TỐNG BIỆT HÀNH: LỜI BÌNH VÀ TRANH LUẬN
Bài 1: TỐNG BIỆT HÀNH – KHEN CHÊ CHƯA ĐÚNG MỰC
Tống Biệt Hành của Thâm Tâm được báo Tiểu
Thuyết Thứ Bảy đăng năm 1940. Chỉ hơn một năm sau, nó đã được Hoài Thanh chọn
đưa vào tuyển tập Thi Nhân Việt Nam với những lời nhận xét:
Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác
thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài dưới đây (Tống biệt hành) lại thấy sống
lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu
thơ rắn rỏi, gân guốc, không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ.
Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại. (1)
TỐNG BIỆT HÀNH (2)
TỐNG BIỆT HÀNH (2)
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Một giã gia đình một dửng dưng…
Li khách!
Li khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người
buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay (3)
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay (3)
Bài thơ không
có phép ẩn dụ toàn bài nên tứ và ý giống nhau. Những bài viết khác đã giải
thích và diễn dịch khá kỹ lưỡng nên ở đây tôi xin đi thẳng vào phần phân tích
và nhận định nghệ thuật.
Bốn câu thơ
mở đầu thật tuyệt.
Đưa người
ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Mấy câu thơ
hay quá! Tứ thơ đẹp quá! Âm điệu mới lạ do phá cách trong luật bằng trắc lôi cuốn
được sự chú ý của người đọc ngay từ giây phút đầu tiên. Hai câu đầu là tâm sự,
cảm xúc của người đưa tiễn: không đưa người qua sông nhưng sao lòng ta nôn nao
như sóng vỗ. Hai câu sau là tâm tình kẻ ra đi qua sự nhận xét tinh tế của người
đưa tiễn: chỉ nhìn đôi mắt, ta cũng biết người buồn lắm vì trong đôi mắt ấy chứa
cả bóng hoàng hôn. Để tả cảnh tiễn biệt, chia ly, 4 câu thơ trên có thể hiên
ngang đọ sức về giá trị nghệ thuật với bất kỳ đoạn thơ nào, ngay cả của thơ ca
đương đại, mà không hề nao núng.
Âm điệu gân
guốc, rắn rỏi.
Thơ Mới thời bấy
giờ cổ vũ ý tưởng mới, ngôn ngữ mới, thể thơ mới, đề tài mới… nhưng vẫn tôn trọng
một số âm luật cũ để giữ được âm điệu mềm mại, du dương trong thơ. Tống biệt
hành được cấu trúc bằng phương thức nghịch âm bất tuân những niêm luật vốn có của
thể hành. Nó cũng chẳng tôn trọng âm luật của thơ mới. Có câu toàn thanh bằng:
Đưa người ta không đưa qua sông; có câu có đến 4 thanh trắc liên tiếp: Sao
có tiếng sóng ở trong lòng? Bởi vậy âm điệu của nó không uyển chuyển, du
dương như phần nhiều thơ thời bấy giờ, thay vào đó, điệu thơ gấp, lời
thơ gắt, câu thơ rắn rỏi gân guốc. Đó là nét rất độc đáo của Tống Biệt
Hành. Nhờ đó, mới ra lò nó đã được sự chú tâm, ưu ái của Hoài Thanh.
Gợi được
không khí hào hùng
H. Linh trong
bài Đến Với Bài Thơ Hay: Tống Biệt Hành Của Thâm Tâm, đã viết:
Không rõ “Tống
Biệt Hành” có gì “khó hiểu”? Nhưng rõ ràng khi đọc, tôi thấy thật “bâng
khuâng”. Vẻ trầm hùng, cổ kính của bài thơ cùng những hình ảnh “mong manh, ghê
rợn, như những nhát dao xiết vào tâm hồn, tưởng là rất nhẹ hóa ra lại rất nặng”
gây nên một ấn tượng thật mạnh và sâu đến người đọc. (4)
Chị, em và
người yêu lưu luyến thế ấy, chẳng lẽ lại đành tâm ra đi? Nhưng ly khách lại đi
thật. Bóng đã xa, người đưa tiễn còn ngơ ngác đứng và hun hút nhìn :
Người đi? ừ
nhỉ, người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say
… li khách
tuy ngậm ngùi nhưng nét chính vẫn là sự nghênh ngang, hào sảng. Thấp thoáng
chút hùng khí đời xưa. Phảng phất hình ảnh Kinh Kha ngày trước. Rất đẹp. Biết
là cường điệu mà vẫn thấy đẹp. (5)
Chỉ với những
từ sông, sóng, bóng chiều, hoàng hôn rất cũ, rất xưa, Thâm Tâm đã tạo nên 4 câu
thơ tuyệt vời:
Đưa người
ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Và cũng với chất
liệu thơ cũ mòn cộng với thể hành cổ kính và đề tài tống biệt quen thuộc đã góp
phần rất quan trọng vào việc gợi lại không khí trầm hùng, bi tráng trong bài
thơ.
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Đoán tâm trạng
của người khác
Nước trong,
cá tung tăng, cá vui đấy.
Anh không là cá sao anh biết cá vui?
Anh không là tôi sao anh biết tôi không biết cá vui?
Anh không là cá sao anh biết cá vui?
Anh không là tôi sao anh biết tôi không biết cá vui?
Trên đây là mẩu
đối thoại của hai triết gia Trung Hoa (tôi quên tên) ý muốn nói rằng “không thể
biết được những suy nghĩ, tâm trạng của người khác”. Theo tôi, nếu có óc quan
sát tinh tế, thì trong khá nhiều hoàn cảnh, người ta có thể nhận biết được đối
tượng (được quan sát) đang vui, buồn hay dửng dưng, vô cảm. Nhưng nếu muốn đặc
tả tâm trạng, muốn đi vào chi tiết của niềm vui, nỗi buồn thì duy nhất chỉ có
người trong cuộc. Đó là lý do thi sĩ thường viết ở ngôi thứ nhất.
Trong Tống Biệt
Hành, tác giả có đến 5 trường hợp đoán tâm trạng người khác.
1. “Bóng
chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
Nhìn đôi mắt
“đầy hoàng hôn” của bạn tôi đoán là bạn đang buồn. Điều này có thể chấp nhận được.
Đôi mắt là cửa sổ linh hồn, vui buồn thể hiện lên đôi mắt.
2. “Một giã
gia đình một dửng dưng”
Nhìn khuôn mặt
vô cảm của bạn tôi biết bạn dửng dưng trước cuộc chia ly.
3. Ta biết
người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
4. Ta biết
người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Nhìn cảnh bịn
rịn, quyến luyến của chị, của em với bạn, tôi đoán bạn rất buồn khi chia ly.
5. Ba câu cuối
của bài thơ
Ở 4 trường hợp
đầu tác giả đã sử dụng khả năng quan sát tinh tế của mình để cảm nhận nỗi buồn
(hoặc dửng dưng) của ly khách. Có lẽ ông đã áp dụng kinh nghiệm của các cụ ngày
xưa qua câu ca dao:
Trông mặt
mà bắt hình dong
Con lợn có béo bộ lòng mới ngon.
Con lợn có béo bộ lòng mới ngon.
Điều này có thể
tạm chấp nhận được, vì đó chỉ là nỗi buồn chung chung, không đặc tả, không có
chiều sâu. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp này trong thơ thì hơi bị… thất cách,
sức thuyết phục đối với độc giả rất yếu. Bởi tục ngữ cũng có câu “xanh vỏ đỏ
lòng”; nhìn bề ngoài mà “bắt mạch tâm trạng” thì rất dễ bị “bé cái lầm”. Còn
riêng trường hợp thứ 5 thì phải nói là “vô phương bào chữa”. Đoán tâm trạng người
khác mà thi sĩ dám viết chi
li đến độ:
Mẹ thà coi
như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay…
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay…
thì quả là “liều”
hết chỗ nói.
Dẫu biết rằng
trong thực tế thì tâm trạng của kẻ ra đi hay người đưa tiễn cũng đều là của
Thâm Tâm, nhưng đã lập trận địa chữ nghĩa, phân công phân nhiệm tướng sĩ, thì
vai nào phải ra vai đó; người phàm mắt thịt mà cứ như là Tiên, Thánh, đọc tâm ý
người đối diện vanh vách như đọc tờ báo trước mặt thì coi sao được. Theo tôi,
đây là khuyết điểm lớn, làm giảm sức thuyết phục của bài thơ.
Phú quý giật
lùi
Đọc bài thơ Tống
Biệt Hành chắc không ít độc giả có nhận xét giống tôi. Đoạn đầu hay quá, tuyệt quá, để lại hương vị thật
ngọt ngào, sảng khoái. Nhưng đến những đoạn sau, đoạn thì cường điệu, giả tạo,
đoạn thì tầm thường, nhạt nhẽo. Đoạn cuối thì cảm xúc dâng trào, hào khí bốc
cao nhưng đó chỉ là cảm xúc, hào khí kiểu quân tử Tàu, vừa khinh bạc, vừa vô
tình, hơn nữa, chỉ là sản phẩm từ sự võ đoán của người đưa tiễn.
Tôi đã có một
đôi lần, vào các dịp lễ tết, xem văn nghệ tại các chùa, nhà thờ gần nhà. Vài Phật
tử, con cái Chúa là ca sĩ chuyên nghiệp, từ Cali bay sang hát “sô”, nhân tiện
ghé vào chùa, nhà thờ hát ủng hộ mấy bài. Họ yêu cầu được xếp hát ở đầu chương
trình để còn “chạy” chỗ khác. Thế là chương trình văn nghệ có vài tiết mục đầu
hấp dẫn, còn sau đó là “cây nhà lá vườn”. Tôi không có ý phủ nhận thiện chí,
tinh thần phục vụ của các em trong Gia Đình Phật Tử, Thiếu Nhi Thánh Thể, nhưng
rõ ràng cái không khí hào hứng của chương trình văn nghệ, sau mấy tiết mục đầu,
đã giảm đi, đã nhạt đi rất nhiều.
Cũng tương tự
như vậy, các vị khách mời trong buổi tiệc thơ Tống Biệt Hành, nếu không bị hơi
men làm mờ mắt, sẽ thấy phẩm chất của rượu thì “phú quý giật lùi”, càng về sau
càng kém ngon, càng về sau càng “dởm”. Đây cũng là một lỗi không nhỏ của thi sĩ
trong việc dàn trải ý tứ.
Những lời
khen + Những lời tán dương quá lố
Trong thời
gian tra cứu để viết bài này tôi thấy một điều rất lạ là hàng mấy chục bài viết
liên quan đến Tống Biệt Hành, bài nào cũng vậy, đều hết mực ngợi khen. Tay viết
nào già giặn thì lời khen văn hoa bay bướm, kém hơn thì sao chép nguyên ý của
các bậc lão thành, đàn anh, chỉ đổi sơ lời văn, giọng văn cho nó thành của
mình. Đặc biệt trong trang mạng của các trường đại học, trung học thì các bài
bình Tống Biệt Hành đều rập khuôn, đều ca tụng đến tận trời xanh.
Sau đây là một
lời khen “hơi mạnh miệng”:
Khi sáng
tác “Tống biệt hành”(1940) có lẽ Thâm Tâm cũng không ngờ rằng bài thơ của mình
sẽ để lại nhiều ẩn số cho hậu thế. Cuộc đời của ông ngắn ngủi. Tác phẩm ông để
lại không nhiều. Nhưng chỉ với một “Tống biệt hành”, ông đã được lưu danh vào lịch
sử văn học nước nhà. “Tống biệt hành” không chỉ là một trong những bài thơ
hay nhất của phong trào Thơ Mới mà còn xứng đáng là một kiệt tác của thơ Việt
Nam hiện đại. (12)
Và kế tiếp là
thí dụ về một “vẻ đẹp tưởng tượng” của một nhà phê bình văn học có vai vế, có học
vị, Thạc Sĩ Hồ Thúy Ngọc:
Kế thừa
nhưng không lặp lại, Thâm Tâm đã tạo nên sức sống diệu kỳ cho Tống biệt hành. Đặc
biệt, sự kế thừa, sáng tạo trong cấu tứ thơ Đường giúp tác giả thể hiện sâu sắc
một cái nhìn đa chiều về “vẻ đẹp con người cao cả trong toàn bộ sự biểu hiện
chân thật của nhân tính, đầy tinh thần
nhân đạo”(13)
Nhưng Chu Mộng
Long lại nghĩ khác. Theo ông, trong Tống Biệt Hành:
Kẻ ra đi chỉ
có hành động mà không có nội tâm: một giã gia đình, một dửng dưng; chỉ có lí tưởng mà coi thường tình cảm:
Chí nhớn chưa về bàn tay không; đề cao lí tưởng mà quên tình ruột thịt: Thì
không bao giờ nói trở lại!/ Ba năm mẹ già cũng đừng mong. (14)
Và vô tình nhất,
theo tôi, có lẽ là 3 câu cuối của bài thơ
Mẹ thà coi
như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay…
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay…
Vì chí lớn, vì
nghiệp lớn, vì lý tưởng, vì đại nghĩa, vì quê hương đất nước ra đi, thân này kể
bỏ; những người thân yêu ruột thịt cũng coi như không, nói chi đến bạn bè. Ngay
cả người gần gũi nhất là bà mẹ đã banh da xé thịt cho mình được chào đời, cũng
chỉ xem như là chiếc lá bay. Cạn một ly rượu để hơi men bừng lên đôi mắt. Lúc ấy
trên vai là gói hành trang, đâu đó vọng lại tiếng gọi của bạn bè đồng trang lứa,
và trước cổng nhà là con đường rộng mở dẫn đến tương lai. Mạnh bước ra đi. Khác
gì Kinh Kha, theo lời ủy thác của Thái Tử Đan qua sông Dịch thực hiện một sứ mạng
trọng đại cứu muôn vạn dân lành. Ôi hiên ngang quá! Hào hùng quá! Lãng mạn quá!
Nhưng nghe sao cũng vô cùng khinh bạc, thiếu tình người, nếu không muốn nói là
vô nhân đạo.
Tôi không cổ
võ cho việc chạy chọt để lánh né chiến trường, an thân ở hậu phương lúc nước
nhà nguy biến, nhưng cái thái độ vô tình, coi nhẹ gia đình, coi nhẹ những người thân yêu ruột
thịt, như li khách, thật khó mà đồng cảm.
Chúng ta hãy
nghe Yên Thao bày tỏ tâm sự lúc chia tay người vợ đầu gối, tay ấp của mình:
Tôi có người
vợ
trẻ đẹp như thơ
tuổi chớm đôi mươi, cưới buổi dâng cờ
má trắng mịn thơm thơm mùi lúa chín
ai ra đi mà không từng bịn rịn?
rời yêu thương nào đã mấy ai vui?
em nhìn tôi e ấp buổi chia phôi
tôi dấn bước mà nghe hồn nhỏ lệ. (15)
(Nhà Tôi, Yên Thao)
trẻ đẹp như thơ
tuổi chớm đôi mươi, cưới buổi dâng cờ
má trắng mịn thơm thơm mùi lúa chín
ai ra đi mà không từng bịn rịn?
rời yêu thương nào đã mấy ai vui?
em nhìn tôi e ấp buổi chia phôi
tôi dấn bước mà nghe hồn nhỏ lệ. (15)
(Nhà Tôi, Yên Thao)
Đó mới là có
chút tình người; đó mới tạm gọi là có hơi hám của nhân bản, nhân đạo. Người
lính chiến trong Yên Thao vẫn chấp nhận ra đi làm nghĩa vụ của mình, nghĩa vụ của
trai thời loạn, nhưng là con người, trái tim không phải là sỏi đá, nên khi “dấn
bước” lên đường đã đau thương đến độ “nghe hồn nhỏ lệ”. Còn như Thâm Tâm:
Mẹ thà coi
như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay…
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay…
thì quả là quá
cứng cỏi, quá lạnh lùng và quá vô tình.
Thạc Sĩ Hồ
Thúy Ngọc trích lời Trần Đình Sử cho là “sự
biểu hiện chân thật của nhân tính, đầy tinh thần nhân đạo” thì quả là có óc
tưởng tượng cực kỳ phong phú.
Vài Lý Do
Tống Biệt Hành
là bài thơ hay, nổi tiếng, được rất nhiều người biết đến và yêu mến. Có điều mức
độ nổi tiếng của nó lại không tương xứng với giá trị nghệ thuật, có thể nói, đã vượt khá xa giá trị nghệ thuật.
Sau đây là một vài lý do:
1. Tống Biệt
Hành lọt vào mắt xanh của Hoài Thanh – một cây bút bình thơ sắc sảo, uy tín vào
hạng nhất thời bấy giờ – và được ưu ái giới thiệu trong Thi Nhân Việt Nam. Các
bài viết về Tống Biệt Hành sau này, vì uy tín của Hoài Thanh và Thi Nhân Việt
Nam, không tiếc lời ca ngợi bài thơ, nhiều khi bịa ra “những cái đẹp tưởng tượng”
để tán dương.
2. Tống Biệt
Hành được đưa vào chương trình giảng dạy văn học; dựa vào mấy bài mẫu của ngành
giáo dục, sinh viên học sinh cứ thế mà “tụng”, mà khen bài thơ đến tận trời
xanh.
3. Những
người có ý kiến khác biệt cũng không dám bày tỏ vì đang sống và chịu ảnh hưởng
của một môi trường văn học chưa được tự do; viết khác đi dễ bị để ý, trù dập.
Như vậy, Tống
Biệt Hành được rất đông đảo người đọc biết đến, khen hay, rồi yêu thích, dĩ
nhiên, một phần là vì giá trị nghệ thuật của nó, nhưng cũng còn vì những “cái
khác” (rất ngoài thơ) nữa. Khi rũ sạch hết những “cái khác” ấy, Tống Biệt Hành
sẽ trần trụi hiện ra, không xiêm y lụa là của thời đại; bên cạnh những nét đẹp
độc đáo cũng còn không ít những khuyết điểm khá quan trọng liên quan đến cả ý
tưởng và kỹ thuật thơ.
Khi được thả hồn
mình đắm chìm trong không khí trầm hùng bi tráng của cuộc chia tay lịch sử trên
sông Dịch, người đọc dù nhận ra những “bất ổn” trong bài thơ, cũng cố lờ đi, để
nghe trái tim mình đập nhanh hơn, để thấy hào khí bốc lên ngút trời, vì chí nhớn
mà nhảy vào biển lửa cũng không một giây do dự.
Tôi, với cái
nhìn chủ quan của mình, đã cố công phân tích, bình phẩm bài thơ Tống Biệt Hành.
Trước hết, để đưa nó về vị trí tương xứng với giá trị nghệ thuật của nó. Sau nữa,
nếu có quý vị nào làm công tác phê bình văn học, có tầm nhìn rộng hơn, muốn
đánh giá bài thơ trong một khung cảnh rộng lớn hơn, trong một giai đoạn lịch sử
dài hơn, thì bài viết này xin được đóng vai trò một lời góp ý nho nhỏ trong kho
tư liệu của quý vị.
KẾT LUẬN
Trước tiên,
tôi sẽ nghe lời khuyên của anh – “hết sức cẩn trọng” trong phần viết về khuyết
điểm của bài thơ. Tôi cũng đồng ý với anh là thế hệ kế tiếp của anh và tôi –
không bị ảnh hưởng bởi cái sức hút vô hình kia – sẽ có được cái nhìn chính xác
hơn về giá trị của bài thơ. Nhưng khi nhìn qua cửa sổ, thấy những chiếc xe bus
vàng đón trẻ con đi học, tôi chợt nhớ mình đang sống trên nước Mỹ tự do. Trước những trào lưu văn học mới, Thi
Nhân Việt Nam (Hoài Thanh) cũng không còn là “khuôn vàng thước ngọc” (ít nhất đối
với tôi), và ở cái tuổi trên 6 bó của cuộc đời, hào khí của Kinh Kha cũng không
đủ sức mê hoặc tôi đến mức khi đọc Tống Biệt Hành có thể quên đi công việc của
mình đang làm là thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Như vậy, công
việc ấy tại sao cứ phải chờ đến thế hệ sau, anh nhỉ?
Viết xong cuối
tháng 1 năm 2014
Phạm Đức Nhì nhidpham@gmail.com
Chú Thích:
(1) Thi Nhân
Tiền Chiến, Hoài Thanh & Hoài Chân, NXB Văn Học, 1988, tr.281
(2) Nhận Diện
Chân Dung Nhà Văn, Lý Hồng Xuân, Văn Nghệ, 2000, tr. 261
(3) Nhiều bản
khác viết là say. Khi trích tôi giữ nguyên bản chính.
(4) Đến Với
Bài Thơ Hay: Tống Biệt Hành Của Thâm Tâm, H. Linh, thuonghylenien.com
(5) Tứ Thơ,
Nguyễn Hưng Quốc, Tìm Hiểu Nghệ Thuật Thơ Việt Nam, Quê Mẹ xuất bản tại Paris,
1988
(6), (7), (14)
Phục Cổ Hay Nhại Cổ? Trường Hợp Tống Biệt Hành, chumonglong.wordress.com. Ông Chu Mộng Long, hiện đang giảng dạy tại Đại Học
Quy Nhơn, cho biết bài viết đã được đăng trên Tạp Chí Thơ, Hội Nhà Văn,
06/2008.
Về điểm này tôi
có viết một đoạn thơ vui như sau:
Thái Tử Charles ôm Công Nương Diana
trên chiếc giường nệm êm ái
Chí Phèo chẳng cần giường
mà đè Thị Nở ngay bên gốc chuối
nếu chỉ dựa vào độ “hiện đại” của chiếc giường
để đoán cô gái nào sướng hơn
có khi bạn lầm to
(Lầm To, Phạm Đức Nhì)
trên chiếc giường nệm êm ái
Chí Phèo chẳng cần giường
mà đè Thị Nở ngay bên gốc chuối
nếu chỉ dựa vào độ “hiện đại” của chiếc giường
để đoán cô gái nào sướng hơn
có khi bạn lầm to
(Lầm To, Phạm Đức Nhì)
(8), (9),
(10), (11) Nhận Diện CDNV, Lý Hồng Xuân, Văn Nghệ, 2000, tr. 261
(12) Hoàng Trọng
Hà, Vài Suy Nghĩ Về Bài Thơ Tống Biệt Hành, baolamdong.vn
(13) Vẻ Đẹp Cổ
Điển Và Hiện Đại Trong Tống Biệt Hành Của TT, Thạc Sĩ Hồ Thúy Ngọc (Trích lời
Trần Đình
Sử), htu.edu.vn/khoa-su-pham-xa-hoi-nhan-van
(15) Đoạn thơ trên được lưu truyền trong các
sinh hoạt văn học, văn hóa, văn nghệ ở miền nam; tôi thuộc lòng vì thường hay
diễn ngâm trong các buổi nghệ. Còn đoạn dưới đây được trích trong sách báo dòng
chính ở miền bắc.
Tôi có người vợ trẻ
đẹp như thơ
tuổi chớm đôi mươi, cưới buổi dâng cờ
má trắng mịn thơm thơm mùa lúa chín
ai ra đi mà không từng bịn rịn?
rời yêu thương nào đã mấy ai vui?
em lặng buồn nhìn với lúc chia phôi
tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ.
(Thơ VN/Thế Kỷ XX/Thơ Trữ Tình/NXB Giáo Dục/2004)
đẹp như thơ
tuổi chớm đôi mươi, cưới buổi dâng cờ
má trắng mịn thơm thơm mùa lúa chín
ai ra đi mà không từng bịn rịn?
rời yêu thương nào đã mấy ai vui?
em lặng buồn nhìn với lúc chia phôi
tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ.
(Thơ VN/Thế Kỷ XX/Thơ Trữ Tình/NXB Giáo Dục/2004)
Mạnh bước có vẻ không ăn khớp lắm với nghe hồn
nhỏ lệ. Dấn bước nghe hợp hơn và hay hơn nhiều.
Bài
2: ĐỌC “TỐNG BIỆT HÀNH” THƠ THÂM TÂM
Châu Thạch
Văn Nghệ Quảng Trị
TỐNG BIỆT HÀNH
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng…
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay ./.
Thâm Tâm
Lời Bình: Châu Thạch
Bài thơ “Tống Biệt Hành” được nhà thơ Thâm Tâm sáng tác vào
khoảng năm 1940. Kể từ khi ra đời đến nay đã trên 75 năm bài thơ luôn luôn được
yêu thích và đã được đưa vào sách giáo khoa của học đường. Hành là một thể thơ
cổ, thường được sử dụng để diễn tả một tâm trạng bi phẫn, bi hùng. Bài thơ
“Tống Biệt Hành” của Thanh Tâm có hai nhân vật, người đưa tiễn và người ra đi.
Tâm trạng của người ra đi được biểu hiện qua lời của người đưa tiễn và ngược
lại, tâm trạng của người đưa tiễn cũng là tình cảm của người ra đi.
Vào đề với bốn câu thơ, tác giả đã cho ta nghe sự va đập dồn dập
của nhiều âm thanh:
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Vế thơ có nhiều chữ “không” và lạ thay, nội chứa trong chữ
“không” đó nẩy sinh chữ “có”: Không sông thì lại có tiếng sóng, không thắm thì
có mắt trong, không vàng vọt thì có hoàng hôn. “Không” và “có” là hai từ đối
lập nhau, lại hoà hợp trong vế thơ nầy, tạo thành âm thanh biểu hiện nỗi ấm ức
trong lòng. Đọc vế thơ ta thấy ngay nhiều nghịch lý xảy ra giử cảnh và người
đưa tiễn cũng như người ra đi. “Đưa người, ta không đưa qua sông/ Sao có tiếng
sóng ở trong lòng?” là nghịch lý xảy ra đối với người đưa tiễn, và “Bóng chiều
không thắm, không vàng vọt/ Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?” là nghịch lý
xảy ra đối với người ra đi. Khung cảnh bên ngoài đối chọi với tình cảm trong
lòng là một nghệ thuật điêu luyên trong sáng tác. Tác giả dùng phương pháp “tá
khách hình chủ” nghĩa là mượn cái nầy để làm nổi bật cái kia giống như Nguyễn
Du đã dùng cái đẹp của Thuý Vân để gần cái đẹp của Thuý Kiều, làm cho Thuý kiều
nổi bật thêm lên. Ở đây Thâm Tâm đã dùng hai sự kiện “không” và “có”, mục đích
dùng cái không của không gian để làm nổi cộm lên cái có trong tâm hồn. Cái có ở
đây là nỗi buồn ly biệt.
Qua vế thứ hai của bài thơ:
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng...
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
Đoạn nầy ý nói người ra đi sẽ không quay về khi chí lớn chưa
thành, dầu mẹ có chết ba năm sau ngày giáp cử cũng không về để tang mẹ được.
Những câu thơ ở vế thơ nầy thật rắn rỏi nêu lên sự quyết tâm của người ra đi vì
chí lớn. Lời thơ như hịch xuất quân, như lời thề non nước.
Qua hai vế thơ kế tiếp như sau:
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Đoạn nầy có tác giả bình
thơ nhận xét rằng “Không những tầm thường mà còn hơi “sến” nữa”.
Thật ra nhà thơ Thâm Tâm rất rành tâm lý. Ở hai vế thơ trên biểu hiện niềm đau
quặn thắt trong lòng người đưa tiễn, sự xúc động đã dâng lên cao độ khi thốt
lên tiếng kêu đau thương “Li khách! li khách!”. Qua hai vế thơ nầy lời thơ trở
nên kể lể vì niềm đau đã được nén xuống, hơi thở nhẹ đi, con tim bình tịnh lại.
Nỗi đau không còn là ngọn lửa bùng lên nữa mà bây giờ nó là ngọn lửa âm ỉ đốt
cháy trong lòng. Lời thơ kể lể ở đây không phải là “tầm thường”, không phải là
“sến” mà nó là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm thét diễn tả nỗi
đau trong lòng nhân vật.
Vế chót của bài thơ như sau:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như ly rượu cay
Có người cho rằng vế
thơ nầy “Quá cứng cỏi. lạnh lùng và vô tình”. Thật ra đây
là một vế thơ rất hay, nó cho thấy bút pháp tài hoa của tác giả. Những điều mà
người ra đi phủ nhận trong vế thơ nầy chính là những điều mà người ra đi canh
cánh bên lòng. Chữ “thà” ở đây không có nghĩa là “xem như không có” mà chữ
“thà” ở đây có nghĩa là “không bỏ đi được”.
Nếu người ra đi ngày ấy xem mẹ như lá, chị như bụi và em như ly
rượu cay thì người đó không đáng để đưa vào thơ. Ta hãy đọc một đoạn thơ có chữ
“thà” trong bài “Khúc Tình Buồn” của Nguyễn tất Nhiên để hiểu thêm về chữ “thà’
của Thâm Tâm: “Người từ trăm năm/ về qua sông rộng/ ta ngoắc mòn tay/ trùng
trùng gió lộng/ thà như giọt mưa/ vỡ trên tượng đá/ thà như giọt mưa/ khô trên
tượng đá/ có còn hơn không...”. Ta thấy rằng, khi người yêu qua sông, Nguyễn
Tất Nhiên ngoắc mòn tay gọi người yêu trong vô vọng.
Lúc đó nhà thơ càng dùng chữ “thà” thì càng đau đớn gấp bội.
Tình yêu lúc đó càng mảnh liệt đến nỗi nhà thơ muốn “Thà như giọt mưa” thì vẫn
còn có để đến với em hơn là không chi hết. “Thà” của Nguyễn tất Nhiên và Thâm
Tâm là từ ngữ đã vượt ra ngoài nghĩa của cái chữ thường tình. Nó khẳng định một
tình yêu mảnh liệt với người yêu trong thơ Nguyễn Tất Nhiên và nó cũng khẳng
định một tình yêu mảnh liết với mẹ, với chị, với em trong thơ Thâm Tâm.
Gần đây có ý kiến cho
rằng “Mức độ nổi tiếng của Tống Biệt Hành không tương xứng với giá trị nghệ
thuật của nó vì các lý do sau:
- Được Hoài Thanh
là nhà phê bình danh tiếng ưu ái giới thiệu trong Thi Nhân Việt Nam. Do đó
người sau vì uy tín của Hoài Thanh và Thi Nhân Việt nam cứ thế ca ngợi, tán
dương theo.
- Được cả chính
quyền miền Bắc và miền Nam Việt Nam cần người lên đường phục vụ cho chế độ nên
giúp sức phổ biến vì lý do chính trị.
- Được đưa vào
nhà trường giảng dạy nên thầy giáo, học sinh cứ tán tụng, không dám bày tỏ ý
kiến đối nghịch vì sợ bị trù dập.”
Nhận xét như thế tôi cho là quá bất công với Tống Biệt Hành vì:
Hoài Thanh không ưu ái với nhà thơ Thâm Tâm mà Hoài Thanh chọn
Tống Biệt Hành để đưa vào Thi Nhân Việt Nam với sự công tâm đánh giá nghệ thuật
như bao bài thơ của các tác giả khác thời bấy giờ. Uy tín của Hoài Thanh đủ
khẳng định cho Tống Biệt hành có giá trị nghề thuật cao. Truyện Kiều của Nguyễn
Du mà còn có người dám chỉnh sửa lại thì Tống Biệt Hành là cái gì mà 75 năm qua
mọi người nhắm mắt tán tụng nó theo Hoài Thanh. Điều đó không thể nếu tự Tống
Biệt Hành không có giá trị ngang tầm với danh của nó.
- Chình quyền miền Bắc và miền Nam trước 1975 có hàng vạn
bài thơ phục vụ cho chế độ mình trực tiếp và cụ thể, đâu cần chi một bài thơ
Tống Biệt Hành nói về một sự ra đi vu vơ không mục đích rõ ràng.
- Bài thơ được đưa vào nhà trường tức là được chọn lọc.
Thêm một lần nữa khẳng định giá trị nghệ thuật cao của bài thơ. Nhiều năm qua
kể từ khi bài thơ được giảng dạy đến nay, không có dư luận nào chê trách việc
giảng dạy Tống Biệt Hành. Điều đó chứng tỏ giá trị nghệ thuật của Tống
Biệt Hành được đánh giá đúng nên không có sự phản hồi, phản bác, đối nghịch
trong công luận.
Thật ra với thời gian 75 năm, kịnh nghiệm cho ta thấy có nhiều
tác phẩm hời hợt, được vinh danh gượng ép vì một lý do nào đó đã lần lược mai một
hết với thời gian rồi. Riêng Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, nó vẫn còn sống thắm
tươi trên diễn đàn văn học và trong lòng nhiều thế hệ. Nó không chết đâu, và
mức độ nổi tiếng của nó rất tương xứng với giá trị nghệ thuật của chính nó vì
Tống Biệt Hành là khúc ca tiễn biệt rất hay mà tiễn biệt thì ở thời đại nào
cũng có xảy ra ./.
Châu Thạch
Chú Thích: Những đọan in đậm là Châu Thạch nói đến PĐN. PĐN
xin phép Châu Thạch cho in đậm để độc giả dễ theo dõi.
Bài 3: LẠI
BÀN VỀ TỐNG BIỆT HÀNH
(Trao đổi với nhà văn Châu Thạch)
Cách đây
không lâu anh Nguyễn Khắc Phước có thư riêng mời tôi cộng tác với trang web Văn
Nghệ Quảng Trị, một trang thuần túy văn học nghệ thuật. Trước khi nhận lời mời
tôi có bỏ ra vài buổi dạo qua trang web. Là người làm thơ và bình thơ nên tôi để
ý đến những cây bút phê bình văn học và những bài viết của Châu Thạch đã chiếm
được cảm tình của tôi với cung cách đứng đắn lịch sự, lời văn hòa nhã.
Hôm nay đọc
được bài Đọc Tống Biệt Hành Thơ Thâm Tâm của anh trên Văn Nghệ Quảng Trị (và
Văn Đàn Việt) trong đó anh có nhắc đến mấy đoạn trong một bài viết – cũng về Tống
Biệt Hành - của tôi nên xin phép được trao đổi với anh trong tinh thần “bạn
văn” cùng viết trên một diễn đàn văn học.
Sau đây là
những đoạn trong bài viết của tôi được anh đề cập:
1/ Anh nhắc đến hai đoạn thơ:
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
rồi anh viết:
Đoạn này có tác giả bình thơ nhận xét rằng “không
những tầm thường mà lạ còn hơi ‘sến’ nữa.” Theo anh thì: “Lời thơ kể lể ở đây không phải ‘tầm thường’,
không phải ‘sến’ mà nó là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm thét diễn
tả nỗi đau trong lòng nhân vật.”
Theo tôi,
hai đoạn thơ đã có những khuyết điểm sau đây:
-
Nói
chuyện “chiều hôm trước” mà dùng trạng từ chỉ thời gian “Bây giờ” là không
chính xác. Muốn chính xác, muốn hay, phải dùng từ khác.
-
So
sánh “sen nở nốt” với “dòng lệ sót” rất khập khiễng. Những bông sen nở cuối mùa
và dòng lệ còn sót lại của mấy người chị vừa khóc vừa khuyên em, hai hình ảnh
đó quá xa cách, không tương hợp. Phép “ẩn dụ” không hay.
-
Chữ
“dòng” trong cụm từ “dòng lệ sót” giảm giá trị của chữ “sót”.
-
“Giời chưa mùa thu tươi lắm thay” là một
câu thơ “vô tích sự” bởi nó lạc lõng, thừa thãi, không ăn nhập gì với cả đoạn
thơ.
-
Đọc
hai câu:
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc
khăn tay
tôi tưởng tượng trước mắt mình một em
nhỏ, đôi mắt ngây thơ tròn xoe nhìn người anh sắp đi xa, tay cầm chiếc khăn tay
như muốn gói trọn thương tiếc trong lòng mình vào đấy. Ôi! Hình ảnh ấy vừa khô
cứng, vừa “cải lương”, lại vừa không thật; ngây thơ đôi mắt biếc như em nhỏ thì
biết gì mà thương với tiếc; chữ “tiếc” ở đây hoàn toàn sai.
Trên đây là
một vài chi tiết khiến tôi đưa ra nhận xét là hai đoạn thơ “không những tầm thường
mà lại còn ‘sến’ nữa.” Anh Châu Thạch cho đó “là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm thét diễn tả nỗi đau
trong lòng nhân vật” là quyền của anh. Tôi dành sự phán xét sau cùng cho độc
giả.
2/ Vế chót của bài thơ như sau:
Người đi?
Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
Có người cho rằng vế thơ này “quá cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình.”
Theo anh thì: “Thật ra đây là một vế thơ
rất hay, nó cho thấy bút pháp tài hoa của tác giả.”
Tôi không nghĩ như vậy. Trên bề mặt chữ nghĩa 3 câu cuối rõ
ràng là cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình. Hơn nữa, đó không phải là tâm trạng,
cách suy nghĩ của chính người ra đi nói ra mà chỉ là sự võ đoán của người đưa
tiễn. Cho nên nếu nói đến giá trị nghệ thuật thì mấy câu thơ ấy chỉ như là rượu
giả, khó làm vừa lòng những tay sành rượu.
3/ Hoài Thanh không ưu ái với nhà thơ Thâm
Tâm mà Hoài Thanh chọn Tống Biệt Hành để đưa vào Thi Nhân Việt Nam với sự công
tâm đánh giá nghệ thuật như bao bài thơ của các tác giả khác thời bấy giờ. Uy
tín của Hoài Thanh đủ khẳng định cho Tống Biệt hành có giá trị nghề thuật cao.
Tôi
đồng ý với anh Châu Thạch là TBH phải hay, phải có giá trị nghệ thuật ở mức độ
nào đó, phải hợp “gu” với Hoài Thanh thì mới được ông tuyển chọn đưa vào Thi
Nhân Việt Nam. Nhưng được Hoài Thanh tuyển chọn lại là con dao hai lưỡi. Thời
gian qua đi, cách nhìn nhận và đánh giá thơ ca thay đổi, uy tín của Hoài Thanh
- đặc biệt lúc ông còn sống - khiến người yêu thơ e ngại khi phải đưa ra những
ý kiến trái ngược hoặc khác với nhận định của ông. “Sợ” uy quyền của ông cũng
có nhưng cái sợ lớn nhất là sợ bước vào một trận chiến không cân sức với một đối
thủ quá mạnh.
Anh
Châu Thạch còn viết rằng: “Truyện Kiều của
Nguyễn Du mà còn có người dám chỉnh sửa lại thì Tống Biệt Hành là cái gì mà 75
năm qua mọi người nhắm mắt tán tụng nó theo Hoài Thanh.” Theo tôi, chỉnh sửa
một điểm nào đó trong truyện Kiều không khó vì không bị đè nặng bới một sức ép
chính trị tâm lý nào. Miễn là anh có kiến thức rộng về văn học, thơ ca và đủ tự
tin để viết. “Đụng” vào TBH là “đụng” vào cả một chính sách lớn của nhà nước
trong hoàn cảnh chiến tranh, lúc người chống lưng cho nó vừa có văn tài, vừa có
quyền uy ngất ngưởng trong lãnh vực bình phẩm văn chương.
4/ Chình
quyền miền Bắc và miền Nam trước 1975 có hàng vạn bài thơ phục vụ cho chế độ
mình trực tiếp và cụ thể, đâu cần chi một bài thơ Tống Biệt Hành nói về một sự
ra đi vu vơ không mục đích rõ ràng.
Những
bài thơ viết để trực tiếp phục vụ chế độ (ở miền nam có một số bản nhạc như vậy
nhưng thơ thì không nhiều), đọc lên đã sặc mùi tuyên truyền. Tác giả loại thơ
này thường là người nằm trong bộ máy chính quyền, chức vụ không cao, viết vì
công việc, vì “cái ghế”, vì miếng cơm manh áo. Cả tác giả lẫn tác phẩm đều bị
coi thường, khinh rẻ. Thậm chí đọc phải những bài thơ này có người còn bực bội
chửi thề ngay cả trước mặt công chúng. (Con số hàng vạn của anh Châu Thạch tôi
e rằng quá lố).
Chỉ
có những bài thơ tác giả có tay nghề cao, viết bằng trái tim mình, bày tỏ cảm
xúc thật của mình nhưng ý tứ của bài thơ lại tình cờ phù hợp với đường lối,
chính sách của chính phủ nên được phổ biến trong quảng đại quần chúng. Vâng!
Chính những bài thơ ấy mới hấp dẫn người đọc, mới thôi thúc người đọc đi theo,
làm theo tiếng gọi của tứ thơ (hoặc ý thơ). TBH nằm trong số những bài thơ ấy.
5/ Bài thơ được đưa vào nhà trường tức là được
chọn lọc. Thêm một lần nữa khẳng định giá trị nghệ thuật cao của bài thơ. (Điều
này không phải lúc nào cũng đúng.) Nhiều
năm qua kể từ khi bài thơ được giảng dạy đến nay, không có dư luận nào chê
trách việc giảng dạy Tống Biệt Hành. Điều đó chứng tỏ giá trị nghệ thuật của Tống
Biệt Hành được đánh giá đúng nên không có sự phản hồi, phản bác, đối nghịch trong
công luận.
Vào
trường học là có giáo án, thi cử. Thử hỏi có học sinh nào dám đem tương lai của
mình để đánh đổi lấy một cơ hội được phản bác điều mình được dạy trong trường lớp?
Có thầy, cô giáo nào dám dạy sai giáo án để phí công bao năm đèn sách ở các trường
cao đẳng hay đại học sư phạm? Vả lại, nếu người phản bác không có thực tài,
không chọn đúng thời điểm có phong trào, có cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca mới,
không có sự hỗ trợ của một vài nhân vật có chức quyền trong ngành, những ý kiến
phản bác sẽ như muối bỏ bể, rơi vào quên lãng.
Giá Trị Nghệ Thuật Của Tống
Biệt Hành
1/ Khuyết điểm
Ngoài
những khuyết điểm ở hai đoạn thơ nói về chị và em TBH còn có những yếu kém sau
đây:
-
Câu “Đưa người ta chỉ đưa
người ấy” có vẻ ngây ngô và đóng góp rất ít cho bài thơ.
-
Cái dở nhất của TBH, theo tôi, là có nhiều đoạn người ra đi không
được bày tỏ trực tiếp mà cảm xúc, tâm trạng của anh ta lại do người tống biệt
võ đoán và nói hộ. Độc giả có cảm giác như được Thâm Tâm mời đến thưởng thức
món thuốc lá gia truyền rất ngon, nhưng khi gặp nhau thì chỉ được hút một, hai
hơi; sau đó là ngồi ngửi khói (hút gián tiếp). Lời khuyên “Làm thơ nên viết ở
ngôi thứ nhất” đã bị vi phạm mà không có lý do chính đáng.
2/
Ưu điểm
Dù vậy TBH cũng vẫn là một bài thơ hay. Chỉ với 4 câu đầu tác giả đã khắc họa một cách tài tình tâm trạng của người đưa tiễn – và với khả năng quan sát tinh tế, đã “bắt” được nỗi buồn của người ra đi:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong
Để tả cảnh chia ly 4 câu thơ này có thể hiên ngang đọ sức với bất cứ câu thơ hay nào của bất cứ tác giả nào trong Phong Trào Thơ Mới.
Cái độc đáo nữa của TBH là Điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi, gân guốc, không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. (1)
Đứng bên cạnh những bài thơ có âm điệu du dương như hầu hết thơ mới thời ấy TBH có dáng dấp độc đáo, gây được sự chú ý ngay từ hình thức bề ngoài của bài thơ.
Cái hay nhất của TBH là - mặc dù nhân vật và khung cảnh khác xa nhau – đã gợi được không khí hào hùng, bi tráng của cuộc chia ly nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa: Thái Tử Đan tiễn Kinh Kha sang sông Dịch để ám sát Tần Thủy Hoàng. Người đọc, đặc biệt là nam nhân, cảm thấy hào khí bốc lên cao ngất, thân này kể bỏ, gia đình (mẹ, chị và em) cũng coi như không có, vì lý tưởng, vì nước quyết ra đi để thỏa mãn chí lớn của người trai.
Chí lớn không về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Tôi hoàn toàn đồng ý với Châu Thạch khi anh viết:
Đoạn nầy ý nói người ra đi sẽ không quay về khi chí lớn chưa thành, dầu mẹ có chết ba năm sau ngày giáp cử cũng không về để tang mẹ được. Những câu thơ ở vế thơ nầy thật rắn rỏi nêu lên sự quyết tâm của người ra đi vì chí lớn. Lời thơ như hịch xuất quân, như lời thề non nước.
Tóm lại, nếu đặt ưu và khuyết điểm lên bàn cân thì TBH vẫn là một bài thơ hay. Ưu điểm rất độc đáo và gây được ấn tượng sâu sắc nơi người đọc. Có những đoạn thơ thường được ngâm nga trong những buổi họp mặt của thanh niên trước lúc lên đường. Nhưng khuyết điểm cũng không ít trong đó có cả khuyết điểm căn bản trong việc sáng tác thơ ca.
Riêng về tứ thơ thì tôi cho rằng tứ thơ của TBH là một thứ dây leo chùm gởi, phải nhờ vào cái bóng của một “khung cảnh lịch sử” ở tận bên Trung Quốc để có được sức hấp dẫn người đọc như nó đã có. Hơn nữa, như đã phân tích ở trên, rượu trong bữa tiệc thơ TBH là rượu giả; cảm xúc (ngoài hai câu đầu) không phải là thứ “tông” phát xuất từ chính trái tim người tống biệt mà chỉ là cảm xúc của người ra đi được người tống biệt đoán ra. Khách mời của bữa tiệc TBH tưởng như mình sắp sửa qua sông Dịch để cứu muôn triệu dân lành. Rót rượu đầy ly, nâng cao và hô một tiếng “dzô” thật lớn rồi uống cạn để thấy hào khí trong người mình dâng lên cao ngất. Đến khi tỉnh dậy sau cơn say khướt, thấy nhức đầu một cách khó hiểu nhưng cũng không biết là mình uống phải rượu giả, toàn nước lã pha cồn.
Hồ Trường (Nguyễn Bá Trác) thì hoàn toàn khác. Khung cảnh thật, rượu thật, tâm sự được chính tác giả thốt ra trong lúc ngà ngà say, không có bàn tay “gạn đục khơi trong” của lý trí nên cũng rất thật. Và hào khí, thì dù người đọc có say hay tỉnh, cũng thấy bốc cao ngất trời và nóng bỏng.
Trong trò chơi bình thơ, với tôi, chê lầm một câu (bài) thơ hay hoặc khen lầm một câu (bài) thơ dở là một lỗi nặng, ảnh hưởng đến uy tín của người bình thơ. Tuy nhiên, ở đời ai chẳng có lúc lỗi lầm? Miễn là sau đó mình cố gắng học hỏi và sửa chữa. Nhưng bình một bài thơ mà – vì một lý do nào đó ngoài thơ - thấy một điểm hay mà không dám khen, thấy một điểm dở mà không dám chê thì theo tôi, là một cái tội, tội với lương tâm mình và tội với thơ.
Cho nên khi bình thơ, tôi khen chê thẳng thắn đúng với sự hiểu biết và cảm nhận của mình lúc đó. Vì thế bài viết của anh Châu Thạch đã cho tôi cơ hội đọc kỹ lại Tống Biệt Hành và giải thích thêm một số chi tiết mà tôi – vì muốn hướng sự chú ý của độc giả vào những điểm chính – đã bỏ qua. Và chuyện đúng sai xin nhường cho độc giả phán xét.
Với bài thơ TBH anh Châu Thạch và tôi có vài chỗ ý kiến khác nhau. Đó cũng là chuyện thường tình trong bình phẩm thơ ca. Trong Văn Nghệ Quảng Trị anh Châu Thạch có số bài gấp nhiều lần số bài của tôi. Anh là cựu binh, còn tôi là lính mới. Cũng may là trên chốn văn chương nên tôi mới dám mạnh dạn trao đổi với anh. Qua hai bài viết, một của anh và một của tôi, xin được nói riêng với anh Châu Thạch, cả hai chúng ta đều có lợi. Và biết đâu những độc giả đọc bài của chúng ta cũng đang rung đùi, gật gù khoái chí.
Chú thích:
1/ Chữ của Hoài Thanh
Galveston, Texas 10/18/15
PHẠM ĐỨC NHÌ
nhidpham@gmail.com
Bài 4: Câu
Chuyện Văn Chương –Tống Biệt hành
Lê Mai Lĩnh
TVấn& BH
Vừa
qua, trên trang web T.Vấn & Bạn Hữu có bài tranh luận giữa hai tác giả CHÂU
THẠCH và PHẠM ĐỨC
NHÌ về bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH của thi sĩ THÂM TÂM, đã làm tôi NGỨA NGÁY TAY CHÂN, nên tôi muốn có đôi điều
góp ý. Bài viết trong tinh thần CHUYỆN NHƯ ĐÙA, mong HAI ANH và ĐỘC GIẢ xem cho
vui, trong lúc chờ đợi chứng kiến MỸ và TRUNG CỘNG bắn đạn DỞM và NỔ PHÁO TỊT
NGÒI vào nhau
Nhà
thơ THÂM TÂM, một KHUÔN MẶT THƠ mà người nào yêu thơ cũng yêu mến.
Bài
thơ TỐNG BIỆT HÀNH là KINH NHẬT TỤNG TÌNH YÊU cho một thời trai tơ, trai trẻ,
trai dậy thì. Kể cả mấy gái chưa chồng hay chết chồng
Bài
thơ TỐNG BIỆT HÀNH là một KHỐI KIM CƯƠNG NGUYÊN VẸN, chẳng một ai dám đục, đẽo,
đạp, đá hay thụi, xéo hay nậy.
Bài
thơ TỐNG BIỆT HÀNH, khi vui, đọc cho buồn.
Bài
thơ TỐNG BIỆT HÀNH, khi buồn, đọc cho vui
Bài
thơ TỐNG BIỆT HÀNH, khi đói, nó là gạo nấu cơm là nếp nấu xôi.
Bài
thơ TỐNG BIỆT HÀNH là nước khi khát, là cứu tinh cho người vượt qua sa mạc khô
cháy
Bài
thơ TỐNG BIỆT HÀNH, là rượu cho những bợm nhậu, là thuốc lào cho những người tù
khổ sai Cộng Sản
75
năm nay nó là như thế và sẽ là như thế, khi trái đất này còn người YÊU THƠ.
Thế
nhưng vừa qua, người anh em tôi, nhà thơ PHẠM ĐỨC NHÌ đã chọn một cách rất
“không bình thường” để phân tích, mổ xẻ TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH:
Ông
đã đem BÚA TẠ, KỀM KINGSIZE, ĐỤC KINGSIZE, XÀ BENG KINGSIZE, THUỐC NỔ QUEEN,
BAO TAY PRINCESS,
Ông
TRỤC, KÉO, LÔI PHO TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH ra khỏi TRÁI TIM NHỮNG NGƯỜI
YÊU của THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH
Với
những lý do của Ông:
Bài
thơ Tống Biệt Hành:
1/ Không những bình thường mà con SẾN.
2/ Nói chuyện chiều hôm trước mà dùng trạng từ chỉ thời gian “BÂY
Giờ” là không chính xác.
(Theo
tôi biết, trong văn phạm tiếng Anh và các thứ ngôn ngữ khác, vẫn có CÁC
THÌ: HIỆN TẠI TRONG QUÁ KHỨ hay QUÁ KHỨ TRONG TƯƠNG LAI.)
3/Chữ “dòng” trong cụm từ “dòng lệ sót” giảm giá trị của chữ
“sót”.
4/ “Giời chưa mùa thu tươi lắm thay” là một câu thơ “vô tích sự” bởi
nó lạc lõng, thừa thãi, không ăn nhập gì với cả đoạn thơ.
5/ So sánh ”sen nở nốt” với ”dòng lệ sót” rất khập khễnh.
6/ Đọc hai câu:
” Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay “
Hình ảnh KHÔ, CỨNG, vừa CẢI LƯƠNG, lại vừa không thật, ngây thơ
đôi mắt biểc như em nhỏ thì biết gì mà thương với tiếc
7/ Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH nói về một sự ra đi vu vơ, không mục
đích rõ ràng.
8/ Câu: ”Đưa người ta chỉ đưa người ấy” có vẻ ngây ngô, và
đóng góp rất ít cho bài thơ.
9/ Lời khuyên: ”Làm thơ nên viết ở ngôi thứ nhất” đã bị vi phạm
mà không có lý đó chính đáng.
(PHẠM
ĐỨC NHÌ không cho chúng ta biết LỜI KHUYÊN NÀY CỦA AI. Phải chăng có một ông TỔ
SƯ BỒ ĐỀ THƠ khuyên và chỉ có anh PDN biết.)
10/ Rượu trong bữa tiệc thơ TỐNG BIỆT HÀNH là rượu gỉa, rượu toàn
nước lã pha cồn
Rồi
ông kết luận về TỐNG BIỆT HÀNH :
Dù vậy, TỐNG BIỆT HÀNH VẪN LÀ MỘT BÀI THƠ HAY.
CHỈ VỚI 4 CÂU ĐẦU TÁC GIẢ ĐÃ KHẮC HỌA MỘT CÁCH TÀI TÌNH TÂM TRẠNG
CỦA NGƯỜI ĐƯA TIỄN Và VỚI KHẢ NĂNG TINH TẾ ĐÃ BẮT ĐƯỢC NỖI BUỒN CỦA NGƯỜI RA
ĐI:
“Đưa người ta không đưa sang sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Ráng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
Để tả cảnh chia ly, 4 câu thơ này có thể hiên ngang đọ sức với bất
cứ câu thơ hay nào của bất cứ tác giả nào trong phòng trào THƠ MỚI.
Thưa
anh nhà thơ PHẠM ĐỨC NHÌ:
1/Anh
nói: TÔI DÀNH SỰ PHÁN XÉT SAU CÙNG CHO ĐỘC GIẢ
Vậy
tôi đề nghị anh NÊN NÓI LỜI XIN LỖI VỚI ANH CHÂU THẠCH. Bài của nhà phê bình
CHÂU THẠCH rất HÀN LÂM, NGƯỜI LỚN.
2/
Mặc dù anh đã HÀN GẮN NHỮNG VẾT ĐỤC ĐẼO lên PHO TƯỢNG TỐNG BIỆT HÀNH, nhưng sự
MẤT MÁT VẪN CÒN, NIỀM ĐAU CŨNG CÒN,
vậy
anh nên viết bài TẠ LỖI với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã chạm
vào tình cảm YÊU THƠ của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM.
Như
đã nói trên bài viết, ĐÂY LÀ CHUYỆN ĐUÀ CUỐI TUẦN, xin mọi người hoan hỉ thứ
tha.
AMEN
Lê Mai Lĩnh
Bài 5: VĂN CHƯƠNG ĐÂU PHẢI LÀ ĐƠN THUỐC
(Viết sau
khi đọc Câu Chuyện Văn Chương của Lê Mai Lĩnh)
Nhận được cái link từ một bạn văn trong nước với lời nhắn “Nhận thấy có liên quan đến bài viết của anh và anh Châu Thạch bàn về TỐNG BIỆT HÀNH của THÂM TÂM... nên chép lại đường link để anh xem và có phản hồi với bài viết (nếu có). Chúc vui.”
Sau đó 2 ngày tôi cũng nhận được mail của
anh Trương Vấn thông báo về bài Câu Chuyện Văn Chương trên trang TVấn& BH. Đọc CCVC tôi mường tượng tác giả của nó là một
người yêu thơ cuồng nhiệt theo cách riêng của mình, và … rất tự tin. Lẽ ra
trong tranh luận văn chương phải chú trọng đến đối tượng tranh luận - ở đây là
giá trị nghệ thuật của TBH - thì ông LML chỉ nói phớt qua vài điểm ông không đồng
ý (không dẫn chứng), rồi tự động coi mình là “bên thắng cuộc”, đề nghị hình phạt
cho “bên thua cuộc”.
Dù vậy, trong bài này tôi chỉ chú trọng
việc làm rõ những điểm liên quan đến văn chương mà ông đề cập, không phải để phân
định thắng thua mà tìm sự thông cảm không những của riêng ông mà còn của cả những
độc giả khác quan tâm đến cuộc tranh luận.
1/ Nói chuyện chiều hôm
trước mà dùng trạng từ chỉ thời gian “BÂY Giờ” là không chính xác.
Theo
tôi (LML) biết, trong văn phạm tiếng Anh và các thứ ngôn ngữ khác, vẫn có CÁC
THÌ: HIỆN TẠI TRONG QUÁ KHỨ hay QUÁ KHỨ TRONG TƯƠNG LAI.
Ở đây tôi
không bàn đến văn phạm tiếng Anh và các thứ ngôn ngữ khác mà chỉ xin đưa ra một
thí dụ bằng tiếng Việt để chứng minh “Bây giờ” trong TBH là không chính xác.
Thứ Hai tuần trước tôi gặp anh ta ở
chùa Vĩnh Nghiêm
Lúc ấy hoa sen nở đẹp quá.
Nếu thay
“Lúc ấy” bằng “Bây giờ” thì sai. Điều này chắc độc giả ai cũng có thể chấp nhận.
Trở lại TBH:
Tôi xin phép đổi mấy chữ (để làm rõ ý của mình)
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Đang vào cuối hạ sen nở nốt
Nhóm chữ trạng
từ chỉ thời gian (đang vào cuối hạ)
có thể bao phủ một khoảng thời gian từ “chiều hôm trước” cho đến lúc người đưa
tiễn đang “tâm tình” ngày hôm sau (và có thể thêm một thời gian ngắn nữa trong
tương lai). Đưa “Bây giờ mùa hạ” vào thì sai – ít nhất cũng là lỗi kỹ thuật -
vì “độ phủ sóng” của “Bây giờ” hẹp hơn, chỉ là một khoảnh nhỏ của hiện tại,
không thể vươn ngược về “chiều hôm trước”.
2/ Bài thơ TỐNG BIỆT
HÀNH nói về một sự ra đi vu vơ, không mục đích rõ ràng.
Ông LML đã thiếu cẩn trọng, không đọc kỹ nên đã
gán câu văn trên - của anh Châu Thạch - cho tôi. Tuy nhiên, đó là sự lầm lẫn
nhỏ nhặt, không đáng kể. Hơn nữa, chính tôi cũng đồng ý với nhận xét rất tinh
tế ấy của anh Châu Thạch.
3/ Lời khuyên:
“Làm thơ nên viết ở ngôi thứ nhất” đã bị vi phạm mà không có lý đó chính đáng.
(PHẠM ĐỨC NHÌ không cho chúng ta biết LỜI KHUYÊN
NÀY CỦA AI. Phải chăng có một ông TỔ SƯ BỒ ĐỀ THƠ khuyên và chỉ có anh PĐN
biết.)
Trước hết, tôi đã bỏ ra 2 buổi để đọc 69 bài thơ
của ông LML trên TVấn& BH (đúng ra là 70 nhưng có một bài đăng 2 lần) và
nhận thấy rằng tất cả 69 bài thơ ấy (vâng! 100%) đều được viết ở ngôi thứ nhất.
(1)
Sau đây là một đoạn trích trong Mấy Ý Nghĩ Về
Thơ của Nguyễn Đình Thi:
Những hình ảnh còn tươi nguyên, mà nhà thơ
tìm thấy, bao giờ cũng mới mẻ, đột ngột lạ lùng. Vì nhà thơ nhìn bằng con mắt của
người đầu tiên. Đó là những hình ảnh mới tinh, chưa có vết nhòa của thói quen,
không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước. Mượn câu nói của một nhà văn Pháp, nhà thơ bao giờ cũng là ngôi thứ
nhất.
Tôi
tạm dùng hình tượng rượu thật, rượu giả để giải thích ý này. Cảm xúc hay tâm sự
do chính tác giả (hay chính nhân vật trong bài thơ) nói ra là rượu thật, còn do
người khác suy đoán rồi nói hộ là rượu giả. Có loại rượu giả cao cấp và loại rượu
giả xoàng.
Trong
TBH có 2 bình rượu thật:
a/ Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Không
đưa người qua sông nhưng sao lòng nôn nao như sóng vỗ. Đây là 2 câu thơ tuyệt vời
nói lên tâm trạng của người đưa tiễn.
b/ Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn không về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Đây là những câu thơ người ra đi thì thầm với
chính mình – nói như Châu Thạch - lời thơ như hịch xuất quân, như lời thề non
nước.
Còn lại là 4 bình rượu giả:
a/ Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Ta cảm được nỗi buồn của người khi thấy mắt
người như chứa cả bóng hoàng hôn. Mắt là cửa sổ linh hồn; nhìn đôi mắt có thể
đoán khá chính xác một người đang vui hay buồn. Do tác giả chọn được hình rất
đẹp, rất thơ nên 2 câu thơ tuy là rượu giả nhưng là loại rượu giả cao cấp, chỉ
người sành rượu mới phân biệt được. Hai câu này kết hợp với 2 câu đầu thành một
đoạn thơ rất hay, thường được đọc, ngâm nga trong các buổi nhậu, tiệc trà bù
khú chuyện văn chương.
b/ Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
c/ Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Hai đoạn b
và c cũng là 2 bình rượu giả. Ngôn ngữ và khung cảnh thơ sến, cải lương nên có
thể xếp vào loại rượu giả xoàng, nhấp môi là nhận được ngay.
d/ Người đi! Ừ nhỉ! Người đi thật
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
Người
đưa tiễn cứ như có bùa phép, thấy được cả những chi tiết nhỏ nhặt trong đầu người
ra đi. Thử hỏi độc giả liệu có tin được “chân tình” của tác giả không? Ba câu
cuối rõ ràng là rượu giả, được nhà hàng nghênh ngang pha ngay trước mặt thực
khách.
Trước khi tôi viết về TBH, trong lúc uống
cà phê bình thơ, thấy tôi chĩa mũi dùi vào chi tiết “nói hộ tâm sự của người
khác” trong thơ, một người bạn lên tiếng:
Người đưa tiễn, người ra đi, rồi mẹ, chị và em, tất tật đều là “con đẻ”
của Thâm Tâm; dĩ nhiên ông ta biết suy nghĩ trong đầu của họ.
Đồng ý là như vậy. Nhưng khi đã phân công,
phân nhiệm thì vai nào phải ra vai đó để phù hợp với vở kịch của cuộc đời. Người
trần mắt thịt mà cứ như là Tiên, Thánh, đọc suy nghĩ, cảm xúc của người khác
như đọc trang giấy trước mặt mình thì coi sao được.
4/Anh
nói: TÔI DÀNH SỰ PHÁN XÉT SAU CÙNG CHO ĐỘC GIẢ
Vậy tôi đề nghị anh NÊN NÓI LỜI XIN LỖI VỚI ANH
CHÂU THẠCH. Bài của nhà phê bình CHÂU THẠCH rất HÀN LÂM, NGƯỜI LỚN.
Qua bài viết
của anh Châu Thạch, thú thật, chất hàn lâm thì tôi không dám nói chứ về phong
cách thì tôi đồng ý với ông LML là anh có một phong cách rất người lớn: cẩn trọng,
đứng đắn và hòa nhã. Sau mấy bài viết tranh luận về TBH và Nhớ Rừng chúng tôi
đã thư qua, thư lại, trò chuyện trên điện thoại và thấy có một số điểm tương đồng
trong tranh luận văn chương. Anh đã thẳng thắn nói rằng trong việc thẩm định
giá trị nghệ thuật của một bài thơ việc có ý kiến khác nhau là thường tình; đó
là quyền tự do của mỗi người. Chúng tôi đã kết bạn văn chương và đã trao đổi với
nhau một số điều riêng tư lý thú.
5/
Vậy anh nên viết bài TẠ LỖI với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã
chạm vào tình cảm YÊU THƠ của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM.
Trong số độc giả thường đọc, thưởng thức rồi yêu
thơ có rất nhiều người mê thích một bài thơ vì một hay nhiều lý do rất riêng
tư, có khi chẳng ăn nhập gì đến kỹ thuật thơ, cảm xúc thơ … nói chung là giá
trị nghệ thuật của bài thơ. Nếu bài thơ nhắc đến hoặc gợi lại những kỷ niệm về
khung trời quê hương, mối tình đầu, “những năm tháng không thể nào quên”, hào
khí của thanh niên … thì độc giả sẽ ngây ngất như say rượu, cảm xúc dạt dào,
hào khí dâng cao … và họ sẽ vung tay cho điểm bài thơ rất rộng rãi. TBH cũng ở
trong trường hợp đó. Dĩ nhiên, nó không phải là bài thơ dở, nhưng vì những lý
do rất “ngoài thơ” người ta đã quên nhắc đến những khuyết điểm của nó, đã ca
tụng nó, cho điểm nó cao hơn giá trị thực sự của nó rất nhiều.
Nhiệm vụ của người bình thơ ngoài việc chỉ ra
ưu, khuyết điểm của bài thơ còn phải tháo những giá chống, gỡ những bàn tay
nâng đỡ, tước bỏ những ưu ái riêng tư của mình để bài thơ tự đứng trên đôi chân
của nó, tỏa sáng bằng chính giá trị nghệ thuật tự thân của nó.
Tôi bình TBH (và những bài thơ khác) cũng với
tinh thần đó, cố gắng thuyết phục để độc giả cùng tôi đối xử công bằng với bài
thơ, khen chê đúng mực.
Trường hợp của ông LML thì đặc biệt hơn. Đọc
đoạn ông viết về TBH tôi biết ngay là ông mắc chứng bệnh “cuồng ái” với bài
thơ. Đem cái “tình yêu thơ” kiểu ấy mà bước vào chỗ bình thơ tranh luận với tôi
thì chắc chắn
tôi sẽ “từ chết đến bị thương”. Cuối cùng chỉ bị ông hỏi khó mấy câu và bắt xin
lỗi, tạ lỗi với không biết bao nhiêu là người. Thôi thì như thế cũng là may
mắn.
Bệnh của ông LML thì hơi khó chữa, nhưng đối với
bạn đọc của TVấn&BH và tất cả những người yêu thơ khác, tôi hy vọng là qua
mấy bài tranh luận về TBH quý vị cũng vẫn yêu mến bài thơ nhưng sẽ đối xử với
nó công bằng hơn.
Riêng về việc ông LML yêu cầu tôi xin lỗi anh
Châu Thạch và TẠ LỖI với bạn đọc của trang TVấn& BH tôi xin được cho qua vì
nó ngây ngô, trịch thượng và … quá vô
duyên.
6/Ông
đã đem BÚA TẠ, KỀM KINGSIZE, ĐỤC KINGSIZE, XÀ BENG KINGSIZE , THUỐC NỔ QUEEN,
BAO TAY PRINCESS,,,,
Ông
TRỤC, KÉO, LÔI PHO TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH ra khỏi TRÁI TIM NHỮNG
NGƯỜI YÊU của THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH
Theo ngôn ngữ của ông LML thì mỗi người
yêu thơ đều có một tượng đài trong tim cho mỗi bài thơ mình yêu thích. Tùy cách
hiểu và đánh giá của mỗi người, tượng đài ấy lớn nhỏ khác nhau.
Có người đọc thơ để thưởng thức, có người
đọc để phê bình. Tôi thuộc loại người thứ hai nên những điều ông LML trách tôi
cũng có phần đúng. Tôi đã dùng đủ loại dụng cụ ông nói ở trên để đục đẽo hầu có
được một tượng đài – mà theo tôi - đúng với kích cỡ của TBH. Tôi không có khả
năng trục tượng đài ra khỏi trái tim của người yêu thơ để đưa vào chỗ ấy một tượng
đài khác. Tôi chỉ ước mong những bài viết của mình đủ thuyết phục để có được một
vài người yêu thơ tự làm công việc thay thế đó trong tim họ.
KẾT LUẬN
Ở phần đầu ông Lê Mai Lĩnh xác định:
“Bài viết trong tinh thần Chuyện Như Đùa” và ở phần cuối ông nhắc lại: “Đây là
Chuyện Đùa Cuối Tuần, xin mọi người hoan hỉ thứ tha.” Đồng ý trong “chuyện văn
chương” có những vùng đất dành riêng cho óc khôi hài (sense of humor) và ngay cả
những bài viết chính luận nghiêm túc vẫn có thể có câu, đoạn ẩn chứa những nụ
cười ý nhị. Ngồi vào bàn bình thơ, người viết không nhất thiết phải bỏ lại bên
ngoài óc hài hước hay cách hành văn dí dỏm của mình.
Có điều chắc
chắn là bình thơ không phải chuyện đùa.
Người bình thơ, ngoài kiến thức, tài năng còn phải có “tâm” với thi ca và nhất
là phải có thái độ của người lớn: đứng đắn, nghiêm túc, có trách nhiệm với lời
khen chê của mình. Khen chê một câu thơ, một bài thơ là do nhận định chủ quan của
người viết phê bình – không phải lúc nào cũng đúng nên dĩ nhiên, chưa phải là kết
luận chung cuộc. Sự khen chê ấy còn được cân nhắc, lượng giá (có khi soi mói) của
nhiều cặp mắt phê bình khác.
Không phải cứ
ngứa ngáy tay chân là nhảy xổ vào cuộc tranh luận thơ ca của người khác, nói
vung tít mẹt rồi chắp tay xin hai chữ đại xá. Hơn một trăm năm trước Trần Tế
Xương đã viết hai câu thơ về bác Cử Nhu:
Văn chương đâu phải là đơn thuốc
Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu.
Với những
người Bình Thơ hoặc đang tranh luận về giá trị nghệ thuật của thơ, hai câu đó
bây giờ vẫn đúng.
Texas
11/2015
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
CHÚ THÍCH:
1/ Hôm nay (11/14/2015) đọc bài thơ mới của
ông LML (Những Ngày Tôi Muốn Chết) trên TVấn& BH, tôi thấy nó cũng được viết
ở ngôi thứ nhất.
PHỤ LỤC 1:
Có trường hợp bài thơ là một cuộc đối thoại giữa
nhân vật chính và người em của mình; bài thơ chấm dứt bằng câu trả lời của
người em. Có người bạn hỏi rằng “Phải chăng tác giả đã viết bằng ngôi thứ hai?”
Này lặng em ơi, lặng lặng
nhìn
Phải
chăng mình ngựa sắc hồng in
Nhẹ
nhàng em sẽ buông rèm xuống
Chị
sợ bên sông bóng ngựa chìm.
Ngựa hồng đã đến bên hiên
Chị
ơi, trên ngựa chiếc yên ... vắng người.
(Mòn Mỏi, Thanh Tịnh)
Theo tôi, cảm xúc của người chị
(ngôi thứ nhất) vẫn là chính. Độc giả theo dòng cảm xúc từ đầu bài thơ đã hiểu
được tâm trạng mòn mỏi đợi chờ tình quân của chị cho nên khi đọc 2 câu trả lời
của người em - chỉ làm nhiệm vụ cung cấp thông tin - đã đồng cảm với sự tuyệt
vọng và nỗi buồn đau vô bờ bến của người phụ nữ đáng thương này. Thủ pháp Show,
Not Tell của Thanh Tịnh rất tài tình và đã đạt hiệu qủa tối đa.