Lời Nói Đầu
Trong thời gian tra cứu để
viết lời bình cho bài thơ Tan Vỡ của nhà thơ Dư Thị Hoàn tôi đọc được bài viết “Dư
Thị Hoàn: Từng Có 'Tan Vỡ' Gây Chấn Động, Xuất Hiện Sau 10 Năm Đi Tu.” (1)
Trong bài viết có
đoạn:
Ba
năm trước, Dư Thị Hoàn tổ chức lễ “rửa tay chậu vàng”, có nhiều bạn bè văn
chương chứng kiến, tuyên bố không viết, không tham gia văn đàn.
Trong
một cuộc phỏng vấn, nhà thơ chia sẻ, thực ra quyết định “bẻ bút” có từ trước
đó, khi bà đọc được câu “Văn chương càng
hay càng xa sự thật”.
Vì là người làm thơ và bình thơ nên trong bài viết này tôi
sẽ chỉ đề cập đến khía cạnh thơ của câu nói trên. Các thể loại văn học khác xin mời những cao nhân có kiến thức và
kỹ năng thích hợp lên tiếng.
Thi Sĩ Có
Xạo Không?
Câu trả lời là CÓ. Tuyệt đại đa số đều xạo. Có nhiều kiểu xạo, nhiều
lý do để xạo.
Sau đây là một số kiểu xạo trong thơ:
Dối Trá Đời
Thường
1/ Xạo vì hèn, vì “teo
chim” - tham sống sợ chết, thích yên thân, sợ tù đày, sợ bị trù dập - sản sinh
những câu thơ Nịnh.
2/ Xạo vì tham lợi, tham
danh - viết sai sự thật vì danh vọng, vì bả vinh hoa phú quý.
Đây là 2 kiểu xạo tệ nhất, làm đục, làm bẩn “dòng sông thơ ca”.
3/ Xạo vì tình riêng – thơ về cha mẹ, vợ chồng, họ hàng, bạn bè thân
thuộc…
4/ Xạo vì xã giao - thơ đám ma, đám cưới, mừng sinh nhật, đỗ đạt,
thăng quan tiến chức …
Đây là 2 kiểu xạo mà người đọc dễ “thông cảm” cho qua, nhưng thơ
thường được đánh giá thấp.
5/ Xạo vì lập trường, quan điểm,
đứng về một phía của một vấn đề hai mặt, chỉ nói một nửa sự thật.
“Ôi! Đẹp
quá phe mình, còn phe bên kia
Phải chọn
góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu.” (2)
Thơ loại này đây đó cũng có bài hay nếu tác giả vững tay nghề và
cao hứng.
Xạo Nghệ Thuật
1/ Lối nói thậm xưng
Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm
xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều
không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời
thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật”
Thí dụ:
Trong bài thơ Muốn Gởi Cho Em của thi sĩ Phạm Hữu T (tặng
Phượng Kim Ngọc Huỳnh) thì câu:
Muốn gởi cho em
chút gió biển Galveston
là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galveston (ở Mỹ)
làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có
lý trong nghệ thuật”.
Gió từ Mỹ gởi về:
để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.
Có lý quá đi chứ! Và hai câu kế tiếp:
nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát
rồi bồi hồi
nhớ nhớ thương thương.
vừa trữ tình vừa lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo
Lụa Hà Đông - lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ thật tuyệt vời. (3)
(Xin mở ngoặc nói thêm: Bài thơ là của Phạm Hữu T với cái
tựa Muốn Gởi Cho Em; thí dụ trên được trích trong bài bình thơ Mối Tình Xuyên Lục
Địa của tôi (PĐN)
Đây là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, nâng cao giá
trị của bài thơ.
2/ Xạo vì “xê dịch kịch
bản”
Muốn thơ hay, tâm
trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản
cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt. Nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn,
bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn
thơ có cơ hội xuất hiện. Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng
“vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có
sự ăn khớp cần thiết.
Thử đọc đoạn cuối của bài Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:
Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc
đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Tôi không tin là trong thực tế, con số chín hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn. (4)
Ở đây thủ pháp “gợi, không kể” được phối hợp với phép điệp
ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết tuyệt vời.
Tuy nhiên, nếu kịch bản xê dịch quá nhiều thì cả bài thơ
sẽ bị đánh giá là xạo, không những mất hẳn giá trị nghệ thuật mà tác giả còn bị
chê bai, coi thường.
Mời đọc Một Kịch Bản Thơ Xạo theo link dưới đây.
Xạo Vì Có Sự Can Thiệp Của Vô Thức
Để có thể hội nhập và thích ứng với
cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất
nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng
nguyên tắc càng nhiều. Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh
riêng) trong mỗi thân xác con người có hai cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu
đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: cái tôi đích thực và cái tôi hội
nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là cái tôi văn hóa.
Tuổi đời càng cao cái tôi văn hóa
càng mạnh, càng rõ nét và cái tôi đích thực càng yếu kém, mờ nhạt. Đến một lúc
nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái
thân xác kia.
Lúc ấy, nói như Jean Paul Sartre (5)
thì con người là một “kẻ vong thân” (đánh mất chính mình). Còn nói như Albert
Camus (6) thì con người đích thực đã bất lực – để một “kẻ xa lạ” đến chiếm hữu
thân xác mình. (6)
Những trải nghiệm, suy nghĩ, toan tính, dự định, ước mơ … của ta
sau một thời gian xuất hiện trên bề mặt ý thức, đều tự động đi vào kho chứa - một
cỗ máy vi tính khổng lồ nằm sâu kín trong tâm hồn ta từ “muôn kiếp trước” (Tây
Phương hiểu “muôn kiếp trước” theo nghĩa "bóng" là từ lúc đứa bé có khả năng
tiếp nhận thông tin từ xã hội để từng bước hình thành cái nhìn của mình về cuộc
đời; hiểu “muôn kiếp trước” theo nghĩa đen là cách hiểu của đạo Phật). Cỗ máy tính
khổng lồ đó chính là vô thức.
Nó không chỉ đơn thuần là một kho chứa mà còn làm công việc tổng hợp
và chuyển hóa (process) những dữ kiện đó (trải nghiệm, suy nghĩ, toan tính, dự định,
ước mơ …) thành một quan niệm, cách nhìn nhận, đánh giá con người, cuộc đời, kể
cả những thành kiến, định kiến về truyền thống, đạo đức, niềm tin tôn giáo.
Mỗi khi đối diện với cảnh đời hiện tại, hồi tưởng về quá khứ hay
thả hồn về hướng tương lai, và nếu cảm xúc của ta chưa trào dâng khiến ta ngây
ngất đến mức lạc thần trí, thì vô thức sẽ thông qua lý trí, tác động vào tâm hồn
ta, định hướng để tâm trạng của ta phù hợp với quan niệm, cách nhìn nhận của vô
thức lúc ấy.
Có những bài thơ dù đọc kỹ cách mấy cũng không thể tìm ra dấu vết
của sự dối trá. Tứ thơ dễ bắt, cảm xúc dạt dào. Có điều chỉ không có tín hiệu nổi
điên đến mức lạc thần trí của thi sĩ, nghĩa là vẫn có bóng dáng của lý trí.
Khi bài thơ còn sự hiện diện của lý trí, vô thức sẽ có cơ hội can
thiệp. Nó sẽ dùng lý trí làm cây cầu nối tác động vào tâm tình hoặc thái độ của
thi sĩ. Lời thơ sẽ có chỗ này, chỗ kia bị “điều chỉnh” (mà thi sĩ hoàn toàn không
biết) và sẽ không còn là tiếng nói chân thật của con tim.
Siêu Thực
Trong Sứ Mệnh Giải Trừ Lý Trí
Theo Thụy Khuê thì Siêu Thực đi từ triết học phân tâm của Freud, coi vô thức như
chủ thể của sáng tạo. Siêu Thực là hiện thân của mộng,
đề cao vai trò của mộng.
Freud chia hoạt
động tâm thần làm ba khu vực:
Vùng vô thức tức
là cái đó (le ça trong tiếng Pháp, Es tiếng Đức) chứa đựng toàn bộ những nhu cầu
bản năng bị dồn nén, cấm kỵ không được phát lộ ra ngoài.
Vùng ý thức tức
cái tôi (le moi, ego), hay ý thức xã hội, cái tôi xã hội, chứa đụng những gì đã
được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội, sẵn sàng trình làng.
Và cái siêu
ngã (le sur moi) có trách nhiệm kiểm duyệt.
Theo Freud, cái vô thức mới là bộ mặt
thật, là cái tôi đích thực của con người. Nó chi phối mọi hoạt động. Còn cái
tôi ý thức chỉ là bộ mặt bề ngoài, giả dối và ngụy tạo.
Mơ, đối với Freud, là thực hiện những khát vọng bản năng bị dồn nén. Khi ngủ, cơ quan kiểm duyệt không làm việc, do đó chỉ trong mơ người ta mới thể hiện được những ham muốn bị dồn ép cấm kỵ lúc tỉnh.
Đề cao vai trò của Mộng trong thơ sẽ
loại bỏ gông cùm của lý trí, sự phân tích logic, nguyên tắc đạo đức, niềm tin tôn
giáo. (7)
Đưa Mộng Vào
Thơ Thơ Sẽ Thành Lời Chân Thật?
Về lý thuyết thì đúng.
Những hình ảnh, cảnh tượng, sự việc xảy ra trong giấc mơ thường vắng
mặt lý trí. Tuy nhiên, khi tỉnh giấc thi sĩ có nhớ đúng và đủ những gì đã xảy
ra trong giấc mơ hay không lại là chuyện khác. Hơn nữa, chúng như câu
chuyện kể của người điên - “đầu Ngô mình Sở” - không theo một thứ tự nào; nếu
đưa vào thơ thì chức năng truyền thông của bài thơ thất bại.
Mà dù có nhớ đúng và đủ những gì xảy ra trong giấc mơ đi
nữa thì khi đưa chúng vào thơ, thi sĩ – đang trong tình trạng tỉnh táo - thường
không cưỡng lại được sự thèm muốn “thêm bớt, cắt xén”, nghĩa là “nêm nếm” một chút
“tài thơ” riêng của mình để “điều chỉnh”, “hợp lý hóa” câu chuyện trong mơ.
Rốt cuộc cũng chẳng khác gì những người làm thơ “phi siêu thực”.
Giải Trừ
Lý Trí Bằng Kỹ Thuật Thì Sao?
Mời độc giả đọc thử một đoạn trong bài Buồn Xưa của Nguyễn Xuân
Sanh.
Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Tác giả đã đặt cạnh nhau những chữ hoặc nhóm chữ
“xà bần”, chẳng có “dây mơ rễ má” gì với nhau nhằm mục đích cắt đứt sự liên tưởng,
để lý trí “giơ hai tay đầu hàng” rồi bỏ đi.
Nhưng để có được kết quả đó ông đã phải trả một
giá rất đắt - triệt tiêu chức năng truyền thông của bài thơ – làm mất sự giao cảm
giữa thi sĩ và độc giả.
Cho nên nếu bảo rằng loại bỏ lý trí để
được nghe, được đọc tâm tình chân thật phát xuất từ “cái tôi đích thực” của thi
sĩ thì theo tôi, những nhà thơ siêu thực đã không làm được điều đó.
Hai Cách Giải
Trừ Lý Trí “Phi Siêu Thực”
1/ Thơ Thiền
Thi sĩ tâm đã đối cảnh nhưng không “dấy động”, hoặc đã hoàn toàn
buông bỏ chuyện tranh cạnh hơn thua của cuộc đời trần tục, lý trí không có chỗ
bám víu. Trường hợp này ta có thơ thiền. Bài thơ là “chứng đạo ca” của một người
đã ngộ, đã “thấy” được lý đạo. (Từ chỗ thấy Lý đến đưa Lý vào Sự để Lý Sự Dung
Thông và rồi Sự Sự Vô Ngại còn một khoảng cách xa lắm)
Thí dụ 1
THƠ TRÊN CÁT
Viết bài thơ trên cát
Con sóng vỗ xóa đi
Vô tình đâu nhớ được
Mình viết bài thơ gì
(Viên Minh, nhận trực tiếp từ tác giả)
Bài thơ mới viết xong trên cát, con sóng tràn lên xóa mất mà thi sĩ
vẫn không một chút bận tâm, đến mức chẳng còn nhớ mình đã làm thơ về cái gì. Sao
lại thế được nhỉ? Người làm thơ bình thường như tôi (PĐN) sẽ cố nhớ lại vì nó là
tài sản tinh thần của mình. Nếu quả thật đã quên thì chắc là sẽ ngẩn ngơ nuối
tiếc.
Thái độ không bận tâm của tác giả đã khiến lý trí phải “đội nón ra
đi”, vô thức không có chỗ bám víu để giở trò can thiệp, “điều chỉnh”. Thiền sư
Viên Minh đã biểu lộ một khả năng buông bỏ rất đáng ngưỡng mộ. Ở đây không chỉ
“thấy Lý” mà đã “Lý Sự dung thông”. Việc “thấy lý” của ông đã dẫn đến hành động
(sự) – thái độ ung dung, bình thản khi nhận ra mình đã quên bài thơ.
Thí dụ 2
HÃY NHƯ MÂY TRẮNG
Mây trắng lang thang khắp đỉnh trời
Tùy duyên tan hợp dạo nơi nơi
Mây không hò hẹn không vương vấn
Thế giới ba ngàn mặc sức chơi
(Linh Như, nhận trực tiếp từ tác giả)
Tâm hồn của thi sĩ như mây trắng lang thang khắp trời, lúc tan, lúc
hợp tùy duyên. Không hò hẹn, không vương vấn, không trói buộc. Lý trí không có
chỗ tá túc, không có lý do để xuất hiện, đành phải “đi chỗ khác chơi”.
Trong 2 bài thơ thiền tâm hồn thi sĩ vắng lặng, không tư ý, tư dục;
cái tôi nhỏ bé đã hòa nhập với vũ trụ vô biên nên sự vật, cảnh đời trước mắt họ,
không qua lăng kính của vô thức, hiện ra như thị, như thực. Tâm hồn họ không chỉ
gần sự thật mà chính là sự thật.
2/ Thơ Thế Tục
Trái ngược với thơ thiền, trong thơ thế tục thi sĩ đắm say mùi đời
đến độ điên cuồng, máu sôi lên vì yêu thương, căm hận... Làm thơ trong tâm cảnh
này, nếu có thể thơ thích hợp, dòng chảy của tứ thơ thông thoáng, cảm xúc dâng
lên như nước vỡ bờ, dễ tạo cao trào. Lúc ấy lí trí sợ hãi trốn biệt, thơ là tiếng
lòng chân thật của thi sĩ. Bài thơ xứng đáng bước vào Bến Bờ Thi Ca.
Thí dụ: Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương
Vũ Hoàng Chương trong cơn say – say rượu, say nhịp điệu nhạc trên
sàn nhảy – đến lạc thần trí đã bộc lộ một “thành sầu” trong tâm hồn mình.
Đó là nỗi nhục của một sĩ phu bất lực trước cảnh quê hương, dân tộc
đang bị ngoại bang dày xéo. Không những thế, chính mình lại sập bẫy của quân xâm
lược, sa vào cảnh nghiện ngập - nghiện rượu, nghiện vũ trường, và đặc biệt là
nghiện thuốc phiện – cái nghiện mà nếu vướng vào sẽ bị người đời coi rẻ, khinh
khi. Nỗi nhục ấy, “thành sầu” ấy, đối với một người có thi tài và tâm hồn như Vũ
Hoàng Chương là quá to lớn – “đất trời nghiêng ngửa” cũng không thể lung lay, sụp
đổ.
Trong số những bài thơ xứng đáng được bước vào Bến Bờ Thi Ca thì
theo tôi, Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương nổi trội nhất. Cơn điên dài, cảm xúc mạnh,
hồn thơ lai láng, và lời thơ rất thật.
Độc giả có thể đọc cả bài thơ và lời bình qua link sau đây:
Cùng một đề tài ngưng bài dưới đây được viết lại để độc giả dễ hiểu hơn.
Sự Khác Biệt
Những thiền sư đạt đạo, sau
khi cao hứng viết bài thơ thiền - sự vật, cảnh đời xuất hiện như thị như thực
trong câu chữ - lại ung dung trở về trạng thái tâm buông bỏ, thanh tịnh.
Ngược lại, trong bài thơ thế tục (Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương) tâm
hồn thi sĩ còn chứa đầy những uất ức, thèm khát, bí mật phải che giấu nhưng nhờ
cơn điên làm lý trí hoảng sợ trốn biệt nên “thành sầu” nguyên bản (thật, chưa
qua điều chỉnh, thay đổi của vô thức) mới “bật ra”.
Nhưng trạng thái nổi điên ấy
chỉ đến bất chợt, có tính cách tạm thời. Ngay sau giây phút lạc thần trí đó ông
sẽ lại “hoàn hồn” để trở về một Vũ Hoàng Chương “cũ”, có hàng trăm, hàng ngàn uẩn
khúc khác chất chứa trong lòng không thể nói ra.
Theo tôi, đây là hai cách mời lý trí “đi chỗ khác chơi” hiệu quả mà
vẫn có thể tâm tình với độc giả và giữ được nét đẹp trong sáng của thi ca.
Thơ Càng
Hay Càng Gần Sự Thật
Những năm ở trung học nhà tôi nằm trong khu lao động. Đàn ông, sau
thời gian làm lụng cực khổ suốt ngày, bữa cơm chiều thường tìm vui trong ly rượu.
Mà khi “rượu vào” thì “lời ra”. Có ông lúc quá chén đã “buột miệng” nói ra chuyện
dan díu với người đàn bà khác. Dĩ nhiên, vợ con nghe được, tình vợ chồng, cha
con lạnh nhạt, hạnh phúc đội nón ra đi. Có trường hợp chỉ vì một câu nói “buột
miệng” mà gia đình gẫy đổ, chồng một nơi, vợ một nẻo, con cái học hành lở dở, đánh
mất tương lai.
Trong các phiên tòa hình sự ở Mỹ cả công tố viên lẫn luật sư biện
hộ đều dùng nhiều thủ thuật tâm lý đẩy bị cáo hoặc nhân chứng (của cả 2 bên) vào
thế tự ái, bực tức, tự “phun” ra những chi tiết lẽ ra phải che giấu để thắng kiện.
Trong trạng thái nổi điên ấy những chi tiết bị “phun” ra thường được bồi
thẩm đoàn tin và cho là sự thật. Họ sẽ dựa vào đó để phán xét có tội hoặc vô tội.
Với thơ, tôi có đôi lúc cao hứng nổi điên, câu chữ tuôn ra ào ạt,
phải “chộp lại” bằng tốc ký. Lúc ấy lý trí trốn biệt, vô thức không có cầu nối nên
không thể xen vào để bí mật “so đo hơn thiệt”, phán xét đúng sai, yêu cầu chỉnh
sửa. Những đoạn thơ ấy, khi bình tâm đọc lại nghe rất “đã” vì nhiều cảm xúc, và
dĩ nhiên, rất thật.
Nếu trong thời gian sáng tác, có nhiều đoạn thi sĩ cao hứng hoặc nổi
điên thì bài thơ càng hay hơn nữa. Đặc biệt, nếu cơn điên kéo dài cho đến lúc
viết xong bài thơ - hoặc ít nhất cũng xong đoạn tứ thơ lên đến cao trào - thì
thi phẩm ấy không những cảm xúc sẽ dạt dào mà còn có nhiều cơ hội hồn thơ lai láng.
Nhưng xin đừng quên trạng thái cao hứng đến mức nổi điên của
thi sĩ tuy là điều kiện rất cần nhưng chưa đủ để có hồn thơ. Bên cạnh đó thi sĩ
phải có kỹ thuật thơ điêu luyện. Đặc biệt phải biết chọn (hoặc tự tạo ra) thể
thơ có dòng chảy vừa nhất khí liền mạch vừa thông thoáng, dễ đưa tứ thơ và cảm xúc lên cao trào.
Nếu hồn thơ lai láng thì bài thơ sẽ đạt được mục đích cao cả nhất
của người làm thơ là nói được tiếng Người (viết hoa) Chân Thật. Và sẽ đi vào Bến
Bờ Thi Ca.
Kết Luận
Thi sĩ mượn thơ để bộc lộ, bày tỏ tâm trạng, để độc giả “nghe” được
“tiếng lòng” của mình. Nhưng vì nhiều lý do, “tiếng lòng” của Ngài thường gian
dối. Nếu bài thơ bằng cách nào đó loại bỏ được lý trí - dẫn đến loại bỏ được sự
gian dối – có nghĩa là thi sĩ đã ban cho độc giả ân huệ được giao tiếp với Ngài
bằng Tiếng Người Chân Thật.
Với một thế giới mà cái tôi văn hóa đã gần như hoàn
toàn che lấp cái tôi đích thực như hiện nay thì đó là điều vô cùng cần thiết và
quý giá. Và đó cũng là sứ mạng cao cả của thơ.
Nếu thi sĩ tâm có khả năng buông bỏ như các thiền sư đạt đạo thì
không nói làm gì. Thơ của Ngài không có chỗ cho lý trí bám víu, sẽ là tâm tình
chân thật.
Còn với những thi sĩ trần tục như tuyệt đại đa số những người làm
thơ, trong đó có tôi, thì như đã trình bày ở trên, thơ càng nhiều cảm xúc (thứ cảm xúc từ trạng
thái tâm của thi sĩ) càng gần sự thật và giá trị nghệ thuật càng cao.
Với những thể loại văn học khác thì tôi không dám bàn tới, nhưng với
thơ, tôi có thể xác quyết câu nói “Văn
chương càng hay càng xa sự thật” sai hoàn toàn.
Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
1/ Báo Tiền Phong ngày 01/10/2019
2/ Yêu Thơ Nên Phải Hết Lòng Với Thơ, Phạm Đức Nhì, t-van.net
3/ Mối Tình Xuyên Lục Địa, Phạm Đức Nhì
4/ Giấc Mơ Anh Lái Đò hay Mối Tình Vô Vọng
5/ Triết gia người Pháp
Tác phẩm tiêu biểu: L'Être et le
Néant (Tồn Tại Và Hư Vô), La Nausée (Buồn
Nôn)
6/ Triết gia người Pháp
Tác phẩm tiêu biểu: L'Étranger (Kẻ Xa Lạ)
7/ Từ Lãng Mạn Đến Siêu Thực, Thụy Khuê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét