TRANH LUẬN VỀ “HAI CÁI BẪY NGUY
HIỂM CỦA NHỚ RỪNG”
Muốn khuyên người dân xài hàng nội hoá một
cô khá đẹp, giữ chức vụ cao trong chính phủ, khi trả lời phỏng vấn đã viện dẫn
hai câu ca dao:
“Ta
về ta tắm ao ta
Dù trong, dù đục ao nhà vẫn
hơn”
Cô này liền bị một đấng mày râu chơi xỏ: “Xin nghiêng
mình kính phục cái tinh thần tự lực cánh sinh, độc lập tự chủ của cô. Chỉ tiếc
rằng một người đẹp như cô lại chấp nhận… ở dơ.” (Dù trong dù đục ao nhà vẫn … tắm)
Phép ẩn dụ của câu ca dao trên không kín kẽ, không che chắn được hết mọi bề nên
nàng yểu điệu thục nữ kia đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt.
Bài thơ Ngọn Cỏ (1) cũng thế. Chọn cái tư thế đứng đái của
phụ nữ để ngụ ý rằng phụ nữ có thể sánh vai cùng nam giới, bình đẳng với nam giới,
là một phép ẩn dụ rất hay, rất ý nhị nhưng không kín kẽ, giống như thuốc chữa
được bệnh nhưng lại có phản ứng phụ.Phép ẩn dụ biến thể của Nhớ Rừng cũng có 2 phản ứng phụ. Đó là 2 cái bẫy đối với những ai yêu thích nó. Những ai mê cái chí lớn, cái khẩu khí Chúa Sơn Lâm của con hổ rất dễ sập 2 cái bẫy này.
1/ Con hổ trong vườn bách thú tuy vẫn khao khát tự do, vẫn mơ “giấc mộng ngàn to lớn” nhưng đã mất hết ý chí chiến đấu, đã đành bó tay cam chịu, chấp nhận thực tại phũ phàng.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Đó là thái độ tuyệt vọng, cam chịu, rất thực tế, biết mình biết người, rất đúng với hoàn cảnh của con hổ trong vườn bách thú.
2/ Con hổ khao khát tự do. Nhưng nếu được tự do nó sẽ trở thành một bạo chúa, áp dụng chế độ độc tài với “thần dân” của nó.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Cái tính muốn làm bạo chúa đã là máu thịt, đã là bản chất của loài hổ. Đó là một thực tế không thể chối cãi.
Cái khe hở của câu ca dao và Ngọn Cỏ nằm ở vế thứ nhất (tứ). Khe hở của Nhớ Rừng nằm ở vế thứ hai (ý), thông điệp kín mà tác giả muốn gởi đến, muốn nó thấm vào tâm hồn độc giả. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc sống - đặc biệt là của người dân Việt Nam, luôn luôn phải chịu cách đối xử áp bức, trịch thượng, bất công của ngoại bang – thái độ tuyệt vọng, cam chịu, không còn muốn chiến đấu rất dễ thuyết phục người dân, rất dễ thấm vào đầu họ bởi không đòi hỏi phải nỗ lực, nhấc tay nhấc chân, không phải đối diện với nguy hiểm, mất mát, tù tội, chết choc, hy sinh, cứ lặng lẽ sống cam chịu ngày này qua ngày khác.
Đối với tinh thần vương tướng, độc tài thì khỏi nói. Ý niệm dân chủ tự do chỉ mới xuất hiện trên bình diện chữ nghĩa. Người dân Việt chưa được sống trong một xã hội, một chính quyền thực sự dân chủ tự do. Khi thời cơ đến, người ta khó tránh khỏi sức cám dỗ của chức vị Chúa Sơn Lâm, thâu tóm quyền hành tuyệt đối về phe nhóm mình.
Là con người, liệu “Ta có chấp nhận thái độ cam chịu, buông xuôi, tuyệt vọng như con hổ không?” Khi được thoát cũi xổ lồng ta có giống con hổ trở thành ông vua độc tài chà đạp tự do của người khác không? Nếu câu trả lời là Không thì hãy đọc Nhớ Rừng như một bài thơ hay, diễn tả hùng khí và tâm trạng tuyệt vọng của con hổ trong vườn bách thú. Đừng “ghé” vào, hoặc xúi bảo con cháu “ghé” vào bài thơ để “dây máu ăn phần”, để được “ké” tý hùng khí của nó. Cái giá phải trả để có tý hùng khí đó - đặc biệt với lớp trẻ - là rất đắt. Không thể nói ta chỉ “thưởng thức” cái chí lớn của con hổ, còn những tính xấu của nó thì ta lờ đi. Những tính xấu đó đã là máu thịt của con hổ (đặc biệt là con hổ trong vườn bách thú), đã thấm đẫm vào bài thơ, làm sao có thể tách rời ra được.
Nhớ Rừng giống như cô gái nhảy xinh đẹp, thân hình sexy, hấp dẫn nhưng mắc chứng bệnh SIDA nguy hiểm. Chứng bệnh này không có những biểu hiện rõ rệt ở bên ngoài nên rất khó nhận biết bằng mắt thường. Ai ham hố “dính vào” để được hưởng lạc thú ái ân với cô thì sẽ nhiễm HIV. Vi khuẩn HIV sẽ tiềm ẩn trong máu, đến một lúc nào đó sẽ bộc phát và hậu quả sẽ khó lường.
Không biết từ lúc xuất hiện và được ngợi ca đến nay Nhớ Rừng đã khiến bao nhiêu người sập bẫy. “Cẩn tắc vô áy náy”. Hãy coi đoạn văn ngắn này như một lời cảnh báo … muộn màng.
Phạm Đức Nhì
Chú Thích:
1/ Xem Ngọn Cỏ Một Bài Thơ Hay? của Phạm Đức Nhì (t-van.net)
Bài
2: KHÔNG SỢ THỪA! CHỈ SỢ QUÁ MUỘN
(Trao đổi với nhà văn Lê Xuân Quang
về bài thơ Nhớ Rừng)Được người bạn cho biết là có “lời bình” liên quan đến bài viết Hai Cái Bẫy Nguy Hiểm Của Nhớ Rừng, tôi, theo lời chỉ dẫn vào trang web của nhà văn Lê Xuân Quang (lexuanquang.org). Ở đây tôi thấy nguyên văn bài viết của mình với một đoạn lời bình của nhà văn LXQ như sau:
LXQ: Cách suy nghĩ phân tích Thơ của ông Phạm Đức
Nhì trong cảm thụ Thi ca có những’’phát kiến…mới’’ thiên về thực dụng chỉ nên
dành cho nhà khoa học, sinh học, văn sĩ , nhà báo… Theo đó, con Hổ vốn dĩ là kẻ
ác, cứ để nó chết trong cũi, cho nó ra là sẽ tiếp tục ăn thịt kẻ khác và thành’’kẻ độc tài… (toàn trị)’’,
gây tai họa cho người …
Ca
dao, Thơ vốn dĩ kiệm lời lại đòi hỏi người thưởng thức phải cảm thụ bằng sự
rung động của nhịp tim để kích thích trí tưởng tượng phong phú trong mỗi bộ
não. ’’Dù trong dù đục’’ chỉ là ẩn dụ không phải trong đục cụ thể ở nước
để…tắm. Con hổ bị giam nhốt chi là vật hình tượng nói về TỰ DO, KHÔNG PHẢI CON
HỔ CHÚA SƠN LÂM NGOÀI ĐỜI… Thiết nghĩ’’cảnh báo’’ của nhà phê bình Phạm Đức Nhì
trở nên thừa, thậm chí lạc ra ngoài biên của tư tưởng của Thi sĩ trứ danh Thế
Lữ khi ông gửi gắm nỗi niềm trong bài thơ NHỚ RỪNG !
Đọc
xong đoạn lời bình dẫn nhập của nhà văn LXQ tôi có mấy nhận xét sau đây:
1/ Ông đăng kèm
cả bài viết của tôi với lời bình. Đó là cách đối xử rất công bằng với người
được (bị) phê bình. Một số nơi khác có khi người ta chỉ trích dẫn một vài đoạn
để phân tích rồi bình phẩm.2/ Ông đặt đoạn lời bình ở phía trước nên người đọc đã bị ông “đầu độc” trước khi đọc bài viết của tôi. Đó là thủ thuật hơi “ác” nhưng theo tôi, vẫn chấp nhận được, vì xét về lý, không phạm luật tranh biện.
3/ Những điểm cần
phê bình ông chỉ ra rất cụ thể, rõ ràng, và nhận định của ông thẳng thắn, dứt
khoát.
4/ Lời lẽ, giọng
điệu của lời bình rất lịch sự, hòa nhã.
Lời bình của ông có thể tóm tắt thành 3 điểm chính:
1/ “Dù trong dù
đục” chỉ là ẩn dụ, không phải trong đục cụ thể ở nước để … tắm.
2/Con hổ giam
nhốt chỉ là vật hình tượng nói về Tự Do, Không Phải Con Hổ Chúa Sơn Lâm Ngoài
Đời.
3/ Thiết nghĩ “cảnh báo” của nhà phê bình Phạm Đức Nhì trở nên thừa, thậm chí lạc ra ngoài biên của tư tưởng của thi sĩ trứ danh Thế Lữ khi ông gởi gắm nỗi niềm trong bài thơ Nhớ Rừng.
Và bây giờ tôi xin trao đổi với ông Lê Xuân Quang từng điểm
một:3/ Thiết nghĩ “cảnh báo” của nhà phê bình Phạm Đức Nhì trở nên thừa, thậm chí lạc ra ngoài biên của tư tưởng của thi sĩ trứ danh Thế Lữ khi ông gởi gắm nỗi niềm trong bài thơ Nhớ Rừng.
1/ “Dù
trong dù đục” chỉ là ẩn dụ, không phải trong đục cụ thể ở nước để … tắm.
Nói nôm na cho dễ hiểu thì ẩn dụ - ở đây là ẩn dụ toàn bài
- là “nói cái này mà ngụ ý cái kia”.
Thí dụ 1:
Bầu ơi thương lấy bí cùngTuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Cái được nói đến (cái này): bầu và bí chung một giàn, nương
nhau mà sống.
Cái được ngụ ý (cái kia): người trong một cộng đồng, một
nước phải nương nhau, yêu thương nhau để cùng chung sống trong hòa bình,
Phép ẩn dụ ở đây kín kẽ vì:
-
Hiểu theo nghĩa đen (cái này: bầu bí
chung một giàn, nương nhau mà sống) cũng đúng, cũng hợp lý.- Hiểu theo nghĩa bóng (cái kia: người trong một cộng đồng, một nước phải nương nhau, yêu thương nhau để cùng chung sống trong hòa bình, đùm bọc) cũng hợp tình, hợp lý.
- Cái này hoàn toàn ăn khớp, tương xứng với cái kia
Thí dụ 2:
Thân em như quả mít trên câyDa nó xù xì múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
(Quả Mít, Hồ Xuân Hương)
Nữ
sĩ Hồ Xuân Hương kiêm diễn viên xiếc trổ tài đi dây; một sợi dây bên Quả Mít và
sợi dây bên kia là cái chuyện “ấy” của trai gái mà bà muốn bóng gió nói đến.
Ngoài câu mở đầu có tính chất giới thiệu, 3 câu còn lại đều diễn tả những bộ
phận và hành động rất tương xứng của hai bên. Quả mít thì da xù xì, múi dầy; bộ
phận quý giá nhất của phụ nữ cũng thế. Với quả mít “quân tử có thương thì đóng
cọc”; chuyện “ấy” của trai gái cũng y chang. Quả mít khuyên “xin đừng mân mó
nhựa ra tay” thì khi trai gái yêu nhau “nếu mân mó ắt hẳn nhựa cũng sẽ ra tay”,
nghĩa là rất tương hợp. Bà Hồ Xuân Hương đã thành công mỹ mãn trong màn xiếc đi
dây của mình. Phép ẩn dụ của bài thơ rất tuyệt.
Trong hai thí dụ trên, tác giả đã chọn được cái này cân
xứng, tương hợp với cái kia. Hiểu theo nghĩa đen cũng hợp nghĩa, hợp lý, hợp
tình. Mà suy tưởng qua nghĩa bóng cũng rất hợp tình, hợp lý. Không có chỗ hở để
vặn vẹo, bắt bẻ. Đây là những phép ẩn dụ hoàn hảo.
Bây giờ trở lại câu ca dao:
Ta
về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn
Nghĩa đen: dù trong dù đục về tắm ao nhà vẫn hơn.Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn
Nghĩa bóng: dù tốt, dù xấu cũng nên dùng hàng nội hóa (không dùng hàng ngoại) để giúp kinh tế nước nhà phát triển.
Nghĩa đen và nghĩa bóng (cái này và cái kia) rất tương xứng nhưng trong
đời sống thực tế thì lại không hợp tình. Ao nhà bẩn quá thì cũng phải muối mặt
đi tắm nhờ chứ cứ lao bừa xuống tắm, có ngày mắc bệnh … ghẻ. Hàng nội mà xấu
quá, tệ quá thì cũng đành - bỏ chuyện kinh tế nước nhà qua một bên - đi mua
hàng ngoại chứ ai dại gì bỏ tiền ra mua thứ vừa xấu mã vừa kém phẩm chất, chưa
dùng đã hỏng.
Phép ẩn dụ này không kín kẽ, dễ bị bắt bẻ, vặn vẹo.Như vậy “dù trong dù đục” là ẩn dụ (thật ra phải nói là nghĩa bóng mới đúng) nhưng cũng là trong đục cụ thể ở nước để … tắm (nghĩa đen)
2/ Con
hổ giam nhốt chỉ là vật hình tượng nói về Tự Do, Không Phải Con Hổ Chúa Sơn Lâm
Ngoài Đời.
Nhà thơ Thế Lữ mượn lời con hổ (bị giam nhốt) trong vườn
bách thú để “gửi gắm nỗi niềm” nên chúng ta có phép ẩn dụ:Cái được nói đến: lời con hổ trong vườn bách thú.
Cái được ngụ ý: nỗi niềm của tác giả.
Như vậy con hổ ở đây là con hổ thật nhưng không phải con hổ Chúa Sơn Lâm ngoài
đời mà là con hổ trong vườn bách thú
và tác giả đã mượn nó làm hình tượng nói về Tự Do.
3/ Thiết nghĩ “cảnh báo” của nhà phê bình Phạm Đức Nhì trở nên thừa, thậm chí lạc ra ngoài biên của tư tưởng của thi sĩ trứ danh Thế Lữ khi ông gởi gắm nỗi niềm trong bài thơ Nhớ Rừng.
Bài
thơ Nhớ Rừng có ngôn ngữ cao sang. Cả 47 câu thơ, câu nào cũng đúng, cũng hợp
với khẩu khí của con hổ. Từ tâm trạng bực bội vì bị xếp ngang hàng với những
loài hèn kém trong khung cảnh gò bó, tù túng của cũi sắt vườn bách thú đến nỗi
nhớ thương tiếc nuối những ngày còn là Chúa Sơn Lâm trong rừng sâu núi thẳm. Từ
niềm uất hận phải sống giữa cảnh trí tầm thường giả dối do con người sắp đặt
đến thái độ bó tay cam chịu nhưng vẫn khao khát tự do trong “giấc mộng ngàn to
lớn”. Nhất nhất cứ như con hổ thật, biết nói tiếng người, đang tâm sự với độc
giả. Cảm xúc dạt dào, hơi thơ rất mạnh khiến dòng thơ cứ băng băng tuôn chảy.3/ Thiết nghĩ “cảnh báo” của nhà phê bình Phạm Đức Nhì trở nên thừa, thậm chí lạc ra ngoài biên của tư tưởng của thi sĩ trứ danh Thế Lữ khi ông gởi gắm nỗi niềm trong bài thơ Nhớ Rừng.
Nếu
là bài bình thơ thì tôi sẽ phân tích kỹ hơn, nhưng ở đây tôi chỉ xin nói đến
hai điểm “xấu”, hai thái độ tiêu cực của con hổ.
1/ Con hổ hoàn toàn buông tay, tuyệt vọng.
Đây là lời con hổ:
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Nỗi
niềm khao khát tự do của con hổ rất kỳ lạ. Thích tự do nhưng không tìm, không
có kế hoạch để xin, để đòi tự do, để vượt ngục. Cứ lặng lẽ ngồi mơ, mong một
phép mầu nào đó xảy ra. Nếu Thế Lữ viết: “Nơi ta chắc không còn thấy bao giờ” thì còn có chút hy vọng, dù rất mong
manh. Đàng này lại là “Nơi ta không còn được thấy bao giờ” – nghĩa là khẳng
định 100%; con hổ đã hoàn toàn tuyệt vọng, xuôi tay cam chịu. Đây rõ ràng là
lời thơ Thế Lữ, nỗi niềm của Thế Lữ cho nên ông LXQ gán cho tôi cái tội “lạc ra
ngoài biên tư tưởng…” là ông đã đổ oan cho tôi rồi đấy.
2/ Con hổ lúc nào cũng mơ “giấc mộng ngàn
to lớn”
Cái
tính ham hố địa vị, quyền hành, lúc nào cũng mơ tưởng đến cái thời còn là Chúa
Sơn Lâm, cai quản cả một vương quốc núi rừng rộng lớn đã nằm trong máu thịt,
xương cốt của con hổ. Chính Thế Lữ cũng đã cho con hổ nói lên tâm sự của nó:
Trong hang núi mắt thần khi đã
quắc
là khiến cho mọi vật đều im hơi
ta biết ta chúa tể của muôn loài
Đó
là cái tính lúc nào cũng muốn ra oai, sẵn sàng lấn lướt, hiếp đáp người khác.
Và đó cũng rõ ràng là những câu thơ trong Nhớ Rừng, là nỗi niềm của Thế Lữ.
(Ông LXQ thấy đấy! Tôi vẫn dựa vào văn bản để nói, phân tích chứ không hề đi
“lạc ra ngoài biên tư tưởng …”)
Tóm
lại, Nhớ Rừng là bài thơ hay; hay về ngôn ngữ, kỹ thuật, về cảm xúc. Riêng về ý
tưởng thì lại là chuyện khác. Nếu bảo Thế Lữ đã gởi gắm nỗi niềm vào con hổ trong
vườn bách thú thì ông đã “trao duyên lầm kẻ xấu”. Con hổ này chí khí thì không
có gì ghê gớm. Chỉ được cái giọng điệu, thái độ cao ngạo vì đã có một thời làm
vương, làm tướng – không phải do tài năng mà là nhờ “con ông cháu cha”, nhờ
huyết thống, nòi giống của mình. Bị giam hãm thì lúc nào cũng tiếc nuối quá
khứ, mơ “giấc mộng ngàn to lớn”, được trở lại làm Chúa Sơn Lâm hét ra lửa, mửa
ra khói nơi núi rừng nhưng lại hèn nhát buông tay cam chịu, không hề có ý định
chứ đừng nói gì đến quyết tâm đào thoát tìm tự do.
Mấy
tuần qua nước Mỹ rúng động vì cuộc vượt ngục của hai tù nhân giết người trong
một trại giam an ninh cực cao ở New York. Sau hơn 3 tuần lễ truy đuổi, một bị
bắn chết và một bị bắt lại. Chi phí cho việc truy đuổi được ước tính lên đến
trên 1 triệu đô la mỗi ngày (1). Tôi hoàn toàn lên án tội ác của hai tù nhân
này và muốn họ phải tiếp tục chịu hình phạt như công lý đã xét xử. Nhưng nếu
nói về niềm khao khát tự do thì họ đã
hơn hẳn con hổ, cái hình tượng tự do
(chữ của ông LXQ) của Thế Lữ; họ đã tìm tay trong giúp đỡ, thu góp dụng cụ cần
thiết, chuẩn bị kế hoạch và cuối cùng đã dám đem sinh mạng của mình để đổi lấy
tự do.
Giai
đoạn còn đi làm chế biến hải sản (seafood), những lúc không có hàng nằm nghỉ
dài dài ở nhà tôi thường làm thơ, đọc sách và xem phim. Cuốn phim tôi thích
nhất, xem đi, xem lại nhiều lần nhất là Bố Già (The Godfather). Khi
phát hành (năm 1972) Bố già đã trở thành bộ phim ăn khách nhất tính
cho đến thời điểm đó với doanh thu hơn 5 triệu USD trong tuần đầu và hơn 81
triệu USD cho lần phát hành đầu tiên, 134 triệu USD cho lần phát hành tiếp
theo. Bố Già đã giành được 3 giải Oscar, 5 giải Quả
Cầu Vàng, 1 giải Grammy và nhiều giải khác. Sau này bộ phim
được coi là một trong những tác phẩm hay nhất của lịch sử điện ảnh. (2)
Khoảng
7, 8 năm trước và rồi đầu năm nay (2015), khi phim Bố Già được chiếu đi chiếu
lại liên tục, có khi suốt ngày (marathon) ở giữa có cả phần phát biểu của các
diễn viên chính và những người liên quan đến việc sản xuất bộ phim, tôi ghi
nhận được một chi tiết lý thú. Đó là sau khi Bố Già được trình chiếu một thời
gian, báo chí đã tiết lộ những số liệu của chính phủ cho biết “tệ nạn băng đảng
đã gia tăng ở mức độ đáng lo ngại.” Số lượng băng đảng nhiều hơn trước. Các
băng đảng lớn mạnh hơn, tổ chức chặt chẽ hơn. Thành viên của mỗi băng đảng đông
hơn, trong đó con số thành viên mới đã tăng trưởng mạnh mẽ hơn rất nhiều.
Ai cũng biết băng đảng là xấu xa, tội lỗi. Bước vào là tay
dính chàm, phạm đủ loại tôi ác. Từ tống tiền, kinh doanh khách sạn, sòng bài,
cá độ, đĩ điếm … đến giết người, có khi hàng loạt, kể cả anh em ruột thịt (Gia
đình Ông Trùm Corleon không dính đến ma tuý). Rồi còn tù tội chết chóc lúc nào
cũng rình rập, đợi chờ, mặc cảm tội lỗi lúc nào cũng ám ảnh lương tâm. Như vậy
tại sao đám thanh niên trẻ - sau khi xem Bố Già - lại hăng hái gia nhập các
băng đảng Mafia? Sức hấp dẫn của Bố Già ở chỗ nào? Một số nhà báo đã đưa ra mười
mấy lý do. Tôi chỉ xin ghi ở đây vài lý do chính:
-
Giúp
đỡ người cô thế, yếu đuối.- Đãi ngộ tốt những người làm việc cho mình.
- Đã hứa là giữ lời.
- Coi gia đình là quan trọng nhất.
- Thiết lập tình bằng hữu bằng sự tôn trọng, công việc và lòng tin.
- Không hành động theo cảm tính.
- Vũ lực là lựa chọn sau cùng.
- ………………………
Trong phim đạo diễn đã khéo léo phô diễn những tính tốt, tính anh hùng mã thượng của Ông Trùm. Mặt trái của Mafia xuất hiện ít hơn.
Là một nước mà Tự Do Ngôn Luận được tôn trọng và bảo vệ tối đa, chính phủ Mỹ đã không có quyền thu hồi hoặc cấm chiếu phim Bố Già (dù rất muốn) với lý do là nó đã tác hại đến vấn đề tội phạm của quốc gia. Nhà chức trách đã phải tìm một giải pháp khác. Đó là gợi ý (hoặc ngầm yểm trợ) để giới phim ảnh làm những bộ phim khác lột trần bộ mặt thật của Mafia để giải độc. Những bộ phim GoodFellas (3). The Making of the Mob (Sự Hình Thành Của Mob) (4) … được sản xuất đã có hiệu quả này.
Nhớ Rừng của Thế Lữ cũng gần giống như vậy. Cái tốt, cái xấu lẫn lộn. Cái tốt được tài thơ của tác giả hết sức phô trương. Cái xấu khá mờ nhạt, phải để ý kỹ mới thấy. Nhưng được dòng cảm xúc thơ chuyển tải, nó có khả năng thấm dần vào tim óc người đọc. Tôi không biết là có thực sự có không, cái quan hệ nhân quả giữa “nọc độc của Nhớ Rừng” với cách ứng xử của con người Việt Nam, bởi chưa có ai quan tâm nghiên cứu về vấn đề này.
Nhưng qua việc theo dõi tin tức về quê hương Việt Nam hàng ngày, có khi hàng giờ, qua mấy lần về Việt Nam, mỗi lần hàng mấy tháng, đi từ nam ra bắc, tiếp xúc với đủ hạng người - từ nghèo khổ, thất học đến những người giầu có, bằng cấp cao, có chức tước trong chính quyền - tôi đã cảm thấy một điều đáng sợ. Nhiều người Việt Nam không phải chỉ mới nhiễm HIV mà chứng bệnh SIDA Nhớ Rừng - cả loại 1 lẫn loại 2 - đã phát tác, đã tàn phá, không phải thể xác mà là tâm hồn họ và có thể đã lây lan đến cả thế hệ trẻ sau này.
Để kết luận tôi muốn nói với ông Lê Xuân Quang một câu chân tình. Tôi không sợ lời cảnh báo của tôi thừa. Tôi chỉ sợ nó quá muộn.
Galveston, Texas 07/2015
Phạm Đức Nhìnhidpham@gmail.com
2/ Wikipedia Tiếng Việt https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%91_gi%C3%A0_(phim)
3/ https://en.wikipedia.org/wiki/Goodfellas
Nhớ Rừng
Tác giả:
Thế Lữ
Tặng Nguyễn
Tường Tam (Lời con Hổ ở vườn Bách thú)
Gặm một khối
căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài,
trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người
kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt
bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị
nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ
mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy
cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo
chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi
trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung
hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn
lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng
gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét
khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân
lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm
thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng
âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối,
mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho
mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta
chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo
hoa, không tên không tuổi.
Nào đâu những
đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng
uống ánh trăng tan?
Đâu những
ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm
giang san ta đổi mới?
Đâu những
bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim
ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những
chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết
mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm
lấy riêng phần bí mật?
Than ôi! thời
oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm
uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh
không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa
sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ
xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước
đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới
nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá
hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi
bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn
ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai
linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống
hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh
thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không
còn được thấy bao giờ!
Có biết
chăng trong những ngày ngao ngán
Ta đang theo
giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng
phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng
ghê gớm của ta ơi!
1936
THẾ LỮ
Lời biện
hộ: Châu Thạch
Thế Lữ là một
trong nhưng cây bút đi đầu của phong trào thơ mới. Tác phẩm ghi lại dấu ấn của
ông là bài thơ “Nhớ Rừng”. Từ ngày bài thơ được phổ biến đến nay đã tốn không
biết bao nhiêu giấy mực ca tụng nó. Gần đây nhà thơ Phạm Đức Nhì trong bài
viết “Hai Cái Bẫy Nguy Hiểm Của Nhớ Rừng”* đã có một cái nhìn khác mà nhà văn
Lê Xuân Quang nhận xét đại ý là “Cách suy nghĩ phân tích Thơ của ông Phạm Đức
Nhì trong cảm thụ Thi ca có những ‘phát kiến…mới’ thiên về thực dụng”
Trong cái
nhìn “phát kiến…mới” nầy nhà thơ Phạm Đức Nhì đã phê phán bài thơ “Nhớ Rừng” đại
ý như sau:
1/ Con hổ
trong vườn bách thú tuy vẫn khao khát tự do, vẫn mơ “giấc mộng ngàn to lớn”
nhưng đã mất hết ý chí chiến đấu, đã đành bó tay cam chịu, chấp nhận thực tại
phũ phàng.
Hỡi oai
linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống
hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh
thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không
còn được thấy bao giờ!
2/ Con hổ
khao khát tự do. Nhưng nếu được tự do nó sẽ trở thành một bạo chúa, áp dụng chế
độ độc tài với “thần dân” của nó.
Trong hang tối,
mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho
mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta
chúa tể muôn của loài”
Trong phần kết
luận bài viết, nhà thơ Phạm Đức Nhì đã nhận định về bài thơ “Nhớ Rừng” có một
câu như sau:
“Nhớ Rừng giống
như cô gái nhảy xinh đẹp, thân hình sexy, hấp dẫn nhưng mắc chứng bệnh SIDA
nguy hiểm.”
Và sau
đó trong một bài viết với đề tài “Không Sợ Thừa! Chỉ Sợ Quá Muộn*” để trao đổi
với nhà văn Lê Xuân Quang, nhà thơ Phạm Đức Nhì nhấn mạnh hai hành động của Hổ
trong vườn bách thú là “bó tay cam chịu số phận” và “mơ ước được tự do sẽ lại
làm bạo chúa” là hai cái bẫy nguy hiểm làm thui chột ý chí chiến đấu và cổ
vũ cho lòng ham muốn độc tài, hiếp đáp người khác của những thế hệ Việt Nam trước
và hiện tại.
Đọc những
bài viết của nhà thơ Phạm Đức Nhì tôi xin mạo muội góp một vài ý kiến thổ thiển
của mình để biện hộ cho Nhớ Rừng của Thế Lữ. Dẫu ý kiến của tôi có khác biệt
nhưng tôi xin bày tỏ lòng cảm mến và khâm phục của tôi đến nhà thơ Phạm Đức Nhì
là cây bút thơ và văn điêu luyện mà tôi luôn trân trọng.
- Thứ nhất: Tôi xin nói về con Hổ có
khi nào “Bó tay cam chịu, chấp nhận thực tại phũ phàng” không?
Như đã thấy,
nhà thơ Phạm Đức Nhì đã bôi đậm câu thơ “Nơi ta không còn được thấy bao giờ” và
dựa vào câu thơ ấy mà quả quyết là con Hổ đã mất hết ý chí chiến đấu, cam chịu
thân phận tù tội của mình. Để biết nhận xét nầy đúng hay là oan cho con Hổ trước
hết ta hãy tìm hiểu con Hổ là biểu tượng của cái gì. Trong nhiều nền văn hoá
trên thế giới, con Hổ là biểu tượng của đẳng cấp chiến binh, toát lên vẻ đẹp hùng
vĩ và sức mạnh.
Trong Tam Quốc
Chí, ngũ hổ tướng của nhà Thục là Quan Vũ, Trương Phi, Triệu vân, Hiếu Trung và
Mã Siêu là nhưng mãnh tướng bất khuất mà đến nay thế gian vẫn tôn thờ, trong đó
Triệu tử Long được phong là Hổ oai Tướng Quân.
Trong truyện
Kiều, Từ Hải là bậc anh Hùng mà khi chết cũng chết đứng đã được Nguyễn Du tôn
vinh bằng bộ râu của con Hổ: “Râu hùm, hàm én mày ngài/Vai năm tấc rộng, thân
mười thước cao”. Vậy khi nhà thơ Thế Lữ nhốt một con Hổ vào sở thú trong bài
thơ của ông thì ông sẽ nhốt con Hổ nào? Chẳng lẽ ông lại đi nhốt con Hổ bạc nhược
mất sức chiến đấu hay sao? Hay là ông sẽ nhốt con Hổ biểu tượng của sự cao cả,
của bậc anh hùng, của ý chí bất khuất ở trên. Bài thơ cho ta thấy ông đã nhốt
con Hổ “Oai linh rừng thẳm” là con Hổ mang đầy đủ biểu tượng của một anh hùng.
Kinh nghiệm cho ta thấy không có con vật hoang dã nào, dầu con chim, con sóc
cũng không chịu nằm yên trong lồng huống chi là con Hổ. Chỉ trong một phút yếu
lòng nhớ rừng xưa con Hổ mới than một câu tưởng như là nó đã bị thuần hoá: “Nơi
ta không còn được thấy bao giờ”, nhưng thật ra thế giới bên trong của Hổ vẫn
ngùn ngụt ngọn lửa bất khuất. Ngọn lửa đó thể hiện ở chổ nó nhớ rừng da diết,
nó khinh thường “những cảnh sửa sang tầm thường, dả dối” và nó khinh không chịu
“ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi/ với cặp báo chuồng bên vô tư lự”. Hổ đang bị
thúc thủ nên nó phải than vãn, nhưng nó đang chờ thời cơ để vùng dậy.
-Thứ Hai: Làm sao biết con Hổ nếu được tự do
sẽ chuyên chế, độc tài, hiếp đáp thần dân mình?
Ở trên ta thấy
rằng nhà thơ Phạm Đức Nhì đã dùng nhưng câu thơ “Trong hang tối mắt thần khi đã
quắc/ Là khiến cho mọi vật đều im hơi/Ta biết ta chúa tể của muôn loài” để kết
tội cho Hổ của Thế Lữ là con vật xấu xa, là bạo chúa. Thật ra ba câu thơ trên
biểu hiện tác phong, uy vũ của một minh quân. Nếu vua mà không có uy vũ nầy thì
làm sao trị quốc bình thiên hạ cho được. Ở đây ta để ý hai chữ “mắt thần”. Mắt
thần đương nhiên không phải mắt của bạo chúa mà “mắt thần” là mắt của bậc công
chính. Khi “mắt thần”đã quắc thì uy lực từ chính nghĩa làm cho mọi vật đều im
hơi. Nếu là mắt của bạo chúa thì “ở đâu có đàn áp, ở đó có đấu tranh”, sẽ không
có sự im hơi bao giờ. Trong nền văn hoá dân gian Việt, hình tượng của con vật
hung bạo, tàn ác là con Sói, còn hình tượng của Hổ mang ý nghĩa nhân đạo, quyền
uy khiến Hổ sở hửu một phẩm hạnh rất cao để trở thành linh vật của tôn giáo. Vậy
khi Thế Lữ đưa con Hổ vào bài thơ là đưa một linh vật có bản chất tốt nên không
bao giờ có “cái tính muốn làm bạo chúa đã là máu thịt, đã là bản chất của loài
hổ.” như lời kết tội Hổ trong bài viết của nhà thơ Phạm Đức Nhì.
-Thứ ba: Bài thơ “Nhớ Rừng’ có là cái
bẫy nguy hiểm không?
Tất cả mọi
người khi đọc bài thơ “Nhớ Rừng” đều thấy buồn thương cho con Hổ trong vườn
bách thú và lòng tự nhiên phấn khích muốn đạp đổ tất cả để vượt trên cuộc sống
bình thường, chật hẹp, tù túng. Nhà thơ Thế Lữ đưa hình ảnh con Hổ bị nhốt
trong vườn bách thú không phải để chúng ta đọc xong là buồn chán rủ rượi hay đọc
xong là mơ ước chuyện cướp bóc, hành hạ tha nhân. Đây là hình ảnh của thế hệ
ông bị 100 năm đô hộ giặc Tây. Con người đọc lời than van da diết của con Hổ “gặm
một khối căm hờ trong củi sắt” để không bao giờ chịu làm con Hổ như thế, để đứng
lên phá xích xiềng, để được sống như Hổ nơi rừng núi oai linh, hùng vĩ ngày
xưa.
Mấy ai trong chúng ta khi đọc xong bài thơ nầy
lại muốn mình làm thân phận của con Hổ kia. Vậy thì kết tội bài thơ như
là “Cô gái nhảy ,xinh đẹp mà bị bệnh SIDA” làm lây lan căn bệnh đó khiến cho
nhiều thế hệ băng hoại thì thật ra oan khiên quá cho bài thơ, cho Hổ là loài có
biểu tượng tốt đẹp và cho thi sĩ là người vì nỗi ray rức cho thân phận nô lệ của
mình, của thế hệ mình mà phổ vào thơ, hầu đưa ra một hình ảnh ẩn dụ, để cho người
đọc “cảm thụ bằng sự rung động của nhịp tim, kích thích trí tưởng tượng phong
phú trong mỗi bộ não …” như lời nhà văn Lê Xuân Quang đã viết.
Vậy “ Nhớ Rừng”
tuy là một bài thơ chất chứa tâm trạng tủi nhục của con Hổ trong vườn bách thú
nhưng nó không phải là một bài thơ tiêu cực, mà là một bài thơ tích cực, phơi
bày sự giả tạo, buồn chán của kiếp sống nô lệ tù tội, khôn khéo trong hoàn cảnh
cấm đoán ngôn luận trong thời Pháp thuộc để khích động tinh thần yêu nước, khiến
cho cả thế hệ nhìn Hổ mà ngẫm đến mình, đứng lên phá vòng cương toả.
Hình như
giai đoạn sau nầy nhà thơ Thế Lữ còn làm những bài thơ đấu tranh cụ thể hơn,
tích cực hơn nhưng rồi ngày nay đã mai một hết, chỉ “Nhớ Rừng” vẫn còn vang
bóng . Điều đó chứng tỏ “Nhớ Rừng” là bài thơ đúng đắn nên đã sống và còn sống
lâu dài. Nó sống thì nó không phải là một con bệnh SiDA được, và khi “Nhớ
Rừng” sống thì chứng tỏ con Hổ của “ nhớ Rừng”, của Thế Lữ không một khuyết điểm
nào nên nền văn học đã nuôi nấng nó ./.
Châu Thạch
(Viết sau khi đọc Vài Lời Biện Hộ Cho Nhớ Rừng
Thơ Thế Lữ (1) Của Châu Thạch)
Bắt Đầu Từ Một Ẩn Dụ
Có dạo đọc
đi, đọc lại mấy bài thơ “mới” (từ một trang web luôn hô hào làm mới thơ) mà chẳng
hiểu tác giả muốn nói gì, càng đọc càng thấy tối mù. Hơi bực bội nên nổi hứng
viết bài thơ dưới đây:
Tấm Bản Đồ Vẽ Sai
(Chức năng
truyền thông của thơ)Chọn lô đất tốt xây được ngôi nhà mới
ông mở tiệc mừng tân gia
“Đến chơi! Hay lắm!”
thư ông viết
mời bằng hữu gần xa
Ngay giữa trang thư một bản đồ
dọc ngang tự tay ông vẽ
và lời chỉ dẫn cặn kẽ
đường đi nước bước đến cuộc vui
Giờ hẹn đến rồi
chưa thấy bóng khách mời nào xuất hiệnđồ ăn nguội lạnh
bàn tiệc vẫn vắng tanh
Vài ngày sau
ông nhận được mấy thư trả lờitrong thư chỉ vỏn vẹn:
“Xin lỗi!
Không tìm thấy nhà.”
(Phạm Đức
Nhì)
Nếu giải mã phép ẩn dụ thì bài thơ có ý nghĩa như sau:
Bài thơ là tấm bản
đồ bằng chữ chỉ đường, từng bước, từng bước đưa dẫn người đọc đến cánh cửa trái
tim đang mở rộng của tác giả. Những lời chỉ dẫn này phải rõ ràng, dễ hiểu, vì nếu
rắc rối hoặc mơ hồ, dễ gây hiểu lầm, sẽ khiến người đọc đi lạc đường.
Nếu thi sĩ không nắm
vững kỹ thuật thơ ca, không có ý tứ mới lạ, hoặc lúc không có hứng cũng cố gượng
gạo mà viết, thì sẽ được một bài thơ… dở, không có hồn. Nhưng nếu chức năng
truyền thông của bài thơ thất bại thì tất cả câu chữ, hình ảnh, âm thanh, biện
pháp tu từ … đều đổ xuống sông, xuống biển hết. Nó sẽ trở thành một câu đố bí
hiểm mà chỉ chính người tạo ra nó mới có câu trả lời. Ai xui xẻo đọc phải bài
thơ này thì cứ như đi vào rừng rậm trong đêm tối, chẳng biết mình đang ở chỗ
nào và sẽ đi về đâu.
Viết xong bài thơ tôi khoái chí gởi
ngay cho một người bạn – không làm thơ nhưng biết thưởng thức thơ và đặc biệt
“bàn thơ” rất có nét – và được hắn lên tiếng khen ngợi: “Phép ẩn dụ rất khéo và
có duyên.” Tôi lưu bài thơ vào folder Những Bài Thơ Về Thơ để một ngày đẹp trời
nào đó sẽ viết một bài bàn về nhiều khía cạnh của thi ca mà những bài thơ này sẽ
là những minh họa đắt giá. Hơn một năm trôi qua, Những Bài Thơ Về Thơ đã gần đến
con số 20 nhưng bài viết tôi đặt vào đó rất nhiều tâm huyết vẫn chưa hoàn
thành.
Tháng trước, một buổi chiều cuối tuần,
mấy người bạn tụ họp, cà phê cà pháo bù khú đủ chuyện trên trời dưới đất, tôi
hí hửng đem bài thơ ra khoe. Nghe xong, trong lúc mọi người đang gật gù suy
nghĩ để tứ thơ thấm vào hồn thì một anh bạn vừa cười vừa to tiếng nói với tôi:
“Sao ông lại có mấy thằng bạn ngu thế
nhỉ! Phone đâu mà không gọi hỏi đường?”Tôi ngồi đực mặt, ngượng đến chín người.
Đúng vậy! Bài thơ của tôi là một ẩn dụ mà tôi đinh ninh là hay và sâu sắc. Nhưng câu hỏi của anh bạn đã “chọc” đúng vào khe hở của nó mà đến lúc đó tôi mới nhận ra. Ẩn dụ không kín kẽ và bài thơ, có thể nói là thất bại. Cuối cùng, đành phải chữa cháy bằng cách thêm vào bên dưới tựa bài thơ một câu “Vào cái thời mà điện thoại còn là xa xỉ phẩm đối với nhiều người Việt Nam”. Nhưng mấy người bạn khó tính vẫn lắc đầu và bài thơ cho đến giờ cũng còn “nằm xó bếp”.
Thế Lữ,
trong Nhớ Rừng, đã phạm một lỗi lầm tương tự. Ông gởi tâm sự của mình vào con hổ
trong vườn bách thú. Trong lúc mê say với vẻ đẹp đầy sức mạnh, uy quyền và oai
phong lẫm liệt của nó, ông quên một điều: con hổ là Chúa Sơn Lâm, một đấng Quân
Vương nơi rừng núi nhưng lại là một thứ Chúa Sơn Lâm vô cùng độc đoán và tàn bạo.
Ngay cả anh Châu Thạch, người ra sức bênh vực cho ông, có lẽ cũng quên, nên đã
lên tiếng hỏi: Làm sao biết con Hổ nếu được tự do sẽ chuyên
chế, độc tài, hiếp đáp thần dân mình?
Khi con hổ
được tự do nó sẽ đi đâu? Chắc chắn nó sẽ về với thần dân của nó nơi rừng sâu
núi thẳm. Thần dân của nó là ai? Là trâu bò, hươu nai khỉ dê heo chó, các loài
chim … nghĩa là đủ mọi loại súc vật hoang dã. Mỗi ngày, để thỏa mãn nhu cầu bao
tử, nó sẽ không họp “hội đồng rừng” một cách dân chủ để tìm giải pháp mà tự động
đi kiếm mồi. Gặp trâu nó vồ trâu, gặp bò nó xé xác bò. Hôm qua ăn bò rồi hôm
nay muốn đổi món thì nó tìm bắt dê. Ôi! Muốn giết ai thì giết. Muốn ăn thịt ai
thì ăn. Đối xử với thần dân của mình như thế mấy từ “độc đoán, độc tài, tàn bạo”
theo tôi, còn quá nhẹ.
Trong TBĐVS
tôi tạo ra một khung cảnh xã hội có những vị khách đi lạc đường vì lần theo tấm
bản đồ vẽ sai – ám chỉ có những độc giả đọc phải bài thơ mà chức năng truyền
thông thất bại nên chẳng hiểu gì cả. Tôi không để ý nên quên một chi tiết quan
trọng: điện thoại di động. Những chiếc cell phones - thời buổi này hầu như người
nào cũng có - khiến đoạn kết của bài thơ trở nên ngờ nghệch và câu chữ của cả
bài thơ rã ra như cám. Cũng tương tự như vậy, tính độc đoán, bạo tàn là bản chất
của con hổ, đã thấm vào xương cốt của nó, giống như vi khuẩn HIV của chứng bịnh
SIDA tiềm ẩn trong người cô gái đẹp. Thế Lữ không để ý nên đã “quên”, đem cô
gái giới thiệu cho Nguyễn Tường Tam
Tôi không
tin Thế Lữ muốn ám chỉ NTT - chủ soái của Tự Lực Văn Đoàn mà ông là thành viên
- là một thủ lãnh độc tài, độc đoán, bạo tàn. Chính sơ hở của phép ẩn dụ đã đưa
người đọc đến kết luận ấy.
Ngoài ra Nhớ
Rừng còn có một mâu thuẫn về ý chí vượt thoát tìm tự do của con hổ. Tôi không
tin là con hổ - với dòng máu kiên cường trong huyết quản - chấp nhận buông tay
cam chịu tù đày đến hết đời. Là con người, hiểu rõ số phận và thực trạng của
con hổ lúc đó, nên Thế Lữ đã vô ý nhưng rất chân thành cho con hổ thốt lên những
lời than tuyệt vọng: “Nơi ta không còn được
thấy bao giờ”. Ở đây chúng ta có 2 con hổ:
1/ Con hổ thực trong vườn bách thú: khao
khát tự do, nhớ rừng da diết, khinh “những
cảnh sửa sang tầm thường giả dối”, không muốn “ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi/ với
cặp báo chuồng bên vô tư lự” và vẫn đang chờ thời cơ để vùng thoát. (Chữ
nghiêng là ý của Châu Thạch)2/ Con hổ trong tâm tưởng của Thế Lữ: vẫn là con hổ trong vườn bách thú như con hổ trên; vẫn khao khát tự do, vẫn nhớ rừng da diết … Chỉ khác một điều là Thế Lữ biết số phận của con hổ vào thời điểm đó trong vườn bách thú - phải chịu tù đày cho đến chết - nên đã ép đặt vào miệng nó những lời than tuyệt vọng, trái với bản tính kiên cường của loài hổ.
Khi đọc
TBĐVS người tinh ý có thể nhận ra ngay khe hở của phép ẩn dụ. Tôi, tác giả bài
thơ, và người bạn khen (lầm) bài thơ có “Phép ẩn dụ rất khéo và có duyên” đã phải
cúi đầu nhận sai sót. Bởi nó quá rõ ràng, có muốn cãi, muốn bênh vực cũng chẳng
có cách nào.
Nhớ Rừng có
đến hai cái “sót”. Một do sơ hở của phép ẩn dụ, một do tác giả trong lúc cao hứng,
hồn thơ lai láng, đã “quá thật tình” đặt lên miệng con hổ một tiếng thở dài não
nuột, một lời than tuyệt vọng không đúng với bản chất “hổ” của nó.
Mấy bạn văn
của tôi đều cho rằng Thế Lữ không có ý như thế. Điều ấy đúng. Nhưng ông là người
tổ chức thế trận chữ nghĩa cho bài thơ. Người đọc không có bổn phận – và cũng
không thể - đọc những suy nghĩ trong đầu ông. Họ chỉ dựa vào văn bản, dựa vào
khả năng chuyển tải thông tin của câu chữ để “bắt” tứ thơ, để cảm nhận cái hay,
cái đẹp của bài thơ. Chính ông, chứ không ai khác, dù “sơ sót” vì bất cứ lý do
gì, phải chịu trách nhiệm về “hai cái bẫy nguy hiểm của Nhớ Rừng”
Bên cạnh hai
điểm “sai sót” nói trên NR còn có một chỗ yếu về âm điệu: hội chứng nhàm chán vần.
Bài thơ dài (47 câu), mỗi câu 8 chữ đều đặn (có một câu 10 chữ), vần gieo liên
tiếp nên chỉ đọc non nửa bài là cái giọng ầu ơ, cái nét đơn điệu, tẻ nhạt đã hiện
ra rất rõ, càng về cuối càng nặng nề.
Bù lại, cái
hay của Nhớ Rừng lại rất “lớn”, nếu đề cập hoặc bàn luận thì chỉ cần một vài
câu, nhưng – như những cánh én báo hiệu mùa xuân – những ưu điểm “cao cấp” này
thường xuất hiện để báo hiệu một bài thơ Hay, Có Hồn. Đó là cảm xúc mạnh, nóng
bỏng, hơi thơ dài như một con sông, dòng chảy xiết. Đặc biệt, từ câu thơ đầu
cho đến câu thơ cuối cùng, cường độ và “nhiệt độ” của cảm xúc vẫn không suy giảm,
dòng chảy của thơ vẫn băng băng. Ngoài ra, ngôn ngữ của Nhớ Rừng cao sang,
thích hợp với khẩu khí Chúa Sơn Lâm của con hổ. (2)
Tóm lại, con
hổ trong tâm tưởng của Thế Lữ được thi tài của ông chuyển đến người đọc là một
hình tượng thơ rất đẹp: kiêu hùng, uy quyền, oai phong lẫm liệt, rất khao khát
tự do, thèm và thường mơ được trở về rừng xưa núi cũ. Nhưng bên dưới cái vẻ đẹp
bề ngoài ấy là hai tính xấu: mơ về lại núi rừng để hưởng địa vị của một Chúa
Sơn Lâm độc đoán, bạo tàn nhưng lại hèn, bó tay cam chịu, không dám nghĩ đến kế
hoạch và hành động vượt thoát.
Kết Luận
Để kết luận tôi xin phép lập lại một ý trong bài Không Sợ Thừa
- Chỉ Sợ Quá Muộn: Nhiều người Việt Nam
không phải chỉ mới nhiễm HIV mà chứng bệnh SIDA Nhớ Rừng - cả loại 1 lẫn loại 2
- đã phát tác, đã tàn phá, không chỉ thể xác mà luôn cả tâm hồn họ và có thể đã
lây lan đến thế hệ trẻ sau này.Cô gái mắc bệnh SIDA càng đẹp, càng sexy thì cơ hội lây bệnh cho người khác càng nhiều. Là bài thơ Hay, Có Hồn nên (xin cảnh báo một lần nữa) hai cái bẫy của Nhớ Rừng vẫn vô cùng nguy hiểm.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
Chú Thích:
2/ Có một
câu không hợp với khẩu khí của con hổ:
Nơi ta không còn được thấy bao giờ