Thứ Bảy, 4 tháng 3, 2023
Tạo blog
Thứ Tư, 17 tháng 8, 2022
"BÀN TAY" - BÀI THƠ CHỞ ĐẦY NỖI NHỚ
"BÀN TAY" - BÀI THƠ CHỞ ĐẦY NỖI NHỚ
(Phạm Đức Nhì
Bình Thơ Lê Hữu Minh Toán)
Mới đây anh Lê Hữu Minh
Toán, một bạn thơ ở Houston, nhân nhớ đến "người xưa", có gởi cho tôi
hai bài thơ lục bát cũ để đọc chơi. Đọc xong, tôi thích cả hai bài. Thấy bài
Bàn Tay nổi trội hơn nên nổi hứng viết mấy lời bình phẩm.
BÀN TAY
Bàn tay
níu lấy bàn tay
Nửa vòng trái đất gió quay
lệch chiều
Tay buông lỏng ngón đìu
hiu
Vực đêm cõng vết liêu xiêu
trăng mờ
Bàn tay
hong nến đợi chờ
Cơn mê chín muộn đêm ngờ
nghệch đêm
Phương người nắng lụa dịu
êm
Phương ta tuyết lạnh buồn
nghiêng phố buồn
Bàn tay
nối khúc cầu vồng
Nhịp đưa võng nhịp trôi từng
dặm xa
Dẫu đà trắng tóc sương pha
Tay trơn còn chở hương hoa
cuối miền?
(Lê Hữu Minh Toán)
Thể Thơ
Lục bát
Ngôn Ngữ Hình Tượng, Câu Cú
Ngôn ngữ đẹp một cách mềm
mại, hiền dịu nhưng cao sang, được tác giả chú tâm tuyển lựa kỹ càng.
Câu cú chắc, gọn ghẽ,
không có những chữ vô tích sự, ngồi không ăn bám.
Tứ Thơ
Qua hình ảnh "Bàn tay
níu lấy bàn tay" thi sĩ tâm tình với người xưa, cách nửa vòng trái đất, về
nỗi nhớ thương da diết của mình.
Bố Cục
Bài thơ có thể chia làm 3
đoạn:
1/
Bàn tay
níu lấy bàn tay
Nửa vòng trái đất gió quay
lệch chiều
Tay buông lỏng ngón đìu
hiu
Vực đêm cõng vết liêu xiêu
trăng mờ
"Bàn tay níu lấy bàn
tay" - không muốn chia xa - nhưng vì "gió quay lệch chiều" nên
phải cách nhau nửa vòng trái đất. Đành buông tay để thấy đời từ lúc ấy chỉ là vết
ánh trăng mờ liêu xiêu giữa bóng đêm dầy đặc. Ôi! Phải chia cách người yêu sao
mà buồn thế.
2/
Bàn tay
hong nến đợi chờ
Cơn mê chín muộn đêm ngờ
nghệch đêm
Phương người nắng lụa dịu
êm
Phương ta tuyết lạnh buồn
nghiêng phố buồn
Bởi "Phương ta tuyết
lạnh buồn nghiêng phố buồn" nên (lạnh và buồn) không ngủ được, cứ đưa
"Bằn tay hong nến đợi chờ"; chờ lâu quá, đến khi chợp mắt thì
"con mê chín muộn" giữa đêm trường "ngờ nghệch". Hình tượng
rất lạ và rất thơ.
3/
Bàn tay
nối khúc cầu vồng
Nhịp đưa võng nhịp trôi từng
dặm xa
Dẫu đà trắng tóc sương pha
Tay trơn còn chở hương hoa
cuối miền?
Bàn tay cong cong đưa lên
như đang nối với bàn tay của "người ta" thành khúc cầu vồng. Tiếc
thay, mỗi nhịp "cầu vồng đưa võng" là mỗi nhịp đưa người từng dặm
cách xa ta. Cuối cùng đành cất tiếng hỏi bâng quơ:
"Dẫu đà trắng tóc
sương pha
Tay trơn còn chở hương hoa
cuối miền?
Câu hỏi bâng quơ đó cũng
là mong ước của lòng ta.
Thật ra phân đoạn chỉ là
"thói quen" của người bình thơ để việc diễn giải tứ thơ được dễ dàng
mạch lạc chứ ở đây hình như tác giả không có ý đó.
Anh mặc cho đôi tay mềm mại,
uyển chuyển của mình và người xưa trình diễn "vũ điệu tình yêu" trên
"sân thơ" ngay từ bước nhảy đầu tiên cho đến khi buông tay cúi chào
khán giả ở "bến đỗ của tứ thơ". (Đúng ra nỗi nhớ mới là tâm điểm của
bài thơ nhưng phải chăng chính tình yêu là cội nguồn phát sinh ra nỗi nhớ?)
Nói khác đi, bài thơ nhất
khí liền mạch, tứ thơ như một dòng suối nhỏ - chầm chậm nhưng sinh động - chảy
từ câu đầu đến câu cuối.
Tâm Thế Của Thi Sĩ
Thi sĩ làm thơ trong tâm
thế "Share feelings with them" (Chia sẻ tâm tình với độc giả). Anh
háo hức muốn bộc lộ tâm tình của mình với người yêu, và dĩ nhiên, muốn chia sẻ
điều này với độc giả. Ở đây không có chỗ để nói lý lẽ hay tranh luận mà chỉ có
chất tình bàng bạc trong từng con chữ.
Với tâm thế này, nếu có
thêm vài điều kiện khác nữa, cảm xúc tầng 3 rất dễ tích tụ và lớn mạnh để tạo hồn
thơ.
Kỹ Thuật Thơ
Kỹ thuật lục bát nhuyễn, vần
uyển chuyển (cả chính vận lẫn thông vận) vừa độ ngọt. Có cả kiểu gieo vần tương
đối mới:
Bàn tay hong nến đợi chờ
"Cơn mê chín muộn đêm
ngờ nghệch đêm"
(gieo vần ở chữ đầu của
tĩnh từ, trạng từ ... kép).
Một chỗ nữa, theo tôi,
gieo vần rất độc đáo là 2 câu:
Bàn tay
nối khúc cầu vồng
Nhịp đưa võng nhịp trôi từng dặm xa
Cặp vần "vồng từng"
là thông vận xa. Không lạc vận nhưng vị ngọt của vần loãng đi khiến âm thanh
buông lơi vì giảm độ kết dính, rất tương hợp với câu thơ "Nhịp đưa võng nhịp
trôi từng dặm xa" - mỗi nhịp võng đưa là người với ta lại thêm một dặm dài
xa cách. (Dặm ở đây chỉ có ý nghĩa tượng trưng). Không biết do "tay nghề"
của thi sĩ hay nhờ may mắn. Nhưng dù gì đi nữa cũng làm tăng giá trị của 2 câu
thơ.
Dòng Âm Điệu
Có dòng âm điệu của thơ lục
bát êm êm, chậm rãi, thích hợp với tình cảm lãng mạn và sâu lắng.
Nhịp Điệu
Nhịp điệu của thơ lục bát
- đều đều nhưng chưa tẻ nhạt vì bài thơ ngắn.
Dòng Cảm Xúc
Có dòng cảm xúc nhưng rất
yếu, vì 3 lý do:
1/ Tác giả phân tâm để tìm
ngôn ngữ mới, hình tượng lạ nên tâm trạng háo hức lúc làm thơ bị sụt giảm cường
độ.
2/ Sức chảy của dòng âm điệu
chầm chậm, rất nhẹ
3/ Bài thơ ngắn, không có
"sóng sau dồn sóng trước"
Cảm Xúc
Cảm xúc tầng 1:
Độc giả có khoái cảm mạnh
nhờ ngôn ngữ, hình tượng đẹp, câu cú chắc gọn.
Cảm xúc tầng 2:
Tứ thơ không chia nhỏ như
những bài thơ khác mà là một khối thống nhất, một "vũ điệu tình yêu"
liên tục từ lúc mở màn cho đến khi kết thúc. Điều này khiến cảm xúc tầng 2 -
khoái cảm phát sinh từ thế trận của bài thơ - rất mạnh.
Cảm xúc tầng 3:
Có hồn thơ nhưng chỉ phơn
phớt nhẹ.
Vờn Bóng Giữa Sân
Huấn Luyện Viên của đội
bóng Bàn Tay không cho cầu thủ của mình vờn bóng giữa sân mà ngay từ tiếng còi
khai trận đã nhắm cầu môn đối phương thẳng tiến.
Như đã nói ở trên, dòng suối
thơ chảy không ngừng nghỉ từ khởi nguồn cho đến "bến đỗ"
Tựa
Tựa là "Chữ hoặc nhóm
chữ nói lên cốt tủy của toàn bài".Tác giả đặt cái tựa BÀN TAY có thể nói
là khéo, hợp với bài thơ.
Hai Câu Kết
"Dẫu đà trắng tóc
sương pha
Tay trơn còn chở hương hoa
cuối miền?"
là câu hỏi tạo cảm giác
vui sướng cho "người bên kia" và lưu lại ấn tượng đẹp trong lòng độc
giả.
Khuyết Điểm
Chữ "Vực" trong
câu "Vực đêm cõng vết liêu xiêu trăng mờ"
không sai nhưng, theo tôi, hơi cầu kỳ nên không "dễ tiêu" làm dòng chảy
của tứ thơ hơi "khựng".
Cái Nền Kỹ Thuật Của Bài Thơ BÀN TAY:
1/ Có dòng chảy tứ thơ: Nhờ
thơ nhất khí liền mạch.
2/ Có dòng âm điệu: Âm điệu
của thể thơ lục bát
3/ Nhịp điệu đều đều của
thơ lục bát nhưng chưa tẻ nhạt, nhàm chán là nhờ bài thơ ngắn
4/ Có dòng cảm xúc nhưng rất
yếu vì không có "sóng sau dồn sóng trước"
Tác giả có được Cái Nền Kỹ
Thuật này là nhờ may mắn chọn thể thơ lục bát. Nhưng thơ lục bát là con dao hai
lưỡi: Ngắn thì thiếu hơi, không đủ sức; dài quá thì ầu ơ, nhàm chán vần. Hơn nữa,
do thơ lục bát có quá nhiều vần bằng nên dòng cảm xúc yếu, cực kỳ khó để đẩy
thi sĩ đến chỗ "lạc thần trí", "cảm xúc sôi lên phủ mờ lý
trí" cho lời thơ hoàn toàn là tiếng lòng chân thật.
Kết Luận Chung Cuộc
Dù sao thì BÀN TAY cũng là
bài thơ thành công về khá nhiều mặt. Chỉ riêng nét đẹp văn chương nổi bật từ
ngôn ngữ, hình tượng, câu cú, thế trận đã giúp bài thơ có một chỗ đứng không đến
nỗi tệ trong vườn thơ.
Tuy hồn thơ chỉ phơn phớt
nhẹ và đường đến Bến Bờ Thi Ca vẫn còn xa nhưng nhà thơ Lê Hữu Minh Toán đã đi
đúng hướng. Hy vọng kinh nghiệm ở đây sẽ giúp anh vững vàng hơn. Không nói xa vời
mà chỉ cần trong những bài thơ sẽ viết của anh hồn thơ ngày càng cao hơn, mạnh
hơn hồn thơ trong thi phẩm BÀN TAY là những người yêu thơ chúng tôi cũng đã
vui, vui lắm.
Chúc anh ngày càng hứng
thú và thành công trên sân chơi thi ca.
Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
Cái Nền Kỹ Thuật Của Bài Thơ Không Phải Lục Bát
1/ Nhất khí liền mạch để
có dòng chảy tứ thơ.
2/ Vần cần đủ ngọt, cước vận
lên tiếp là chính để có dòng âm điệu.
(Có dòng chảy tứ thơ và
dòng âm điệu sẽ có dòng cảm xúc).
3/ Nhịp điệu: Thay đổi số
chữ trong câu để nhịp điệu lúc khoan lúc nhặt, uyển chuyển, sinh động, không đều
đều tẻ nhạt.
4/ Ngôn ngữ, hình tượng dễ
tiêu (hiểu cảm cùng một lúc), tránh mô gò cản đường.
5/ Không vờn bóng giữa sân
6/ Đủ dài để có "sóng
sau dồn sóng trước" tạo cao trào.
Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2022
VÀI CẢM NGHĨ VỀ BÀI THƠ "QUÊ HƯƠNG" CỦA GIANG NAM
QUÊ HƯƠNG
Thuở còn thơ ngày hai buổi
đến trường
Yêu quê hương qua từng
trang sách nhỏ:
"Ai bảo chăn trâu là
khổ? "
Tôi mơ màng nghe chim hót
trên cao
Những ngày trốn học đuổi
bướm cầu ao
Mẹ bắt được... chưa đánh roi nào đã khóc
Có cô bé nhà bên nhìn tôi
cười khúc khích
***
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc
khích
Mắt đen tròn (thương
thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không
nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu
nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi
***
Hoà bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi
mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói
lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn
ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự
thật
Giặc bắn em rồi quăng mất
xác
Chỉ vì em là du kích, em
ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người
Xưa yêu quê hương vì có
chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong
từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi
(Giang Nam)
Khoảng đầu năm 2022 một
người bạn ở Cali gởi cho tôi cái link để nghe ca khúc Quê Hương phổ thơ Giang
Nam của nhạc sĩ Hùng Nguyễn. Lời thơ khi chuyển thành ca từ đã được sửa chữa ít
nhiều. Trong đó "Cô bé nhà bên" thay vì "vào du kích" đã
thành "y sĩ chiến trường".
Và anh bạn hỏi: "'Y sĩ chiến trường' nghe được hơn phải không bạn?"
Câu hỏi làm tôi nổi hứng
tìm đọc lại bài thơ và viết mấy lời bình.
Thể Thơ:
Thơ Mới biến thể
Tứ Thơ:
Chàng bộ đội được tin người
yêu là cô du kích cạnh nhà bị giặc bắn quăng mât xác, đau xé lòng.
Ngôn Ngữ Hình Tượng:
Dân dã, đời thường, dễ cảm
nhưng chưa được chắt lọc lắm. Câu cú dễ hiểu nhưng chưa chắc gọn.
Kiếm Tông Hay
Khí Tông?
Phân mảnh đứt đoạn hay nhất
khí liền mạch?
Mới nhìn dễ lầm đây là bài
thơ viết theo lối Kiếm Tông, phân mảnh đứt đoạn. Bởi bài thơ có 5 đoạn mà cuối
mỗi đoạn đều thay ý, đổi vần. Nhưng đọc kỹ thì thấy tứ thơ vẫn có dòng chảy -
chính là dòng thời gian.
Dòng Tứ Thơ
Dòng tứ thơ là dòng thời
gian, lững lờ chảy qua 4 giai đọan của cuộc tình:
1/ Thuở còn thơ: Trốn học, mẹ chưa đánh đã
khóc, bị cô gái nhà bên cười khúc khích chế nhạo.
2/ Chàng đi bộ đội, em vào du kích, tình
yêu nảy nở cùng tiếng cười khúc khích dễ thương đó.
3/ Trở về quê gặp lại em, vẫn tiếng cười khúc khích ngày xưa và tình đã sâu đậm, chín mùi, chàng kín đáo tỏ tình và đã đưọc em chấp nhận.
4/ Nhận tin em bị giết, mất xác; đau xé lòng, chết nửa con người.
5/ Cảm xúc đột ngột thăng hoa: Yêu quê
hương vì từng nắm đất có xương thịt của người yêu.
Âm Điệu:
Bài thơ có lối gieo vần
khá bay bướm. Vần chân liên tiếp là chính. Nhưng để "thay đổi không
khí" và tránh hội chứng nhàm chán vần tác giả cũng có hai lần chơi vần
gián cách ở đoạn 2 và đoạn kết:
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
và:
Xưa yêu quê hương vì có
chim có bướm
Có những ngày trốn học bị
đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong
từng nắm đất
Có một phần xương thịt của
em tôi!
Ở đoạn 1 ông còn chơi thêm
vần lưng để ý thơ gắn bó và âm điệu ngọt ngào hơn.
Thuở còn thơ ngày hai buổi
đến trường
Yêu quê hương qua
từng trang sách nhỏ:
"Ai bảo chăn trâu là
khổ? "
Tôi mơ màng nghe chim hót
trên cao
Những ngày trốn học đuổi
bướm cầu ao
Mẹ bắt được... chưa đánh
roi nào
đã khóc!
Rất điệu nghệ. Ngọt ngào
mà vẫn không nhàm chán.
Nói chung, vần của bài thơ
Quê Hương vừa độ ngọt, như một chất keo nối kết các con chữ, hình tượng ở mỗi
đoạn một cách khéo léo. Có dòng tứ thơ nhưng là dòng thời gian nên tốc độ quá
chậm. Thời gian từ đoạn trước qua đoạn sau thường khá dài và cứ mỗi đoạn lại ngừng
nghỉ để lấy hơi và chuyển vần nên không có dòng âm điệu.
Nhịp Điệu:
Số chữ trong câu thay đổi
tương đối thoải mái với biên độ khá rộng nên nhịp điệu uyển chuyển, lúc khoan
lúc nhặt chứ không đều đều, tẻ nhạt.
Dòng Cảm Xúc
Không có dòng âm điệu nên
cảm xúc chỉ biết nương theo dòng tứ thơ mà trôi. Nhưng dòng tứ thơ lại quá chậm,
không có "sóng sau dồn sóng trước" nên đến cuối đoạn 3 cảm xúc tầng 3
cũng chi phơn phớt nhẹ vì không tạo được cao trào.
Những Câu Thơ Nổi
Bật
1/
Đơn vị đi
qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời
nhưng lòng tôi ấm mãi...
Không nói ra lời nhưng
tình yêu của anh bộ đội với cô du kích đã được thổ lộ một cách kín đáo và sâu sắc.
2/
Tôi nắm bàn
tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để
yên trong tay tôi nóng bỏng
Hai câu thơ là cách tỏ
tình và chấp nhận lời tỏ tình (không lời) thật độc đáo và dễ thương.
Tâm Thế Của Tác
Giả
Thi sĩ sáng tác bài thơ
Quê Hương khi vừa nhận tin người yêu bị bắn chết nên đau thương chất ngất. Lúc ấy
tâm thế thuộc loại "Get it off your chest" nghĩa là "Mở tim để nỗi
lòng, cảm xúc tuôn ra". Đây là loại tâm thế mạnh nhất, tốt nhất để làm
thơ.
Rất tiếc bài thơ không có
dòng âm điệu nên không có "sóng sau dồn sóng trước", không có cao
trào, rất khó tạo được hồn thơ.
May mắn thay, ông đã khéo
léo đưa chi tiết nhận tin dữ vào đoạn 4 (kế chót) nên nỗi đau thương quá lớn
khiến "cảm xúc thăng hoa" đột ngột phát sinh, và kết quả là, đã có một
đoạn kết mà hồn thơ đủ làm ấm lòng độc giả.
Cảm Xúc
1/ Cảm xúc tầng 1:
Do ngôn ngữ, hình tượng
dân dã, đời thường, dễ cảm nhưng chưa chắt lọc, câu cú dễ hiểu nhưng chưa chắc
gọn nên khoái cảm của độc giả khi tiếp cận với tầng 1 của bài thơ chỉ ở mức
trung bình.
2/ Cảm xúc tầng 2:
Bố cục của bài thơ theo
trình tự thời gian rất mạch lạc, chặt chẽ nên khoái cảm của độc giả khi tiếp cận
với tầng 2 của bài thơ rất cao - giống như được xem một đội bóng mà các tuyến
phối hợp nhịp nhàng, lên công về thủ hợp lý, hiệu quả.
3/ Cảm xúc tầng 3:
Do không có dòng âm điệu,
không có sóng sau dồn sóng trước, không tạo được cao trào nên đến cuối đoạn 3
mà cảm xúc tầng 3 vẫn chỉ phơn phớt nhẹ. Nhưng đến đoạn 4 và đoạn 5 tình thế đã
đổi khác.
Cảm Xúc Thăng
Hoa
Khi dòng tứ thơ bước qua
đoạn 4:
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự
thật
Giặc bắn em rồi quăng mất
xác
Chỉ vì em là du kích, em
ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa
con người!
là lúc nỗi đau thương đã
dâng lên cao ngất vì mất mát quá lớn.
Và bắt đầu từ đoạn 5:
Xưa yêu quê hương vì có
chim có bướm
Có những ngày trốn học bị
đòn roi...
Nay yêu quê hương vì trong
từng nắm đất
Có một phần xương thịt của
em tôi.
dù không có "sóng sau
dồn sóng trước" nhưng cảm xúc đã đột ngột tăng lên khá mạnh. Đây là trường hợp đặc biệt. Cảm xúc tầng 3
thăng hoa, vượt ra ngoài tiến trình lớn mạnh thông thường, cho tình yêu đôi lứa
hòa quyện với tình yêu quê hương. Hồn thơ phát sinh và lan tỏa, tuy không thật
mạnh nhưng cũng đủ làm ấm lòng độc giả.
Theo tôi, đây là đoạn hay
nhất của bài thơ.
Khuyết Điểm
Bài thơ có 3 khuyết điểm,
đều là lỗi kỹ thuật:
1/ Trong câu "Có cô bé nhà bên" ở đoạn đầu, chữ "Có"
không cần thiết, có thể bỏ đi.
2/ Chữ "tôi" trong câu 3 đoạn 2
"Quê tôi đầy bóng giặc"
Điệp ngữ với câu kế tiếp:
"Từ biệt mẹ tôi đi"
Thay chữ "tôi"
(câu 3) bằng chữ "hương" vừa tránh được điệp ngữ vừa hợp với tứ thơ
hơn.
"Quê hương đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi"
3/ Trong câu "Không
tin được dù đó là sự thật", chữ
"đó" thừa, có thể bỏ đi mà câu thơ vẫn trọn nghĩa.
Trong bài Nhà Thơ Giang
Nam: Yêu Quê Hương Qua Từng Trang Sách Nhỏ của tác giả P.K đăng trên báo Công
An Nhân Dân Online ngày 19/05/2011 có đoạn:
Sinh thời nhà phê bình
Hoài Thanh mặc dù thừa nhận Giang Nam có những bài thơ hay, song cũng phải nghiêm
khắc nhắc nhở “Ngòi bút Giang Nam có khi quá dễ dãi”
Với những bài thơ làng
nhàng thì không nói làm gì, nhưng với bài thơ có giá trị nghệ thuật như Quê
Hương mà để 3 lỗi kỹ thuật ấy thì thật đáng tiếc.
Tóm Tắt Kỹ Thuật
Thơ
Vần vừa độ ngọt - câu thơ
mềm mại nhưng không có hội chứng nhàm chán vần.
Nhịp điệu uyển chuyển, lúc
khoan lúc nhặt chứ không đều đều tẻ nhạt.
Tứ thơ có dòng chảy là
dòng thời gian - rất chậm
Không có dòng âm điệu.
Dòng cảm xúc bám theo dòng
tứ thơ nên khó tăng tốc, lớn mạnh.
Nhờ có nỗi đau thương, mất
mát quá lớn đến bất ngờ nên cảm xúc đột ngột thăng hoa, hồn thơ ở đoạn kết khá
mạnh làm ấm lòng độc giả.
Ba lỗi kỹ thuật làm giảm vẻ
đẹp của mấy câu thơ.
Kết Luận:
Quê Hương của Giang Nam là
bài thơ có giá trị nghệ thuật cao. Tứ thơ và bố cục có nét riêng, gây ấn tượng
đẹp cho giới thưởng ngoạn.
Xin được nói lời cám ơn tới
anh bạn phương xa đã gởi đến cái link và câu hỏi "têu tếu" mà nhờ đó
tôi đã tìm đọc lại một bài thơ hay rồi nổi hứng viết được mấy lời bình ưng ý.
Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com
Phần Viết Thêm 1
Những năm cải tạo tôi đã
nhiều lần được nghe bài thơ Quê Hương của Giang Nam không biết được ai đó phổ
nhạc trong các chương trình văn nghệ do trại tổ chức. Nhạc sĩ khi phổ nhạc đã đổi
"du kích" thành "bộ đội" (sau đó là "chiến sĩ").
"Cô bé nhà bên (có ai
ngờ) cũng vào bộ đội (thay cho "du kích")
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc
khích
Mắt đen tròn (thương
thương quá đi thôi!)"
...........
"Giặc bắn em rồi
quăng mất xác
Chỉ vì em là chiến sĩ, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa
con người!"
Việc thay đổi như vậy đã
giúp ca từ ăn khớp với âm điệu của dòng nhạc nhưng đã có mấy hậu quả không tốt:
1/ Tiếng cười khúc khích
hòa quyện với âm vang của hai chữ "du kích" đã tạo thành "nhóm
âm thanh" đặc trưng, duyên dáng của bài thơ. Đổi "du kích" thành
"bộ đội" sẽ mất đi cái nét đặc trưng, duyên dáng đó.
2/ Tác giả "Từ biệt mẹ
tôi đi" và "Cô bé nhà bên (có ai ngờ) cũng vào du kích". Nhóm chữ
"có ai ngờ" có ý nói cô bé còn hơi quá trẻ mà không ngờ đã mạnh dạn dấn
thân. Nét hồn nhiên, ngây thơ của cô bé khiến mối tình của hai người nên thơ
hơn.
Mất hai chữ "du
kích" sẽ làm mờ nhạt cái nét hồn nhiên, ngây thơ của cô bé và mối tình nên
thơ của hai người.
3/ Nếu "cô bé"
là bộ đội, đã mặc quân phục, cầm súng thì ở chiến trường "cô không giết đối
phương thì đối phương giết cô". Đó là chuyện bình thường.
Nhưng nếu "cô
bé" là du kích thì lại là chuyện khác. Du kích là mặt chìm (có thể gây nhiều
thiệt hại cho quân địch), còn mặt nổi, trước bàn dân thiên hạ, cô bé vẫn là
"dân", mà lại là thiếu nữ (vị thành niên) chứ chưa phải người dân trưởng
thành.
"Giặc giết em rồi
quăng mất xác", trước công luận sẽ là một tội ác lớn. Sẽ có rất nhiều người
đồng tình lên án bọn "Giặc" đó. Và bài thơ sẽ là một tuyệt chiêu
tuyên truyền cho chính nghĩa của phe Cách Mạng.
Mất 2 chữ "du
kích", về mặt chính trị, bài thơ không còn là thứ vũ khí lợi hại đó nữa.
Năm 2020 trên Youtube cũng
xuất hiện bản nhạc Quê Hương phổ thơ Giang Nam của nhạc sĩ Hùng Nguyễn do chính
tác giả hát. Trong phần ca từ nhạc sĩ đã nâng cấp cho cô du kích thành "y
sĩ chiến trường" ("mượn" ý bài Căn Nhà Ngoại Ô của Anh Bằng):
"Nào có ai ngờ cô bé
nhà bên
nay là y sĩ chiến trường"
Độc giả có thể nghe bản nhạc
theo link sau đây:
https://www.youtube.com/watch?v=Z-ZXiyt8lcc
"Anh bạn phương
xa" thấy" đấy, cũng giống trường hợp trên, nhóm chữ "y sĩ chiến
trường" không những không "nghe được hơn" mà còn làm giảm giá trị
của bài thơ - cả về phương diện nghệ thuật lẫn chính trị - rất nhiều.
Điểm Còn Tranh
Cãi
Đoạn kết của bài thơ có 4
câu:
Xưa yêu quê hương vì có
chim có bướm
Có những ngày trốn học bị
đòn roi...
Nay yêu quê hương vì trong
từng nắm đất
Có một phần xương thịt của
em tôi.
Một số người cho rằng
Giang Nam không đưa 2 chữ "tôi" vào câu 1 và câu 3 vì sợ điệp ngữ với
chữ "tôi" cuối đoạn.
Có vài ý kiến khác biệt:
Ý kiến 1:
Nên thêm 2 chữ
"tôi" vào câu 1 và câu 3:
Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị
đòn roi...
Nay tôi yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của
em tôi.
để xác định đó là tâm tình
của nhà thơ chứ nếu không độc giả sẽ hiểu lầm là nhà thơ muốn từ nỗi mất mát đau thương của mình ở đoạn 4 để
kêu gọi mọi người cùng:
Xưa yêu quê hương ...
và:
Nay yêu quê hương ...
giống suy nghĩ của mình.
Ý kiến 2
Không sợ hiểu lầm là kêu gọi
chung như vậy vì nhóm chữ "trốn học bị đòn roi" đã cho biết đây là
"hoàn cảnh riêng" của tác giả rồi.
Ý kiến 3 (có
Phạm Đức Nhì)
Nên đưa 2 chữ "tôi" vào:
Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn
roi...
Nay tôi yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của
em tôi.
Lý do:
a/ Khẳng định đây là tâm tình của tác giả
b/ Đọc nhóm chữ "trốn học bị đòn
roi" để hiểu đây là "hoàn cảnh riêng của tác giả" phải cần đến
lý trí. Mà đoạn kết có hồn thơ khá mạnh, cho nên cần câu chữ thuộc loại "dễ
tiêu" chứ không phải chỉ "dễ hiểu" hoặc "có thể hiểu được".
Vì "hiểu" phải cần lý trí; mà lý trí xuất hiện thì hồn thơ sẽ trốn mất
hoặc yếu đi.
c/ Không sợ điệp ngữ vì 3 chữ "tôi" giúp nhấn mạnh tâm tình riêng tư của tác giả.
Chính vì đây là điểm còn
tranh cãi nên tôi không đưa vào phần khuyết điểm mà để tùy độc giả thẩm định.
Phần Viết Thêm 2
KHÓC NHẦM
Bài viết Vài Cảm Nghĩ Về
Bài Thơ "Quê Hương" Của Giang Nam của tôi (PĐN) xuất hiện trên FB được
khoảng một tuần thì tôi tình cờ đọc được trên trang Bảo Tàng Văn Hóa Việt Nam
bài viết Đi Tìm "Cô Bé Nhà Bên" Trong
Thơ Giang Nam.
Bài viết này đã rọi chút
anh sáng vào hai nhân vật:
1/ "Cô gái nhà
bên" trong bài thơ Quê Hương
2/ Bà Phạm Thị Chiều, vợ
nhà thơ.
Sự khác biệt của 2 nhân vật
này đã thôi thúc tôi tìm đọc thêm nhiều bài khác về bài thơ đặc biệt này để làm
tư liệu.
Nhận Diện Nhân Vật Trung Tâm Của Bài Thơ
Những câu thơ quan trọng để
nhận diện Nhân Vật Trung Tâm của bài thơ:
Đoạn 1:
Có cô bé nhà bên nhìn tôi
cười khúc khích
Đoạn 2:
Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
cũng vào du kích
Đoạn 3:
“Lại gặp em”
thẹn thùng nép sau cánh cửa
“vẫn khúc khích cười” khi
tôi hỏi nhỏ
Đoạn 4:
Giặc bắn em rồi quăng mất
xác
chỉ vì em là du kích em ơi
Đoạn 5:
Xưa yêu quê hương vì có
chim có bướm
có những ngày trốn học bị
đòn roi
Như vậy, nhân vật trung tâm của bài thơ là “cô bé nhà bên thuở còn thơ và sau này trở thành du kích”.
Bóng hình cô du kích với nụ cười khúc khích không chỉ bàng bạc mà tràn ngập bài
thơ.
Ở đoạn cuối, thoạt nhìn chẳng
thấy cô du kích nào nhưng đọc 2 câu:
"Xưa yêu quê hương vì
có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị
đòn roi..."
thì hình ảnh cô du kích
(thuở còn thơ) lại hiện ra rõ mồn một. Ngay cả từng nắm đất quê hương trộn lẫn
"một phần xương thịt của em tôi" thì "em tôi" cũng là cô du
kích chứ không thể là ai khác.
Hình bóng cô du kích không
phải chỉ ẩn hiện trong vài câu, vài đọan mà quyện chặt vào, thấm đẫm vào từng
câu, từng chữ (34 câu, 256 chữ) của bài thơ.
Sau đây là
vài ghi nhận từ những bài viết liên quan:
1/ Vợ Nhà Thơ
Giang Nam Không Phải Là "Cô Bé Nhà Bên"
Theo Wikipedia thì:
Giang Nam quê quán xã Ninh
Bình, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; cô Phan Thị Chiều (các trang khác đều ghi
là Phạm), vợ nhà thơ, quê ở Cửa Bé, phường Vĩnh Trường, Nha Trang.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giang_Nam_(nh%C3%A0_th%C6%A1)
Hai nhà cách nhau rất xa,
nên xét về mặt địa lý cô Phạm Thị Chiều không phải là "Cô bé nhà bên"
trong bài thơ của ông.
Cũng theo Wikipedia:
"Ông gặp cô Chiều
xinh đẹp nhất ở Văn phòng Tỉnh ủy Khánh Hòa hồi ấy đóng tại vùng núi giáp ranh
Khánh Hòa, Phú Yên."
Như vậy, lúc ông gặp cô
Chiều thì cô đã trưởng thành (nhân viên Văn phòng Tỉnh ủy Khánh Hòa) - nghĩa là
thuở còn thơ hai người không hề biết nhau, không có chung những kỷ niệm
"người này trốn học bị đòn, người kia cười khúc khích" và mối tình
"yêu xa" cũng không hề xảy ra.
2/ Cô Chiều, Vợ
Nhà Thơ, Không Phải Là Du Kích
Trong bài Đi Tìm "Cô Bé Nhà Bên"
Trong Thơ Giang Nam, khi người phỏng vấn thắc mắc:
"Nội dung bài thơ hầu
như rất ít ăn nhập với nhân vật thật là người vợ, vì lời thơ không hề có bóng
dáng thấp thoáng của vợ con, của hôn nhân, mà chỉ là cảm hứng từ tình cảm trai
gái thoáng qua, yêu trộm nhớ thầm, sau mới gặp hung tin…"
Nhà thơ cười hóm hỉnh:
“Chất liệu để xây dựng
hình ảnh cô du kích trong bài thơ phần lớn lấy từ nguyên mẫu người vợ tôi nhưng
không phải nguyên mẫu hoàn toàn”.
Cụ kể thêm:
"Ở đó còn có hình ảnh,
câu chuyện của nhiều cô du kích khác mà mình từng gặp, từng công tác chung trên
đường chiến đấu".
https://baotangvanhoc.vn/cau-chuyen-nha-van/di-tim-co-be-nha-ben-trong-tho-giang-nam/
Trong đoạn này chính nhà
thơ đã xác nhận vợ ông không phải là du kích.
Nhóm chữ “phần lớn lấy từ
nguyên mẫu người vợ tôi” mà nhà thơ trả lời phỏng vấn là không thật, không ăn
khớp với nội dung bài thơ.
3/ Cô Phạm Thị
Chiều, Vợ Nhà Thơ, Là Đảng Viên
Trong bài Những Bí Ẩn Của
Tác Giả Và Bài Thơ Quê Hương có đoạn:
Về lai lịch bài thơ Quê
Hương, nhà thơ Giang Nam kể:
Bài thơ ấy nói về người
tôi yêu Phạm Thị Chiều. Tôi gặp Chiều ở khu căn cứ miền rừng. Một người con gái
xinh đẹp và là đảng viên.
https://suckhoedoisong.vn/nhung-bi-an-cua-tac-gia-va-bai-tho-que-huong-169167859.htm
Nhà thơ đã cung cấp thêm một
chi tiết: Khi gặp nhau ở khu căn cứ miền rừng cô Phan Thị Chiều đã là đảng
viên.
Nhà thơ Giang Nam lại một
lần nữa nói không thật. Bài thơ Quê Hương – như đã phân tích trong phần Nhận
Diên Nhân Vật Trung Tâm Của Bài Thơ - chỉ
nói về “cô du kích”, không có chỗ nào nói đến người ông yêu Phạm Thị Chiều hết.
4/ Vợ Chồng
Chung Sống Và Có Con
Cũng trong bài Đi Tìm
"Cô Bé Nhà Bên" Trong Thơ Giang Nam, có đoạn:
Duyên phận đưa đẩy họ đoàn
tụ tại Đồng Nai.
“Chúng tôi thuê căn nhà lá
nhỏ trong một xóm lao động nghèo ở Biên Hòa để ở. Hằng ngày vợ tôi đi bán bánh
bò ngoài chợ, còn tôi làm thuê cho một tư sản thầu khoán người Việt. Người con
gái đầu lòng của tình yêu ra đời.”
Hai người đã có những
tháng ngày chung sống, tuy nghèo nhưng hạnh phúc, sinh con trong hoàn cảnh gia
đình thấm đẫm yêu thương.
Và đây là đoạn ông nhận được
tin dữ:
Tôi nghe tin mà choáng
váng như trời sập. Những kỷ niệm cũ, tình yêu e ấp, vụng dại, những giận hờn và
buổi chia tay đầy nước mắt, cả hai mẹ con cô ấy đều khóc ròng… Tất cả như sống
dậy xót xa, nhức nhối và rõ ràng cứ như mới xảy ra hôm qua.
Tôi đã viết bài thơ Quê
hương trong tâm trạng đau đớn tột cùng ấy.
Kỷ niệm đẹp quá, “tình yêu
e ấp vụng dại dễ thương quá”, đau đớn dâng lên cao quá, nhưng bài thơ Quê Hương
không có một chữ nào nói đến quãng đời quan trọng này, đến những kỷ niệm đẹp, dễ
thương này. Đoạn trả lời phỏng vấn của nhà thơ Giang Nam ở trên không có tý sự
thật nào hết.
Kết Luận
Kết thúc cuộc phỏng vấn,
hai phóng viên Thái Lộc và Duy Thanh của Báo Tuổi Trẻ Online đã viết:
Trước chúng tôi cũng có
người đến hỏi “Cô Bé Nhà Bên là ai?” Và mai này chắc vẫn còn người thắc mắc khi
ngâm nga bài thơ tràn đầy cảm xúc yêu thương, bi tráng.
Không biết giờ này câu hỏi
“Cô Bé Nhà Bên là ai?” đã có người nào tìm được câu trả lời hay chưa?
Nhưng sau khi phân tích để
nhận diện nhân vật trung tâm của bài thơ rồi đọc mấy bài trả lời phỏng vấn báo
chí của nhà thơ tôi đành phải kết luận:
Nhà thơ
Giang Nam viết bài thơ Quê Hương để khóc thương vợ con nhưng không biết vì sao
ông lại vô ý khóc thương nhầm một người khác.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
Thứ Tư, 3 tháng 8, 2022
HƯỚNG ĐI CỦA THƠ
Bài 1
GÓP Ý VỚI CUỘC ĐỐI THOẠI "THẾ NÀO THÌ GỌI LÀ THƠ?"
1/ Nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, đến từ bề mặt của ý thức; tâm của tác giả chưa có cơ hội đối diện với, hoặc bước vào, khung cảnh của bài thơ.
1/
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
Không làm các việc ác
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Thân như bóng chớp có rồi không
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không
Để nhờ không khí đẩy lên trăng
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi
Để hớp tinh anh của nguyệt cầu
Và để thoát ly ngoài thế giới
Để cười, để trững, để yêu nhau.
Con ếch tung mình xuống
Và vang tiếng nước xao
(Bashô)
THƠ CON CÓC CÓ PHẢI LÀ THƠ?
Bài thơ Đồng Dao Cho Người Lớn của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, theo em thấy nó "khô" quá. Vậy có phải là thơ không anh?
BÀI 4
THI SĨ CÓ XẠO KHÔNG?
Người Đời Thường Gian Dối
Tôi học Đệ Nhất ở Lý Thường Kiệt, một trường trung học công lập quận Hốc Môn, nhưng vì nghe tiếng giáo sư Trần Bích Lan nên thỉnh thoảng cũng “vù” lên trường Văn Học ở Sài Gòn học ké mấy giờ Triết. Phải công nhận thi sĩ Nguyên Sa giảng Triết nghe đã thiệt. Có lần, không nhớ trong bài nào, thầy phát biểu:
“Do tính sĩ diện nên người đời thường gian dối; mở miệng ra là vơ cái hay, cái tốt về mình; ngay cả khi tiết lộ một chút gì xấu của cái Tôi là cũng muốn chứng tỏ mình thành thật.”
Sau khi “mất” Khánh Ngọc, Phạm Đình Chương đã sáng tác nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau trong đó có câu:
“Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin những người, ôi những người khóc lẻ loi một mình”.
Ý nhạc sĩ muốn nói chỉ những người khóc lẻ loi một mình (như ông đang khóc Khánh Ngọc) mới đáng tin là có nỗi đau buồn chân thật.
“Bởi đàng sau những giọt nước mắt
giữa đám đông
rất có thể
ẩn hiện bóng hình
loài cá sấu.”
(Kẻ Giết Chết Hồn Thơ, Phạm Đức Nhì, vandanviet.com)
Nhưng nhiểu trường hợp người ta còn dàn cảnh để “con mồi” được tận mắt xem tấn tuồng “khóc lẻ loi một mình” rồi tin và hiên ngang bước vào bẫy. (1)
Phạm Đình Chương, khi viết Nửa Hồn Thương Đau, không ngờ rằng ngay cả tiếng khóc lúc lẻ loi cũng có thể sản sinh những giọt nước mắt cá sấu. Tính gian dối của người đời sâu đậm đến như thế đấy.
Thi Sĩ Có Xạo Không?
Trở lại buổi học Triết với thầy Trần Bích Lan. Lúc ấy, vốn có tiếng nghịch ngợm lại bạo mồm, tôi ngồi tại chỗ “hỏi chõ” lên:
“Thế thi sĩ có xạo không thầy?”
Thầy nhìn về hướng tôi ngồi, trả lời tỉnh bơ:
“Có chứ, sao lại không! Khác nhau là cố ý hoặc vô tình.”
Không ngờ mấy chục năm sau, vướng “đậm” vào cái nghiệp thi ca, tôi lại phải trả lời câu hỏi của chính mình. Không biết lúc ấy thầy Trần Bích Lan trả lời thật hay đùa; tôi cũng không có cơ hội để hỏi thầy đến nơi, đến chốn.
Nhưng đọc khá nhiều thơ, thỉnh thoảng lại chất vấn tâm hồn mình – cũng là người múa bút làm thơ – tôi thấy quả đúng như thầy nói, thi sĩ nhiều người, nhiều lúc cũng “xạo tới bến”.
Tại Sao Thi Sĩ Xạo?
Lý do cũng dễ hiểu. Người đời trong giao tiếp hàng ngày, đôi lúc ở chỗ này chỗ khác, nói năng có điều gì thất thố, có xúc phạm ai thì cũng chỉ một số ít người biết. Sau đó lời nói sẽ bay đi như gió thoảng.
Còn thi sĩ, bài thơ xuất xưởng là sẽ vượt khỏi sự kiểm soát của mình, nếu sai sót điều gì hoặc đụng chạm đến ai đó, hậu quả của những dòng thơ trên giấy trắng mực đen sẽ đọng lại rất lâu.
Cho nên đặt bút viết phải cẩn trọng. Cẩn trọng sẽ mời gọi lý trí. Có lý trí xuất hiện, thi sĩ - dù muốn dù không – cũng sẽ Xạo.
CHÚ THÍCH
1/ Trong Cô Gái Đồ Long của Kim Dung tên Trường Linh đã giả vờ khóc trước bàn thờ Tạ Tốn để lừa Trương Vô Kỵ, hy vọng được Vô Kỵ tin tưởng dẫn ra Băng Hỏa Đảo.
BÀI 5
CÁC KIỂU XẠO CỦA THI SĨ
1/ Xạo Vì Ham Danh Lợi, Sắc Dục
Đây là kiểu xạo theo đúng nghĩa đen của từ “xạo” – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật - nhằm mưu cầu danh lợi, thỏa mãn sắc dục. Thi sĩ nếu vướng vào kiểu xạo này không chỉ làm mất đẹp thanh danh của mình mà còn làm ô uế chữ Thơ (viết hoa) trong sạch, cao quý của nhân loại.
Phạm tội hình sự nhiều khi có thể “qua mặt” pháp luật chứ phạm tội cố ý xạo (vì danh lợi) trong thơ thì sớm muộn gì cũng bị vạch mặt, chỉ tên.
2/ Xạo Vì Sợ, Vì Hèn, Vì Teo Chim
Đây cũng là kiểu xạo theo đúng nghĩa đen của từ “xạo” – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật. Thi sĩ để “cái tôi teo chim” lấn át “cái tôi văn hóa” và “cái tôi đích thực”. Biến chứng của nó là thái độ “nâng bi” chế độ, lãnh tụ, cấp trên - những người có quyền quyết định sự an nguy, thăng tiến hoặc tụt hậu của mình và gia đình.
Giữa “cái tôi văn hóa” và “cái tôi teo chim” thì “cái tôi teo chim” mạnh hơn, có uy thế hơn nhiều. Nghĩ đến chết chóc, tù đày, gia đình bị tước đoạt mọi phương tiện, nguồn sống, ngòi bút của thi sĩ đôi lúc phải cong lại hoặc vừa viết lại vừa phải “lách”. Cái xấu phủ đến đen mặt thì lờ đi, cái tốt thì có ít xít ra nhiều, nếu không có thì bịa ra, “bốc thơm” đến tận trời xanh. Thí dụ cụ thể về kiểu xạo này không thiếu nhưng tôi không trích dẫn. Sợ bị trách nặng tay bên này, nhẹ tay bên kia.
Làm thơ mà xạo là không đẹp. Trước tiên, nó làm mất đẹp thanh danh của mình. Sau nữa còn làm ô uế chữ Thơ (viết hoa) trong sạch, cao quý của nhân loại. Tuy nhiên, xạo vì teo chim dù sao cũng có chỗ để châm chước, thông cảm. Sống trong hoàn cảnh bó buộc như thế đâu phải ai cũng có máu anh hùng.
3/ Xạo Vì Đứng Về Một Phía Của Một Vấn Đề Hai Mặt
Đây là kiểu xạo “xoay trở tứ thơ” để có góc nhìn thuận lợi cho phe mình, mục đích để giành chiến thắng trong một cuộc tranh luận. Chủ thể đối luận có thể trực tiếp tranh cãi nhưng cũng có thể vắng mặt để thi sĩ một mình một chợ dàn trải quan điểm của mình. Đây là kiểu xạo
còn phe bên kia
phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu.
Kiểu xạo này rất thường gặp, dính líu đến lập trường, quan điểm, được cả thi sĩ và độc giả chấp nhận. Dĩ nhiên, nó đỡ xấu hơn xạo vì danh lợi riêng tư.
4/ Xạo Vì Xê Dịch Kịch Bản Của Bài Thơ
Kịch Bản Thơ
Đã làm thơ, khi chữ nghĩa cùng với cảm xúc tuôn ra, chúng phải “chảy” về một hướng nào đó, bằng một “con kênh” nào đó. Con kênh có thể có trước, cũng có thể xuất hiện cùng thời điểm lúc chữ nghĩa và cảm xúc tuôn ra. (Trường hợp sau thì thơ dễ có hồn hơn).
Trong thực tế, ít ai từ lúc cầm bút viết những chữ đầu tiên của bài thơ cho đến khi buông bút là có “đứa con tinh thần” chào đời. Có khi ngày hôm sau, tuần sau, nhiều trường hợp còn lâu hơn nữa, phải quay trở lại tiếp tục công việc đang bỏ dở. Lúc ấy, đoạn sau phải viết sao cho ăn khớp với đoạn trước và phải phù hợp với bức tranh toàn cảnh của bài thơ.
Có điều chắc chắn rằng khi bài thơ hoàn tất, cả thi sĩ và người đọc sẽ nhận ra – có thể độ đậm nhạt khác nhau - hình ảnh của con kênh đó. Đó chính là bố cục mà riêng tôi có khi gọi là thế trận chữ nghĩa, hoặc kịch bản của bài thơ.
Kịch Bản Xê Dịch
Xin lập lại một đoạn trong bài viết khác:
Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện.
Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy.
Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được. (1)
Chúng ta thử đọc đoạn kết bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:
Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Tôi không tin là trong thực tế, con số chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn.
Ở đây thủ pháp “bộc lộ, không kể” (Show, Don’t Tell) được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời.
Chắc Độc giả cũng đồng ý với tôi sự xê dịch kịch bản chút ít của Giấc Mơ Anh Lái Đò là có thể chấp nhận được.
Trường hợp này khác với “lối nói thậm xưng” tôi sẽ đề cập ở phần sau.
Kịch Bản Xê Dịch Quá Nhiều Thành Xạo
Nhưng đôi khi có những kịch bản bị xê dịch quá nhiều, đi đến chỗ không hợp tình, hợp lý. Độc giả sẽ cho rằng thi sĩ “xạo”, và bài thơ thất bại.
Bài thơ Tình Yêu Không Lời của thi sĩ Phạm Trung Dũng có tứ thơ khá lạ và cảm động về mối tình của một chàng trai với cô gái câm điếc. Nhưng kịch bản của bài thơ đã được tác giả nêm nếm quá tay.
TÌNH YÊU KHÔNG LỜI
Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái nhành tim tím sang nhà em chơi
Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu...
Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi
Lặng yên... Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ.
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao thì cháy hết mình vẫn trao.
Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?
Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy, em ngồi lặng im.
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm.
Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ.
Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi.
(Phạm Trung Dũng)
Là hàng xóm sát mái, kề hè với nhau mấy tháng trời - có khi cả năm - (mấy mùa cây khế trổ hoa), lại sang nhà cô chơi mấy lần mà phải chờ đến khi hai người “tò tí” xong, đọc mẩu giấy cô gái nhét vào tay, mới biết cô gái bị câm điếc và bàng hoàng thương cảm, thì thật không thể nào tin nổi.
Phạm Trung Dũng không những chỉ nêm nếm quá tay mà – trong quá trình làm thơ và kiểm soát lại trước khi phổ biến – anh đã tự bịt mắt mình để không thấy những điều phi lý lẽ ra phải thấy.
Khi nhận ra chi tiết chính trong kịch bản của bài thơ không phải chỉ “không hợp tình hợp lý” mà còn xạo một cách trắng trợn, cảm xúc có được qua việc đọc thơ chỉ là thứ cảm xúc giả tạo, độc giả cảm thấy bẽ bàng vì bị xúc phạm. Bài thơ thất bại một cách ê chề.
CHÚ THÍCH:
1/ (Giấc Mơ Anh Lái Đò Hay Mối Tình Vô Vọng, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com)
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/giac-mo-anh-lai-o-hay-moi-tinh-vo-vong_1.html
5/ Xạo Nghệ Thuật - Lối Nói Thậm Xưng
Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (1)
Thí dụ:
Trong bài thơ Muốn Gởi Cho Em của thi sĩ Phạm Hữu T (tặng Phượng Kim Ngọc Huỳnh) thì câu:
Muốn gởi cho em
chút gió biển Galveston
là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galveston (ở Mỹ) làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có lý trong nghệ thuật”.
Gió từ Mỹ gởi về:
để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.
Có lý quá đi chứ! Và hai câu kế tiếp:
nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát
rồi bồi hồi
nhớ nhớ thương thương.
vừa trữ tình lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo Lụa Hà Đông - lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ mở đầu thật tuyệt vời. (2)
(Xin mở ngoặc nói thêm: Bài thơ là của Phạm Hữu T với cái tựa Muốn Gởi Cho Em; thí dụ trên được trích trong bài bình thơ Mối Tình Xuyên Lục Địa của PĐN)
Đây là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, nâng cao giá trị của bài thơ.
Xạo Nghệ Thuật – Ca Từ Trịnh Công Sơn
Nhiều người khen ca từ của Trịnh Công Sơn nhiều câu hay hơn cả thơ. Tôi chọn câu sau đây trong bài Như Cánh Vạc Bay:
Tóc em từng sợi nhỏ
rớt xuống đời làm sóng lênh đênh
Ôi! Chỉ có mấy sợi tóc nàng rớt xuống – không phải xuống hồ hay sông, biển - mà là xuống đời cũng đủ làm đời “dậy sóng”, làm biết bao phận người chao đảo, ngả nghiêng. Làm sao mà thực được. Nhưng lại rất đẹp, rất “thơ” và rất tuyệt. Nghe rất khoái, rất đã.
Tôi có cảm tưởng, bằng câu ca từ trên (và một số câu khác nữa), TCS không làm thơ nhưng ca từ của ông – không những đẹp hơn, hay hơn – mà hình như đã bước lên một tầng bậc mới, cao hơn hẳn thứ ngôn ngữ thường thấy ở trong thơ.
CHÚ THÍCH
1/ Diên Hồng Dương, Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ Xạo” https://www.facebook.com/dienhong.duong.5/posts/98668014146907
2/ Mối Tình Xuyên Lục Địa
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/06/moi-tinh-xuyen-luc-ia.html
Bài 6
KIỂU XẠO CUỐI CÙNG - XẠO VÌ NÉ TRÁNH "CĂN PHÒNG BÍ MẬT"
Câu Hỏi Làm Thi Sĩ Nhìn Kỹ Lại Tâm Hồn Mình
Giả sử có một thi sĩ nào đó, không có tật nói dóc, không thích “nổ”, viết bài thơ, tứ thơ không kẹt chân ở một bên nào đó của một vấn đề hai mặt, câu hỏi được đặt ra là: “Lúc ấy thi sĩ có xạo không?”
Sau đây là một đoạn trích từ một bài viết của tôi (PĐN): (
Để có thể hội nhập và thích ứng với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều.
Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có hai cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: “Cái tôi đích thực” và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là “cái tôi văn hóa”.
Tuổi đời càng cao “cái tôi văn hóa” càng mạnh, càng rõ nét và “cái tôi đích thực” càng yếu kém, càng mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia.
“Cái tôi văn hóa” (cái tôi để sống với xã hội) và “cái tôi đích thực” có một sự khác biệt lớn. Đó chính là những gì tiềm ẩn trong vô thức (của “cái tôi văn hóa”), kín đáo điều khiển suy nghĩ và hành động của con người. Cho nên mặc dù thi sĩ 100% chân thật với “cái tôi văn hóa”, viết bài thơ (về tình yêu, chẳng hạn) không nằm ở bên nào của một vấn đề hai mặt, bài thơ đó cũng chưa phải là tâm tình của “cái tôi đích thực”, vì vẫn còn những điều đã ăn sâu vào tâm khảm, theo tập quán, thói quen, phải che giấu.
Câu Trả Lời Của Trần Hạ Vi
Về điểm này Trần Hạ Vi có câu trả lời sinh động bằng bài thơ Căn Phòng Bí Mật. Xin giới thiệu 2 đoạn hay nhất của bài thơ:
Có những điều sẽ chẳng nói ra
cho dù chúng ta
có yêu nhau đến thế nào chăng nữa
mấy ngàn ngày…
và có thể mấy vạn ngày tiếp lửa
chuyện anh
chuyện em
vẫn ẩn chứa bí mật của mỗi người
Có những góc tối ở trong hồn
của riêng ta
không bao giờ chia sẻ
chẳng phải vì niềm tin không vẹn vẽ
nhưng vì đó là căn phòng bí mật
chẳng nên mở bao giờ.
Khi còn giấu “những điều không thể nói ra”, “những góc tối ở trong hồn” trong Căn Phòng Bí Mật thì làm sao có sự chân thật hoàn toàn trong thơ.
Như vậy, Căn Phòng Bí Mật – Sigmund Freud gọi là vô thức - gần như là chướng ngại vật cuối cùng của con người đương đại nói chung và thi sĩ nói riêng để trở về “cái tôi đích thực”. Có thể nói tuyệt đại đa số công dân của trái đất, đặc biệt ở các nước văn minh, đã phải đối diện với chướng ngại vật này. Và gần như tất cả đã giơ tay đầu hàng.
Không mở được cửa Căn Phòng Bí Mật là một chuyện, họ còn khuyên bảo nhau đừng đụng đến Căn Phòng Bí Mật ấy để giữ “cái hạnh phúc” mà họ đang được hưởng.
Chúng ta ân ân ái ái
tan chảy ân tình
nhưng mỗi người chỉ có thể là riêng một
một anh
một em
dù ngọt ngào chung hưởng
đắng cay chia sớt
nhưng em là em
và anh vẫn là anh
Phòng chứa bí mật của phù thủy vẫn sẵn dành (1)
để chúng ta cất giữ những ước mơ ngông cuồng hoang dại nhất
tình yêu này sẽ luôn luôn có thật
khi em được là em
và anh được là anh
với căn phòng bé nhỏ của riêng mình
(1) Harry Potter và Phòng Chứa Bí Mật
Chính vì thế những triết gia Tây Phương – quan ngại đến nhân phẩm của con người – đã phải la toáng lên. Jean Paul Sartre (1) thì báo động “Con người mang thân phận của một kẻ vong thân”. Còn Albert Camus (1) thì nói “Con người đích thực đã bất lực, để một ‘kẻ xa lạ’ xâm nhập, chiếm hữu thân xác mình.”
Với thi sĩ, nếu lúc nào cũng suy nghĩ, hành xử như một công dân lịch sự của một xã hội văn minh thì cửa CPBM của họ sẽ được khóa chặt, và trên những bài thơ của họ, một chữ “Xạo” thật to luôn nhởn nhơ truớc mắt mọi người.
Chủ Nghĩa Siêu Thực ra đời nhằm giúp Nghệ Sĩ được hoàn toàn Tự Do để Sáng Tạo.
Trong loạt bài này tôi không nói đến các ngành nghệ thuật khác mà chỉ chú trọng đến Thơ - đến phương cách giúp Thi Sĩ xóa bỏ chữ Xạo trong Thơ.
SIÊU THỰC
Luận Điểm
Siêu thực dựa trên triết học phân tâm của Freud.
Freud chia hoạt động tâm thần làm ba khu vực: Vùng vô thức, vùng ý thức và Cái Siêu Ngã (le sur moi) có trách nhiệm kiểm duyệt.
Vùng vô thức chứa đựng toàn bộ những nhu cầu bản năng bị dồn nén, cấm kỵ không được phát lộ ra ngoài. Cái tôi vô thức mới là bộ mặt thật, là cái tôi đích thực của con người. Nó chi phối mọi hoạt động tinh thần.
Vùng ý thức chứa đựng những gì đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội, sẵn sàng trình làng. Nó chỉ là bộ mặt bề ngoài, giả dối và ngụy tạo.
Cái Siêu Ngã có trách nhiệm kiểm duyệt, chỉ cho “trình làng” những gì chứa đựng ở vùng ý thức đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội.
http://thuykhue.free.fr/stt/s/breton.html
Tóm Tắt:
Vô thức là THẬT
Lý trí và siêu ngã là một
Lý trí là thủ phạm tạo ra chữ XẠO trong thơ.
Hai Phương Cách Loại Bỏ Lý Trí Trong Thơ Của SIÊU THỰC
1/ Đưa “Mơ” Vào Thơ.
Mơ, đối với Freud, là thực hiện những khát vọng bản năng bị dồn nén. Khi ngủ, cơ quan kiểm duyệt không làm việc, do đó, chỉ trong mơ người ta mới thể hiện được những ham muốn bị dồn ép cấm kỵ lúc tỉnh.
Những điểm không thuận lợi khi đưa Mơ vào Thơ:
a/ Hình ảnh, cảnh tượng, câu chuyện trong Mơ thường “đầu Ngô mình Sở”.
b/ Lúc tỉnh dậy cố ghi lại giấc mơ thì chỗ nhớ, chỗ quên, tính "đầu Ngô mình Sở" càng rõ nét hơn.
c/ Tập hợp những hình ảnh, cảnh tượng xảy ra trong mơ đưa vào bài thơ, không ít thì nhiều, cũng sẽ có bóng dáng của lý trí.
d/ Tính "đầu Ngô mình Sở" của nội dung khiến chức năng truyền thông của bài thơ “đi tìm đồng cảm” với độc giả không thể thành công.
e/ Một điểm nữa, quan trọng hơn cả, là Siêu Thực ở đây chỉ chú ý đến What? (viết cái gì?), còn "How?" (viết thế nào?) thì chẳng cần đề cập.
2/ Đặt Cạnh Nhau Những Nhóm Chữ Và Hình Tượng Không Liên Quan
Trong siêu thực, nhà thơ lắp, ghép những thực thể vô cùng xa nhau: như suối và bài hát, như ngày và khăn bàn, với điều kiện là sự gặp gỡ này nẩy ra ánh lửa, bùng lên hình ảnh lạ: bài hát chảy, ngày mở ra. (bài hát "chảy" do gợi ý của "suối", ngày "mở ra" do gợi ý của "khăn bàn")
Mục đích là loại bỏ tính lô-gic, buộc lý trí phải “đi chỗ khác chơi”.
Buồn Xưa
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Rượu hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón hường say tóc nhạc trầm mi
Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Buồn hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu
Duyên vàng da lộng trái du ngươi
(Nguyễn Xuân Sanh)
Độc giả không thể “bắt” được tứ thơ. Chức năng truyền thông của bài thơ thất bại. Bài thơ chỉ là một mớ những con chữ vô dụng.
Chúng ta hãy nghe nhà phê bình nổi tiếng Đỗ Lai Thuý phát biểu sau vài lần đọc bài thơ:
“Bài thơ đọc một lần, hai lần... Ấn tượng khó hiểu, nhưng quyến rũ. Và hình như càng khó hiểu càng quyến rũ: cái hay và sự khó hiểu xoắn luyện vào nhau không thể tách bóc được? Và nhà phê bình, với số phận vô duyên của mình, cứ làm cái công việc không thể làm ấy”.
(Nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)
Với tôi, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy “cứ làm cái công việc không thể làm ấy” đúng là có số phận vô duyên thật. Bởi dù có đọc hàng vạn lần, nét quyến rũ có phủ kín tâm hồn, cũng chẳng thể hiểu được bài thơ ấy.
Như vậy với thơ, Chủ Nghĩa Siêu Thực có luận điểm hữu lý và hữu ích nhưng phương cách thực hiện thì không thành công.
Chữ Xạo vẫn đeo bám chữ Thơ.
THĂM LẠI BÀI THƠ “SAY ĐI EM”
Lời Nói Đầu:
Nhiều năm trước tôi đã viết lời bình cho bài thơ đặc biệt này với tựa đề Say Đi Em - Một Bài Thơ “Tới Bến”. Đó là kiểu bình thơ “bài bản, trường lớp” - tiếp cận, phân tích toàn diện bài thơ – như một bài Luận Văn (Essay) ở bậc đại học.
Lần này, nhân dịp mở trang Blog Lý Thuyết Thơ tôi “Thăm Lại Bài Thơ” để nhấn mạnh vài “phương tiện thẩm mỹ” mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã sử dụng một cách điệu nghệ để đưa bài thơ lên đỉnh cao chót vót của nghệ thuật thi ca.
Những “phương tiện thẩm mỹ” đó là:
1/ Bố cục dàn ý hợp lý
2/ Nối kết các ý khi chuyển đoạn khéo léo.
3/ Sử dụng vần điệu nghệ - vị ngọt rất đậm nhưng không ngán
4/ Nhịp điệu sống động
5/ Dòng tứ thơ, dòng âm điệu, dòng cảm xúc – 3 dòng nhập một, chảy rất mạnh.
6/ Đoạn kết tuyệt vời
7/ Tạo được cao trào và kết thúc ở cao trào/ hồn thơ lênh láng
SAY ĐI EM
Tác giả: Vũ Hoàng Chương.
1/
Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương…
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?
Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
2/
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Âm ba gờn gợn nhỏ
Ánh sáng phai phai dần…
Bốn tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
Tay mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
Còn chưa say hồn khát vẫn thèm men
3/
Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt!
Rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết!
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi…
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
4/
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
(Vũ Hoàng Chương)
Thành Sầu Của Vũ Hoàng Chương
VHC ngoài việc bắt buộc phải theo Tây học để tiến thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ” của người Pháp. Ông cũng lao vào những thú vui trác táng – rượu, thuốc phiện, nhảy đầm và cả gái nữa. Về điểm này, Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một đoạn khá đầy đủ:
Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. (3)
Như vậy, “thành sầu” của VHC là nỗi sầu đất nước bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm tha hóa, băng hoại bằng đủ mọi âm mưu thâm độc.
Trớ trêu thay, chính ông lại góp tay, giúp sức cho bộ máy cai trị ấy, chính ông lại lậm vào những cuộc chơi trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn làm gương xấu cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc.
Ông cảm thấy tội lỗi, tủi nhục, uất ức và chất ngất buồn sầu.
Tứ Thơ
Trong một đêm đi nhảy ở vũ trường, gặp “bạn nhảy cũ”, tác giả mời nàng đối ẩm, có ý muốn mượn rượu để giải sầu, nhưng uống đến mức “say không còn biết chi đời” mà nỗi sầu vẫn sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.
Bố Cục Dàn Ý
Bài thơ có thể chia làm 4 đoạn:
1/ Đoạn mở đầu 10 câu, thiết lập khung cảnh của bài thơ: Đến vũ trường, gặp người tình cũ đang là ca ve ở đấy. Tình đã héo nhưng chân còn “ngứa ngáy” nên xáp lại.
2/ Đoạn hai 16 câu: Cảm giác “Đê mê hồn gửi cánh tay hờ” khi đang dìu em trên sàn nhảy lúc rượu đã ngà ngà.
3/ Đoạn ba 13 câu: Mời em cùng uống cho đến khi “say không còn biết chi đời”.
4/ Đoạn kết 5 câu: Nỗi sầu vẫn còn đó – sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.
Vần Và Dòng Chảy Của Tứ Thơ
Về hình thức, tác giả sử dụng thể Thơ Mới, nhưng không phải lối thơ Trường Thiên (mỗi đoạn 4 câu) mà là thể thơ nhất khí liền mạch – một hơi từ câu đầu đến câu cuối. Nhưng cũng không phải như Nhớ Rừng của Thế Lữ – cứ 8 chữ một câu với vần liên tiếp, đọc lên nghe rất ngán.
Có thể tạm gọi đây là một loại Thơ Mới Biến Thể, rất gần với Thơ Tự Do.
“Say Đi Em” rất phóng khoáng. Có đôi chỗ ngừng là do tác giả muốn chuyển ý, đổi vần chứ không phải do đòi hỏi của luật thơ. Ông cũng tạo ra một số thay đổi, vừa tránh được trói buộc của luật tắc, vừa có thể nhấn mạnh điểm chính của tứ thơ.
1/ Số câu trong bài không giới hạn, viết hết ý, hết hứng thì thôi.
2/ Số chữ trong câu thay đổi (với biên độ rộng) một cách tùy tiện, tùy hứng. Câu ngắn nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ (Hoa xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo). Nhờ thế, nhịp điệu thơ thay đổi liên tục.
3/ Vần rất đậm, nhưng không có hội chứng nhàm chán vần, đọc lên không thấy ngán. Câu sau nối tiếp câu trước, tứ thơ và cảm xúc cứ thế tuôn chảy thành dòng. Lý do: Nhịp điệu thay đổi cộng với sự giúp sức của mấy đoạn gieo vần gián cách:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Và:
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Thêm vào đó, để thay đổi không khí, còn có hai câu thơ lục bát mượt mà ở đoạn đầu:
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
và sự phối hợp một cách tài tình điệp ngữ, điệp vận với vần ôm ở đoạn kết.
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Ở thời điểm trước năm 1940 mà đã sử dụng vần phóng khoáng và điệu nghệ như vậy thì thật đáng nể phục.
4/ Chuyển đoạn ăn khớp: Cũng xin nói đến một điểm nổi bật về kỹ thuật thơ của VHC là sự chuyển đoạn ăn khớp, khéo léo – từ ý này bước qua ý khác rất ngọt.
a/ Đoạn 1 qua đoạn 2
Từ:
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ.
qua:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ.
Vừa nói “hết yêu nhưng còn mê nhảy” đã chuyển qua cảnh ôm em trên sàn nhảy. Sự kết nối thật tương hợp.
b/ Đoạn 2 qua đoạn 3
Từ:
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men
qua:
Say đi em! Say đi em!
Đều nói đến rượu, kết nối hợp lý.
c/ Đoạn 3 qua đoạn 4
Từ:
Say không còn biết chi đời
qua:
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Vừa thú nhận “Say không còn biết chi đời” đã thấy “Đất trời nghiêng ngửa”. Mối liên hệ nhân quả, không một kẽ hở.
Nhờ sự chuyển đoạn khéo léo như vậy nên tứ thơ thông thoáng, bài thơ nhất khí liền mạch, cảm xúc lớn mạnh nhanh chóng.
Điệp Vận Ở Phần Sau Đoạn 3 – Nói Về Cơn Say
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi…
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Có 9 câu thơ ngắn mà đến 6 lần vần ôi (hoặc ơi) – điệp vận đến mức thoạt nhìn qua là đã mất cảm tình. Nhưng thật lạ! Đọc lên không những không thấy ngán mà còn thấy hồn mình như bị dính chặt vào ý thơ – cơn say thực sự, “say không còn biết chi đời” – của tác giả.
Với cơn say ở đỉnh điểm như vậy, không còn chỗ cho lý trí và con đẻ của nó là sự dối trá, bám víu. Năm câu sau của đoạn kết đúng là tiếng lòng chân thật.
Điệp vận kiểu ấy, theo tôi, nếu là người làm thơ tỉnh táo, chắc là sẽ tránh xa. VHC, trong lúc lạc lần trí, đã hiên ngang bước vào “bãi mìn” ấy. Nhưng nhờ thế, đã tạo được một đoạn thơ độc đáo, có giá trị như một con dấu chứng nhận sự chân thật cho đoạn kết, góp phần hết sức quan trọng vào sự thành công của thi phẩm Say Đi Em.
Đoạn Kết Tuyệt Vời
Sau khi đã uống đến “Say không còn biết chi đời” thi sĩ đã cho tuôn ra đoạn thơ:
Nhưng em ơi!
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Đoạn thơ hay cả về ngôn ngữ, thi ảnh, cấu trúc, âm điệu và nhịp điệu. Đặc biệt điệp ngữ ở hai cụm từ “em ơi” và “Đất trời nghiêng ngửa” cho độc giả như tôi cái cảm giác đang nghe CODA kết thúc một bản nhạc, được viết rất khéo bởi một nhạc sĩ tài ba.
Thành sầu của ông như đang chịu một trận động đất mạnh đến mức “đất trời nghiêng ngửa” mà vẫn “chưa sụp đổ” và đã chuyển từ chỗ “chưa sụp đổ” – còn chờ đợi, còn một chút hy vọng mong manh – đến chỗ “không sụp đổ” – nghĩa là đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Nỗi buồn sầu đã dâng lên đến đỉnh điểm. Chữ “không” ở câu cuối “đắt” như kim cương và ẩn dụ của cả đoạn thơ thật tuyệt vời.
Cảm Xúc Dâng Tràn – Hồn Thơ Lai Láng
Cảm xúc tầng 1:
Theo tôi, VHC thành công trong việc trao tặng độc giả những cảm giác khoái trá ở tầng 1. Ngôn ngữ thơ của ông chắt lọc, trau chuốt, hình tượng đẹp một cách lộng lẫy, kiêu sa, câu thơ mạch lạc, trong sáng. Nói theo ngôn ngữ bóng đá, kỹ thuật cá nhân của các cầu thủ trong Say Đi Em điêu luyện, thuộc đẳng cấp cao, nhìn qua là thấy có cảm tình và nể phục.
Cảm xúc tầng 2:
Trong Say Đi Em thế trận chữ nghĩa được dàn trải hợp lý, tạo hiệu quả tối đa cho việc chuyển tải tứ thơ. Vần và nhịp điệu giúp dòng chảy của tứ thơ thông thoáng. Độc giả như được xem một trận bóng đá mà đội phe mình công thủ, lên xuống nhịp nhàng, đấu pháp toàn đội kín kẽ, hoàn hảo.
Cảm xúc tầng 3:
Là thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ – nếu đến mức dâng tràn, ta có hồn thơ lai láng. Để có hồn thơ lai láng bài thơ cần mấy điều kiện sau đây:
1/ Tứ thơ không phân mảnh đứt đoạn mà phải được dàn trải sao cho ý này nối tiếp ý kia, không ngừng nghỉ.
2/ Thể thơ phải như con kênh thông thoáng để khi câu chữ từ tứ thơ tuôn xuống có thể thành dòng thơ. Trong Say Đi Em, chỉ mới bước vào đầu đoạn 2 là men rượu đã ngấm, cảm xúc quyện lấy tứ thơ và âm điệu để cùng chảy một dòng. Đến đoạn 3, với hiệu ứng đặc biệt của dòng âm điệu, dòng thơ chảy rất nhanh và rất mạnh.
3/ Thi sĩ phải nổi điên để cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí. Trường hợp Say Đi Em, bắt đầu đoạn 3 là lý trí đã trốn chạy khá xa, đến cuối đoạn thì lý trí đã biệt tăm, biệt tích, thi sĩ đã “Say không còn biết chi đời”. Hơn nữa, nội dung bài thơ lại thuộc loại “ngược dòng” nên “cơn điên” phải cực mạnh và “nhiệt độ sôi của cảm xúc” phải rất cao mới có thể phủ mờ lý trí để vuợt qua nỗi Sợ Xấu, Sợ Nhục với người đời cuả VHC.
4/ Phải kết hợp để khi cảm xúc lên đến đỉnh điểm (cao trào) thì cũng là lúc thi sĩ tuôn ra điểm cốt yếu của tứ thơ. Đó sẽ là tiếng lòng chân thật của ngài. Ở Say Đi Em là đoạn 3 và đoạn 4.
Kết Luận
Say Đi Em không những có đủ 4 điều kiện trên mà điều kiện nào cũng đạt đến mức hoàn hảo nên hồn thơ cực mạnh.
Hơn nữa, bài thơ lại kết thúc ở cao trào nên hồn thơ không những cực mạnh lại còn có sức ngân vang trong tâm hồn người đọc mặc dù bài thơ đã hết.
Tôi cho rằng cùng với thi phẩm Say Đi Em của mình, Vũ Hoàng Chương không những đã có thể bước vào Bến Bờ Thi Ca mà còn xứng đáng ngồi vào hàng ghế trang trọng nhất.
PHẠM ĐỨC NHÌ
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/
THĂM LẠI BÀI THƠ “TRÁI TIM RAO BÁN”
Lời Nói Đầu:
Tôi đã viết lời bình cho bài thơ Trái Tim Rao Bán của Đinh Thị Thu Vân từ rất lâu. Lần này tôi thăm lại bài thơ, bàn thêm về những "phương tiện thẩm mỹ" đã nâng giá trị của thi phẩm đặc biệt này lên một tầm cao mới để làm thí dụ cho hai phần quan trọng trong trang blog Lý Thuyết Thơ là Kỹ Thuật Thơ và Bến Bờ Thi Ca
(Bàn thêm về Vần, chữ Dâm và Hồn Thơ)
TRÁI TIM RAO BÁN
Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán
Một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán
Một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh
(Đinh Thị Thu Vân)
Vài Nhận Xét Thêm
1/ Tìm hiểu tứ thơ
Đoạn đầu:
Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán
Bỗng dưng nữ sĩ Đinh Thị Thu Vân lại nghĩ đến cái ngày “phải xót xa, xót xa đem trái tim mình rao bán”. Chị lập lại hai chữ “xót xa” để “thông báo” là nỗi buồn, nỗi cô đơn đã lớn mạnh đến mức phải nghĩ đến chuyện “kỳ cục” đó.
Động từ chia ở thì tương lai nhưng nỗi buồn, nỗi cô đơn, khao khát tình yêu lại đang hiện hữu rất sâu đậm trong lòng chị ngay phút giây hiện tại này đây.
Ở đoạn kế tiếp:
Một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán
tác giả cho biết nỗi đau buồn đó dâng cao lên một tầng bậc mới, lúc mà khung cảnh “tình yêu biền biệt, hạnh phúc mù khơi” thúc đẩy những con chữ thấm đẫm nước mắt rơi xuống trang thơ, cho nên dù chỉ còn lại “trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng” - chị cũng phải “phũ phàng rao bán”.
Phần đầu đoạn kết:
Một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
Đây chính là giây phút chuyển biến thần tình của tứ thơ. “Mỏi mòn trong ảo vọng” chính là lúc cơn khát tình đã lên rất cao. Rao bán trái tim mà “không cần chọn lựa người mua” – không cần biết người đàn ông sẽ đến với mình là ai - nghĩa là chữ Tình đã đội nón ra đi để chữ Dâm độc chiếm thể xác và tâm hồn chị. Nói bạch văn là “Khát Tình” đã biến thành “Thèm Chim”.
Như thế cũng chưa hết. Rao bán mà “không cần sòng phẳng” – cho người mua được toàn quyền quyết định giá cả - có nghĩa là cũng sẵn sàng cho không “món hàng quý giá” của mình. Đọc đến đây chắc độc giả cũng đồng ý với tôi là cơn “thèm chim” của Đinh Thị Thu Vân đã lên cao ngất.
Đây chính là cao trào của bài thơ. Dòng tứ thơ và dòng cảm xúc trong cơn điên đã dâng lên đến đỉnh điểm và gặp nhau ở đó. Lý trí đã trốn biệt. Tâm tình được gởi đến độc giả là những lời thơ CHÂN THẬT.
Đoạn kết phần sau:
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh...
Nhóm chữ “một chút tình” - được lập đi lập lại ở đoạn kết, lúc “độ nóng” của cơn điên vẫn còn nhưng đang từ từ hạ xuống; “một chút tình” đó không phải là “sự tương hợp của hai tâm hồn đồng cảm” hoặc kém hơn một chút là tình một chiều – “ta yêu chàng mà chàng chẳng yêu ta”. Ở đây chỉ là một chút thương hại của người với người.
Đây là sự khác biệt lớn giữa Trái Tim Rao Bán của Đinh Thị Thu Vân và Cánh Đồng (1) của Nguyễn Đức Tùng. Với Nguyễn Đức Tùng thì “Khi cơn ‘khao khát dục tình’ đã lên cao thì thoả mãn chữ Dâm với người ngoài hành tinh cũng có thể chấp nhận được”. Còn Đinh Thị Thu Vân thì dù “thèm chim” đến nổi điên, đối tượng của chị vẫn là Con Người trên trái đất.
2/ Tứ thơ:
Nếu đọc lướt qua sẽ thấy tứ thơ rất đơn giản và “rất hiền” như sau:
Tác giả lên tiếng rao bán trái tim mình rồi hé mở cho biết lý do, và sau cùng là giá cả - rất đặc biệt.
Nhưng nếu lặn sâu một chút và đọc “giữa hai hàng kẻ” sẽ thấy:
Tác giả đột nhiên cảm thấy thèm khát dục tình đến cùng cực, sẵn sàng “tặng không” thân xác mình cho bất cứ ai.
3/ Kiếm Tông hay Khí Tông?
Đây là bài thơ Khí Tông, tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng từ câu đầu đến câu cuối.
5/ Ngôn ngữ thơ: Bình dị, dễ hiểu. Những nhóm chữ “mù khơi hạnh phúc”, “biền biệt tình yêu”, “mỏi mòn trong ảo vọng” đã diễn tả thành công một cách xuất sắc tâm ý của tác giả mà không phải dài dòng biện giải, hai chữ “chông chênh” tượng hình và đặc sắc cả về nghĩa lẫn âm.
4/ Số chữ trong câu thay đổi tự do, không bị luật tắc nào bó buộc. Nhịp điệu không đều đều buồn tẻ mà có vẻ uyển chuyển, sinh động.
6/ Nội dung lọt vào vùng cấm, không “phải đạo” mà chảy ngược dòng với nếp suy nghĩ và cách hành xử của người đời. Tâm thế của Đinh Thị Thu Vân lúc đó nếu không thuộc loại “get it off your chest” - cho bung ra khỏi ngực (chứ giữ lại thì chịu không nổi) mà chỉ cần một chút lý trí còn sót lại, chị cũng sẽ chùn bước, không dám đi tới bến.
7/ Không vờn bóng giữa sân: Các con chữ nối tiếp nhau trôi thẳng xuống điểm đến của tứ thơ.
8/ Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 mạnh mẽ; cảm xúc tầng 3 thì khỏi nói – cơn “thèm chim” đã lên rất cao nên có thể nói là hồn thơ lai láng.
9/ Giá mà vần NGỌT hơn ít nữa: Bài thơ Trái Tim Rao Bán tôi không dám chê là vần thiếu ngọt, nhưng dòng âm điệu chảy không được mạnh lắm. Tôi nghĩ nếu ở 2 đoạn sau có chút “thủ thuật” điệp vận nào đó khiến các con chữ và hình tượng nối kết chặt chẽ hơn nữa thì sẽ giúp tăng vận tốc và cường độ của dòng âm điệu. Dĩ nhiên, sẽ ảnh hưởng đến dòng cảm xúc. Lúc đó tôi sẽ khẳng định - chứ không phải dè dặt “có thể nói” - là hồn thơ lai láng
10/ Không kết thúc ở cao trào
Phần sau của đoạn kết:
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh...
được dùng để vừa giải thích vừa nhấn mạnh “Cơn Dâm của ta đã lên cao chót vót, nhưng ta chỉ muốn thỏa mãn cơn Dâm đó với con người trên trái đất, còn những chủng loại khác hoặc ‘người’ ở hành tinh khác thì xin mời đi chỗ khác chơi.”
Tôi thích cái ý này của chị. Theo tôi, nó đậm tính nhân văn hơn ý của Nguyễn Đức Tùng trong bài thơ Cánh Đồng. Nhưng để có được hai chữ “nhân văn” đó bài thơ đã phải có mấy câu giải thích và đã không thể kết thúc ở cao trào.
Điểm đặc biệt nữa của Trái Tim Rao Bán là tứ thơ thì “tục”, bộc lộ những điều mà phụ nữ “kiêng kỵ” nhưng lời thơ lại rất thanh. Chị dùng thủ pháp “Show, Don’t Tell” (Gợi, Không Kể) để bóng gió nói đến cơn “Thèm Chim” của mình.
Tôi rất mong chị và những độc giả nghiêm túc thông cảm cho việc đưa hai chữ “Thèm Chim” vào bài bình. Tại tôi quá mê và muốn làm nổi bật tính nhân văn của bài thơ nên đã đánh liều dùng đến hai chữ này. Tôi nghĩ hai chữ “Thèm Chim” ở đây sẽ làm nét đẹp tổng thể của bài thơ rõ ràng hơn, cao hơn, sang trọng hơn.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/
CHÚ THÍCH:
1/ https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/12/canh-ong-mot-bai-tho-la.html
Tạ Lỗi Trường Sơn
Nhìn T Xa ... Tổ Quốc
Trái Tim Rao Bán
Say Đi Em
Nhân Câu Chuyện
Vì Thế Tôi Ra Đi
Bánh Vẽ
Một Chút Tâm Tình
Nhớ Rừng
Nhà Tôi
Ta Về