Bài 1
GÓP Ý VỚI CUỘC ĐỐI THOẠI "THẾ NÀO THÌ GỌI LÀ THƠ?"
Ông Nguyễn Khoa Điềm viết trên blog Quê Choa:
Lập thân mến,
Mình có xem bức chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp do Hà Vũ mới vẽ tặng Đại tướng nhân dịp ông tròn 100 tuổi. Bức tranh đẹp, rất xúc động. Mình có làm bài thơ gửi trang mạng “Quê... Đại tướng” của Lập.
Chúc an vui.
NKĐ
BỨC CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH GIÀ
(Có bức chân dung nhưng máy tôi không tải được)
Những giọt nước mắt
Thật buồn
Thật lặng lẽ
Trước bức chân dung
Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi
Của một người tù.
Trận chiến Lịch Sử
Đã phá tung mọi xiềng xích?
Người họa sĩ trẻ
Từ sau song sắt
Vẫn bình tâm
Dành lòng biết ơn
Không dứt
Cho một người lính già.
19.9.2011
Nguyễn Khoa Điềm
Đỗ Trung Quân bình:
Bức chân dung của đại tướng Võ Nguyễn Giáp được vẽ bởi một tay thực sự chuyên nghiệp. Anh Cù Huy Hà Vũ. Anh rất có tài!
Bài thơ của ông Nguyễn Khoa Điềm, rất tiếc phải nói thật lòng, xin ông đừng giận. Đấy chỉ là những dòng “cảm tưởng có vần”, thường thấy ghi trong những sổ cảm nghĩ đám ma hay đám cưới.
Thưa ông!
Nó không phải là thơ ạ!
Thế rồi lại đọc bài tiểu luận Thế Nào Thì Gọi Là Thơ? của Phan Quỳnh Trâm với Lời Nói Đầu như sau:
[Đọc bài “Thưa, chỉ là cảm nghĩ có vần...” của nhà thơ Đỗ Trung Quân, tôi không có ý kiến gì về bức tranh của Cù Huy Hà Vũ, về bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm và về nhận xét của nhà thơ Đỗ Trung Quân đối với bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Tuy nhiên, tôi chỉ băn khoăn về câu khẳng định “bài thơ ấy không phải là thơ”. Tôi cũng đã nghe nhiều người nói như vậy trong những hoàn cảnh và với những mục đích khác nhau.]
Chị giải thích một lúc rồi trích dẫn đoạn thơ:
Những nhà thơ trẻ:
Hãy viết bất cứ cách nào bạn thích
Quá nhiều máu đã chảy dưới cầu
để còn tiếp tục tin
rằng chỉ có một con đường là đúng.
Trong thơ mọi sự đều được phép.
(Nicannor Parra, Hoàng Ngọc-Tuấn dịch)
có ý muốn nói trên trang thơ của mình thi sĩ được hoàn toàn tự do phóng bút. Câu hỏi "Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?" vẫn là một nỗi băn khoăn, chưa có câu trả lời.
Cuối cùng chị chỉ khẳng định lại nỗi băn khoăn của mình.
"Tuy nhiên, có thể nói tóm lại, Phân biệt thế nào là thơ, thế nào không phải là thơ là một điều cực kỳ phức tạp. Quan niệm về thơ thay đổi theo từng trường phái và thời đại. Ngay trong một trường phái và một thời đại thì chúng cũng có sự khác biệt lớn giữa người này và người kia. Không một ai dám đưa ra một danh sách những tiêu chí rõ ràng về thơ như một khuôn mẫu để chỉ cần đưa vào cái 'khuôn' ấy một bài thơ vào là có thể khẳng định nó... lọt khuôn hay trật khuôn."
Và tôi cũng nhân tiện đọc trao đổi của các anh chị Nguyễn Vũ Đam San, Cao Thanh Phương Nghi, Black Raccoon, Huy Tuấn, Nguyễn Tôn Hiệt, Nguyễn Đăng Thường, Trương Đức, Bùi Thị Lài liên quan đến đề tài này. Mặc dù cuộc đối thoại đã xảy ra khá lâu (gần 6 năm) nhưng câu hỏi “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?” vẫn chưa mất tính thời sự nên hôm nay – dù trễ - cũng xin mạo muội góp chút ý kiến.
Đã từng đọc khá nhiều thơ và cũng võ vẽ làm được mấy bài, tôi có lần tự hỏi:
Đâu là sự khác biệt giữa văn và thơ?
Tôi thấy nhiều người làm thơ, đọc thơ, mê thơ đã thử làm công việc định nghĩa thơ, nhưng hình như chưa ai đưa ra được định nghĩa nào có thể nhận diện dung mạo của thơ một cách thật chính xác, thật đầy đủ. Tuy nhiên, có một nhà phê bình văn học, theo tôi, đã bắt được cái ‘thần sắc” của thơ, đã nắm được cái cốt lõi của thơ với định nghĩa như sau:
Thơ là cảm xúc (bằng kỹ thuật thơ) đi tìm một đồng cảm.
(Cụm từ “bằng kỹ thuật thơ” tôi xin phép tác giả được thêm vào để khỏi lầm lẫn với các bộ môn nghệ thuật khác).
Người đó là Nguyễn Hưng Quốc.
Vâng! Yếu tố để phân biệt văn với thơ chính là cảm xúc.
Mục đích chính của văn là chuyển tải thông tin. Kiến thức của người viết càng rộng, lượng thông tin càng lớn, lập luận càng khúc chiết, càng có tính thuyết phục thì bài văn càng có giá trị. Đâu đó cũng có những đoạn văn tình cảm, ướt át, nhưng cái chất ướt át đó chỉ đến tình cờ, chỉ là sản phẩm phụ.
Với thơ, cảm xúc là chính, là máu thịt. Thông điệp cũng có đấy, nhưng chỉ như con kênh, con mương để dòng cảm xúc lưu chuyển. Thành công của bài thơ được đánh giá ở khối lượng, cường độ của dòng cảm xúc chảy trên con kênh ấy. Trong văn có chút cảm xúc thì cũng tốt; nhưng nếu không có cũng không sao. Ngược lại, trong thơ mà không có cảm xúc thì dù có vần điệu đầy đủ cũng vẫn không thể được gọi là thơ.
(Cảm xúc ở đây phải là cảm xúc của "cái tôi riêng tư của tác giả có mặt trong cảnh thơ")
Có hai đặc tính để nhận ra một “bài thơ” không phải là Thơ:
1/ Nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, đến từ bề mặt của ý thức; tâm của tác giả chưa có cơ hội đối diện với, hoặc bước vào, khung cảnh của bài thơ.
hoặc là:
2/ Tác giả đã bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” nhưng chưa có những câu Sinh Tình.
Sau đây là một số thí dụ trong các bài viết cũ của tôi, nay tuyển chọn, sắp xếp lại để phù hợp với bài viết này.
Là Sản Phẩm Của Lý Trí
1/
HÌNH VUÔNG
Muốn tìm chu vi hình vuông
Lấy cạnh nhân bốn lệ thường nhớ ghi
Diện tích hình vuông khó gì
Lấy cạnh nhân cạnh sai đi đường nào
Môt ông thầy dạy toán nào đấy đã mượn thể thơ lục bát để diễn tả một công thức toán cho học trò dễ nhớ. Nội dung của 4 câu lục bát hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không có một chút cảm xúc nào. Đây không phải là thơ.
2/
ANH YÊU KHOẢNH ĐẤT HÌNH VUÔNG
Ôi! Khoảnh đất hình vuông
ở giữa là căn nhà nhỏ bé
vách đất, mái rạ
nơi anh đã gởi cả trái tim
vì trong căn nhà đó có em.
(PĐN chế để minh họa.)
Ở đây tác giả đã bước vào, đã xuất hiện trong khung cảnh thơ, tâm đã đối cảnh. Và đã có cảm xúc. Hay dở chưa bàn đến, nhưng Anh Yêu Khoảnh Đất Hình Vuông đã có thể gọi là thơ.
3/
CÔNG CHA NGHĨA MẸ
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
(Ca dao)
Một nhà nho đã đem quan niệm về chữ hiếu của Khổng Tử dàn trải trong 4 câu lục bát để loan truyền trong dân gian. Đây chỉ là sản phẩm của lý trí, tâm chưa đối cảnh, không có cảm xúc, không thể gọi là thơ.
4/
Thôi xa rồi mẹ tôi
lệ nhòa mi mắt
mong con phương trời
có lần chợt tỉnh đêm vơi
nghe giòn tiếng súng nhớ lời phân ly
mẹ ơi con mẹ tìm đi
bao giờ hết giặc con về mẹ vui.
(Nhà Tôi, Yên Thao)
Tác giả đã bước vào khung cảnh thơ, cảm xúc đã dạt dào. Đích thị là thơ.
5/
THÁNG GIÊNG ĂN TẾT Ở NHÀ
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
Một nhà nghiên cứu Văn Hóa Việt đã nhờ vào khả năng quan sát sắc bén của mình nhận biết và kể lại những nét đặc thù trong sinh hoạt văn hoá của người Việt Nam từng tháng một trong năm. Tuy thể thơ lục bát được mượn làm phương tiện để chuyển tải thông điệp nhưng tác giả chỉ “đứng ngoài” chứ không cho tâm trạng, cảm xúc của mình trộn lẫn vào thông điệp. Ở đây chúng ta cũng chỉ có một loại văn vần chứ không có thơ
6/
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Có mẹ không cha
Rau má mọc bờ
Thò tay sợ dơ
Đó là rau nhớt
Rau cay như ớt
Vốn thiệt rau răm
Sống suốt ngàn năm
Là rau vạn thọ
(Vè Nam Bộ)
Rõ ràng đây là một đoạn của bài vè. Mỗi câu 4 chữ, gieo vần liên tiếp. Tác giả (khuyết danh) dùng lối chơi chữ gọi tên các loại rau một cách trào phúng. Tuyệt nhiên không có cảm xúc.
Như ta đã biết, lời dạy của Đức Phật được ghi chép thành Kinh. Đệ tử của ngài, các tăng ni - dựa vào sự hiểu biết của mình – giải thích cho Phật Tử dễ hiểu bằng những đoạn văn vần ngắn. Đó là Kệ. Kinh hay Kệ, dù ý nghĩa thâm sâu cũng không phải là thơ.
7/
KINH PHÁP CÚ
Không làm các việc ác
Tu tập các hạnh lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Là lời chư Phật dạy
8/
THỊ ĐỆ TỬ
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
DẶN HỌC TRÒ
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông
(Ngô Tất Tố dịch)
Thiền sư Vạn Hạnh đã dùng hình thức thơ thất ngôn tứ tuyệt để lý giải lẽ Vô Thường. Tất cả những câu chữ ông viết ra đều đến từ bề mặt ý thức, là sản phẩm của lý trí. Ông truyền đạt cho mọi người một phần sự hiểu biết của ông về đạo Phật; đó là lẽ Vô Thường của vạn vật. Do không có tâm đối diện với cảnh sắc, lý chưa biến thành sự, bài Thị Đệ Tử chỉ là Kệ chứ chưa phải là Thơ.
9/
HÃY TIN CHÚA
Hãy tin nơi Thiên Chúa
Hồn xác dâng cho ngài
Hãy sống theo lời Chúa
Chết, sẽ về nước Trời
Đây chỉ là lời kêu gọi mọi người Hãy Tin Chúa. Không có bóng dáng cảm xúc nên không thể gọi là thơ.
Có Cảnh Nhưng Chưa Có Tình
1/
“THƠ CON CÓC”
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi
Ba chàng Ngốc tâm đã đối cảnh nhưng chưa có câu thơ sinh tình nên “THƠ CON CÓC” chưa phải là thơ. Độc giả có thể đọc “Thơ Con Cóc” Có Phải Là Thơ? ở bài kế tiếp.
2/
Đồi trọc
Thoảng trong gió
Tiếng cóc
Cũng như “Thơ Con Cóc”, đây mới chỉ là những câu xác lập khung cảnh, mặc dù tâm đã đối cảnh nhưng chưa Sinh Tình, thứ Tình trong “thất tình lục dục” của con người (hỷ nộ ái ố ai lạc cụ và sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục, pháp dục), nên chưa phải là Thơ (loại Thơ Thế Tục ta thường gặp).
Tuy nhiên, đây là bài thơ Haiku, trường hợp này do tâm đã đối cảnh, Cái Tôi Chủ Thể đã bước vào khung cảnh bài thơ, đã có cảm xúc - niềm vui thấy mình đã buông xả, không còn bị vướng mắc, lôi kéo, nhìn cảnh vật như thị, như thực, không có tư ý, tư dục xen vào. Đây chính là loại Thơ Thiền.
Một Số “Bài Thơ” Bị Tước Mất Danh Hiệu Thơ.
Ngày tôi còn mài đũng quần ở trung học, thơ được hiểu là một loại hình nghệ thuật dùng chữ, có vần điệu để biểu lộ một cảm xúc hoặc diễn đạt một ý tưởng cao đẹp (noble thought). Khi tôi vào đại học, Kim Lũ Y là bài thơ Đường được giảng dạy ở Văn Khoa. Nhưng khoảng mấy thập niên sau này cái phần đuôi của định nghĩa thơ: hoặc diễn đạt một ý tưởng cao đẹp (noble thought), trong rất nhiều sách và trang web thơ ca, đã lặng lẽ biến mất.
1/
KIM LŨ Y
Khuyến quân mạc tích Kim Lũ Y
Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì
Hoa khai kham chiết trực tu chiết
Mạc đãi vô hoa không chiết chi.
Đỗ Thu Nương
ÁO KIM TUYẾN
Khuyên anh đừng tiếc áo thêu vàng
Khuyên anh nên tiếc thời trẻ trung
Hoa nở bẻ được thì nên bẻ
Đừng chờ hoa hết, bẻ cành không.
2/
LA CỐNG KHÚC
Kỳ Tam
Mạc tác thương nhân phụ
Kim thoa đương bốc tiền
Triêu triêu giang khẩu vọng
Thác nhận kỷ nhân thuyền.
Lưu Thái Xuân
BÀI CA LA CỐNG
(bài 3)
Chớ làm vợ những người lái buôn
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.
Hai tác giả sành đời đã đem kiến thức và kinh nghiệm của mình - bằng hình thức thơ - khuyên bảo lớp hậu sinh. Nội dung hai “bài thơ” trên toàn là những điều hay, lẽ phải nhưng tuyệt nhiên không có cảm xúc. Trước đây, vì quan niệm “văn dĩ tải đạo” ông cha ta đã long trọng gọi chúng là Thơ. Nay Thơ đã đi theo một hướng mới, đã có những định nghĩa mới gắn chặt nó với tâm tình, cảm xúc của con người nên, dựa vào cách nhìn nhận mới đó, chúng không còn xứng đáng với danh hiệu Thơ nữa.
Khác Biệt Giữa Kệ, Thơ Thiền Và Thơ Thế Tục
1/ Kệ: là một cách giải thích Kinh bằng văn vần, không cảm xúc.
2/ Thơ thiền : có cảm xúc nhưng cảm xúc đó chỉ là “niềm vui”, sự sảng khoái khi thấy mình đã thoát vòng tục lụy, tâm không vướng mắc điều gì, không có tư ý, tư dục, nhìn sự vật như thị, như thực. Nói có vẻ “đạo” một tý là lúc ấy, trong khung cảnh của bài thơ ấy, cái tiểu ngã của tác giả đã hòa nhập với cái đại ngã của vũ trụ.
3/Thơ thế tục: cảm xúc là thứ Tình phát xuất từ Thất Tình, Lục Dục của người đời.
Sau đây là một số bài Kệ, Thơ Thiền và Thơ Thế Tục đặt cạnh nhau để bạn đọc dễ phân biệt.
Trăng Non, Sơ Tam Sơ Tứ Và Chơi Trăng Lên
TRĂNG NON
Vũ trụ bao la rất nhiệm mầu
Chân không diệu hữu thật thâm sâu
Trùng trùng duyên khởi không gì mất
Trăng khuyết lại tròn – đời biển dâu
(Minh Lương Trương Minh Sung)
Bài Trăng Non viết về trùng trùng duyên khởi của vạn vật, mất rồi lại có, như trăng khuyết lại tròn, biển biến thành nương dâu. Cả 4 câu, 28 chữ đều phát xuất từ bề mặt ý thức. Chính vì chỉ có “lý” mà thiếu “sự”, nên không thể gọi là thơ. Tuy nhiên, tác giả đã thành công trong việc biểu lộ kiến thức của mình về đạo pháp, đem cái hạt giống đạo pháp đó truyền đạt cho mọi người. Đây có thể gọi là một bài kệ, một chiếc cầu để đưa người đời đến với những lời dạy cao siêu, thâm thúy của đức Phật (kinh).
SƠ TAM SƠ TỨ
Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
MỒNG BA MỒNG BỐN
Mồng ba mồng bốn trăng mờ
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không
(Trần Trọng San dịch)
Ở đây sư ông và chú tiểu chùa Hàn San đã thực sự đứng trước và thưởng thức vẻ đẹp của cảnh trăng non. Tâm đã đối cảnh. Cảm xúc dâng đầy. Sư ông lặng ngắm vẻ đẹp của trăng trên bầu trời. Chú tiểu đứng ở vị trí khác, có góc nhìn khác, thấy được phần chìm đáy nước của mặt trăng. Cả 4 câu gộp lại thành một bài thơ thật đẹp, không có tư ý, tư dục.
Cùng một cảnh (trăng non) nhưng bài Trăng Non chỉ là kệ, còn Sơ Tam Sơ Tứ là thơ. Khác nhau ở chỗ tâm đối cảnh và có cảm xúc (nhưng không có tư ý, tư dục).
CHƠI LÊN TRĂNG
……………………….
Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát
Để nhờ không khí đẩy lên trăng
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi
Để hớp tinh anh của nguyệt cầu
Và để thoát ly ngoài thế giới
Để cười, để trững, để yêu nhau.
…………………….
(Hàn Mặc Tử)
Còn Chơi Lên Trăng của Hàn Mặc Tử thì tràn cảm xúc và tư ý, tư dục nên là Thơ Thế Tục.
Phong Lai Sơ Trúc, Thơ Trên Cát Và Phơi Nắng Trên Bãi Biển
PHONG LAI SƠ TRÚC
Phong lai sơ trúc
phong khứ nhi trúc bất lưu thanh
nhạn quá hàn đàm
nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh
thị cố quân tử
sự lai (#) nhi tâm thỉ hiện
sự khứ nhi tâm tùy không
(#) Có bản dùng chữ đáo
GIÓ ĐẾN BỤI TRÚC
Gió đến bụi trúc
Gió qua rồi mà trúc không lưu lại âm thanh
Nhạn bay qua đầm nước lạnh
Nhạn qua rồi mà mặt nước đầm không lưu lại hình ảnh
Cho nên người quân tử
Việc đến thì tâm khởi
Việc qua thì tâm hoàn không
(Tự dịch)
Một Nho gia đã viết Phong Lai Sơ Trúc để chỉ cho đám hậu bối phương cách “chính kỳ tâm”, một trong chuỗi mắt xích “thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” mà nho sinh phải từng bước tu tập để thành người quân tử.
Bốn câu đầu tượng thanh, tượng hình, đẹp như một bài thơ nên nhiều người lầm tưởng đó là thơ. Thật ra 4 câu đó đã được tác giả “nghĩ ra từ trước”, nay moi trong “kho kiến thức” ra sử dụng để viết bài “huấn thị” cho đám học trò. Rất tình cờ, ở đây Nho học đã gặp Phật học. Nhiều Phật tử trên đường học đạo đã cho đó là một bài thơ và thường chiêm nghiệm để tu tâm.
Đúng ra Phong Lai Sơ Trúc có thể gọi là kệ (hay một cái tên gì khác) chứ nó không phải là một bài thơ. Tác giả không đối cảnh rồi cảm ứng sáng tác ra nó; đây chỉ là công việc riêng lẻ của lý trí; những thành phần khác của tâm như bản năng (ái dục), tình cảm đều không có cơ hội, không được quyền tham dự vào.
Bây giờ chúng ta cùng đọc Thơ Trên Cát của thiền sư Viên Minh
THƠ TRÊN CÁT
Viết bài thơ trên cát
Cơn sóng vỗ xóa đi
Vô tình đâu biết được
Mình viết bài thơ gì.
(Viên Minh, từ tác giả)
Cũng cái ý đấy, nhưng ở đây thiền sư của chúng ta đã thực sự đối diện với cảnh đời, cảnh bao la sóng nước của biển cả, để có hứng, có cảm xúc viết thành bài thơ. Những thành viên của Tâm từ Tam Tạng (bản tâm), Tề Thiên (lý trí), đến Trư Bát Giới (bản năng, ai duc), Sa Tăng (tình cảm) đều có mặt. Nhưng do được “tu luyện đến nơi đến chốn” nên tất cả đều lặng thinh.
Thơ Trên Cát được viết ra để nói về bài thơ đã mất; mất thật sự, không lưu lại một dấu tích gì trong lòng tác giả; bài thơ mất mà tác giả của nó không một chút bận tâm, luyến tiếc. So sánh với “phong lai sơ trúc” và “nhạn quá hàn đàm” thì hình ảnh cơn sóng vỗ xóa mất bài thơ cũng đẹp và nên thơ không kém. Đối cảnh tâm có cảm xúc nhưng không có tư ý, tư dục chính là trường hợp này. Có thể nói đây là bài thơ thiền của một người đạt đạo.
Cùng một ý nhưng Thơ Trên Cát của Viên Minh là thơ, còn Phong Lai Sơ Trúc chỉ là một lời khuyên, một thứ “huấn thị”. Khác biệt cũng chỉ ở chỗ tâm đối cảnh và có cảm xúc.
PHƠI NẮNG TRÊN BÃI BIỂN
Biển vắng nàng nằm phơi nắng
Chỗ không nên phơi, cũng phơi
Tôi vô tình đi qua đấy
Nhìn thấy nóng ran cả người
(PĐN)
Lòng ham muốn (dục vọng) đã nổi lên. Chúng ta đã có Thơ. (Thơ Thế Tục)
Tại Sao Có Mưa? – Biệt Nhất Phương – Muốn Làm Mây Trắng
TẠI SAO CÓ MƯA?
Nước từ biển bốc hơi
Thành mây trắng trên trời
Nếu gặp luồng khí lạnh
Thì sẽ có mưa rơi
Đây có lẽ là một đoạn văn vần do thầy (cô) giáo (môn Khoa Học Tự Nhiên) nào đó đặt ra để học trò dễ nhớ. Chỉ là sản phẩm của lý trí, không phải thơ.
BIỆT NHẤT PHƯƠNG
Đáo tận yên hà xứ
Hồi đầu biệt nhất phương
Mục tiền sơn thủy hạo
Nguyệt hiện thảo đầu sương
(Viên Minh)
RIÊNG MỘT CÕI
Đến tận vùng mây khói
Ngoảnh lại riêng một cõi
Trước mắt núi sông hùng vĩ
Trăng hiện trên hạt sương đọng trên đầu nhọn cỏ
(Tự dịch)
Tác giả sảng khoái đến độ lạc thần trí trước vẻ đẹp của mây khói, sóng nước nhưng không có một chút tư ý, tư dục. Có thể nói cái tiểu ngã của tác giả đã hòa nhập vào cái đại ngã của đất trời, của vũ trụ. Đây là bài thơ thiền.
MUỐN LÀM MÂY TRẮNG
Ta muốn làm mây trắng
Bay về Huế mộng mơ
Chờ đến khi nắng hạn
Đổ xuống một trận mưa
(Không biết xuất xứ)
Đây là tâm tình của một người Huế rất nặng tình với Huế. Cảm xúc đã dạt dào trên trang giấy. Muốn Làm Mây Trắng đích thị là một bài thơ (Thơ Thế Tục)
Viết Thêm Về Thơ Haiku
Sau đây là bài Haiku nổi danh của văn học Nhật:
Xưa cũ một bờ ao
Con ếch tung mình xuống
Và vang tiếng nước xao
(Bashô)
Hai chữ cần đặc biệt chú ý trong bài thơ là "xưa cũ". Nhìn con ếch tung mình xuống bờ ao xưa cũ tạo nên tiếng nước xao tác giả thấy hiện lên trong hồn những kỷ niệm về một thời nào đó trong quá khứ. Có cảm xúc của thất tình lục dục nên bài thơ đã có thể mang danh hiệu Thơ (Thơ Thế Tục).
Đây là bài thơ rất kiệm lời, thủ pháp Show, Don't Tell đã đến mức thượng thừa. Hai từ "xưa cũ" là tác nhân để dẫn đến những hoài niệm về một thuở xa xưa khiến bài Haiku này có danh hiệu Thơ Thế Tục. Nếu không có tác nhân "xưa cũ" làm sống lại những hoài niệm thì bài Haiku vẫn xứng đáng là thơ - nhưng là thơ thiền.
Những Câu Thơ Chùm Gởi
Chúng ta thử đọc bài thơ sau đây của Mai Quỳnh Nam:
TỰ SÁT, TRƯỜNG HỢP HEMINGWAY
Tự sát
cơ chế di truyền
căn nguyên từ máu
Viên đạn súng săn sư tử
chính ông phát nổ
Chết
ai cũng vậy thôi
bi kịch đời người
cần giải thoát
(Tạp Chí Thơ HNVVN số 11-2011, tr.6)
Đoạn đầu:
Tự sát
cơ chế di truyền
căn nguyên từ máu
là một phát biểu (statement), có thể là ý của tác giả, cũng có thể là khám phá của nhiều người khác mà tác giả đã tổng hợp được qua quá trình đọc của mình. Nó là sản phẩm của lý trí nên, nếu đứng một mình, không thể gọi nó là thơ. Nhưng đặt nó lên đầu bài coi như một gợi ý, có đóng góp cho bài thơ nên nó được “ăn theo”, trở thành những câu thơ trong bài thơ đó. Bởi vậy tôi gọi nó là những câu thơ ăn theo, hay là những câu thơ chùm gởi.
Tương tự như vậy, đoạn đầu trong bài thơ sau đây:
LÁ CỜ CHÍNH NGHĨA
Tự do như muối
hạnh phúc như đường
khi đang còn
ăn đủ miếng ngọt, miếng ngon
khó thấy được
giá trị của hạt đường hạt muối
……………………………..
(Lá Cờ Chính Nghĩa, Phạm Đức Nhì, t- van.net) cũng chỉ là một phát biểu của tác giả về hai ý niệm Tự Do và Hạnh Phúc; đó là sản phẩm của lý trí. Đứng một mình thì không phải là thơ. Nhưng đặt vào khung cảnh bài thơ thì nó lại là những câu mở đầu cần thiết, đưa ra chủ đề để tác giả khai triển ở những đoạn sau. Nó đã “ăn theo” để trở thành những câu thơ chùm gởi.
Trở Lại Bài Thơ Của Nguyễn Khoa Điềm
BỨC CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH GIÀ
Những giọt nước mắt
Thật buồn
Thật lặng lẽ
Trước bức chân dung
Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi
Của một người tù.
Trận chiến Lịch Sử
Đã phá tung mọi xiềng xích?
Người họa sĩ trẻ
Từ sau song sắt
Vẫn bình tâm
Dành lòng biết ơn
Không dứt
Cho một người lính già.
19.9.2011
Nguyễn Khoa Điềm
Tôi không biết thi sĩ Đỗ Trung Quân dựa vào đâu để phán Bức Chân Dung Của Người Lính Già không phải là thơ.
Theo tôi thì, ngắm bức chân dung của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp tác giả tâm đã đối cảnh và biểu lộ cảm xúc của mình trước tấm tình của họa sĩ (Cù Huy Hà Vũ) đối với Đại Tướng:
Những giọt nước mắt
Thật buồn
Thật lặng lẽ
Trước bức chân dung
Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi
Với những chi tiết ấy Bức Chân Dung Của Người Lính Già đã xứng đáng được gọi là thơ. Bài thơ ấy hay hoặc dở lại là chuyện khác, cần đến sự phân tích và bình phẩm kỹ lưỡng hơn.
Kết Luận
Thi sĩ, nhà phê bình hay người đọc đều cần biết thế nào là một bài thơ hay. Thi sĩ, để làm thơ hay hơn, nhà phê bình, để bình phẩm cho đúng và người đọc, để thành người thưởng thức thơ sành điệu. Nhưng nói chuyện thơ hay mà quên câu hỏi “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?” thì cũng như bàn chuyện “ngọn” mà không để ý đến “gốc”.
Tôi tình cờ bước vào cuộc đối thoại về cái “gốc” của thơ trên Tiền Vệ và nhận thấy rất hữu ích. Bài viết này là một chút ý kiến đóng góp để may ra có thể làm sáng hơn cái “gốc” của thơ. Sẵn sàng đón nhận mọi ý kiến của các anh chị tham gia đối thoại và tất cả bạn đọc.
Phạm Đức Nhì
Bài 2
THƠ CON CÓC CÓ PHẢI LÀ THƠ?
Từ bài Thơ Con Cóc đã nổ ra một cuộc tranh luận về cái "gốc" của thơ gồm toàn những tay cự phách về lý thuyết thơ.
Trong bài Nhân Cuộc Tranh Luận Về Thơ Con Cóc,
Thụy Khê đã viết:
Khi Nguyễn Hưng Quốc thách Đỗ Minh Tuấn
phải chứng minh được rằng Thơ Con Cóc không
phải là thơ, Đỗ Minh Tuấn đã vội lo "đây là một
thách thức triết học nghiêm túc, nhưng lại là một
vấn đề ngụy tạo". Những lo lắng của Đỗ Minh
Tuấn thật sự không cần thiết vì ở đây cũng chẳng
có vấn đề triết lý triết học gì cả. Chỉ có một lẽ dễ
hiểu là xưa nay chưa ai định nghĩa được một cách
chính xác Thơ là gì? …
Và bà đưa ra kết luận nước đôi:
Vậy Thơ con cóc, bảo nó là thơ cũng được. Mà bảo
không phải là thơ cũng xong. (1)
Tôi tự mình chưa nghĩ ra được một định nghĩa cho
thơ, nhưng nếu hỏi
“Thơ Con Cóc có phải là thơ hay không?
thì tôi hy vọng có thể trả lời được. Ít nhất là sẽ cố
thử xem.
Những Câu Thơ Dọn Cảnh
Từ trước cả cái thời có giai thoại “Thơ Con Cóc”
các cụ của chúng ta làm thơ thường theo trình tự
Tức Cảnh – Sinh Tình. Cảnh là cái cớ; cốt tủy của
Thơ nằm ờ chữ Tình. Vì thế, bài thơ thường mở
đầu bằng những câu dọn cảnh, qua đó tác giả phác
họa khung cảnh của bài thơ. Tôi gọi tắt là những
câu Cảnh.
Cảnh có thể là một người, vật, cảnh vật, sự việc hay
ý tưởng xuất hiện trước mắt hay trong đầu của tác
giả; tác giả tạo ra những câu Cảnh, xem đó là cái
nguyên cớ, cái gợi ý để Tức Cảnh Sinh Tình, nghĩa
là dựa vào Cảnh viết thêm những câu thơ khác biểu
lộ tâm sự, cảm xúc của mình.
Thí dụ hai câu đầu trong bài Chân Quê của Nguyễn Bính:
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Ở đây tác giả đã tạo ra và bước vào khung cảnh của
bài thơ, đã đứng ở con đê đầu làng để chờ người
yêu về (tâm đối cảnh). Chúng đã có điều kiện cần
(nhưng chưa đủ) để gọi là thơ. Bởi chúng mới chỉ
là những câu Cảnh; phải chờ tác giả Sinh Tình –
nghĩa là dựa vào Cảnh để viết tiếp những câu chứa
đựng cái Tình, cái tâm sự của mình.
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi.
Đến đây, Tình đã phát sinh, cảm xúc của tác giả đã
xuất hiện. Hai câu cảnh, đứng riêng lẻ thì chưa thể
gọi là thơ. Chỉ đến khi tác giả đã hoàn tất hai câu
Sinh Tình thì hai câu cảnh mới tự động trở thành
thơ và tất cả đã hợp cùng với những đoạn sau để
trở thành một bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Bính.
Hai câu đầu của bài Bạc Tần Hoài (Đỗ Phủ)
Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát
Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia
Tác giả đã có mặt tại bến Tần Hoài để ngắm
cảnh khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát; ở
đây tâm đã đối cảnh. Nhưng 2 câu này vẫn chưa thể
gọi là thơ vì chưa có bóng dáng của cảm xúc. Phải
chờ 2 câu sau:
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa
Cô gái không hay buồn mất nước
Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa
(Trần Trọng San dịch)
thì mới thấy bóng dáng của chữ Tình; Đó là nỗi
buồn xé ruột của một sĩ phu yêu nước. Hai câu đầu
- đóng vai những câu thơ dọn cảnh - cũng được ăn
ké theo thành 2 câu thơ cuả một thi phẩm tuyệt tác.
Trường Hợp Bài “Thơ Con Cóc”
Chàng Ngốc thứ nhất xuất khẩu:
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Đây là 2 câu mào đầu, dọn cảnh. Trường hợp này
tâm đã đối cảnh; chính mắt chàng Ngốc đã thấy
con cóc nhảy ra; tác giả đã có mặt trong khung
cảnh của “bài thơ”. Hai câu này đã có điều kiện
cần (nhưng chưa đủ) để được gọi là thơ. Nếu lúc
này tác giả đọc thêm vài câu nữa (Sinh Tình) thì sẽ
thành bài thơ. Nhưng cái cảm xúc đang óc ách
trong lòng chưa kịp biểu lộ thì đã … hết lượt (hết
thời gian dành cho mình, đến lượt người khác).
Nếu Chàng Ngốc Thứ Hai dùng 2 câu của Chàng
Ngốc Thứ Nhất làm phần mào đầu, gợi ý rồi đọc
mấy câu Sinh Tình của mình thì đã không bị gọi là
Chàng Ngốc và đã không có giai thoại ‘Thơ Con
Cóc”. Đàng này thấy con cóc vẫn cứ ngồi đó (chắc
hơi lâu) nên chàng đã đọc 2 câu mào đầu của chính
mình:
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Thế là hết giờ, đến lượt người khác. Do đó cái tâm
sự không thoát ra được, đành phải để âm ỉ trong
lòng. Đến đây chúng ta cũng vẫn chưa có Thơ.
Chàng Ngốc Thứ Ba tiếp tục mắc lỗi lầm của
Chàng Ngốc Thứ Hai nên cũng chỉ được thêm 2
câu thì hết giờ:
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi.
Cả 6 câu của 3 Chàng Ngốc hợp lại, tuy dài hơn, có
thứ tự lớp lang như một câu chuyện, cũng chỉ là cái
phần mào đầu, dọn cảnh (Cảnh), chưa có ai Tức
Cảnh Sinh Tình nên vẫn chưa có Thơ.
Giá như một trong ba chàng Ngốc (ai cũng được)
làm thêm đoạn dưới đây:
Nhìn con cóc nhảy
tôi nhớ những ngày xưa thơ dại
tôi cùng cô bé bên nhà
sau cơn mưa
cầm giỏ đi bắt cóc nhái
chơi mở quán bán hàng
(PĐN chế ra để minh họa)
thì đã có chút cảm xúc, thương nhớ, vấn vương một
kỷ niệm thời nhỏ dại. Và chúng ta đã có Thơ (hay
dở lại là chuyện khác).
Như vậy, “Thơ Con Cóc”, tuy đã vượt lên trên các
loại ca dao, vè, kệ, văn vần … , là “những câu thơ
dọn cảnh” đã qua được cửa ải “tâm đối cảnh”,
nhưng vì không có những câu Sinh Tình để bám
vào ăn theo nên cũng chỉ mới có điều kiện cần,
chưa đủ để được gọi là Thơ.
Nếu cách giải thích này may mắn được độc giả
chấp nhận thì “Thơ Con Cóc” không phải là
thơ. Những ai cho “Thơ Con Cóc” là một bài thơ
hay, hoặc dở (2) không những chỉ … trật lất mà
còn … trật lất đến hai lần.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
Chú thích:
1/ http://thuykhue.free.fr/tk97/concoc.html
Bài 3
VỀ "BÀI THƠ" "ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN"
Từ Một Bình Luận Trên Facebook
Dưới bài “Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết” Của Nguyễn Đức Tùng Có Phải Là Thơ? (1) do tôi (Phạm Đức Nhì) viết và đăng trên Facebook đã khá lâu, chị Kim Phượng Ngọc Huỳnh mới đây đã có bình luận như sau:
Anh PĐN ơi!
Bài thơ Đồng Dao Cho Người Lớn của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, theo em thấy nó "khô" quá. Vậy có phải là thơ không anh?
Đọc bình luận của chị xong tôi vào Google tìm đọc Đồng Dao Cho Người Lớn thì thấy bài thơ đã đuợc khá nhiều người bình. Nó cũng được nhạc sĩ Đỗ Triệu An phổ nhạc và còn được lấy tựa đặt tên cho cả một tập thơ của thi sĩ. (2)
Với bài thơ được đọc và yêu mến rộng rãi như thế mà chị KPNH lại chê là “khô” và lại còn đặt câu hỏi “Vậy có phải là thơ không anh?” thì đúng là chị đã hơi bị “to gan” mà lại còn “làm khó” tôi nữa. Tuy nhiên, vì câu hỏi liên quan đến bài viết của mình nên tôi bỏ thời gian đọc kỹ bài thơ và “gồng mình” viết thêm một bài ngắn trả lời chị.
Dưới đây là cả bài thơ:
ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN
Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời
có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
có cả đất trời mà không nhà ở
có vui nho nhỏ có buồn mênh mông
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.
Nguyễn Trọng Tạo - 1992
Trước hết, xin cảm ơn chị Kim Phượng Ngọc Huỳnh. Chị có con mắt thơ rất tinh. Đúng như chị nói, “bài thơ” ấy “khô”, chẳng có tý cảm xúc nào. Còn nó có phải là thơ hay không thì bây giờ tôi sẽ giải thích.
Đồng Dao Và Vè
Đồng dao là lời hát dân gian truyền miệng của trẻ em, thường kèm một trò chơi nhất định. (3)
Sau đây là một ví dụ:
DUNG DĂNG DUNG DẺ
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến ngõ nhà Trời
Lạy Cậu lạy Mợ
Cho chó về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Ngồi xệp xuống đây
Theo Wikipedia Tiếng Việt thì:
“Vè là một trong những thể loại văn học dân gian Việt Nam. Vè được sáng tác bằng văn vần, sử dụng nhiều hình thức khác nhau: câu bốn chữ, năm chữ, lục bát, hát giặm, nói lối.
Có vè đồng dao, là những bài hát của trẻ em. Có vè thế sự, về người thật việc thật, phản ánh, bình luận những câu chuyện thời sự địa phương, những truyện đồi phong bại tục, những chuyện áp bức bóc lột của cường hào địa chủ và đời sống khổ cực của dân nghèo trong làng xóm.
Những người đặt vè, bẻ vè, nói vè phần nhiều thuộc tầng lớp dưới trong xã hội.”
Dựa vào thông tin trích dẫn ở trên có thể kết luận mà không sợ sai lầm, xét về mặt thể loại, đồng đao cũng là một loại vè, không phải là thơ.
Trở Lại “Đồng Dao Cho Người Lớn”
Theo Đỗ Trọng Khơi, “Đồng Dao của Nguyễn Trọng Tạo viết ở nhịp 8 chữ nhưng soi chẻ rạch ròi vẫn thấy cái dư khí của hồn bốn chữ dân gian”. Tôi đồng ý với anh ở điểm này. Cho nên ĐDCNL – đúng như cái tựa của nó – là một bài đồng dao. Và theo tôi, khi chọn cái tựa ấy, về mặt hình thức, tác giả đã vô tình tự xếp loại nó là vè.
Về nội dung thì “bài thơ” ấy chỉ là một tập hợp “hổ lốn” những câu nói, những phát biểu của nhà thơ, xếp đặt tùy tiện, không theo một cấu trúc hay một thế trận nào. Mỗi phát biểu là một “triết lý vụn” về một khía cạnh nào đó của cuộc đời.
Những phát biểu kiểu “triết lý vụn” ấy đã được ông góp nhặt từ quá trình học hỏi cũng như kinh nghiệm sống của mình. Lúc cơn hứng đến hoặc có gì đó khơi gợi, thôi thúc, ông cho nó tuôn ra và dùng kỹ thuật thơ của mình ghi lại. Rất tiếc, ông đã quên tạo ra một khung cảnh để mời tâm hồn của mình bước vào cho “tâm đối cảnh” và “tức cảnh sinh tình”.
Cái gọi là “tứ thơ” chỉ là dòng ý tưởng – hoàn toàn là sản phẩm của lý trí - tuy mở ra nhiều miền nghĩa nhưng lại không có tâm hồn và cảm xúc làm bạn đồng hành nên khô cứng như một cái xác không hồn.
Như vậy, Đồng Dao Cho Người Lớn – đúng như tác giả đã vô tình tự xếp loại – là một bài vè, không phải là thơ.
Những Vòng Nguyệt Quế
Đồng Dao Cho Người Lớn không phải là thơ nhưng, không biết tại sao, lại được dân chơi thơ chấp nhận, tán thưởng và trao tặng nhiều phần thưởng cao quý:
1/ Được nhạc sĩ Đỗ Triệu An phổ nhạc.
2/ Được lấy tên đặt cho cả một tập thơ cùng tác giả (2)
3/ Được ít nhất 3 người viết lời bình. (Đỗ Trọng Khơi, Trần Kim Lan và Trần Trung) (4)
4/ Được chọn là một trong 100 Bài Thơ Hay Thế Kỷ 20.
5/ Bài do Trần Trung viết lời bình được đưa vào tập Bình Thơ Từ 100 Bài Thơ Hay Thế Kỷ XX - Tập Hai
Kết Luận:
Nhận diện thơ – phân biệt thơ với những thứ không phải là thơ - lẽ ra phải là bài học đầu tiên cho thi sĩ, cho nhà phê bình và cả những người thưởng thức thơ. Nhưng bài học nhập môn này thường không được giới chơi thơ coi trọng hoặc tìm hiểu đến nơi, đến chốn.
Thỉnh thoảng có một bài vè đi lạc vào vườn thơ cũng không phải là chuyện lạ. Vè được nhạc sĩ phổ nhạc cũng chẳng có gì đáng nói. Vè mà được lấy tên đặt cho cả một tập thơ, tuy có hơi ngược đời nhưng đó là quyền của tác giả. Vè mà được mấy người chơi thơ xúm vào viết lời bình, tuy hơi lạ nhưng cũng dễ hiểu – đó là quyền của người bình; hơn nữa họ thuộc trường phái bình thơ không bàn thi pháp - chỉ đem ý tứ tán rộng ra – thì thơ có khác gì văn xuôi, thơ với “không thơ” cũng “cá mè một lứa”.
Tuy nhiên, để một bài vè như Đồng Đao Cho Người Lớn, một thứ cây dị chủng, chưa đủ điều kiện để được gọi là thơ, không những lọt vào vườn thơ mà lại còn được đặt vào chỗ trang trọng nhất, được chọn vào danh sách 100 Bài Thơ Hay Thế Kỷ 20, thì quả là trái khoáy và bất công đến độ lố bịch.
Lạ lùng thay, sự trái khoáy và bất công ấy vẫn cứ ung dung tồn tại suốt bao nhiêu năm nay. Mãi cho đến tuần lễ cuối tháng 6 /2018 mới có người lên tiếng phản bác. Một lần nữa, cám ơn chị Kim Phượng Ngọc Huỳnh, người có tấm lòng vàng với thơ, đã mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình.
Xin những người có trách nhiệm canh giữ Vườn Thơ Việt Nam và những người yêu thơ khác cùng góp tiếng nói để lấy lại công đạo cho thơ.
Texas ngày 10 tháng 7 năm 2018
Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
1/ Trang Facebook nhipham
2/ Đồng Dao Cho Người Lớn, Nhà Xuất Bản Văn Học, Hà Nội 1994.
4/ Đỗ Trọng Khơi trong Bàn Về Đồng Dao Cho Người Lớn Của Nguyễn Trọng Tạo
Trần Kim Lan trong Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Đồng Dao Cho Người Lớn Của Nguyễn Trọng Tạo
Trần Trung trong “Đồng Dao Cho Người Lớn”
Bình Thơ Từ 100 Bài Thơ Hay Thế Kỷ 20 (Tập Hai), Vũ Quần Phương Chủ Biên, Nhà Xuất Bản Giáo Dục 2008.
Cả 3 người bình (Đỗ Trọng Khơi, Trần Kim Lan, Trần Trung) đều gọi ĐDCNL là thơ.
BÀI 4
THI SĨ CÓ XẠO KHÔNG?
Người Đời Thường Gian Dối
Tôi học Đệ Nhất ở Lý Thường Kiệt, một trường trung học công lập quận Hốc Môn, nhưng vì nghe tiếng giáo sư Trần Bích Lan nên thỉnh thoảng cũng “vù” lên trường Văn Học ở Sài Gòn học ké mấy giờ Triết. Phải công nhận thi sĩ Nguyên Sa giảng Triết nghe đã thiệt. Có lần, không nhớ trong bài nào, thầy phát biểu:
“Do tính sĩ diện nên người đời thường gian dối; mở miệng ra là vơ cái hay, cái tốt về mình; ngay cả khi tiết lộ một chút gì xấu của cái Tôi là cũng muốn chứng tỏ mình thành thật.”
Sau khi “mất” Khánh Ngọc, Phạm Đình Chương đã sáng tác nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau trong đó có câu:
“Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin những người, ôi những người khóc lẻ loi một mình”.
Ý nhạc sĩ muốn nói chỉ những người khóc lẻ loi một mình (như ông đang khóc Khánh Ngọc) mới đáng tin là có nỗi đau buồn chân thật.
“Bởi đàng sau những giọt nước mắt
giữa đám đông
rất có thể
ẩn hiện bóng hình
loài cá sấu.”
(Kẻ Giết Chết Hồn Thơ, Phạm Đức Nhì, vandanviet.com)
Nhưng nhiểu trường hợp người ta còn dàn cảnh để “con mồi” được tận mắt xem tấn tuồng “khóc lẻ loi một mình” rồi tin và hiên ngang bước vào bẫy. (1)
Phạm Đình Chương, khi viết Nửa Hồn Thương Đau, không ngờ rằng ngay cả tiếng khóc lúc lẻ loi cũng có thể sản sinh những giọt nước mắt cá sấu. Tính gian dối của người đời sâu đậm đến như thế đấy.
Thi Sĩ Có Xạo Không?
Trở lại buổi học Triết với thầy Trần Bích Lan. Lúc ấy, vốn có tiếng nghịch ngợm lại bạo mồm, tôi ngồi tại chỗ “hỏi chõ” lên:
“Thế thi sĩ có xạo không thầy?”
Thầy nhìn về hướng tôi ngồi, trả lời tỉnh bơ:
“Có chứ, sao lại không! Khác nhau là cố ý hoặc vô tình.”
Không ngờ mấy chục năm sau, vướng “đậm” vào cái nghiệp thi ca, tôi lại phải trả lời câu hỏi của chính mình. Không biết lúc ấy thầy Trần Bích Lan trả lời thật hay đùa; tôi cũng không có cơ hội để hỏi thầy đến nơi, đến chốn.
Nhưng đọc khá nhiều thơ, thỉnh thoảng lại chất vấn tâm hồn mình – cũng là người múa bút làm thơ – tôi thấy quả đúng như thầy nói, thi sĩ nhiều người, nhiều lúc cũng “xạo tới bến”.
Tại Sao Thi Sĩ Xạo?
Lý do cũng dễ hiểu. Người đời trong giao tiếp hàng ngày, đôi lúc ở chỗ này chỗ khác, nói năng có điều gì thất thố, có xúc phạm ai thì cũng chỉ một số ít người biết. Sau đó lời nói sẽ bay đi như gió thoảng.
Còn thi sĩ, bài thơ xuất xưởng là sẽ vượt khỏi sự kiểm soát của mình, nếu sai sót điều gì hoặc đụng chạm đến ai đó, hậu quả của những dòng thơ trên giấy trắng mực đen sẽ đọng lại rất lâu.
Cho nên đặt bút viết phải cẩn trọng. Cẩn trọng sẽ mời gọi lý trí. Có lý trí xuất hiện, thi sĩ - dù muốn dù không – cũng sẽ Xạo.
CHÚ THÍCH
1/ Trong Cô Gái Đồ Long của Kim Dung tên Trường Linh đã giả vờ khóc trước bàn thờ Tạ Tốn để lừa Trương Vô Kỵ, hy vọng được Vô Kỵ tin tưởng dẫn ra Băng Hỏa Đảo.
BÀI 5
CÁC KIỂU XẠO CỦA THI SĨ
1/ Xạo Vì Ham Danh Lợi, Sắc Dục
Đây là kiểu xạo theo đúng nghĩa đen của từ “xạo” – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật - nhằm mưu cầu danh lợi, thỏa mãn sắc dục. Thi sĩ nếu vướng vào kiểu xạo này không chỉ làm mất đẹp thanh danh của mình mà còn làm ô uế chữ Thơ (viết hoa) trong sạch, cao quý của nhân loại.
Phạm tội hình sự nhiều khi có thể “qua mặt” pháp luật chứ phạm tội cố ý xạo (vì danh lợi) trong thơ thì sớm muộn gì cũng bị vạch mặt, chỉ tên.
2/ Xạo Vì Sợ, Vì Hèn, Vì Teo Chim
Đây cũng là kiểu xạo theo đúng nghĩa đen của từ “xạo” – nói sai sự thật, xuyên tạc sự thật. Thi sĩ để “cái tôi teo chim” lấn át “cái tôi văn hóa” và “cái tôi đích thực”. Biến chứng của nó là thái độ “nâng bi” chế độ, lãnh tụ, cấp trên - những người có quyền quyết định sự an nguy, thăng tiến hoặc tụt hậu của mình và gia đình.
Giữa “cái tôi văn hóa” và “cái tôi teo chim” thì “cái tôi teo chim” mạnh hơn, có uy thế hơn nhiều. Nghĩ đến chết chóc, tù đày, gia đình bị tước đoạt mọi phương tiện, nguồn sống, ngòi bút của thi sĩ đôi lúc phải cong lại hoặc vừa viết lại vừa phải “lách”. Cái xấu phủ đến đen mặt thì lờ đi, cái tốt thì có ít xít ra nhiều, nếu không có thì bịa ra, “bốc thơm” đến tận trời xanh. Thí dụ cụ thể về kiểu xạo này không thiếu nhưng tôi không trích dẫn. Sợ bị trách nặng tay bên này, nhẹ tay bên kia.
Làm thơ mà xạo là không đẹp. Trước tiên, nó làm mất đẹp thanh danh của mình. Sau nữa còn làm ô uế chữ Thơ (viết hoa) trong sạch, cao quý của nhân loại. Tuy nhiên, xạo vì teo chim dù sao cũng có chỗ để châm chước, thông cảm. Sống trong hoàn cảnh bó buộc như thế đâu phải ai cũng có máu anh hùng.
3/ Xạo Vì Đứng Về Một Phía Của Một Vấn Đề Hai Mặt
Đây là kiểu xạo “xoay trở tứ thơ” để có góc nhìn thuận lợi cho phe mình, mục đích để giành chiến thắng trong một cuộc tranh luận. Chủ thể đối luận có thể trực tiếp tranh cãi nhưng cũng có thể vắng mặt để thi sĩ một mình một chợ dàn trải quan điểm của mình. Đây là kiểu xạo
Ôi! Đẹp quá phe mình
còn phe bên kia
phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu.
Kiểu xạo này rất thường gặp, dính líu đến lập trường, quan điểm, được cả thi sĩ và độc giả chấp nhận. Dĩ nhiên, nó đỡ xấu hơn xạo vì danh lợi riêng tư.
4/ Xạo Vì Xê Dịch Kịch Bản Của Bài Thơ
Kịch Bản Thơ
Đã làm thơ, khi chữ nghĩa cùng với cảm xúc tuôn ra, chúng phải “chảy” về một hướng nào đó, bằng một “con kênh” nào đó. Con kênh có thể có trước, cũng có thể xuất hiện cùng thời điểm lúc chữ nghĩa và cảm xúc tuôn ra. (Trường hợp sau thì thơ dễ có hồn hơn).
Trong thực tế, ít ai từ lúc cầm bút viết những chữ đầu tiên của bài thơ cho đến khi buông bút là có “đứa con tinh thần” chào đời. Có khi ngày hôm sau, tuần sau, nhiều trường hợp còn lâu hơn nữa, phải quay trở lại tiếp tục công việc đang bỏ dở. Lúc ấy, đoạn sau phải viết sao cho ăn khớp với đoạn trước và phải phù hợp với bức tranh toàn cảnh của bài thơ.
Có điều chắc chắn rằng khi bài thơ hoàn tất, cả thi sĩ và người đọc sẽ nhận ra – có thể độ đậm nhạt khác nhau - hình ảnh của con kênh đó. Đó chính là bố cục mà riêng tôi có khi gọi là thế trận chữ nghĩa, hoặc kịch bản của bài thơ.
Kịch Bản Xê Dịch
Xin lập lại một đoạn trong bài viết khác:
Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện.
Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy.
Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được. (1)
Chúng ta thử đọc đoạn kết bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:
Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Tôi không tin là trong thực tế, con số chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn.
Ở đây thủ pháp “bộc lộ, không kể” (Show, Don’t Tell) được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời.
Chắc Độc giả cũng đồng ý với tôi sự xê dịch kịch bản chút ít của Giấc Mơ Anh Lái Đò là có thể chấp nhận được.
Trường hợp này khác với “lối nói thậm xưng” tôi sẽ đề cập ở phần sau.
Kịch Bản Xê Dịch Quá Nhiều Thành Xạo
Nhưng đôi khi có những kịch bản bị xê dịch quá nhiều, đi đến chỗ không hợp tình, hợp lý. Độc giả sẽ cho rằng thi sĩ “xạo”, và bài thơ thất bại.
Bài thơ Tình Yêu Không Lời của thi sĩ Phạm Trung Dũng có tứ thơ khá lạ và cảm động về mối tình của một chàng trai với cô gái câm điếc. Nhưng kịch bản của bài thơ đã được tác giả nêm nếm quá tay.
TÌNH YÊU KHÔNG LỜI
Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái nhành tim tím sang nhà em chơi
Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu...
Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi
Lặng yên... Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ.
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao thì cháy hết mình vẫn trao.
Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?
Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy, em ngồi lặng im.
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm.
Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ.
Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi.
(Phạm Trung Dũng)
Là hàng xóm sát mái, kề hè với nhau mấy tháng trời - có khi cả năm - (mấy mùa cây khế trổ hoa), lại sang nhà cô chơi mấy lần mà phải chờ đến khi hai người “tò tí” xong, đọc mẩu giấy cô gái nhét vào tay, mới biết cô gái bị câm điếc và bàng hoàng thương cảm, thì thật không thể nào tin nổi.
Phạm Trung Dũng không những chỉ nêm nếm quá tay mà – trong quá trình làm thơ và kiểm soát lại trước khi phổ biến – anh đã tự bịt mắt mình để không thấy những điều phi lý lẽ ra phải thấy.
Khi nhận ra chi tiết chính trong kịch bản của bài thơ không phải chỉ “không hợp tình hợp lý” mà còn xạo một cách trắng trợn, cảm xúc có được qua việc đọc thơ chỉ là thứ cảm xúc giả tạo, độc giả cảm thấy bẽ bàng vì bị xúc phạm. Bài thơ thất bại một cách ê chề.
CHÚ THÍCH:
1/ (Giấc Mơ Anh Lái Đò Hay Mối Tình Vô Vọng, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com)
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/giac-mo-anh-lai-o-hay-moi-tinh-vo-vong_1.html
5/ Xạo Nghệ Thuật - Lối Nói Thậm Xưng
Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (1)
Thí dụ:
Trong bài thơ Muốn Gởi Cho Em của thi sĩ Phạm Hữu T (tặng Phượng Kim Ngọc Huỳnh) thì câu:
Muốn gởi cho em
chút gió biển Galveston
là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galveston (ở Mỹ) làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có lý trong nghệ thuật”.
Gió từ Mỹ gởi về:
để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.
Có lý quá đi chứ! Và hai câu kế tiếp:
nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát
rồi bồi hồi
nhớ nhớ thương thương.
vừa trữ tình lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo Lụa Hà Đông - lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ mở đầu thật tuyệt vời. (2)
(Xin mở ngoặc nói thêm: Bài thơ là của Phạm Hữu T với cái tựa Muốn Gởi Cho Em; thí dụ trên được trích trong bài bình thơ Mối Tình Xuyên Lục Địa của PĐN)
Đây là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, nâng cao giá trị của bài thơ.
Xạo Nghệ Thuật – Ca Từ Trịnh Công Sơn
Nhiều người khen ca từ của Trịnh Công Sơn nhiều câu hay hơn cả thơ. Tôi chọn câu sau đây trong bài Như Cánh Vạc Bay:
Tóc em từng sợi nhỏ
rớt xuống đời làm sóng lênh đênh
Ôi! Chỉ có mấy sợi tóc nàng rớt xuống – không phải xuống hồ hay sông, biển - mà là xuống đời cũng đủ làm đời “dậy sóng”, làm biết bao phận người chao đảo, ngả nghiêng. Làm sao mà thực được. Nhưng lại rất đẹp, rất “thơ” và rất tuyệt. Nghe rất khoái, rất đã.
Tôi có cảm tưởng, bằng câu ca từ trên (và một số câu khác nữa), TCS không làm thơ nhưng ca từ của ông – không những đẹp hơn, hay hơn – mà hình như đã bước lên một tầng bậc mới, cao hơn hẳn thứ ngôn ngữ thường thấy ở trong thơ.
CHÚ THÍCH
1/ Diên Hồng Dương, Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ Xạo” https://www.facebook.com/dienhong.duong.5/posts/98668014146907
2/ Mối Tình Xuyên Lục Địa
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/06/moi-tinh-xuyen-luc-ia.html
Bài 6
KIỂU XẠO CUỐI CÙNG - XẠO VÌ NÉ TRÁNH "CĂN PHÒNG BÍ MẬT"
Câu Hỏi Làm Thi Sĩ Nhìn Kỹ Lại Tâm Hồn Mình
Giả sử có một thi sĩ nào đó, không có tật nói dóc, không thích “nổ”, viết bài thơ, tứ thơ không kẹt chân ở một bên nào đó của một vấn đề hai mặt, câu hỏi được đặt ra là: “Lúc ấy thi sĩ có xạo không?”
Sau đây là một đoạn trích từ một bài viết của tôi (PĐN): (https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/02/co-ung-la-van-chuong-cang-hay-cang-xa.html)
Để có thể hội nhập và thích ứng với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều.
Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có hai cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: “Cái tôi đích thực” và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là “cái tôi văn hóa”.
Tuổi đời càng cao “cái tôi văn hóa” càng mạnh, càng rõ nét và “cái tôi đích thực” càng yếu kém, càng mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia.
“Cái tôi văn hóa” (cái tôi để sống với xã hội) và “cái tôi đích thực” có một sự khác biệt lớn. Đó chính là những gì tiềm ẩn trong vô thức (của “cái tôi văn hóa”), kín đáo điều khiển suy nghĩ và hành động của con người. Cho nên mặc dù thi sĩ 100% chân thật với “cái tôi văn hóa”, viết bài thơ (về tình yêu, chẳng hạn) không nằm ở bên nào của một vấn đề hai mặt, bài thơ đó cũng chưa phải là tâm tình của “cái tôi đích thực”, vì vẫn còn những điều đã ăn sâu vào tâm khảm, theo tập quán, thói quen, phải che giấu.
Câu Trả Lời Của Trần Hạ Vi
Về điểm này Trần Hạ Vi có câu trả lời sinh động bằng bài thơ Căn Phòng Bí Mật. Xin giới thiệu 2 đoạn hay nhất của bài thơ:
Có những điều sẽ chẳng nói ra
cho dù chúng ta
có yêu nhau đến thế nào chăng nữa
mấy ngàn ngày…
và có thể mấy vạn ngày tiếp lửa
chuyện anh
chuyện em
vẫn ẩn chứa bí mật của mỗi người
Có những góc tối ở trong hồn
của riêng ta
không bao giờ chia sẻ
chẳng phải vì niềm tin không vẹn vẽ
nhưng vì đó là căn phòng bí mật
chẳng nên mở bao giờ.
Khi còn giấu “những điều không thể nói ra”, “những góc tối ở trong hồn” trong Căn Phòng Bí Mật thì làm sao có sự chân thật hoàn toàn trong thơ.
Như vậy, Căn Phòng Bí Mật – Sigmund Freud gọi là vô thức - gần như là chướng ngại vật cuối cùng của con người đương đại nói chung và thi sĩ nói riêng để trở về “cái tôi đích thực”. Có thể nói tuyệt đại đa số công dân của trái đất, đặc biệt ở các nước văn minh, đã phải đối diện với chướng ngại vật này. Và gần như tất cả đã giơ tay đầu hàng.
Không mở được cửa Căn Phòng Bí Mật là một chuyện, họ còn khuyên bảo nhau đừng đụng đến Căn Phòng Bí Mật ấy để giữ “cái hạnh phúc” mà họ đang được hưởng.
Chúng ta ân ân ái ái
tan chảy ân tình
nhưng mỗi người chỉ có thể là riêng một
một anh
một em
dù ngọt ngào chung hưởng
đắng cay chia sớt
nhưng em là em
và anh vẫn là anh
Phòng chứa bí mật của phù thủy vẫn sẵn dành (1)
để chúng ta cất giữ những ước mơ ngông cuồng hoang dại nhất
tình yêu này sẽ luôn luôn có thật
khi em được là em
và anh được là anh
với căn phòng bé nhỏ của riêng mình
(1) Harry Potter và Phòng Chứa Bí Mật
Chính vì thế những triết gia Tây Phương – quan ngại đến nhân phẩm của con người – đã phải la toáng lên. Jean Paul Sartre (1) thì báo động “Con người mang thân phận của một kẻ vong thân”. Còn Albert Camus (1) thì nói “Con người đích thực đã bất lực, để một ‘kẻ xa lạ’ xâm nhập, chiếm hữu thân xác mình.”
Với thi sĩ, nếu lúc nào cũng suy nghĩ, hành xử như một công dân lịch sự của một xã hội văn minh thì cửa CPBM của họ sẽ được khóa chặt, và trên những bài thơ của họ, một chữ “Xạo” thật to luôn nhởn nhơ truớc mắt mọi người.
Chủ Nghĩa Siêu Thực ra đời nhằm giúp Nghệ Sĩ được hoàn toàn Tự Do để Sáng Tạo.
Trong loạt bài này tôi không nói đến các ngành nghệ thuật khác mà chỉ chú trọng đến Thơ - đến phương cách giúp Thi Sĩ xóa bỏ chữ Xạo trong Thơ.
SIÊU THỰC
Luận Điểm
Siêu thực dựa trên triết học phân tâm của Freud.
Freud chia hoạt động tâm thần làm ba khu vực: Vùng vô thức, vùng ý thức và Cái Siêu Ngã (le sur moi) có trách nhiệm kiểm duyệt.
Vùng vô thức chứa đựng toàn bộ những nhu cầu bản năng bị dồn nén, cấm kỵ không được phát lộ ra ngoài. Cái tôi vô thức mới là bộ mặt thật, là cái tôi đích thực của con người. Nó chi phối mọi hoạt động tinh thần.
Vùng ý thức chứa đựng những gì đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội, sẵn sàng trình làng. Nó chỉ là bộ mặt bề ngoài, giả dối và ngụy tạo.
Cái Siêu Ngã có trách nhiệm kiểm duyệt, chỉ cho “trình làng” những gì chứa đựng ở vùng ý thức đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội.
http://thuykhue.free.fr/stt/s/breton.html
Tóm Tắt:
Vô thức là THẬT
Lý trí và siêu ngã là một
Lý trí là thủ phạm tạo ra chữ XẠO trong thơ.
Hai Phương Cách Loại Bỏ Lý Trí Trong Thơ Của SIÊU THỰC
1/ Đưa “Mơ” Vào Thơ.
Mơ, đối với Freud, là thực hiện những khát vọng bản năng bị dồn nén. Khi ngủ, cơ quan kiểm duyệt không làm việc, do đó, chỉ trong mơ người ta mới thể hiện được những ham muốn bị dồn ép cấm kỵ lúc tỉnh.
Những điểm không thuận lợi khi đưa Mơ vào Thơ:
a/ Hình ảnh, cảnh tượng, câu chuyện trong Mơ thường “đầu Ngô mình Sở”.
b/ Lúc tỉnh dậy cố ghi lại giấc mơ thì chỗ nhớ, chỗ quên, tính "đầu Ngô mình Sở" càng rõ nét hơn.
c/ Tập hợp những hình ảnh, cảnh tượng xảy ra trong mơ đưa vào bài thơ, không ít thì nhiều, cũng sẽ có bóng dáng của lý trí.
d/ Tính "đầu Ngô mình Sở" của nội dung khiến chức năng truyền thông của bài thơ “đi tìm đồng cảm” với độc giả không thể thành công.
e/ Một điểm nữa, quan trọng hơn cả, là Siêu Thực ở đây chỉ chú ý đến What? (viết cái gì?), còn "How?" (viết thế nào?) thì chẳng cần đề cập.
2/ Đặt Cạnh Nhau Những Nhóm Chữ Và Hình Tượng Không Liên Quan
Trong siêu thực, nhà thơ lắp, ghép những thực thể vô cùng xa nhau: như suối và bài hát, như ngày và khăn bàn, với điều kiện là sự gặp gỡ này nẩy ra ánh lửa, bùng lên hình ảnh lạ: bài hát chảy, ngày mở ra. (bài hát "chảy" do gợi ý của "suối", ngày "mở ra" do gợi ý của "khăn bàn")
Mục đích là loại bỏ tính lô-gic, buộc lý trí phải “đi chỗ khác chơi”.
Thí dụ:
Buồn Xưa
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Rượu hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón hường say tóc nhạc trầm mi
Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Buồn hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu
Duyên vàng da lộng trái du ngươi
(Nguyễn Xuân Sanh)
Độc giả không thể “bắt” được tứ thơ. Chức năng truyền thông của bài thơ thất bại. Bài thơ chỉ là một mớ những con chữ vô dụng.
Chúng ta hãy nghe nhà phê bình nổi tiếng Đỗ Lai Thuý phát biểu sau vài lần đọc bài thơ:
“Bài thơ đọc một lần, hai lần... Ấn tượng khó hiểu, nhưng quyến rũ. Và hình như càng khó hiểu càng quyến rũ: cái hay và sự khó hiểu xoắn luyện vào nhau không thể tách bóc được? Và nhà phê bình, với số phận vô duyên của mình, cứ làm cái công việc không thể làm ấy”.
(Nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)
Với tôi, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy “cứ làm cái công việc không thể làm ấy” đúng là có số phận vô duyên thật. Bởi dù có đọc hàng vạn lần, nét quyến rũ có phủ kín tâm hồn, cũng chẳng thể hiểu được bài thơ ấy.
Như vậy với thơ, Chủ Nghĩa Siêu Thực có luận điểm hữu lý và hữu ích nhưng phương cách thực hiện thì không thành công.
Chữ Xạo vẫn đeo bám chữ Thơ.
THĂM LẠI BÀI THƠ “SAY ĐI EM”
Lời Nói Đầu:
Nhiều năm trước tôi đã viết lời bình cho bài thơ đặc biệt này với tựa đề Say Đi Em - Một Bài Thơ “Tới Bến”. Đó là kiểu bình thơ “bài bản, trường lớp” - tiếp cận, phân tích toàn diện bài thơ – như một bài Luận Văn (Essay) ở bậc đại học.
Lần này, nhân dịp mở trang Blog Lý Thuyết Thơ tôi “Thăm Lại Bài Thơ” để nhấn mạnh vài “phương tiện thẩm mỹ” mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã sử dụng một cách điệu nghệ để đưa bài thơ lên đỉnh cao chót vót của nghệ thuật thi ca.
Những “phương tiện thẩm mỹ” đó là:
1/ Bố cục dàn ý hợp lý
2/ Nối kết các ý khi chuyển đoạn khéo léo.
3/ Sử dụng vần điệu nghệ - vị ngọt rất đậm nhưng không ngán
4/ Nhịp điệu sống động
5/ Dòng tứ thơ, dòng âm điệu, dòng cảm xúc – 3 dòng nhập một, chảy rất mạnh.
6/ Đoạn kết tuyệt vời
7/ Tạo được cao trào và kết thúc ở cao trào/ hồn thơ lênh láng
SAY ĐI EM
Tác giả: Vũ Hoàng Chương.
1/
Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương…
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?
Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
2/
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Âm ba gờn gợn nhỏ
Ánh sáng phai phai dần…
Bốn tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
Tay mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
Còn chưa say hồn khát vẫn thèm men
3/
Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt!
Rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết!
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi…
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
4/
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
(Vũ Hoàng Chương)
Thành Sầu Của Vũ Hoàng Chương
VHC ngoài việc bắt buộc phải theo Tây học để tiến thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ” của người Pháp. Ông cũng lao vào những thú vui trác táng – rượu, thuốc phiện, nhảy đầm và cả gái nữa. Về điểm này, Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một đoạn khá đầy đủ:
Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. (3)
Như vậy, “thành sầu” của VHC là nỗi sầu đất nước bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm tha hóa, băng hoại bằng đủ mọi âm mưu thâm độc.
Trớ trêu thay, chính ông lại góp tay, giúp sức cho bộ máy cai trị ấy, chính ông lại lậm vào những cuộc chơi trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn làm gương xấu cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc.
Ông cảm thấy tội lỗi, tủi nhục, uất ức và chất ngất buồn sầu.
Tứ Thơ
Trong một đêm đi nhảy ở vũ trường, gặp “bạn nhảy cũ”, tác giả mời nàng đối ẩm, có ý muốn mượn rượu để giải sầu, nhưng uống đến mức “say không còn biết chi đời” mà nỗi sầu vẫn sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.
Bố Cục Dàn Ý
Bài thơ có thể chia làm 4 đoạn:
1/ Đoạn mở đầu 10 câu, thiết lập khung cảnh của bài thơ: Đến vũ trường, gặp người tình cũ đang là ca ve ở đấy. Tình đã héo nhưng chân còn “ngứa ngáy” nên xáp lại.
2/ Đoạn hai 16 câu: Cảm giác “Đê mê hồn gửi cánh tay hờ” khi đang dìu em trên sàn nhảy lúc rượu đã ngà ngà.
3/ Đoạn ba 13 câu: Mời em cùng uống cho đến khi “say không còn biết chi đời”.
4/ Đoạn kết 5 câu: Nỗi sầu vẫn còn đó – sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.
Vần Và Dòng Chảy Của Tứ Thơ
Về hình thức, tác giả sử dụng thể Thơ Mới, nhưng không phải lối thơ Trường Thiên (mỗi đoạn 4 câu) mà là thể thơ nhất khí liền mạch – một hơi từ câu đầu đến câu cuối. Nhưng cũng không phải như Nhớ Rừng của Thế Lữ – cứ 8 chữ một câu với vần liên tiếp, đọc lên nghe rất ngán.
Có thể tạm gọi đây là một loại Thơ Mới Biến Thể, rất gần với Thơ Tự Do.
“Say Đi Em” rất phóng khoáng. Có đôi chỗ ngừng là do tác giả muốn chuyển ý, đổi vần chứ không phải do đòi hỏi của luật thơ. Ông cũng tạo ra một số thay đổi, vừa tránh được trói buộc của luật tắc, vừa có thể nhấn mạnh điểm chính của tứ thơ.
1/ Số câu trong bài không giới hạn, viết hết ý, hết hứng thì thôi.
2/ Số chữ trong câu thay đổi (với biên độ rộng) một cách tùy tiện, tùy hứng. Câu ngắn nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ (Hoa xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo). Nhờ thế, nhịp điệu thơ thay đổi liên tục.
3/ Vần rất đậm, nhưng không có hội chứng nhàm chán vần, đọc lên không thấy ngán. Câu sau nối tiếp câu trước, tứ thơ và cảm xúc cứ thế tuôn chảy thành dòng. Lý do: Nhịp điệu thay đổi cộng với sự giúp sức của mấy đoạn gieo vần gián cách:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Và:
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Thêm vào đó, để thay đổi không khí, còn có hai câu thơ lục bát mượt mà ở đoạn đầu:
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
và sự phối hợp một cách tài tình điệp ngữ, điệp vận với vần ôm ở đoạn kết.
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Ở thời điểm trước năm 1940 mà đã sử dụng vần phóng khoáng và điệu nghệ như vậy thì thật đáng nể phục.
4/ Chuyển đoạn ăn khớp: Cũng xin nói đến một điểm nổi bật về kỹ thuật thơ của VHC là sự chuyển đoạn ăn khớp, khéo léo – từ ý này bước qua ý khác rất ngọt.
a/ Đoạn 1 qua đoạn 2
Từ:
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ.
qua:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ.
Vừa nói “hết yêu nhưng còn mê nhảy” đã chuyển qua cảnh ôm em trên sàn nhảy. Sự kết nối thật tương hợp.
b/ Đoạn 2 qua đoạn 3
Từ:
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men
qua:
Say đi em! Say đi em!
Đều nói đến rượu, kết nối hợp lý.
c/ Đoạn 3 qua đoạn 4
Từ:
Say không còn biết chi đời
qua:
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Vừa thú nhận “Say không còn biết chi đời” đã thấy “Đất trời nghiêng ngửa”. Mối liên hệ nhân quả, không một kẽ hở.
Nhờ sự chuyển đoạn khéo léo như vậy nên tứ thơ thông thoáng, bài thơ nhất khí liền mạch, cảm xúc lớn mạnh nhanh chóng.
Điệp Vận Ở Phần Sau Đoạn 3 – Nói Về Cơn Say
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi…
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Có 9 câu thơ ngắn mà đến 6 lần vần ôi (hoặc ơi) – điệp vận đến mức thoạt nhìn qua là đã mất cảm tình. Nhưng thật lạ! Đọc lên không những không thấy ngán mà còn thấy hồn mình như bị dính chặt vào ý thơ – cơn say thực sự, “say không còn biết chi đời” – của tác giả.
Với cơn say ở đỉnh điểm như vậy, không còn chỗ cho lý trí và con đẻ của nó là sự dối trá, bám víu. Năm câu sau của đoạn kết đúng là tiếng lòng chân thật.
Điệp vận kiểu ấy, theo tôi, nếu là người làm thơ tỉnh táo, chắc là sẽ tránh xa. VHC, trong lúc lạc lần trí, đã hiên ngang bước vào “bãi mìn” ấy. Nhưng nhờ thế, đã tạo được một đoạn thơ độc đáo, có giá trị như một con dấu chứng nhận sự chân thật cho đoạn kết, góp phần hết sức quan trọng vào sự thành công của thi phẩm Say Đi Em.
Đoạn Kết Tuyệt Vời
Sau khi đã uống đến “Say không còn biết chi đời” thi sĩ đã cho tuôn ra đoạn thơ:
Nhưng em ơi!
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Đoạn thơ hay cả về ngôn ngữ, thi ảnh, cấu trúc, âm điệu và nhịp điệu. Đặc biệt điệp ngữ ở hai cụm từ “em ơi” và “Đất trời nghiêng ngửa” cho độc giả như tôi cái cảm giác đang nghe CODA kết thúc một bản nhạc, được viết rất khéo bởi một nhạc sĩ tài ba.
Thành sầu của ông như đang chịu một trận động đất mạnh đến mức “đất trời nghiêng ngửa” mà vẫn “chưa sụp đổ” và đã chuyển từ chỗ “chưa sụp đổ” – còn chờ đợi, còn một chút hy vọng mong manh – đến chỗ “không sụp đổ” – nghĩa là đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Nỗi buồn sầu đã dâng lên đến đỉnh điểm. Chữ “không” ở câu cuối “đắt” như kim cương và ẩn dụ của cả đoạn thơ thật tuyệt vời.
Cảm Xúc Dâng Tràn – Hồn Thơ Lai Láng
Cảm xúc tầng 1:
Theo tôi, VHC thành công trong việc trao tặng độc giả những cảm giác khoái trá ở tầng 1. Ngôn ngữ thơ của ông chắt lọc, trau chuốt, hình tượng đẹp một cách lộng lẫy, kiêu sa, câu thơ mạch lạc, trong sáng. Nói theo ngôn ngữ bóng đá, kỹ thuật cá nhân của các cầu thủ trong Say Đi Em điêu luyện, thuộc đẳng cấp cao, nhìn qua là thấy có cảm tình và nể phục.
Cảm xúc tầng 2:
Trong Say Đi Em thế trận chữ nghĩa được dàn trải hợp lý, tạo hiệu quả tối đa cho việc chuyển tải tứ thơ. Vần và nhịp điệu giúp dòng chảy của tứ thơ thông thoáng. Độc giả như được xem một trận bóng đá mà đội phe mình công thủ, lên xuống nhịp nhàng, đấu pháp toàn đội kín kẽ, hoàn hảo.
Cảm xúc tầng 3:
Là thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ – nếu đến mức dâng tràn, ta có hồn thơ lai láng. Để có hồn thơ lai láng bài thơ cần mấy điều kiện sau đây:
1/ Tứ thơ không phân mảnh đứt đoạn mà phải được dàn trải sao cho ý này nối tiếp ý kia, không ngừng nghỉ.
2/ Thể thơ phải như con kênh thông thoáng để khi câu chữ từ tứ thơ tuôn xuống có thể thành dòng thơ. Trong Say Đi Em, chỉ mới bước vào đầu đoạn 2 là men rượu đã ngấm, cảm xúc quyện lấy tứ thơ và âm điệu để cùng chảy một dòng. Đến đoạn 3, với hiệu ứng đặc biệt của dòng âm điệu, dòng thơ chảy rất nhanh và rất mạnh.
3/ Thi sĩ phải nổi điên để cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí. Trường hợp Say Đi Em, bắt đầu đoạn 3 là lý trí đã trốn chạy khá xa, đến cuối đoạn thì lý trí đã biệt tăm, biệt tích, thi sĩ đã “Say không còn biết chi đời”. Hơn nữa, nội dung bài thơ lại thuộc loại “ngược dòng” nên “cơn điên” phải cực mạnh và “nhiệt độ sôi của cảm xúc” phải rất cao mới có thể phủ mờ lý trí để vuợt qua nỗi Sợ Xấu, Sợ Nhục với người đời cuả VHC.
4/ Phải kết hợp để khi cảm xúc lên đến đỉnh điểm (cao trào) thì cũng là lúc thi sĩ tuôn ra điểm cốt yếu của tứ thơ. Đó sẽ là tiếng lòng chân thật của ngài. Ở Say Đi Em là đoạn 3 và đoạn 4.
Kết Luận
Say Đi Em không những có đủ 4 điều kiện trên mà điều kiện nào cũng đạt đến mức hoàn hảo nên hồn thơ cực mạnh.
Hơn nữa, bài thơ lại kết thúc ở cao trào nên hồn thơ không những cực mạnh lại còn có sức ngân vang trong tâm hồn người đọc mặc dù bài thơ đã hết.
Tôi cho rằng cùng với thi phẩm Say Đi Em của mình, Vũ Hoàng Chương không những đã có thể bước vào Bến Bờ Thi Ca mà còn xứng đáng ngồi vào hàng ghế trang trọng nhất.
PHẠM ĐỨC NHÌ
nhidpham@gmail.com
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/
THĂM LẠI BÀI THƠ “TRÁI TIM RAO BÁN”
Lời Nói Đầu:
Tôi đã viết lời bình cho bài thơ Trái Tim Rao Bán của Đinh Thị Thu Vân từ rất lâu. Lần này tôi thăm lại bài thơ, bàn thêm về những "phương tiện thẩm mỹ" đã nâng giá trị của thi phẩm đặc biệt này lên một tầm cao mới để làm thí dụ cho hai phần quan trọng trong trang blog Lý Thuyết Thơ là Kỹ Thuật Thơ và Bến Bờ Thi Ca
(Bàn thêm về Vần, chữ Dâm và Hồn Thơ)
TRÁI TIM RAO BÁN
Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán
Một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán
Một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh
(Đinh Thị Thu Vân)
Vài Nhận Xét Thêm
1/ Tìm hiểu tứ thơ
Đoạn đầu:
Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán
Bỗng dưng nữ sĩ Đinh Thị Thu Vân lại nghĩ đến cái ngày “phải xót xa, xót xa đem trái tim mình rao bán”. Chị lập lại hai chữ “xót xa” để “thông báo” là nỗi buồn, nỗi cô đơn đã lớn mạnh đến mức phải nghĩ đến chuyện “kỳ cục” đó.
Động từ chia ở thì tương lai nhưng nỗi buồn, nỗi cô đơn, khao khát tình yêu lại đang hiện hữu rất sâu đậm trong lòng chị ngay phút giây hiện tại này đây.
Ở đoạn kế tiếp:
Một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán
tác giả cho biết nỗi đau buồn đó dâng cao lên một tầng bậc mới, lúc mà khung cảnh “tình yêu biền biệt, hạnh phúc mù khơi” thúc đẩy những con chữ thấm đẫm nước mắt rơi xuống trang thơ, cho nên dù chỉ còn lại “trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng” - chị cũng phải “phũ phàng rao bán”.
Phần đầu đoạn kết:
Một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
Đây chính là giây phút chuyển biến thần tình của tứ thơ. “Mỏi mòn trong ảo vọng” chính là lúc cơn khát tình đã lên rất cao. Rao bán trái tim mà “không cần chọn lựa người mua” – không cần biết người đàn ông sẽ đến với mình là ai - nghĩa là chữ Tình đã đội nón ra đi để chữ Dâm độc chiếm thể xác và tâm hồn chị. Nói bạch văn là “Khát Tình” đã biến thành “Thèm Chim”.
Như thế cũng chưa hết. Rao bán mà “không cần sòng phẳng” – cho người mua được toàn quyền quyết định giá cả - có nghĩa là cũng sẵn sàng cho không “món hàng quý giá” của mình. Đọc đến đây chắc độc giả cũng đồng ý với tôi là cơn “thèm chim” của Đinh Thị Thu Vân đã lên cao ngất.
Đây chính là cao trào của bài thơ. Dòng tứ thơ và dòng cảm xúc trong cơn điên đã dâng lên đến đỉnh điểm và gặp nhau ở đó. Lý trí đã trốn biệt. Tâm tình được gởi đến độc giả là những lời thơ CHÂN THẬT.
Đoạn kết phần sau:
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh...
Nhóm chữ “một chút tình” - được lập đi lập lại ở đoạn kết, lúc “độ nóng” của cơn điên vẫn còn nhưng đang từ từ hạ xuống; “một chút tình” đó không phải là “sự tương hợp của hai tâm hồn đồng cảm” hoặc kém hơn một chút là tình một chiều – “ta yêu chàng mà chàng chẳng yêu ta”. Ở đây chỉ là một chút thương hại của người với người.
Đây là sự khác biệt lớn giữa Trái Tim Rao Bán của Đinh Thị Thu Vân và Cánh Đồng (1) của Nguyễn Đức Tùng. Với Nguyễn Đức Tùng thì “Khi cơn ‘khao khát dục tình’ đã lên cao thì thoả mãn chữ Dâm với người ngoài hành tinh cũng có thể chấp nhận được”. Còn Đinh Thị Thu Vân thì dù “thèm chim” đến nổi điên, đối tượng của chị vẫn là Con Người trên trái đất.
2/ Tứ thơ:
Nếu đọc lướt qua sẽ thấy tứ thơ rất đơn giản và “rất hiền” như sau:
Tác giả lên tiếng rao bán trái tim mình rồi hé mở cho biết lý do, và sau cùng là giá cả - rất đặc biệt.
Nhưng nếu lặn sâu một chút và đọc “giữa hai hàng kẻ” sẽ thấy:
Tác giả đột nhiên cảm thấy thèm khát dục tình đến cùng cực, sẵn sàng “tặng không” thân xác mình cho bất cứ ai.
3/ Kiếm Tông hay Khí Tông?
Đây là bài thơ Khí Tông, tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng từ câu đầu đến câu cuối.
5/ Ngôn ngữ thơ: Bình dị, dễ hiểu. Những nhóm chữ “mù khơi hạnh phúc”, “biền biệt tình yêu”, “mỏi mòn trong ảo vọng” đã diễn tả thành công một cách xuất sắc tâm ý của tác giả mà không phải dài dòng biện giải, hai chữ “chông chênh” tượng hình và đặc sắc cả về nghĩa lẫn âm.
4/ Số chữ trong câu thay đổi tự do, không bị luật tắc nào bó buộc. Nhịp điệu không đều đều buồn tẻ mà có vẻ uyển chuyển, sinh động.
6/ Nội dung lọt vào vùng cấm, không “phải đạo” mà chảy ngược dòng với nếp suy nghĩ và cách hành xử của người đời. Tâm thế của Đinh Thị Thu Vân lúc đó nếu không thuộc loại “get it off your chest” - cho bung ra khỏi ngực (chứ giữ lại thì chịu không nổi) mà chỉ cần một chút lý trí còn sót lại, chị cũng sẽ chùn bước, không dám đi tới bến.
7/ Không vờn bóng giữa sân: Các con chữ nối tiếp nhau trôi thẳng xuống điểm đến của tứ thơ.
8/ Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 mạnh mẽ; cảm xúc tầng 3 thì khỏi nói – cơn “thèm chim” đã lên rất cao nên có thể nói là hồn thơ lai láng.
9/ Giá mà vần NGỌT hơn ít nữa: Bài thơ Trái Tim Rao Bán tôi không dám chê là vần thiếu ngọt, nhưng dòng âm điệu chảy không được mạnh lắm. Tôi nghĩ nếu ở 2 đoạn sau có chút “thủ thuật” điệp vận nào đó khiến các con chữ và hình tượng nối kết chặt chẽ hơn nữa thì sẽ giúp tăng vận tốc và cường độ của dòng âm điệu. Dĩ nhiên, sẽ ảnh hưởng đến dòng cảm xúc. Lúc đó tôi sẽ khẳng định - chứ không phải dè dặt “có thể nói” - là hồn thơ lai láng
10/ Không kết thúc ở cao trào
Phần sau của đoạn kết:
Chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh...
được dùng để vừa giải thích vừa nhấn mạnh “Cơn Dâm của ta đã lên cao chót vót, nhưng ta chỉ muốn thỏa mãn cơn Dâm đó với con người trên trái đất, còn những chủng loại khác hoặc ‘người’ ở hành tinh khác thì xin mời đi chỗ khác chơi.”
Tôi thích cái ý này của chị. Theo tôi, nó đậm tính nhân văn hơn ý của Nguyễn Đức Tùng trong bài thơ Cánh Đồng. Nhưng để có được hai chữ “nhân văn” đó bài thơ đã phải có mấy câu giải thích và đã không thể kết thúc ở cao trào.
Điểm đặc biệt nữa của Trái Tim Rao Bán là tứ thơ thì “tục”, bộc lộ những điều mà phụ nữ “kiêng kỵ” nhưng lời thơ lại rất thanh. Chị dùng thủ pháp “Show, Don’t Tell” (Gợi, Không Kể) để bóng gió nói đến cơn “Thèm Chim” của mình.
Tôi rất mong chị và những độc giả nghiêm túc thông cảm cho việc đưa hai chữ “Thèm Chim” vào bài bình. Tại tôi quá mê và muốn làm nổi bật tính nhân văn của bài thơ nên đã đánh liều dùng đến hai chữ này. Tôi nghĩ hai chữ “Thèm Chim” ở đây sẽ làm nét đẹp tổng thể của bài thơ rõ ràng hơn, cao hơn, sang trọng hơn.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/
CHÚ THÍCH:
1/ https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/12/canh-ong-mot-bai-tho-la.html
Tạ Lỗi Trường Sơn
Nhìn T Xa ... Tổ Quốc
Trái Tim Rao Bán
Say Đi Em
Nhân Câu Chuyện
Vì Thế Tôi Ra Đi
Bánh Vẽ
Một Chút Tâm Tình
Nhớ Rừng
Nhà Tôi
Ta Về