái ái
tan chảy ân tình
nhưng mỗi người chỉ có thể là riêng một
một anh
một em
dù ngọt ngào chung hưởng
đắng cay chia sớt
nhưng em là em
và anh vẫn là anh
Phòng chứa bí mật của phù thủy vẫn sẵn dành (1)
để chúng ta cất giữ những ước mơ ngông cuồng hoang dại nhất
tình yêu này sẽ luôn luôn có thật
khi em được là em
và anh được là anh
với căn phòng bé nhỏ của riêng mình
(1) Harry Potter và Phòng Chứa Bí Mật
Chính vì thế những triết gia Tây Phương – quan ngại đến nhân phẩm của con người – đã phải la toáng lên. Jean Paul Sartre (1) thì báo động “Con người mang thân phận của một kẻ vong thân”. Còn Albert Camus (1) thì nói “Con người đích thực đã bất lực, để một ‘kẻ xa lạ’ xâm nhập, chiếm hữu thân xác mình.”
Với thi sĩ, nếu lúc nào cũng suy nghĩ, hành xử như một công dân lịch sự của một xã hội văn minh thì cửa CPBM của họ sẽ được khóa chặt, và trên những bài thơ của họ, một chữ “Xạo” thật to luôn nhởn nhơ truớc mắt mọi người.
Chủ Nghĩa Siêu Thực ra đời nhằm giúp Nghệ Sĩ được hoàn toàn Tự Do để Sáng Tạo.
Trong loạt bài này tôi không nói đến các ngành nghệ thuật khác mà chỉ chú trọng đến Thơ - đến phương cách giúp Thi Sĩ xóa bỏ chữ Xạo trong Thơ.
BÀI 8
Đi Tìm "Cô Em Sự Thật"
CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC
Luận Điểm
Siêu thực dựa trên triết học phân tâm của Freud.
Freud chia hoạt động tâm thần làm ba khu vực: Vùng vô thức, vùng ý thức và Cái Siêu Ngã (le sur moi) có trách nhiệm kiểm duyệt.
Vùng vô thức chứa đựng toàn bộ những nhu cầu bản năng bị dồn nén, cấm kỵ không được phát lộ ra ngoài. Cái tôi vô thức mới là bộ mặt thật, là cái tôi đích thực của con người. Nó chi phối mọi hoạt động tinh thần.
Vùng ý thức chứa đựng những gì đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội, sẵn sàng trình làng. Nó chỉ là bộ mặt bề ngoài, giả dối và ngụy tạo.
Cái Siêu Ngã có trách nhiệm kiểm duyệt, chỉ cho “trình làng” những gì chứa đựng ở vùng ý thức đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội.
http://thuykhue.free.fr/stt/s/breton.html
Tóm Tắt:
Vô thức là THẬT
Lý trí và siêu ngã là một
Lý trí là thủ phạm tạo ra chữ XẠO trong thơ, nghĩa
là bài thơ càng đậm lý trí thì nét mặt "Cô Em Sự
Thật" càng mờ nhạt.
Hai Phương Cách Loại Bỏ Lý Trí Trong Thơ Của SIÊU THỰC
1/ Đưa “Mộng” (Mơ) Vào Thơ.
Mơ, đối với Freud, là thực hiện những khát vọng bản năng bị dồn nén. Khi ngủ, cơ quan kiểm duyệt không làm việc, do đó, chỉ trong mơ người ta mới thể hiện được những ham muốn bị dồn ép cấm kỵ lúc tỉnh.
Những điểm không thuận lợi khi đưa Mơ vào Thơ:
a/ Hình ảnh, cảnh tượng, câu chuyện trong Mơ thường “đầu Ngô mình Sở”.
b/ Lúc tỉnh dậy cố ghi lại giấc mơ thì chỗ nhớ, chỗ quên, tính "đầu Ngô mình Sở" càng rõ nét hơn.
c/ Tập hợp những hình ảnh, cảnh tượng xảy ra trong mơ đưa vào bài thơ, không ít thì nhiều, cũng sẽ có bóng dáng của lý trí.
d/ Tính "đầu Ngô mình Sở" của nội dung khiến chức năng truyền thông của bài thơ “đi tìm đồng cảm” với độc giả không thể thành công.
e/ Một điểm nữa, quan trọng hơn cả, là Siêu Thực ở đây chỉ chú ý đến What? (viết cái gì?), còn "How?" (viết thế nào?) thì chẳng cần đề cập.
2/ Đặt Cạnh Nhau Những Nhóm Chữ Và Hình Tượng Không Liên Quan
Trong siêu thực, nhà thơ lắp, ghép những thực thể vô cùng xa nhau: như suối và bài hát, như ngày và khăn bàn, với điều kiện là sự gặp gỡ này nẩy ra ánh lửa, bùng lên hình ảnh lạ: bài hát chảy, ngày mở ra. (bài hát "chảy" do gợi ý của "suối", ngày "mở ra" do gợi ý của "khăn bàn")
Mục đích là loại bỏ tính lô-gic, buộc lý trí phải “đi chỗ khác chơi”.
BUỒN XƯA
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Rượu hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón hường say tóc nhạc trầm mi
Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Buồn hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu
Duyên vàng da lộng trái du ngươi
(Nguyễn Xuân Sanh)
Độc giả không thể “bắt” được tứ thơ. Chức năng truyền thông của bài thơ thất bại. Bài thơ chỉ là một mớ những con chữ vô dụng.
Chúng ta hãy nghe nhà phê bình nổi tiếng Đỗ Lai Thuý phát biểu sau vài lần đọc bài thơ:
“Bài thơ đọc một lần, hai lần... Ấn tượng khó hiểu, nhưng quyến rũ. Và hình như càng khó hiểu càng quyến rũ: cái hay và sự khó hiểu xoắn luyện vào nhau không thể tách bóc được? Và nhà phê bình, với số phận vô duyên của mình, cứ làm cái công việc không thể làm ấy”.
(Nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)
Với tôi, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy “cứ làm cái công việc không thể làm ấy” đúng là có số phận vô duyên thật. Bởi dù có đọc hàng vạn lần, nét quyến rũ có phủ kín tâm hồn, cũng chẳng thể hiểu được bài thơ ấy.
Như vậy với thơ, Chủ Nghĩa Siêu Thực có luận điểm hữu lý và hữu ích nhưng phương cách thực hiện thì không thành công.
Chữ Xạo vẫn đeo bám chữ Thơ. "Cô Em Sự Thật"
vẫn vắng bóng.
Bài 9
Đã Có Cách Tìm Gặp"Cô Em Sự Thật"
BẾN BỜ THI CA Ở ĐÂU?
Mục Đích Của Thơ
Bày tỏ tâm trạng, suy nghĩ trước cảnh đời bằng thể loại văn học có vần.
Tiêu Chí Thẩm Định Giá Trị Của Bài Thơ
Ngôn ngữ hình tượng đẹp, đắc địa gợi cảm, câu cú ý nghĩa rõ ràng, chắc gọn, mượt mà, hoàn chỉnh trong cấu trúc ngữ pháp.
Bố cục hợp lý, hiệu quá.
Ý tứ sâu sắc, cao thượng, nhân bản,
Cảnh Báo Của Hai Triết Gia Hiện Sinh
Jean Paul Sartre: Con người (giả dối đến mức) đang trở thành một kẻ vong thân - đánh mất chính mình – (đánh mất “cái tôi đích thực”)(1)
Alberd Camus: Con người đang để một kẻ xa lạ (giả dối quá mức) chiếm hữu thân xác mình (“cái tôi đích thực”)
Những chữ trong ngoặc đơn là của PĐN.
Tiêu Chí Thẩm Định Giá Trị Của Bài Thơ Thay Đổi
Từ sau những lời cảnh báo của hai Triết Gia Hiện Sinh các tiêu chí để phán xét mức độ hay dở của bài thơ cũng dần dần thay đổi.
Bên cạnh 3 tiêu chí 1/ Ngôn ngữ, hình tượng, câu cú, 2/ Bố cục, 3/ Ý tứ giống như ở phần trên giới thưởng thức thơ, bình thơ và cả những người làm thơ còn để ý đến một tiêu chí khác: Sự chân thật của thi sĩ trong bài thơ.
Vẫn Có Cách Loại Lý Trí Khỏi Bài Thơ
Luận điểm: Khơi dòng để cảm xúc từ cơn cao hứng của thi sĩ tuôn chảy – sóng sau dồn sóng trước - mạnh đến mức làm thi sĩ “nổi điên”. Lý trí sẽ tạm thời trốn biệt.
Kết quả: Tùy mức độ hiện diện của lý trí lúc thi sĩ bộc lộ “điểm nòng cốt” của tứ thơ ta có những cung bậc khác nhau của hồn thơ (con đẻ của sự chân thật).
Lúc đầu đang tập tành "mò mẫm" tìm gặp hồn thơ, chỉ khi nào lý trí trốn biệt để cảm xúc toàn quyền đạo diễn bài thơ tôi mới mang danh hiệu Hồn Thơ ra ban tặng. Còn những trường hợp có bóng dáng của lý trí tôi dùng "cảm xúc tầng 3" với những tầng bậc khác nhau.
Sau này nhờ góp ý của một bậc cao nhân tôi đã gọi tên Hồn Thơ như sau:
Lý trí nắm toàn quyền lèo lái: Bài thơ - dù cũng có “cái tôi riêng tư”, có cảm xúc tầng 1 và cảm xúc tầng 2 - vẫn rất khô cứng. Không có hồn thơ.
Sau đó, tùy mức độ sụt giảm của của lý trí, hồn thơ xuất hiện với những cung bậc khác nhau.
Hồn thơ mới chớm
Hồn thơ phơn phớt nhẹ
Hồn thơ nhè nhẹ
Hồn thơ ở mức trung bình
Hồn thơ khá mạnh, tương đối mạnh
Hồn thơ mạnh
Hồn thơ rất mạnh, hồn thơ lai láng
Đây là lúc cảm xúc từ cơn cao hứng đã làm thi sĩ “nổi điên” (giận quá mất khôn, yêu quá hóa cuồng), lý trí chạy mất. “Chữ Xạo” cũng đội nón ra đi. Những gì nói ra, viết ra được xem là “lỡ lời”, thường bị chê trách vì đã làm phật ý, buồn lòng rất đông người quen với lối suy nghĩ, cách ứng xử, giao tiếp lịch sự của xã hội văn minh – nhưng lại là tiếng lòng hoàn toàn chân thật của thi sĩ.
Bài thơ đã được vinh dự bước vào Bến Bờ Thi Ca.
Khoảnh khắc quan trọng nhất của bài thơ là đoạn đường từ lúc bước vào mảng chính của tứ thơ cho đến lúc “bật ra” câu (hoặc vài câu) nòng cốt của cái mảng chính đó. “Lúc ‘bật ra’ câu (hoặc vài câu) nòng cốt của cái mảng chính đó” chính là CAO TRÀO của bài thơ.
Nếu bài thơ kết thúc ở cao trào, khi cảm xúc dâng lên cao ngất, thì cường độ của dòng cảm xúc đó chính là hồn thơ, truyền đến tâm hồn độc giả sẽ mạnh hơn rất nhiều.
Kết Luận
Đến đây chắc độc giả yêu thơ đã có thể hình dung được “vị trí” của Bến Bờ Thi Ca. Riêng các thi sĩ đang muốn đưa thơ của mình đến gần (và bước vào) khu đất vinh dự đó thì tôi hy vọng rằng những bài viết này sẽ giúp quý vị đỡ phần nào thời gian và công sức mày mò tìm kiếm.
Chúc quý vị thành công.
Phạm Đức Nhì
Bài 10
Hồn Thơ Lai Láng
THĂM LẠI BÀI THƠ “SAY ĐI EM”
Lời Nói Đầu:
Nhiều năm trước tôi đã viết lời bình cho bài thơ đặc biệt này với tựa đề Say Đi Em - Một Bài Thơ “Tới Bến”. Đó là kiểu bình thơ “bài bản, trường lớp” - tiếp cận, phân tích toàn diện bài thơ – như một bài Luận Văn (Essay) ở bậc đại học.
Lần này, nhân dịp mở trang Blog Lý Thuyết Thơ tôi “Thăm Lại Bài Thơ” để nhấn mạnh vài “phương tiện thẩm mỹ” mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã sử dụng một cách điệu nghệ để đưa bài thơ lên đỉnh cao chót vót của nghệ thuật thi ca.
Những “phương tiện thẩm mỹ” đó là:
1/ Bố cục dàn ý hợp lý
2/ Nối kết các ý khi chuyển đoạn khéo léo.
3/ Sử dụng vần điệu nghệ - vị ngọt rất đậm nhưng không ngán
4/ Nhịp điệu sống động
5/ Dòng tứ thơ, dòng âm điệu, dòng cảm xúc – 3 dòng nhập một, chảy rất mạnh.
6/ Đoạn kết tuyệt vời
7/ Tạo được cao trào và kết thúc ở cao trào/ hồn thơ lai láng
Tứ thơ nói đến một sự thật, một nỗi tủi nhục to lớn như một bức tường thành sừng sững trong tâm hồn thi sĩ mà chỉ cần một chút lý trí còn sót lại ông cũng không dám thổ lộ.
Nhờ 7 "phương tiện thẩm mỹ" này cảm xúc trong tâm hồn ông đã dâng cao đến mức nổi điên, lý trí trốn biệt và ông đã "lỡ lời, buột miệng" nói ra cái sự thật ghê gớm đó.
Xin mời đọc tiếp lời bình.
SAY ĐI EM
Tác giả: Vũ Hoàng Chương.
1/
Khúc nhạc hồng êm ái
điệu kèn biếc quay cuồng
một trời phấn hương
đôi người gió sương
đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương…
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?
hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
lòng nghiêng tràn hết yêu thương
bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
2/
Ánh đèn tha thướt
lưng mềm não nuột dáng tơ
hàng chân lả lướt
đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Âm ba gờn gợn nhỏ
ánh sáng phai phai dần…
bốn tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
lui đôi vai, tiến đôi chân
riết đôi tay, ngả đôi thân
sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
tay mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
còn chưa say hồn khát vẫn thèm men
3/
Say đi em! Say đi em!
say cho lơi lả ánh đèn
cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt
rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết!
ta quá say rồi
sắc ngả màu trôi…
gian phòng không đứng vững
có ai ghì hư ảnh sát kề môi
chân rã rời
quay cuồng chi được nữa
gối mỏi gần rơi!
trong men cháy giác quan vừa bén lửa
say không còn biết chi đời
4/
Nhưng em ơi
đất trời nghiêng ngửa
mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
đất trời nghiêng ngửa
thành Sầu không sụp đổ, em ơi
(Vũ Hoàng Chương)
Thành Sầu Của Vũ Hoàng Chương
VHC ngoài việc bắt buộc phải theo Tây học để tiến thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ” của người Pháp. Ông cũng lao vào những thú vui trác táng – rượu, thuốc phiện, nhảy đầm và cả gái nữa. Về điểm này, Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một đoạn khá đầy đủ:
Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. (3)
Như vậy, “thành sầu” của VHC là nỗi sầu đất nước bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm tha hóa, băng hoại bằng đủ mọi âm mưu thâm độc.
Trớ trêu thay, chính ông lại góp tay, giúp sức cho bộ máy cai trị ấy, chính ông lại lậm vào những cuộc chơi trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn làm gương xấu cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc.
Ông cảm thấy tội lỗi, tủi nhục, uất ức và chất ngất buồn sầu.
Tứ Thơ
Trong một đêm đi nhảy ở vũ trường, gặp “bạn nhảy cũ”, tác giả mời nàng đối ẩm, có ý muốn mượn rượu để giải sầu, nhưng uống đến mức “say không còn biết chi đời” mà nỗi sầu vẫn sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.
Bố Cục Dàn Ý
Bài thơ có thể chia làm 4 đoạn:
1/ Đoạn mở đầu 10 câu, thiết lập khung cảnh của bài thơ: Đến vũ trường, gặp người tình cũ đang là ca ve ở đấy. Tình đã héo nhưng chân còn “ngứa ngáy” nên xáp lại.
2/ Đoạn hai 16 câu: Cảm giác “Đê mê hồn gửi cánh tay hờ” khi đang dìu em trên sàn nhảy lúc rượu đã ngà ngà.
3/ Đoạn ba 13 câu: Mời em cùng uống cho đến khi “say không còn biết chi đời”.
4/ Đoạn kết 5 câu: Nỗi sầu vẫn còn đó – sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.
Vần Và Dòng Chảy Của Tứ Thơ
Về hình thức, tác giả sử dụng thể Thơ Mới, nhưng không phải lối thơ Trường Thiên (mỗi đoạn 4 câu) mà là thể thơ nhất khí liền mạch – một hơi từ câu đầu đến câu cuối. Nhưng cũng không phải như Nhớ Rừng của Thế Lữ – cứ 8 chữ một câu với vần liên tiếp, đọc lên nghe rất ngán.
Có thể tạm gọi đây là một loại Thơ Mới Biến Thể, rất gần với Thơ Tự Do.
“Say Đi Em” rất phóng khoáng. Có đôi chỗ ngừng là do tác giả muốn chuyển ý, đổi vần chứ không phải do đòi hỏi của luật thơ. Ông cũng tạo ra một số thay đổi, vừa tránh được trói buộc của luật tắc, vừa có thể nhấn mạnh điểm chính của tứ thơ.
1/ Số câu trong bài không giới hạn, viết hết ý, hết hứng thì thôi.
2/ Số chữ trong câu thay đổi (với biên độ rộng) một cách tùy tiện, tùy hứng. Câu ngắn nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ (Hoa xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo). Nhờ thế, nhịp điệu thơ thay đổi liên tục.
3/ Vần rất đậm, nhưng không có hội chứng nhàm chán vần, đọc lên không thấy ngán. Câu sau nối tiếp câu trước, tứ thơ và cảm xúc cứ thế tuôn chảy thành dòng. Lý do: Nhịp điệu thay đổi cộng với sự giúp sức của mấy đoạn gieo vần gián cách:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Và:
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Thêm vào đó, để thay đổi không khí, còn có hai câu thơ lục bát mượt mà ở đoạn đầu:
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
và sự phối hợp một cách tài tình điệp ngữ, điệp vận với vần ôm ở đoạn kết.
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Ở thời điểm trước năm 1940 mà đã sử dụng vần phóng khoáng và điệu nghệ như vậy thì thật đáng nể phục.
4/ Chuyển đoạn ăn khớp: Cũng xin nói đến một điểm nổi bật về kỹ thuật thơ của VHC là sự chuyển đoạn ăn khớp, khéo léo – từ ý này bước qua ý khác rất ngọt.
a/ Đoạn 1 qua đoạn 2
Từ:
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ.
qua:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ.
Vừa nói “hết yêu nhưng còn mê nhảy” đã chuyển qua cảnh ôm em trên sàn nhảy. Sự kết nối thật tương hợp.
b/ Đoạn 2 qua đoạn 3
Từ:
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men
qua:
Say đi em! Say đi em!
Đều nói đến rượu, kết nối hợp lý.
c/ Đoạn 3 qua đoạn 4
Từ:
Say không còn biết chi đời
qua:
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Vừa thú nhận “Say không còn biết chi đời” đã thấy “Đất trời nghiêng ngửa”. Mối liên hệ nhân quả, không một kẽ hở.
Nhờ sự chuyển đoạn khéo léo như vậy nên tứ thơ thông thoáng, bài thơ nhất khí liền mạch, cảm xúc lớn mạnh nhanh chóng.
Điệp Vận Ở Phần Sau Đoạn 3 – Nói Về Cơn Say
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi…
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Có 9 câu thơ ngắn mà đến 6 lần vần ôi (hoặc ơi) – điệp vận đến mức thoạt nhìn qua là đã mất cảm tình. Nhưng thật lạ! Đọc lên không những không thấy ngán mà còn thấy hồn mình như bị dính chặt vào ý thơ – cơn say thực sự, “say không còn biết chi đời” – của tác giả.
Với cơn say ở đỉnh điểm như vậy, không còn chỗ cho lý trí và con đẻ của nó là sự dối trá, bám víu. Năm câu sau của đoạn kết đúng là tiếng lòng chân thật.
Điệp vận kiểu ấy, theo tôi, nếu là người làm thơ tỉnh táo, chắc là sẽ tránh xa. VHC, trong lúc lạc lần trí, đã hiên ngang bước vào “bãi mìn” ấy. Nhưng nhờ thế, đã tạo được một đoạn thơ độc đáo, có giá trị như một con dấu chứng nhận sự chân thật cho đoạn kết, góp phần hết sức quan trọng vào sự thành công của thi phẩm Say Đi Em.
Đoạn Kết Tuyệt Vời
Sau khi đã uống đến “Say không còn biết chi đời” thi sĩ đã cho tuôn ra đoạn thơ:
Nhưng em ơi!
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Đoạn thơ hay cả về ngôn ngữ, thi ảnh, cấu trúc, âm điệu và nhịp điệu. Đặc biệt điệp ngữ ở hai cụm từ “em ơi” và “Đất trời nghiêng ngửa” cho độc giả như tôi cái cảm giác đang nghe CODA kết thúc một bản nhạc, được viết rất khéo bởi một nhạc sĩ tài ba.
Thành sầu của ông như đang chịu một trận động đất mạnh đến mức “đất trời nghiêng ngửa” mà vẫn “chưa sụp đổ” và đã chuyển từ chỗ “chưa sụp đổ” – còn chờ đợi, còn một chút hy vọng mong manh – đến chỗ “không sụp đổ” – nghĩa là đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Nỗi buồn sầu đã dâng lên đến đỉnh điểm. Chữ “không” ở câu cuối “đắt” như kim cương và ẩn dụ của cả đoạn thơ thật tuyệt vời.
Cảm Xúc Dâng Tràn – Hồn Thơ Lai Láng
Cảm xúc tầng 1:
Theo tôi, VHC thành công trong việc trao tặng độc giả những cảm giác khoái trá ở tầng 1. Ngôn ngữ thơ của ông chắt lọc, trau chuốt, hình tượng đẹp một cách lộng lẫy, kiêu sa, câu thơ mạch lạc, trong sáng. Nói theo ngôn ngữ bóng đá, kỹ thuật cá nhân của các cầu thủ trong Say Đi Em điêu luyện, thuộc đẳng cấp cao, nhìn qua là thấy có cảm tình và nể phục.
Cảm xúc tầng 2:
Trong Say Đi Em thế trận chữ nghĩa được dàn trải hợp lý, tạo hiệu quả tối đa cho việc chuyển tải tứ thơ. Vần và nhịp điệu giúp dòng chảy của tứ thơ thông thoáng. Độc giả như được xem một trận bóng đá mà đội phe mình công thủ, lên xuống nhịp nhàng, đấu pháp toàn đội kín kẽ, hoàn hảo.
Cảm xúc tầng 3:
Là thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ – nếu đến mức dâng tràn, ta có hồn thơ lai láng. Để có hồn thơ lai láng bài thơ cần mấy điều kiện sau đây:
1/ Tứ thơ không phân mảnh đứt đoạn mà phải được dàn trải sao cho ý này nối tiếp ý kia, không ngừng nghỉ.
2/ Thể thơ phải như con kênh thông thoáng để khi câu chữ từ tứ thơ tuôn xuống có thể thành dòng thơ. Trong Say Đi Em, chỉ mới bước vào đầu đoạn 2 là men rượu đã ngấm, cảm xúc quyện lấy tứ thơ và âm điệu để cùng chảy một dòng. Đến đoạn 3, với hiệu ứng đặc biệt của dòng âm điệu, dòng thơ chảy rất nhanh và rất mạnh.
3/ Thi sĩ phải nổi điên để cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí. Trường hợp Say Đi Em, bắt đầu đoạn 3 là lý trí đã trốn chạy khá xa, đến cuối đoạn thì lý trí đã biệt tăm, biệt tích, thi sĩ đã “Say không còn biết chi đời”. Hơn nữa, nội dung bài thơ lại thuộc loại “ngược dòng” nên “cơn điên” phải cực mạnh và “nhiệt độ sôi của cảm xúc” phải rất cao mới có thể phủ mờ lý trí để vuợt qua nỗi Sợ Xấu, Sợ Nhục với người đời cuả VHC.
4/ Phải kết hợp để khi cảm xúc lên đến đỉnh điểm (cao trào) thì cũng là lúc thi sĩ tuôn ra điểm cốt yếu của tứ thơ. Đó sẽ là tiếng lòng chân thật của ngài. Ở Say Đi Em là đoạn 3 và đoạn 4.
Kết Luận
Say Đi Em không những có đủ 4 điều kiện trên mà điều kiện nào cũng đạt đến mức hoàn hảo nên hồn thơ cực mạnh.
Hơn nữa, bài thơ lại kết thúc ở cao trào nên hồn thơ không những cực mạnh lại còn có sức ngân vang trong tâm hồn người đọc mặc dù bài thơ đã hết.
Tôi cho rằng cùng với thi phẩm Say Đi Em của mình, Vũ Hoàng Chương không những đã có thể bước vào Bến Bờ Thi Ca mà còn xứng đáng ngồi vào hàng ghế trang trọng nhất.
PHẠM ĐỨC NHÌ
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/
THĂM LẠI BÀI THƠ “TRÁI TIM RAO BÁN”
Lời Nói Đầu:
Tôi đã viết lời bình cho bài thơ Trái Tim Rao Bán của Đinh Thị Thu Vân từ rất lâu. Lần này tôi thăm lại bài thơ, bàn thêm về những "phương tiện thẩm mỹ" đã nâng giá trị của thi phẩm đặc biệt này lên một tầm cao mới để làm thí dụ cho hai phần quan trọng trong trang blog Lý Thuyết Thơ là Kỹ Thuật Thơ và Bến Bờ Thi Ca
(Bàn thêm về Vần, chữ Dâm và Hồn Thơ)
TRÁI TIM RAO BÁN
Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán
Một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán
Một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh
(Đinh Thị Thu Vân)
Vài Nhận Xét Thêm
1/ Tìm hiểu tứ thơ
Đoạn đầu:
Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán
Bỗng dưng nữ sĩ Đinh Thị Thu Vân lại nghĩ đến cái ngày “phải xót xa, xót xa đem trái tim mình rao bán”. Chị lập lại hai chữ “xót xa” để “thông báo” là nỗi buồn, nỗi cô đơn đã lớn mạnh đến mức phải nghĩ đến chuyện “kỳ cục” đó.
Động từ chia ở thì tương lai nhưng nỗi buồn, nỗi cô đơn, khao khát tình yêu lại đang hiện hữu rất sâu đậm trong lòng chị ngay phút giây hiện tại này đây.
Ở đoạn kế tiếp:
Một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán
tác giả cho biết nỗi đau buồn đó dâng cao lên một tầng bậc mới, lúc mà khung cảnh “tình yêu biền biệt, hạnh phúc mù khơi” thúc đẩy những con chữ thấm đẫm nước mắt rơi xuống trang thơ, cho nên dù chỉ còn lại “trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng” - chị cũng phải “phũ phàng rao bán”.
Phần đầu đoạn kết:
Một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
Đây chính là giây phút chuyển biến thần tình của tứ thơ. “Mỏi mòn trong ảo vọng” chính là lúc cơn khát tình đã lên rất cao. Rao bán trái tim mà “không cần chọn lựa người mua” – không cần biết người đàn ông sẽ đến với mình là ai - nghĩa là chữ Tình đã đội nón ra đi để chữ Dâm độc chiếm thể xác và tâm hồn chị. Nói bạch văn là “Khát Tình” đã biến thành “Thèm Chim”.
Như thế cũng chưa hết. Rao bán mà “không cần sòng phẳng” – cho người mua được toàn quyền quyết định giá cả - có nghĩa là cũng sẵn sàng cho không “món hàng quý giá” của mình. Đọc đến đây chắc độc giả cũng đồng ý với tôi là cơn “thèm chim” của Đinh Thị Thu Vân đã lên cao ngất.
Đây chính là cao trào của bài thơ. Dòng tứ thơ và dòng cảm xúc trong cơn điên đã dâng lên đến đỉnh điểm và gặp nhau ở đó. Lý trí đã trốn biệt. Tâm tình được gởi đến độc giả là những lời thơ CHÂN THẬT.
Đoạn kết phần sau:
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh...
Nhóm chữ “một chút tình” - được lập đi lập lại ở đoạn kết, lúc “độ nóng” của cơn điên vẫn còn nhưng đang từ từ hạ xuống; “một chút tình” đó không phải là “sự tương hợp của hai tâm hồn đồng cảm” hoặc kém hơn một chút là tình một chiều – “ta yêu chàng mà chàng chẳng yêu ta”. Ở đây chỉ là một chút thương hại của người với người.
Đây là sự khác biệt lớn giữa Trái Tim Rao Bán của Đinh Thị Thu Vân và Cánh Đồng (1) của Nguyễn Đức Tùng. Với Nguyễn Đức Tùng thì “Khi cơn ‘khao khát dục tình’ đã lên cao thì thoả mãn chữ Dâm với người ngoài hành tinh cũng có thể chấp nhận được”. Còn Đinh Thị Thu Vân thì dù “thèm chim” đến nổi điên, đối tượng của chị vẫn là Con Người trên trái đất.
2/ Tứ thơ:
Nếu đọc lướt qua sẽ thấy tứ thơ rất đơn giản và “rất hiền” như sau:
Tác giả lên tiếng rao bán trái tim mình rồi hé mở cho biết lý do, và sau cùng là giá cả - rất đặc biệt.
Nhưng nếu lặn sâu một chút và đọc “giữa hai hàng kẻ” sẽ thấy:
Tác giả đột nhiên cảm thấy thèm khát dục tình đến cùng cực, sẵn sàng “tặng không” thân xác mình cho bất cứ ai.
3/ Kiếm Tông hay Khí Tông?
Đây là bài thơ Khí Tông, tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng từ câu đầu đến câu cuối.
5/ Ngôn ngữ thơ: Bình dị, dễ hiểu. Những nhóm chữ “mù khơi hạnh phúc”, “biền biệt tình yêu”, “mỏi mòn trong ảo vọng” đã diễn tả thành công một cách xuất sắc tâm ý của tác giả mà không phải dài dòng biện giải, hai chữ “chông chênh” tượng hình và đặc sắc cả về nghĩa lẫn âm.
4/ Số chữ trong câu thay đổi tự do, không bị luật tắc nào bó buộc. Nhịp điệu không đều đều buồn tẻ mà có vẻ uyển chuyển, sinh động.
6/ Nội dung lọt vào vùng cấm, không “phải đạo” mà chảy ngược dòng với nếp suy nghĩ và cách hành xử của người đời. Tâm thế của Đinh Thị Thu Vân lúc đó nếu không thuộc loại “get it off your chest” - cho bung ra khỏi ngực (chứ giữ lại thì chịu không nổi) mà chỉ cần một chút lý trí còn sót lại, chị cũng sẽ chùn bước, không dám đi tới bến.
7/ Không vờn bóng giữa sân: Các con chữ nối tiếp nhau trôi thẳng xuống điểm đến của tứ thơ.
8/ Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 mạnh mẽ; cảm xúc tầng 3 thì khỏi nói – cơn “thèm chim” đã lên rất cao nên "có thể nói" là hồn thơ lai láng.
9/ Giá mà vần NGỌT hơn ít nữa: Bài thơ Trái Tim Rao Bán tôi không dám chê là vần thiếu ngọt, nhưng dòng âm điệu chảy không được mạnh lắm. Tôi nghĩ nếu ở 2 đoạn sau có chút “thủ thuật” điệp vận nào đó khiến các con chữ và hình tượng nối kết chặt chẽ hơn nữa thì sẽ giúp tăng vận tốc và cường độ của dòng âm điệu. Dĩ nhiên, sẽ ảnh hưởng đến dòng cảm xúc. Lúc đó tôi sẽ khẳng định - chứ không phải dè dặt “có thể nói” - là hồn thơ lai láng
10/ Không kết thúc ở cao trào
Phần sau của đoạn kết:
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh...
được dùng để vừa giải thích vừa nhấn mạnh “Cơn Dâm của ta đã lên cao chót vót, nhưng ta chỉ muốn thỏa mãn cơn Dâm đó với con người trên trái đất, còn những chủng loại khác hoặc ‘người’ ở hành tinh khác thì xin mời đi chỗ khác chơi.”
Tôi thích cái ý này của chị. Theo tôi, nó đậm tính nhân văn hơn ý của Nguyễn Đức Tùng trong bài thơ Cánh Đồng. Nhưng để có được hai chữ “nhân văn” đó bài thơ đã phải có mấy câu giải thích và đã không thể kết thúc ở cao trào.
Điểm đặc biệt nữa của Trái Tim Rao Bán là tứ thơ thì “tục”, bộc lộ những điều mà phụ nữ “kiêng kỵ” nhưng lời thơ lại rất thanh. Chị dùng thủ pháp “Show, Don’t Tell” (Gợi, Không Kể) để bóng gió nói đến cơn “Thèm Chim” của mình.
Tôi rất mong chị và những độc giả nghiêm túc thông cảm cho việc đưa hai chữ “Thèm Chim” vào bài bình. Tại tôi quá mê và muốn làm nổi bật tính nhân văn của bài thơ nên đã đánh liều dùng đến hai chữ này. Tôi nghĩ hai chữ “Thèm Chim” ở đây sẽ làm nét đẹp tổng thể của bài thơ rõ ràng hơn, cao hơn, sang trọng hơn.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/
CHÚ THÍCH:
1/ https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/12/canh-ong-mot-bai-tho-la.html
Tạ Lỗi Trường Sơn
Nhìn T Xa ... Tổ Quốc
Trái Tim Rao Bán
Say Đi Em
Nhân Câu Chuyện
Vì Thế Tôi Ra Đi
Bánh Vẽ
Một Chút Tâm Tình
Nhớ Rừng
Nhà Tôi
Ta Về
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét