NHẬN
DIỆN THƠ
1/
Đầm xưa.
Cóc
nhảy vô.
Nước
té vang.
Chú cóc nhảy vào.
Tiếng nước xao.
Thoảng
trong gió.
Tiếng
cóc.
kèm 2 câu hỏi có vẻ như đánh đố:
1/
Đoạn nào có thể gọi là thơ và đoạn nào không phải là thơ?
2/
Những đoạn được gọi là thơ (nếu có) thì hay hay dở? Hay ở chỗ nào và dở ở chỗ
nào?
Dựa Vào Định Nghĩa Thơ
Tuy vậy, hiện nay vẫn còn một số ít người tiếp tục
tin vào và thực hành tôn chỉ “văn dĩ tải đạo” và cho rằng nên “dùng Thơ Ca để giáo huấn (dạy) con em, để chúng trở thành người
chính trực, ôn nhu, rộng lượng, kiên nghị, cứng cỏi mà không thô bạo, giản dị
mà không ngạo mạn.(1).
Nếu độc giả đồng ý với cách nhìn ấy thì hãy ngừng ngay, không nên đọc tiếp bài
viết này nữa, vì như thế sẽ tốn công, phí sức vô ích.
Theo tôi, mục
đích chính của Văn là chuyển tải thông điệp. Cũng có khi có cảm xúc, nhưng nếu
không có cũng không sao. Nhưng với Thơ
thì cảm xúc là cốt yếu; nếu thiếu cảm xúc thì thơ sẽ không còn là thơ nữa mà
thành thể loại khác.
Tôi đồng
ý với Nguyễn Đình Thi khi ông viết
“Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói -tức là chữ- để thể
hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển mạnh mẽ khác thường”… "thơ không nói
bằng ý niệm thuần tuý, bởi nếu thế, thơ đã bị đánh đồng với đạo đức (luân lí),
triết học... Con đường của thơ hướng tới việc "lay động những chiều sâu của
tâm hồn, đem cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy nghĩ.” … (Mấy Ý Nghĩ Về Thơ)
Còn Nguyễn Hưng Quốc thì
cho rằng “Thơ là cảm xúc (bằng kỹ thuật thơ)
đi tìm một đồng cảm” (mấy chữ
trong ngoặc đơn là của PĐN thêm vào để tránh hiểu lầm).
Có
hai đặc tính để nhận ra một “Bài Thơ” không phải là Thơ:
1/
Nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí.
hoặc
là:
2/
Tác giả đã bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” nhưng chưa có những câu Sinh Tình.
Hình Vuông
Lấy cạnh nhân bốn lệ thường nhớ ghi
Diện tích hình vuông khó gì
Lấy cạnh nhân cạnh sai đi đường nào
Anh Yêu Khoảnh Đất Hình Vuông
ở giữa là căn nhà nhỏ bé
vách đất, mái rạ
nơi anh đã gởi cả trái tim
vì trong căn nhà đó có em.
(PĐN chế để minh họa)
3/
Công Cha Nghĩa Mẹ
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
(Ca
dao)
4/
Thôi xa rồi mẹ ới
lệ nhòa mi mắt
mong con phương trời
có lần chợt tỉnh đêm vơi
nghe giòn tiếng súng nhớ lời phân
ly
mẹ ơi con mẹ tìm đi
bao giờ hết giặc con về mẹ vui.
(Nhà
Tôi, Yên Thao)
Tác
giả đã bước vào khung cảnh thơ, cảm xúc đã dạt dào. Đích thị là thơ.
5/
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
(Văn Hóa Việt, e-cadao.com)
Một nhà nghiên cứu Văn Hóa Việt đã nhờ vào khả năng
quan sát sắc bén của mình nhận biết và kể lại những nét đặc thù trong sinh hoạt
văn hoá của người Việt Nam từng tháng một trong năm. Tuy thể thơ lục bát được
mượn làm phương tiện để chuyển tải thông điệp nhưng tác giả chỉ “đứng ngoài” chứ
không cho tâm trạng, cảm xúc của mình trộn lẫn vào thông điệp. Ở đây chúng ta cũng
chỉ có một loại văn vần chứ không có thơ
6/
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Có mẹ không cha
Rau má mọc bờ
Thò tay sợ dơ
Đó là rau nhớt
Rau cay như ớt
Vốn thiệt rau răm
Sống suốt ngàn năm
Là rau vạn thọ
(Vè Nam Bộ)
Rõ
ràng đây là một đoạn của bài vè. Mỗi câu 4 chữ, gieo vần liên tiếp. Tác giả
(khuyết danh) dùng lối chơi chữ gọi tên các loại rau một cách trào phúng. Tuyệt
nhiên không có cảm xúc.
Kinh Pháp Cú
Không làm các việc ác
Tu tập các hạnh lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Là lời chư Phật dạy
8/
Thị Đệ Tử
Thân như điện ảnh hữu
hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh
thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy
vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo
đầu phô.
(Sư Vạn Hạnh,
thivien.net)
Dặn Học Trò
Thân như bóng chớp
có rồi không
Cây cối xuân tươi
thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy
đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt
sương đông
(Ngô Tất Tố dịch)
Thiền
sư Vạn Hạnh đã dùng hình thức thơ thất ngôn tứ tuyệt để lý giải lẽ Vô Thường. Tất
cả những câu chữ ông viết ra đều đến từ bề mặt ý thức, là sản phẩm của lý trí.
Ông truyền đạt cho mọi người một phần sự hiểu biết của ông về đạo Phật; đó là lẽ
Vô Thường của vạn vật. Do không có tâm đối diện với cảnh sắc, lý chưa biến
thành sự, bài Thị Đệ Tử chỉ là Kệ chứ chưa phải là Thơ.
Hãy Tin Chúa
Hãy tin nơi Thiên Chúa
Hồn xác dâng cho ngài
Hãy sống theo lời Chúa
Chết, sẽ về nước Trời
Đây
chỉ là lời kêu gọi mọi người Hãy Tin Chúa. Không có bóng dáng cảm xúc nên không
thể gọi là thơ.
8/
Hãy Mua Thuốc Số 42
Ai khóc ngoài quan ải?
Ai chưa đánh đã chạy
dài?
Thuốc này bôi một
tý thôi
Là trèo lên ngựa
vung roi cả ngày
Thuốc này, ôi thật
là hay!
Thuốc này tên gọi
là Xây Xập Zì (tiếng Hoa: 42)
Đây
có vóc dáng là thơ nhưng chỉ là bài quảng cáo thuốc “chơi lâu” ở các tỉnh biên
giới phía bắc. Nó là sản phẩm của óc thương mại, kinh doanh, không phải là những
lời tâm tình, hàm chứa cảm xúc.
Có Cảnh Nhưng Chưa Có Tình
1/
“Thơ
Con Cóc”
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi
(Đã
giải thích)
2/
Đồi trọc
Thoảng trong gió
Tiếng cóc
Cũng như “Thơ Con Cóc”, đây mới chỉ là những câu xác
lập khung cảnh, mặc dù tâm đã đối cảnh nhưng chưa Sinh Tình, thứ Tình trong “thất
tình lục dục” của con người (hỷ nộ ái ố ai lạc cụ và sắc dục, thanh dục, hương
dục, vị dục, xúc dục, pháp dục), nên chưa phải là Thơ (loại Thơ Thế Tục ta thường
gặp). Tuy nhiên, trường hợp này do tâm đã đối cảnh, Cái Tôi Chủ Thể đã bước vào
khung cảnh bài thơ, đã có cảm xúc - niềm vui thấy mình đã buông xả, không còn bị
vướng mắc, lôi kéo. Đây chính là loại Thơ Thiền.
Một Số “Bài Thơ” Bị Tước Mất Danh
Hiệu Thơ.
1/
KIM
LŨ Y
Khuyến quân mạc tích Kim Lũ Y
Khuyến quân tích thủ
thiếu niên thì
Hoa khai kham chiết
trực tu chiết
Mạc đãi vô hoa không
chiết chi.
Đỗ Thu Nương
*
*
ÁO KIM TUYẾN
Khuyên anh đừng tiếc áo thêu vàng
Khuyên anh nên tiếc thời trẻ trung
Hoa nở bẻ được thì nên bẻ
Đừng chờ hoa hết, bẻ cành không.
2
LA CỐNG KHÚC
Kỳ Tam
Mạc
tác thương nhân phụ
Kim
thoa đương bốc tiền
Triêu
triêu giang khẩu vọng
Thác
nhận kỷ nhân thuyền.
Lưu Thái Xuân
BÀI CA LA CỐNG
(bài 3)
Chớ
làm vợ những người lái buôn
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.
Hai
tác giả sành đời đã đem kiến thức và kinh nghiệm của mình - bằng hình thức thơ
- khuyên bảo lớp hậu sinh. Nội dung hai “bài thơ” trên toàn là những điều hay, lẽ
phải nhưng tuyệt nhiên không có cảm xúc. Trước đây, vì quan niệm “văn dĩ tải đạo”
ông cha ta đã long trọng gọi chúng là Thơ. Nay Thơ đã đi theo một hướng mới, đã
có những định nghĩa mới gắn chặt nó với tâm tình, cảm xúc của con người nên, dựa
vào cách nhìn nhận mới đó, chúng không còn xứng đáng với danh hiệu Thơ nữa.
Trả Lời Thái Hưng
Nguyễn
Như
vậy, “đoạn thơ” thứ 3 do anh Thái Hưng Nguyễn gởi đến
1/
Đồi trọc
Thoảng trong gió
Tiếng cóc
đã
được trả lời và xếp loại như ở trên. Rất dễ dàng và đơn giản. Nó, dù đã xác lập
được khung cảnh của “bài thơ”, vẫn không phải là Thơ (loại Thơ Thế Tục) vì chưa
có câu Sinh Tình (thứ tình trong “thất tình lục dục”), nhưng có thể gọi là Thơ
Thiền.
2/
Đầm xưa.
Cóc nhảy vô.
Nước té vang
Nêú
không có chữ “xưa” thì đoạn này cũng không phải là thơ vì chưa có câu Sinh
Tình. Đưa chữ “xưa” vào đoạn thơ tác giả đã làm thay đổi hẳn cục diện.
Cóc:
nói chung chung, không có mạo từ nên có thể là số ít và cũng có thể là số nhiều.
Tứ
thơ: nhìn cóc nhảy vô “cái đầm (ngày) xưa”, nước bắn (lên) vang những âm thanh
quen thuộc, gợi lại biết bao nhiêu kỷ niệm.
Nhờ
chữ “xưa” nên vừa bước vào khung cảnh của “đoạn thơ”, mặc dù chưa có những câu
Sinh Tình, tình đã tự động phát sinh,
cảm xúc “bắn tung tóe”.
Đoạn
này đã đủ điều kiện để mang danh hiệu Thơ.
Chữ
“vang” không hợp với tiếng nước bắn lên (kim loại thì hợp hơn); câu “Nước té
vang” vừa vụng về, vừa ngô nghê, và dĩ nhiên, rất dở.
3/
Ao
cũ.
Chú
Cóc nhảy vào.
Tiếng
nước xao..
Tứ thơ: nhìn Chú Cóc nhảy vào “cái ao
cũ”, tiếng nước làm xao động biết bao tâm tình từ những kỷ niệm của những tháng
năm xưa.
Đoạn này đã đủ điều kiện mang danh hiệu
Thơ. Thêm nữa, nó còn hay hơn đoạn trên nhờ chữ “xao” vừa hợp, vừa thanh lại rất
gợi.
Đoạn này có thể có một cách hiểu khác.
Chú Cóc nhảy vào: xác định cóc chỉ có một
con.
Tứ thơ: Chú Cóc nhảy vào ao cũ, nghe tiếng
nước xao nhớ lại biết bao kỷ niệm ngày xưa, lòng (Chú Cóc) xốn xang, rung động.
(Trường hợp này có phép ẩn dụ - ý, tứ khác nhau)
Ý: nhìn Chú Cóc nhảy vào “ao cũ” làm nước
xao động, tác giả chợt nhận ra tâm trạng của mình cũng giống Chú Cóc - bao kỷ
niệm hiện về, tâm hồn bâng khuâng, xao xuyến.
Có phép ẩn dụ, đoạn thơ sang hẳn lên, và
vì thế, hay hơn nhiều.
Tuy nhiên, nếu hiểu theo cách này sẽ khó
trả lời được câu hỏi “Làm sao biết, đối với Chú Cóc, cái ao mà Chú nhảy vào là
ao cũ?”
Đoạn
Thơ Mới
Khi bài viết này còn chưa xong, anh Thái
Hưng Nguyễn, cũng vẫn câu hỏi cũ, đã đưa ra một “đoạn thơ” mới:
Đầm
hoang
Con
Cóc nhảy vô
Nước
té vang.
Tương tự như trên, đoạn này có thể gọi
là Thơ Thiền
Kết
Luận
Theo tôi, đây là cuộc tranh luận bổ ích.
Nhờ cuộc tranh luận về “Thơ Con Cóc” này tôi đã có cơ hội nhắc đến hai định nghĩa
Thơ mà tôi cho là phù hợp với cách nhìn nhận Thơ Ca hiện nay. Dĩ nhiên lập luận
của tôi trong bài viết chưa phải là kết luận chung cuộc. Sẵn sàng đón nhận ý kiến,
phê bình khác của bạn đọc.
Phạm Đức Nhì
nhidphạm@gmail.com
phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
1/ Kim Kũ Y: Thơ Xưa Mà Vẫn Mới. Nguyễn
Khôi, newvietart.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét