Vài Lời Phi Lộ
Tôi biết đến Đỗ Trung Quân
và tài thơ của anh qua bản nhạc Quê Hương – thơ anh được Giáp Văn Thạch phổ nhạc.
Lúc ấy – còn ở trong tù - tôi chưa biết, chưa được đọc nguyên bài thơ Bài Học Đầu
Cho Con của anh. Mặc dầu hơi có cảm giác khó chịu khi nghe đoạn cuối:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không hiểu
(sau này đổi hiểu thành nhớ)
Sẽ không lớn nổi thành người
nhưng phải công nhận phần còn lại của bản nhạc (thơ) là những bức tranh về quê hương thật dễ thương. Ở đó – cũng giống Ông Đồ của Vũ Đình Liên – thi đã hoá thân thành họa; tác giả đã tặng cho đời những bức tranh thơ tuyệt đẹp.
Tết Canh Dần (2010) tình cờ
đọc Tạ Lỗi Trường Sơn của ĐTQ trên Tiền Vệ tôi đã cao hứng viết bài thơ trong
đó có đoạn:
Ngày xưa anh hát
“Quê hương là chùm khế ngọt”
Sao bây giờ cắn quả khế
nào anh cũng che mặt bảo chua?
Có phải tại ngày xưa khế
chua
nhưng muốn được lòng người
anh yêu (1)
anh nói bừa là khế ngọt?
Hay tại sống với kẻ vô
tình
lâu rồi khế ngọt cũng
thành chua? (2)
có ý muốn “đá giò lái” anh một cái. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn khoái những câu chửi rất bộc trực, bốp chát – không giữ ý tứ, không dòm trước ngó sau - của anh nên hôm nay cũng bày đặt nhảy vô viết mấy lời bình.
Ý, Tứ:
Bài thơ là những lời đốp
chát nói thẳng (không ẩn dụ) nên ý với tứ là một: Sau khi chiếm được miền nam
năm 1975 “những người nhân danh Hà Nội” đã khinh khi dân Sài Gòn nói riêng và
dân miền nam nói chung như cỏ rác, dùng những từ xấu xa nhất để gán cho họ;
nhưng rồi chính “những người nhân danh Hà Nội” – trong đời sống thực tế - đã biểu
lộ một nhân cách còn tệ hại và đáng khinh khi hơn nhiều.
Hình
Thức:
TLTS có vóc dáng của thơ mới
nhưng đã được tác giả đưa vào những thay đổi tích cực:
1/ Số câu
không giới hạn.
Viết cho đến khi hết hứng,
hết ý thì thôi. Theo cách đếm câu của PĐN thì bài thơ dài xấp xỉ 100 câu.
2/ Số chữ trong
câu:
Câu ngắn nhất 2 chữ (Bây
giờ), câu dài nhất 18 chữ - đúng hơn là âm tiết - (Các anh cũng chạy bấn người
đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...) còn lại thì tùy hứng, không tuân
theo một luật lệ nào.
3/ Vần:
Vần liên tiếp khá đều đặn
nhưng nhờ số chữ trong câu thay đổi tùy tiện, thỉnh thoảng tác giả lại chuyển
đoạn thay vần, có chỗ sử dụng cả vần gián cách (3) để chuyển âm bằng trắc nên độ
ngọt vừa phải, không có hội chứng nhàm chán vần. “Lối chơi vần” rất nhuyễn của
ĐTQ khiến dòng thơ chảy trơn tru, nhiều đoạn dòng chảy rất xiết, tạo cơ hội cho
hồn thơ hình thành và lớn mạnh.
Ngôn ngữ:
Mạnh bạo, hằn học, vỗ thẳng
mặt, “lấy chữ của mày để chửi mày” nhưng rõ ràng, dễ hiểu, chức năng truyền
thông của bài thơ thành công. Một số hình tượng rất hay như:
Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra
trước vành móng ngựa!!!
Và:
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu
những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Giải Thích Thêm Về Tứ Thơ:
Đỗ Trung Quân viết Tạ Lỗi
Trường Sơn với tâm thế của dân Sài Gòn (miền nam) nên dù đã từng đi TNXP, từng
khoác áo bộ đội giọng thơ cũng vẫn có mùi của bên thua cuộc. Nhưng trong cái
đoàn dài đến mấy chục triệu nguời của bên thua cuộc ấy ĐTQ đứng ở gần cuối
hàng. Tâm hồn anh đã gần như nghiêng hẳn về phía bên kia. Anh “Tội nghiệp Sài
Gòn quá thể” nhưng Sài Gòn với anh là ai?
Là:
anh thợ điện ra đi không về
là:
những “bà mẹ Bàn Cờ” của
những ngày chống Mỹ
là:
những người Sài Gòn đi xa
đi từ tuổi hai mươi
nhận hoang đảo tù đày để
nói về lòng ái quốc.
toàn là những người sống ở miền nam, ăn cơm miền
nam nhưng lòng dạ đã giao hết cho “phía bên kia”
Và qua đoạn thơ dưới đây:
Tội nghiệp những ông cha rời
khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường
văn chương, thi ca, sách báo
Những vị giáo sư trên bục
giảng đường
Ưu tư nhìn học trò mình
nhiễm độc
tôi chưa dám nói là anh đã
có lối suy nghĩ hoàn toàn giống bên thắng cuộc nhưng những gì họ nói anh đã rất
tin tưởng và ghi khắc trong lòng.
Tại sao ĐTQ lại bực bội đến
độ phẫn uất để có thể viết lên những vần thơ “bừng bừng lửa giận”, chảy ngược với
dòng thơ phải đạo như thế? Để tìm câu trả lời cho câu hỏi ấy tôi mời bạn đọc trở
lại phần đầu của bài thơ:
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô
của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh – buồn nôn –
phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài
Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu
thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là
trang sách “hư vô”
Văn hóa lai căng không cội
nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh,
ti vi
Vào những đồ tiêu dùng
mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện
nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài
Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu thân ủy mị, yếu
hèn
Các anh hùa nhau lập tòa
án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra
trước vành móng ngựa!!!
Vâng! Đó là thái độ hết mực
khinh khi của “những người nhân danh Hà Nội” đối với (dân) Sài Gòn nói riêng và
cả miền nam nói chung. Nhưng sau 7 năm thì theo ĐTQ, “những người nhân danh Hà
Nội”
“đang ngồi giữa Sài Gòn bắt
đầu chửi bới”
“chửi vào tên những làng
quê ghi trong lí lịch của mình”
Và:
“sợ đến tái xanh
khi có ai nói bây giờ về lại
Bắc”
ĐTQ viết tiếp:
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận
mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của
mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp
chân
Đã bờm xờm râu tóc, cũng
quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ
dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người
đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên
ngôn ”khôn và dại”
Các anh bắt đầu triết lý
“sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu
những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
À! Thì ra là “chúng mày nói phét, chúng mày lừa
ông”. Và thi sĩ của chúng ta nổi trận lôi đình, “chửi vung tít mẹt”. Bài thơ nặng
mùi của bên thua cuộc là vì thế.
Vâng! Có thể nói Tạ Lỗi
Trường Sơn là tập hợp một cách đầy nghệ thuật những lời đốp chát, vỗ thẳng mặt,
nói hằn học trong cơn giận dữ, phân định “mi”, “ta” rõ ràng. “Ta nói thẳng cho
mi biết: Bây giờ cái bản mặt đạo đức giả của mi đã lộ ra. Những xấu xa bẩn thỉu
ngày nào mi gán cho ta thì giờ này mi bẩn thỉu xấu xa còn gấp nhiều lần hơn thế
nữa.”
Trong cơn lửa giận phừng phừng ĐTQ đã “bật mí”
hai điểm mà “những người nhân danh Hà Nội” đã cố bưng bít dấu diếm.
Một là, những cái “ưu việt”
của chế độ và con người XHCH chỉ là phét lác. Dân miền bắc ngạc nhiên đến
choáng ngợp (4) trước sức phát triển và vẻ đẹp của “Hòn Ngọc Viễn Đông” (5) và
các thành phố lớn ở miền nam. Mức sống của dân miền nam lúc đó khá cao - đặc biệt
là thực phẩm và tiện nghi vật chất - đã vượt xa mức sống của người dân miền bắc.
Hai là, chính quyền đã có
hẳn một chính sách đẩy dân miền nam đi vủng kinh tế mới để đưa dân miền bắc vào
“chiếm” những “điểm then chốt” trong những thành phố lớn - đặc biệt là Sài Gòn.
Tạ Lỗi Trường Sơn được nhiều
người khoái (dĩ nhiên là dân miền nam), tán tụng là bài thơ “hết sẩy” cũng nhờ
một phần ở nội dung của nó. Tác giả đã “không chịu trôi xuôi” mà dám “lội ngược
dòng” (ý thơ Nguyễn Duy), viết nên những vần thơ đối chọi vớì dòng thơ phải đạo,
nói lên những điều bị coi là cấm kỵ, không ai dám nói dù là sự thật. Chính vì
thế mà bài thơ phải chờ đến 27 năm sau mới được trình làng.
Hơi Thơ, Hồn Thơ:
Cái hay nhất, cái tuyệt vời
của bài thơ là cảm xúc. Hơi thơ tỏa nhiệt ngay từ những câu đầu, dẫn người đọc
đi một lèo tới đích. Cảm xúc từ câu chữ tỏa ra đã khá mạnh, rồi do - bài thơ nhất
khí liền mạch – sóng sau dồn sóng trước nên cảm xúc đến từ thế trận của toàn
bài dâng lên cao ngất. Hơn nữa tác giả viết trong lúc đang lên cơn - lửa giận
phừng phừng – thoát khỏi sự can thiệp của
lý trí, nên không còn biết sợ, chữ nghĩa cứ hàng hàng lớp lớp tuôn ra khiến hơi
thơ rất mạnh và nóng bỏng, hồn thơ lai láng.
Bài thơ này phía “ta” nghe rất sướng tai,
nhưng phía “mi” thì “biết là nó nói đúng đấy nhưng cái kiểu ‘vuốt mặt không chịu
nể mũi’ như thế thì làm sao có thể chấp nhận được!”
Về Câu Kết Của Bài Thơ
Cuộc sống của anh ở miền
nam đang an lành, tiện nghi vật chất tương đối đầy đủ, tinh thần thì tự do thoải
mái. Người ta từ bắc vào “cầm chịch” mọi góc cạnh của đời anh. Người ta chê anh
đủ điều, khinh khi anh ra mặt, chửi anh như tát nước . Sau đó anh đã nhận ra là
người ta chỉ là bọn đạo đức giả; những gì người ta chê anh, khinh anh, chửi anh
thì bậy giờ người ta lại lậm vào còn gấp nhiều lần hơn thế nữa. Anh đùng đùng nổi
giận, chửi một hơi dài, rất văn hoa, rất có hồn, nghe rất đã.
Nhưng cuối cùng anh lại
buông câu kết “Ai Bây Giờ Sẽ Tạ Lỗi Với Trường Sơn?” nghĩa
là anh vẫn “tôn thờ” cái việc vượt Trường Sơn của người ta, vẫn xem cái việc
người ta tự dưng từ bắc vào nam nắm đầu anh, cai quản cuộc đời anh là đúng. Câu
kết ấy phải nói là trật lất và lãng nhách.
Kết Luận
Dù Tạ Lỗi Trường Sơn chưa
phải là toàn bích, và cho đến thời điểm này (2016) bài thơ mới có trên dưới 7
năm thử thách với thời gian nên chưa thể kết luận gì về sức sống của nó. Nhưng
chỉ nhìn vào giá trị nghệ thuật của bài thơ tôi phải công nhận là Đỗ Trung Quân
tài hoa. Mới 27 tuổi đã viết được một thi phẩm giá trị, đã đưa được hơi nóng hừng
hực của tuổi trẻ trong lúc đang “nộ khí xung thiên” vào thơ. Cái giây phút “lên
cơn” ấy đâu phải lúc nào cũng đến với thi sĩ. Mà nếu may mắn nó có đến, đâu phải
ai cũng nhanh tay chộp được để đưa nó vào thơ.
Cái hồn thơ, cái hơi thơ mạnh
mẽ nhường ấy khiến TLTS đứng nổi bật ở một góc riêng và tôi mạnh dạn tiên đoán
rằng – cũng giống như Ông Đồ và Sông Lấp là chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử
của dân tộc, giai đoạn Nho Học lụi tàn, Tạ Lỗi Trường Sơn của Đỗ Trung Quân –
cùng với 2 bài thơ ngược dòng khác – cũng sẽ đi vào văn học sử, là chứng nhân
cho một giai đoạn lịch sử khác, giai đoạn chế độ XHCN bị áp đặt trên toàn cõi
Việt Nam.
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH:
1/ nhưng lại không yêu anh
2/ Quê Hương - Kẻ Đi Người
Ở, Phạm Đức Nhì, t-van.net
3/
Tội nghiệp chiếc cầu Công
Lý
Có anh thợ điện ra đi
không về
Tội nghiệp những “bà mẹ
Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những
hàng me
4/ Trước khi vào nam
(1975) dân miền bắc phải học tập để biết rằng những sự phát triển và vẻ đẹp của
Sài Gòn, của miền nam, những tiện nghi vật chất của người dân chỉ là “phồn vinh
giả tạo”
5/ Tên khác của Sài Gòn được
người ngoại quốc gọi một cách nể trọng.
PHỤ LỤC:
Tạ lỗi Trường
Sơn
1.
Một ngàn chín trăm bảy
mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng
dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô
của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh – buồn nôn –
phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài
Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu
thư khuê các cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là
trang sách “hư vô”
Văn hóa lai căng không cội
nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh,
ti vi
Vào những đồ tiêu dùng
mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện
nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài
Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu thân ủy mị, yếu
hèn
Các anh hùa nhau lập tòa
án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra
trước vành móng ngựa!!!
2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công
Lý
Có anh thợ điện ra đi
không về
Tội nghiệp những “bà mẹ
Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những
hàng me
Tội nghiệp những người Sài
Gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để
nói về lòng ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương
xanh
Xem đã bao nhiêu người Sài
Gòn hóa thân vào sóng nước
Tội nghiệp những đêm Sài
Gòn đốt đuốc
Những “người cha bến tàu”
xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời
khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường
văn chương, thi ca, sách báo
Những vị giáo sư trên bục
giảng đường
Ưu tư nhìn học trò mình
nhiễm độc
Sài Gòn của tôi – của
chúng ta.
Có tiếng cười
Và tiếng khóc.
3.
Bảy năm qua đi với nhiều
buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ
qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ
đã trở lại làm người
giã từ ghế đá công viên để
sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ
cũng khoác áo thanh niên
xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc
sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều
mất mát, hi sinh...
4.
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài
Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng
quê ghi trong lí lịch của chính mình
Các anh những người nhân
danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại
Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già
miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm
còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống
gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần
mình tối tăm
Để những đứa con lớn lên
có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận
mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của
mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp
chân
Đã bờm xờm râu tóc, cũng
quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ
dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người
đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên
ngôn ”khôn và dại”
Các anh bắt đầu triết lý
“sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu
những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào...
Lại bắt đầu ghẻ lở?
5.
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những
người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ
của mình
Những ai đang cố tẩy rửa
“lí lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn
bằng mồ hôi chân thật
6.
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan tòa trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản
ăn chơi
Bình thản đổi thay lốt cũ
Hãy để yên cho hàng me Sài
Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thuở
Để yên cho xương rồng, gai
góc
Chân thật nở hoa.
Này đây!
Xin đổi chỗ không kì kèo
cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc
thôi)
Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ...
Tin chắc rằng trong các
ngài đã vô số kẻ tin vào ”thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một
thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?