Thứ Năm, 13 tháng 8, 2020

VÀI NHẬN XÉT VỀ VẦN TRONG THƠ LỤC BÁT

 

 

VÀI NHẬN XÉT VỀ VẦN TRONG THƠ LỤC BÁT

 

 

 

Vần Thơ Lục Bát Liên Tục Không Ngừng.

 

Thể thơ lục bát có lối gieo vần bài bản, nguyên tắc, vừa yêu vận, vừa cước vận. Tất cả những chữ vần với nhau đều là thanh bằng. Chữ thứ 6 câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát, rồi chữ thứ 8 câu bát vần với chữ th 6 câu lục kế tiếp - cứ thế cho đến hết bài (1).

 

Thí dụ:

 

TRE VIỆT NAM

 

Tre xanh xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre
xanh
Thân gầy guộc, lá mong
manh
Mà sao nên lũy nên
thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc
màu

Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn
lâu hoá nhiều

…………………………………………….

(Nguyễn Duy)

 

 

Các Loại Vần

 

Chính vận: Phần âm giống nhau, khác phụ âm đầu (xanh manh thành)

 

Thông vận: Phần âm na ná, gần giống, phụ âm đầu bất kể (ơi tươi vôi). Ngoài ra, nếu cần "đo độ ngọt" kỹ hơn sẽ để ý đến thông vận gần (an làng) hoặc thông vận xa (lang khương)

 

Chính tự vận: Nguyên chữ giống nhau (tràng tràng, ru ru)

 

Lạc vận: Khác biệt hoàn toàn (cười loan)

 

 

Lục Bát Nhiều Vần

 

Có thể nói thơ lục bát có vần dầy đặc – giống song thất lục bát - nhiều vần hơn hẳn các thể thơ khác.

 

Lượng vần của thơ lục bát được tính theo công thức:

 

Số cặp vần = Số câu – 1

 

Như thí dụ trên, 8 câu đầu của bài Tre Việt Nam có 8 – 1 = 7 cặp vần (giờ bờ, xanh manh, manh thành, ơi tươi, tươi vôi, màu đâu, đâu lâu).

 

Trong khi Thơ Mới liền mạch, vần liên tiếp như 8 câu đầu của bài Áo Lụa Hà Đông dưới đây

 

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà
Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng

Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung
quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa
……………………………………..

(Nguyên Sa)

 

chỉ có 3 cặp vần (Đông cùng, trng ngắn, quanh dung) được tính theo công thức: Số cặp vần = (số câu/2) - 1 = 3

 

 

Lạc Vận

 

Với thơ lục bát không nên lơ là với vần - nhất là đừng để lạc vận vì lỗi lạc vận là lỗi nặng. Một câu lạc vận là cả bài thơ “xấu mặt”.

 

Thí dụ 1:

 

TÂM ĐỨC LÒNG NGƯỜI

………………………………………………………..

Về nơi đoàn tụ trong lành
Gia đình vui sướng nụ cười tuơi duyên.

(Ghi Nguyen Duc, FB Lục Bát Việt Nam)

 

Hai câu cuối của bài thơ lạc vận – “lành” không vần với “cười”.

 

 

Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có 2 câu sau đây lạc vận:

 Một vùng cỏ áy bóng

Gió hiu hiu thổi một vài bông lau

(Câu 97 – 98)

 

” và “vài” lạc vận.

 

Tuy nhiên, sợ giảm nét đẹp của Truyện Kiều một số người đã sửa chữ "vài" thành chữ "" nhưng sửa như thế, theo tôi, quá gượng về ngữ nghĩa, làm "mất đẹp" câu thơ. (2)



Những "trục trặc" về vần ở phần sau của bài viết lúc đầu tôi không gọi là "lỗi" hay "phạm luật" mà chỉ cho là sự "không khéo" của tác giả. Nhưng khi bài viết được phổ biến nhiều độc giả đã đề nghị cứ coi đó là lỗi để các nhà thơ cẩn thận hơn. Vì dù sao những "không khéo" đó cũng ảnh hưởng xấu đến âm điệu của câu thơ, đoạn thơ. (3)

 

1/ Chính Tự Vận 


KHÔNG LÀ GIẤC MƠ

……………………..

Yêu nhau thì phải nồng say

Trọn đời suốt kiếp không thay đổi lòng

Cũng không một dạ hai lòng

Đồng cam cộng khổ vợ chồng bên nhau

……………………

Nguyễn Thanh Phong, FB Lục Bát Việt Nam)

 

Thi sĩ Nguyễn Thanh Phong đã gieo vần “chính tự” (lòng lòng) – hai chữ giống nhau như đúc. Gieo vần như vậy nghe có “cái gì đó” không thuận tai. Hơn nữa, vừa trùng vận lại vừa trùng ý nên làm dở đoạn thơ.

Mấy câu Kiều sau đây của Nguyễn Du tuy không trùng ý nhưng cũng là kiểu vần “chính tự” (chữ giống chữ). Theo tôi, có lẽ thi sĩ lúc ấy đang ở “thế kẹt”, không tìm được chữ hay hơn. Dù sao đi nữa cũng giảm giá trị nghệ thuật của thơ.

"Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru?

Lặng nghe lời nói như ru"

(Câu 346 – 347)


"Mừng thầm được mối bán buôn có lời

Hư không đặt để nên lời"

(Câu 2090 – 2091)

 

 

2/ Vần Quẩn

Đây là loại vần "đi dăm phút đã về chốn cũ" - nghĩa là quay lại vần cũ chỉ sau một lần chuyển vận.

 

Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai
Cửa hàng buôn bán châu Thai
Thực thà có một, đơn sai chẳng
hề
Thế nào nàng cũng phải nghe
Thành thân rồi sẽ liệu
về châu Thai
Bấy giờ ai lại biết ai
Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh    

(Kiều, Câu 2104-2110)

Từ bộ vần (ai Thai sai) mới chuyển qua (hề nghe về) đã quay lại (Thai ai dài). Bộ vần trên kết hợp với bộ vần dưới thành sáu âm chính vận (ai Thai sai Thai ai dài) tạo hội chứng nhàm khá vần rõ nét.

Bởi vậy, nếu không có nhu cầu cho một thi ảnh đặc biệt hoặc một biện pháp tu từ nào đó hãy để dòng chảy của tứ thơ chảy thêm một đoạn nữa rồi hãy quay lại vần cũ cho an toàn.

Đoạn Kiều của Nguyễn Du sau đây cũng “không khéo” tương tự như vậy.

 Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa

Trải bao thỏ lặn ác

Ấy mồ vô chủ, ai viếng thăm!

Lòng đâu sẵn mối thương tâm

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

 Đau đớn thay phận đàn !

Lời rằng bạc mệnh cũng lời chung.

(Câu 78 – 84)

 

 

3/ Vần Ngang Câu Bát

Cặp vần tai hại từ câu bát - chữ thứ 6 và chữ thứ 8 của câu bát vần với nhau. 

Chúng ta thử đọc bài thơ của Trần Trọng Giá dưới đây:

 ĐỜI

Đắng cay này gửi vào thơ 

Để đêm chia bóng, ngày chờ ước

Tằm ơi! Sao chẳng nhả

Cho ta vá lại hồn thơ nát nhàu!

(FB Lục Bát Việt Nam)

 

Có người gọi đây là lỗi “phong yêu” nhưng tôi không thích cái tên này vì nó dùng cho Đường Luật mà cấu trúc câu của Đường Luật và lục bát khác nhau

Ở đây chữ thứ 6 (chờ) và chữ th 8 câu bát () vần với nhau. Hậu quả là độc giả phải nghe âm điệu của một chuỗi 5 chữ (thơ chờ mơ tơ thơ) từ 4 câu thơ liên tiếp trùng vần – mà lại toàn là chính vận mới đáng sợ. Có một tô chè mà nêm đến mấy lạng đường, ngọt lợ đến gắt cổ.

  

Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!

Thương ôi! Không hợp mà tan

Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!

Chiêu hồn thiết vị lễ thường

Giải oan lập một đàn tràng bên sông.

(Câu 2964-2968)

 

Ba cặp vần “nhan tantan oan, oan nàng ” đã khá “ngọt”, lại thêm chữ “tràng” ở câu bát cuối khiến đoạn thơ bắt đầu ầu ơ, chán ngán; rồi còn hai chữ “oan”, “đàn” (câu bát cuối) tuy không ở vị trí gieo vần nhưng âm vang của chúng cũng đóng góp chút ít vị ngọt. Cuối cùng, anh chàng “hội chứng nhàm chán vần” đã ung dung bước vào.

Đoạn Kiều dưới đây còn "ngọt" hơn.

Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.

Sắm sanh lễ vật rước sang

Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han

Đạo nhân phục trước tĩnh đàn

Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.

Trở về minh bạch nói tường:

Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.

(Câu 1686-1692)

Đoạn này có 2 câu bát vần ngang. Chỉ cần đọc 5 câu đầu đã thấy ngán vì quá ngọt. Thêm hai chữ “nàng” ở câu bát cuối (một chữ ở vị trí không gieo vần) hội chứng nhàm chán vần càng nặng thêm. 

 

Vần trong thơ lục bát có thể tóm tắt như sau:

 1/ Toàn vần bằng.

 2/ Chữ thứ 6 câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát.

 3/ Chữ thứ 8 câu bát vần với chữ thứ 6 câu lục kế tiếp.

 4/ Nên tránh 4 lỗi về vần là 

     a/ Lạc vận

     b/ Chính tự vận

     c/ Vần quẩn

     d/ Vần ngang câu bát

 

Kết Luận

 

Bài viết này chỉ chú trọng khía cạnh kỹ thuật, trình bày hết sức đơn giản để độc giả thấy được bức tranh toàn cảnh và mấy điểm thực tiễn về vần. Hy vọng rằng có được chút vốn liếng ấy các bạn trẻ sẽ tự tin hơn khi cầm bút làm thơ lục bát.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

 

 

CHÚ THÍCH:

 

1/

 

Có một loại “lục bát biến thể” như 2 bài dưới đây:

 

Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

(Ca dao, khuyết danh)

 

Bão lặng mà gió còn lay
Khiến dạ bao ngày ảo não sầu ĐAU
Chỉ ước rạng rỡ về sau
Cho trúc xanh màu để thắm nhành mai.

(Tấn Phước Lê, FB Luật Thơ Tổng Hợp)

 

Vần ở câu lục vẫn như thường lệ. Câu bát gieo vần ở chữ thứ tư. Tuy nhiên, loại “lục bát biến thể” này rất ít gặp.

 

 

Ngoài ra có người còn tách riêng 2 câu đầu của đoạn thơ dưới đây và tặng cho nó danh hiệu “lục bát vần trắc”.

 

Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó
quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhận hỡi nhện đi đàng nào?
(Ca dao)

 

Theo tôi đây chỉ là một sự phá cách đột hứng trong ca dao tục ngữ. Cũng có thể là một kiểu biến thể của song thất lục bát. Sau đó, vì không có nhiều người hưởng ứng sáng tác nên tôi chỉ xem nó như một trong vài trường hợp cá biệt, chưa thể nâng lên hàng “thể thơ”.

 

Do đó, cho đến thời điểm này, lục bát chỉ gieo toàn vần bằng, không có vần trắc.



2/

 

Tôi có gởi bài viết cho bác Vũ Nho, chủ trang web Vũ Nho Ninh Bình thì được bác cho biết qua email rằng có 2 bản Kiều - bản do TS Phan Từ Phùng và bản bản do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo - đều viết rằng:

 

Một vùng cỏ áy bóng

Gió hiu hiu thổi một bông lau

 (Câu 97-98)


Riêng tôi dựa vào trang web sau đây:


TRUYỆN KIỀU BẢN 1866

 

Bản Nôm cổ nhất 1866 mới phát hiện / Nguyễn Quảng Tuân phiên âm - khảo dị và chú giải


Bản Liễu Văn Ðường—Nghệ An
by Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Published by Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2004)

 

𦹵
Một vùng 
cỏ áy bóng tà
󰊄
囂囂𠺙𢽼𦰟𦰤
Gió hiu hiu thổi một
vài ngọn lau. 

(Câu 97-98)

 

http://www.nomfouvào loạindation.org/nom-project/tale-of-kieu/tale-of-kieu-version-1866


 Phần Bàn Thêm

Vần có chính vận, thông vận gần, thông vận và thông vận xa nên độ ngọt của đoạn thơ vì thế mà thay đổi.

 

Vần Ngang Câu Bát

Nếu vần ngang câu bát (chữ thứ 6 và chữ thứ 8) là chính vận (hoặc thông vận gần) và những chữ nối vần ở câu trước và 2 câu sau cũng chính vận thì độ ngọt của vần rất cao, chắc chắn sẽ có hội chứng nhàm chán vần.

Nếu những chữ nối vần ở câu trước và 2 câu sau không là chính vận thì độ ngọt của vần sẽ ít đi - sẽ phải cẩn trọng hơn khi kết luận đoạn thơ có hội chứng nhàm chán vần hay không

Thí dụ:

Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!

Thương ôi! Không hợp mà tan

Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!

Chiêu hồn thiết vị lễ thường

Giải oan lập một đàn tràng bên sông.

(Câu 2964-2968)

 

Đoạn Kiều này có ba cặp vần “nhan tantan oan, oan nàng ” đã khá “ngọt”, lại thêm chữ “tràng” ở câu bát cuối khiến đoạn thơ bắt đầu ầu ơ, chán ngán; rồi còn hai chữ “oan”, “đàn” (câu bát cuối) tuy không ở vị trí gieo vần nhưng âm vang của chúng cũng đóng góp chút ít vị ngọt. Cuối cùng, anh chàng “hội chứng nhàm chán vần” đã ung dung bước vào.

 

2/

 

Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.

Sắm sanh lễ vật rước sang

Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han

Đạo nhân phục trước tĩnh đàn

Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.

Trở về minh bạch nói tường:

Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.

(Câu 1686-1692)

 

Đoạn này có 2 câu bát vần ngang. Chỉ cần đọc 5 câu đầu đã thấy ngán vì quá ngọt. Thêm hai chữ “nàng” ở câu bát cuối (một chữ ở vị trí không gieo vần) hội chứng nhàm chán vần càng nặng thêm. 

 

Đoạn Kiều dưới đây có cặp vần ngang câu bát là thông vận xa (vàn ân).

Rảy xin giọt lệ cho người thác oan

Bây giờ trâm gẫy gương tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

Trăm nghìn gửi lại tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

(Câu 748-752)

 

Chuỗi vần từ chữ “vàn” đi ngược lên là vần “an”, chuỗi vần từ chữ “ân” đi xuống là vần “ân” âm vang xa cách. Lại thêm chuỗi vần đi lên có chữ “oan” là thông vận gần của 2 chữ “tan vàn”, chuỗi vần đi xuống có chữ “quân” là thông vận của 2 chữ “ân ngần” nên âm vang xa cách lại càng thêm xa cách. Đọc lên rất trơn tru, không có hội chứng nhàm chán vần.

 

Đoạn thí dụ kế tiếp có vần ngang câu bát là thông vận rất gần (nàng than).

 

Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường

Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương

Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than

Ngăn tôi đứng lại một bên

Chán tai rồi mới bước lên trên lầu

(Câu 1998-2002)

 

“Nàng” có bổn phận phải ăn vần trực tiếp với “thương” và dính líu gián tiếp với “tường” ở phía trên; “than” có bổn phận phải ăn vần trực tiếp với “bên” ở và dính líu gián tiếp với “lên” ở phía dưới.

 

Vì “nàng” với “thương, tường” là thông vận xa, “than” với “bên, lên” cũng là thông vận xa nên hai lần thông vận đi hai hướng khác nhau đã hóa giải hội chứng nhàm chán vần. Đọc cả 5 câu thấy vừa ngọt, không nhàm chán chút nào.

 

Vần Quẩn

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Lựa chi những bậc tiêu tao
Dột lòng mình cũng nao nao lòng 
người
Rằng: Quen mất nết đi rồi
Tẻ vui thôi cũng tính 
trời biết sao!
Lời vàng âm lĩnh ý cao,
Họa dần dần bớt chút nào được không
!    

(Câu 490 -496)

Bộ vần (nào tao nao) ở 3 câu trên và bộ vần (sao cao nào) ở 3 câu dưới -toàn là chính vận - kết hợp với nhau tạo độ ngọt cao, đã có hội chứng nhàm chán vần.

Tương tự như đoạn trên, hai bộ vần (nhi đi gì) và (gì nghi gì) cũng toàn là chính vận nên hội chứng nhàm chán vần đã xuất hiện.

Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi
Thừa cơ lẻn bước ra đi
Ba mươi sáu chước, chước  là
hơn
Dù khi gió kép, mưa đơn
Có ta đây cũng chẳng
cơn cớ gì!
Nghe lời nàng đã sinh nghi
Song đà quá đỗi, quản  được thân    

(Câu 1108-1114)

 

Trong đoạn Kiều dưới đây bộ vần (nao đào rào) và (đầu dâu cầu) là thông vận xa nên mặc dù là vần quẩn vẫn không có hội chứng nhàm chán vần.

Dẽ cho thưa hết một lời đã nao
Vẻ chi một đóa yêu đào
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim
xanh
Đã cho vào bậc bố
kinh
Đạo tòng phu lấy chữ
trinh làm đầu
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi   

(Câu 502-508)

Tương tự như vậy đoạn kế tiếp cũng không có hội chứng nhàm chán vần.

Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối
manh
Khuôn thiêng dù phụ tấc thành
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời
Lượng xuân dù quyết hẹp hòi
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!    

(Câu 340- 346)

 

Có lẽ vì hơi phức tạp như vậy nên các nhà phê bình khi bàn về vần trong thơ lục bát đã không cho là phạm luật những trường hợp vần ngang câu bát và vần quẩn.

Chỉ riêng về Vần Quẩn Truyện Kiều có đến 16 đoạn Nhàm Chán Rõ Rệt, 20 đoạn Mấp Mé Nhàm Chán, 22 đoạn Nghiêng Về Phía Nhàm Chán. Độc giả có thể đọc cả 58 đoạn Vần Quẩn Tạo Cảm Giác Nhàm Chán theo link dưới đây

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-tao-cam-giac-nham-chan-van.html

 

 

 

 







Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2020

CÓ NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ NHƯ THẾ

 

MÓN QUÀ TRÊN FACEBOOK

Tôi kết bạn FB với Trần Thị Ngọc Hồng - giáo viên về hưu - được khoảng 1 tuần thì trong một lần trao đổi trên messenger chị có nhã ý gởi cho tôi mấy bài thơ để … đọc chơi. Tôi có tật mê thơ còn hơn mê gái nên ngừng trò chuyện là lấy ra đọc ngay. Và tôi hết sức kinh ngạc khi lướt qua đoạn đầu của Người Đàn Bà Trong Ngôi Nhà Có Đàn Ông. Tôi khoái bài thơ ngay sau lần đọc đầu tiên. Đọc đi đọc lại vài lần thì từ “khoái” chuyển thành “mê” lúc nào không biết.

Tôi đã ăn ngủ với bài thơ mấy tuần và đã “móc ruột” lôi ra được mấy lời bình phẩm sau đây. Xin chia sẻ với bạn đọc.


NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG NGÔI NHÀ CÓ ĐÀN ÔNG

Người đàn bà trở thành đàn ông

trong ngôi nhà có đàn ông

chèo thuyền đàng lái

con mèo nhỏ nhe nanh hổ cái

vồ khuyết vầng trăng


Người đàn bà dan díu cùng rơm rạ sình non

lấm lem số phận

đôi gót son từ độ phong trần

mong gì lòng nhân từ của đá?

 

Đêm nhận mặt nỗi đau

biển đời bập bềnh sóng cả

người đàn bà nương theo tiếng cười hồn nhiên con trẻ

quay về

tần ngần

rồi bỏ lại phía đam mê. 

Trần Thị Ngọc Hồng

 

TÂM SỰ CỦA AI?

Tác giả, không như lệ thường, viết ở ngôi thứ nhất mà mượn một nhân vật khác ở ngôi thứ ba, một “người đàn bà” nào đó, để bày tỏ tâm tình của mình. Viết kiểu này, nếu không khéo nhập vai, dễ thành kẻ bàng quan, “thương vay, khóc mướn”, và tác phẩm, có khi vì thiếu sự hiện diện và tâm tình của “cái tôi riêng tư” sẽ chỉ là một thứ cây dị chủng trong vườn thơ.

Ở đây nữ sĩ Trần Thị Ngọc Hồng, bằng cảm xúc mạnh mẽ của mình, chỉ trong mấy câu thơ đầu ngắn ngủi, đã cho độc giả thấy “tâm sự đó là của tui, người đàn bà kia với tui là một.”

Cảm được điều đó, đọc tiếp bài thơ sẽ dễ thấm hơn.

 

TỨ THƠ

Tứ thơ - nếu nhìn thoáng qua – có vẻ như được gói gọn trong 2 câu đầu:

Người đàn bà trở thành đàn ông

trong ngôi nhà có đàn ông

Tác giả bộc bạch tâm trạng của người đàn bà, trước hoàn cảnh xã hội nghiệt ngã, trớ trêu, trong nhà có đàn ông, nhưng có cũng như không, nên đành phải xắn tay áo đứng vào vị trí của người đàn ông để gánh vác gia đình.

 

LẤY HOÀN CẢNH TA SUY RA HOÀN CẢNH NGƯỜI 

1/ Cuối Năm 1983 

Trong thời gian ở Trại Trừng Giới A20, do những hoạt động chống đối, tôi bị đánh dập xương sống, liệt hai chân, rối loạn cơ tròn, đái ỉa tại chỗ. Nhân có phái đoàn y tế của Cục Trại Giam đến thanh tra, tháng 9/ 1983 – sau 8 năm 4 tháng cải tạo - tôi được đề nghị thả vì lý do nhân đạo. Tôi được xe bò chở ra khu nhà dân gần đấy và được một chị vợ tù đi thăm nuôi chồng đưa ra ga La Hai lên xe lửa về Sài Gòn. 

Là đàn ông, tôi không giúp đỡ gì được cho mẹ già, vợ chồng đứa em, hai đứa cháu mà trở thành gánh nặng lớn cho gia đình. Trong thời gian 6 tháng tìm thầy chạy thuốc, tôi đã chính mắt thấy mẹ mình thay đổi từng ngày, biến dạng cả về nét mặt, tâm tính, cách cư xử, để “trở thành đàn ông trong ngôi nhà có đàn ông”.

Những người tù cải tạo khác được thả về trước tôi chút ít (và sau này), có vợ con, không bệnh hoạn như tôi, đến thăm cũng lắc đầu chua chát: “Đánh bài bây giờ tụi mình chỉ là tay con, còn thì toàn đàn bà cầm cái”. Lý do: Là “Sĩ Quan Ngụy” hoặc dính líu ít nhiều đến chính quyền chế độ cũ nên hầu hết những công việc chúng tôi có khả năng (và chuyên môn) để kiếm sống, đều bị cấm đoán.

2/ Năm 1990 Và 5 Tháng Đầu 1991

Đoạn đời kế tiếp của tôi có thể tóm tắt như sau: Trời thương, lành bệnh, vượt biên trong Nam, bị bắt, 4 năm sau được thả, ra Bắc, gặp và sống chung với bà xã bây giờ. Nhờ “ở xứ mù kẻ chột làm vua” nên gầy dựng được mấy lớp dạy Anh Ngữ đàm thoại tại 2 khách sạn lớn (Bộ Điện Lực, Bộ Nội Vụ) và một số lớp tại nhà riêng của những gia đình có máu mặt ở Thị Xã Đồ Sơn, Hải Phòng. Nhưng chỉ 4 tháng sau , “vết đen lý lịch” lan truyền, nên dù được Trưởng Phòng Giáo Dục và Chủ Tịch UBND Thị Xã ủng hộ (vì Anh Ngữ lúc đó rất cần), các lớp học cũng bị công an đến tận nơi giải tán.

Hai vợ chồng và đứa con riêng của vợ phải sống bằng đồng lương chết đói của “người đàn bà”. Không có tiền “đấm mõm” cho công an, bị bới móc, hạch sách đủ điều, không làm được bất cứ việc gì phụ giúp vợ trong cuộc sống. Tôi lại trở thành “người đàn ông có cũng như không” như biết bao người đàn ông khác ở Miền Nam lúc đó – vì lý lịch xấu nên trở thành “bất khiển dụng” để vợ “nhe nanh hổ cái” cầm chịch gia đình.

Vợ tôi cuối cùng phải gạt nước mắt bán tống bán tháo nửa mảnh đất của căn nhà lấy 6 chỉ vàng để đóng tiền cho 3 người vượt biên qua Hồng Kông. 

Sợ tác giả bài thơ áy náy khi lời bình của tôi, không nhiều thì ít, cũng chạm đến chỗ nhột của phu quân nên tôi đưa “cái tôi ngượng ngùng” của mình vào bài viết để mọi người thấy rằng lúc ấy có đến cả vài trăm ngàn (1) thằng đàn ông “có cũng như không” như tôi, và cũng có hàng vài trăm ngàn “người đàn bà” phải “trở thành đàn ông” như Trần Thị Ngọc Hồng.

 

DÀN TRẢI TỨ THƠ

Tứ thơ đã nhận diện ở 2 câu đầu. Chi tiết của tứ thơ được dàn trải thành 3 đoạn:

1/

chèo thuyền đàng lái

con mèo nhỏ nhe nanh hổ cái

vồ khuyết vầng trăng

Trần Thị Ngọc Hồng ví mình như con mèo nhỏ, vóc dáng bé cỏn con nhưng bộ dạng, tiếng gầm gừ, thái độ (cách hành xử) đã thành con hổ cái nhe nanh “vồ khuyết vầng trăng”.

Đoạn thơ này không sử dụng phép ẩn dụ nhưng thủ pháp “gợi, không kể” đã đến mức tuyệt luân. Chị đã thét lên tiếng kêu than thảm thiết của người phụ nữ. Xã hội nghiệt ngã, bất công đến mức người đàn bà đã phải quên đi nét đẹp thùy mị, dịu hiền, thái độ mềm mỏmg, dễ thương của “phái đẹp”, phải “múa vuốt, nhe nanh, phùng mang, trợn mắt” để sống còn. Đây là một ý thơ tuyệt vời. Và cũng là nét nhân bản đầu tiên của tứ thơ.

Đoạn thơ làm tôi nhớ đến 4 câu thơ của Tố Hữu:

“Chuyện cô du kích xóm Lai Vu

Rắn quấn bên chân, vẫn bắn thù

Mỹ hại trăm nhà, lo diệt trước

Rắn, mình em chịu, có sao đâu!”

(Tâm Sự, Tố Hữu, thivien.net) 

Nhà thơ có thời được dân Miền Bắc nâng lên hàng “Thi Thánh”, kể chuyện cô du kích – trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, bom rơi đạn nổ – đã biểu lộ thái độ can đảm đến mức chai lì, mất hẳn cái tính “sợ” rất “phái yếu”, dễ thương của “phụ nữ”.

Có điều Tố Hữu lại ca ngợi thái độ chai lì đó, coi nó là một đức tính, kêu gọi những người phụ nữ khác lấy đó làm gương. Hơn nữa, đây là đoạn thơ “kể và nói hộ tâm sự của người khác”, nặng tính tuyên truyền, nhẹ về cái đẹp nghệ thuật. Đặc biệt câu cuối “Rắn, mình em chịu, có sao đâu” rất gượng gạo và … quá xa sự thật.

 

Trong khi hai câu của Trần Thi Ngọc Hồng

“con mèo nhỏ nhe nanh hổ cái

vồ khuyết vầng trăng.” 

về luật tắc thì phóng túng, ngôn ngữ tượng hình, ý nghĩa sâu sắc, là tâm sự của chính tác giả nên tự nhiên, và đặc biệt, thấm đẫm chất thơ.

2/

Người đàn bà dan díu cùng rơm rạ sình non

lấm lem số phận

đôi gót son từ độ phong trần

mong gì lòng nhân từ của đá?

Tác giả, do “số phận lấm lem” nên đau đớn quá thốt lên lời than vãn chứ đâu có mong đợi gi ở “lòng nhân từ của đá”. Trong một lần trao đổi qua Messenger trên FB chị tâm sự: “Khi viết ‘lòng nhân từ của đá’ em nghĩ đến câu ‘Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng’ trong bản nhạc Một Cõi Đi Về của Trịnh Công Sơn”. Theo tôi, đó là cách suy nghĩ rất “hiền lành”, ngừng ở “cái nghiệp” của mình, ở “hoàn cảnh xã hội nghiệt ngã, bất công”, không đi xa thêm nữa.

3/

Đêm nhận mặt nỗi đau

biển đời bập bềnh sóng cả

Đêm về tĩnh lặng, tâm lắng đọng mới “thấy” hết cái “nhức buốt” trong ruột gan, mới thấy nỗi đau của mình to lớn đến nhường nào. Ngoài kia biển đời vẫn “bập bềnh sóng cả”.

người đàn bà nương theo tiếng cười hồn nhiên con trẻ

quay về

tần ngần

rồi bỏ lại phía đam mê.

 

Đoạn thơ này gợi nhớ tới bài thơ ngắn của Đồng Đức Bốn:

 

CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA

Chăn trâu đốt lửa trên đồng

Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều

Mải mê đuổi một con diều

Củ khoai nướng để cả chiều thành tro. 

Củ khoai: Bữa ăn của trẻ chăn trâu – cái thiết thực của cuộc sống.

Con diều: Trò chơi, lạc thú, niềm đam mê và cũng là thức ăn cho phần hồn của cậu bé nói riêng và con người nói chung.

Ngụ ý của tác giả là: Con người nhiều khi chạy theo những cái viển vông, bay cao tít trên trời mà quên đi những thứ thiết thực, gắn bó với cuộc sống, ngay trên mặt đất. Nhưng cũng chẳng có gì nuối tiếc vì những thứ viển vông, cao tít đó chính là thức ăn cho tinh thần, cho phần hồn của con người; đó chính là niềm vui, hạnh phúc mà vật chất không thể tạo ra được. 

Câu bé chăn trâu đã quên củ khoai - bữa ăn trưa - để đuổi theo con diều, thỏa mãn niềm đam mê của mình. 

Trần Thị Ngọc Hồng thì ngược lại. Chị không còn là đứa bé vô tâm - chỉ biết chăn trâu, còn những mặt khác của cuộc sống đã có người lớn lo – mà là “người đàn bà trở thành đàn ông trong ngôi nhà có đàn ông”, phải gánh trách nhiệm lớn lao của người chủ gia đình. Do đó, “con diều”, thú vui, món ăn tinh thần … đành phải “bỏ lại phía đam mê”. Không đành lòng cũng phải bỏ lại, để có thể về với “tiếng cười hồn nhiên con trẻ”. Cũng “tần ngần”, cũng tiếc nuối, nhưng nghịch cảnh của cuộc đời đã buộc chị phải chọn lựa - một chọn lựa xót ruột, đau lòng vì không thể vẹn cả đôi đường.

Dĩ nhiên, về với “tiếng cười hồn nhiên con trẻ” là “thiên kinh địa nghĩa”, chẳng ai có thể chê trách chị một lời nào. Nhưng phải “bỏ lại phía đam mê” - gần như mất cả phần hồn của con người – thì tội nghiệp cho chị quá. Mà đâu phải chỉ mình chị. Còn biết bao “người đàn bà” cùng hoàn cảnh như chị - để tìm sự sống còn cho chính mình, cho chồng con giữa một xã hội khắc nghiệt, bất công, bất nhân - đã phải quay lưng lại “phía đam mê”, đóng chặt cửa, để mặc tâm hồn mình ngày càng héo úa. Ý thơ này cũng không kém phần sâu sắc, độc đáo, và là nét nhân bản thứ hai của tứ thơ.

 

TỨ THƠ HIỂU SÂU SUY RỘNG

Do hoàn cảnh xã hội nghiệt ngã, người đàn ông trong nhà “có cũng như không” nên người đàn bà phải quên đi nét đẹp dịu dàng của phụ nữ, trở thành đàn ông để chiến đấu cho sự sống còn của gia đình, những niềm vui, những “món ăn” riêng tư cho tâm hồn mình đành “bỏ lại phía đam mê”.

Nhưng nếu hiểu đến tận cùng độ sâu của tứ thơ sẽ là: Hoàn cảnh xã hội nghiệt ngã, bất công, bất nhân phát xuất từ chính sách phân biệt đối xử đã chà đạp nhân phẩm, làm khô úa tâm hồn hàng mấy trăm ngàn người phụ nữ Miền Nam, khiến trên vùng đất hiền hòa ấy bỗng xuất hiện muôn vàn khuôn mặt gian dối, lạnh lùng, vô cảm.

Tinh nhân bản rất rõ nét, sâu sắc và độc đáo.

 

HÌNH THỨC THƠ

Bài thơ có vóc dáng gần như tối ưu – số chữ trong câu, số câu trong bài tùy tiện, phóng túng. Các câu từ 2, 3 chữ đến 10, 11 chữ đều được sử dụng một cách thoải mái tự do, không có vẻ ngại ngùng, do dự hay gượng ép. Theo lối cách dòng và viết hoa, bài thơ được chia làm 3 đoạn nhưng đọc lên vẫn “nhất khí liền mạch”, những ý nhỏ của tứ thơ nối tiếp nhau chảy thành dòng rõ rệt.

Vần chỗ có, chỗ không, chẳng gò bó theo quy luật nào mà vẫn tạo được vị ngọt vừa phải, không nhiều đến mức ầu ơ, nhàm chán như những thể thơ truyền thống, nhưng cũng không nhạt nhẽo, khô cứng như Thơ Không Vần hoặc Thơ Văn Xuôi. Có thể nói nó là thứ Thơ Tự Do theo nghĩa cắt đứt hết những sợi dây trói buộc – giã từ thơ truyền thống, vượt qua Thơ Mới và Thơ Mới Biến Thể. Chỉ riêng về mặt hình thức thơ, giá trị nghệ thuật của Người Đàn Bà Trong Ngôi Nhà Có Đàn Ông đã được nâng cao lên rất nhiều.

Mấy chỗ gieo vần làm nổi bật ý thơ:

1/

chèo thuyền đàng lái

con mèo nhỏ nhe nanh hổ cái

vồ khuyết vầng trăng

2/

mong gì lòng nhân từ của đá?

Đêm nhận mặt nỗi đau

biển đời bập bềnh sóng cả

người đàn bà nương theo tiếng cười hồn nhiên con trẻ

quay về

tần ngần

rồi bỏ lại phía đam mê.

” vần với “về” đưa câu cuối của bài thơ, lúc đó cũng là dòng nhạc, trở về chủ âm, khiến đoạn kết của bài thơ nghe xuôi tai, nhẹ nhàng, nhưng đượm vẻ buồn bã, tiếc nuối.

 

CẢM XÚC

1/ Cảm Xúc Tầng 1: Cảm xúc tỏa ra từ câu chữ

Bài thơ viết theo lối Khí Tông – “nhất khí liền mạch”, chú trọng tạo cảm xúc theo dòng chảy của tứ thơ – nhưng lại có nhiều chiêu thức đẹp từ câu chữ, hình tượng, “tính văn chương” cao, tạo khoái cảm mạnh mẽ cho người thưởng thức thơ. 

2/ Cảm Xúc Tầng 2: Cảm xúc từ thế trận, từ sự phối hợp nhịp nhàng của các phân đoạn, các ý nhỏ của tứ thơ.

Trong Người Đàn Bà Trong Ngôi Nhà Có Đàn Ông các phân đoạn nối kết hợp lý, tứ thơ chảy thành dòng - nhẹ nhàng, nhưng có dòng chảy rõ ràng – làm những độc giả thích bóng đá như tôi khoái chí vì “đấu pháp toàn đội” gắn bó và hiệu quả. 

3/ Cảm Xúc Tầng 3: Cảm xúc từ trạng thái tâm của thi sĩ lúc làm thơ

Khác với Đỗ Trung Quân trong Tạ Lỗi Trường Sơn (2) và Nguyễn Duy trong Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc (3), Trần Thị Ngọc Hồng chỉ mở lòng cho nỗi uất ức từ sự cực khổ cả về thể xác lẫn tinh thần của mình trào ra chứ không để tâm đến, mà còn có ý tránh né, những khía cạnh liên quan đến chính trị.

Không lập trường, phe phái, chẳng phản kháng, phản biện nên chữ tình trong thơ cô đặc hơn. Cảm xúc tầng 3 của bài thơ, nhờ quy về một mối, nên thấm sâu hơn. Tuy nhiên, vì bài thơ ngắn (chỉ có 89 chữ) khó tạo cao trào; hơn nữa, chị chưa đến mức lạc thần trí hay nổi điên như Đỗ Trung Quân và Nguyễn Duy, nên hồn thơ chỉ ở mức nhẹ nhàng, tươi mát. 


KHUYẾT ĐIỂM 

Bài thơ có một khuyết điểm nhỏ nằm ở tựa đề. 

Tựa đề thường được hiểu là “một chữ hay một nhóm chữ chỉ ra cái cốt tủy của toàn bài nhưng không làm lộ mạch thơ”. Cái tựa “Người Đàn Bà Trong Ngôi Nhà Có Đàn Ông” không thỏa mãn được yêu cầu đó. Cốt tủy của bài thơ nằm ở chỗ “Trở Thành Đàn Ông”.

Đây chỉ là lỗi kỹ thuật. Nếu muốn, chị có thể tự mình sửa chữa để bài thơ hoàn chỉnh hơn.

                                                                                                                             NƠI TỤ HỘI ANH HÀO

Những bài thơ trên các thi đàn thì thường “được cái này mất cái kia”. Tứ hay thì kỹ thuật thơ vụng hoặc ít cảm xúc; kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn thì tứ lại “đi vào con đường đã có hàng triệu dấu giầy”.

Người Đàn Bà Trong Ngôi Nhà Có Đàn Ông – ngoài một khuyết điểm nhỏ đề cập ở trên - may mắn là nơi tụ hội anh hào; có 3 tiêu chí chính để thẩm định giá trị một bài thơ thì hình thức thơ và tứ thơ ở mức xuất sắc, còn tiêu chí cảm xúc được đánh giá là gần xuất sắc.

Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 đều mạnh, riêng hồn thơ chỉ ở mức “nhẹ nhàng tươi mát”. 

Ngoài ra cũng phải kể đến cái đẹp cao sang của ngôn ngữ, hình tượng mới lạ, sức gợi mạnh, ý nghĩa sâu sắc đầy tính văn chương của câu thơ, đoạn thơ, đặc biệt ở 2 đoạn biểu lộ nét nhân bản của tứ thơ.

Tóm lại, Người Đàn Bà Trong Ngôi Nhà Có Đàn Ông là bài thơ rất hay, xuất sắc trong cả 3 tiêu chí chính để thẩm định giá trị một bài thơ. Do tứ thơ độc đáo, hình thức thơ gần như tối ưu, theo tôi, nó xứng đáng là bài thơ đại diện cho thân phận đáng thương của phụ nữ Miền Nam Việt Nam trong giai đoạn lịch sử sau năm 1975. Giai đoạn đó kéo dài đến thời điểm nào? Câu trả lời xin nhường cho những sử gia sau này.

 

KẾT LUẬN

Cuộc đời Trần Thị Ngọc Hồng giờ đã bước sang một trang mới. Mồ hôi, nước mắt của biết bao năm tháng kinh hoàng đã có chút đền bù. Những “tiếng cười hồn nhiên con trẻ” nay đã trưởng thành. Hai cháu trai đã tốt nghiệp đại học và có việc làm ổn định, đúng chuyên môn. 

Sống và làm việc ở Sài Gòn nhưng cũng thường về thăm gia đình ở Tiền Giang. Và đặc biệt, lần nào về cũng có chút ít đưa mẹ để gởi tiết kiệm. “Con mèo nhỏ” đã trở lại bộ mặt hiền lành, dễ thương chứ không còn “nhe nanh hổ cái, vồ khuyết vầng trăng” như ngày nào. 

Nhưng đó chỉ là vẻ bề ngoài. Vết thương đau buốt trong tim đã liền mặt hay vẫn còn rỉ máu? Mảnh tâm hồn nhạy cảm ngày xưa đã trở lại tươi xanh hay vẫn còn khô cằn, héo úa? Những câu hỏi đó chỉ có chị mới có thể cảm nhận và có câu trả lời. 

Có điều chắc chắn là chị đã trở lại “phía đam mê” và nhờ tài thơ cùng những trải nghiệm đau thương, đã tặng cho đời một thi phẩm độc đáo, mang một thông điệp đau buồn: Những năm sau 1975, ở Miền Nam Việt Nam, một vùng đất mà con người được tiếng là chân tình, cởi mở, hiền hòa, đã “Có Những Người Đàn Bà Như Thế”.

San Leon Tháng 6 / 2020 

PHẠM ĐỨC NHÌ

nhidpham@gmai.com

CHÚ THÍCH:

 1/

Theo Phạm Văn Đồng, con số người phải trải qua giam giữ sau này 30/4/1975 là hơn 200.000 trong tổng số 1 triệu người ra trình diện.

https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc_t%E1%BA%ADp_c%E1%BA%A3i_t%E1%BA%A1o_t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam 

Nhưng một người dính líu đến chế độ cũ có thể “văng miểng” đến không chỉ những thành viên trong gia đình mà còn cả bà con họ hàng nữa. Do đó số đàn ông “có cũng như không” cũng như những “người đàn bà nhe nanh hổ cái” phải đến ít nhất vài trăm ngàn.

2/

Tạ Lỗi Trường Sơn – Bài Thơ Ngược Dòng Nóng Bỏng, Phạm Đức Nhì

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/07/ta-loi-truong-son-bai-tho-nguoc-dong.html 

3/

Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Nỗi Đau Quặn Thắt Của Một Người Việt Yêu Nước, Phạm Đức Nhì

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/07/nhin-tu-xa-to-quoc-noi-au-quan-that-cua.html

 

 

 


Thứ Hai, 25 tháng 5, 2020

NHẬN XÉT NGẮN VỀ MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA THƠ





MẤY ĐIỂM TỰA

Bài viết này được dựa trên mấy điểm căn bản sau đây:

1/ Đặc Tính Của Định Nghĩa

Định nghĩa – tùy tác giả hoặc tự điển – có 2, 3 hoặc 4 đặc tính. Trong bài viết này – bàn về thơ - tôi chỉ chọn đặc tính nói đến tính phổ quát của thơ.

Theo Phan Ngọc, “định nghĩa” có 2 đặc tính trong đó tính phổ quát của định nghĩa thơ được phát biểu như sau:
Có giá trị phổ quát, tức là áp dụng cho mọi hiện tượng gọi là thơ trên trái đất này, bất chấp ngôn ngữ, thời gian, tập quán, trường phái. (Thơ Là Gì?, Talawas 02/09/2002)

Tôi hiểu tính phổ quát của thơ hơi khác. Cái hơi khác này nằm ở hai chữ “thời gian”. Tôi cho rằng định nghĩa thơ không phải bất biến mà ít nhất, có thay đổi theo thời gian. Mỗi khi biên giới thơ mở cửa để đón cư dân mới, định nghĩa thơ cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. (Tập quán, trường phái sẽ bàn đến trong khung cảnh thích hợp)


2/ Một Định Nghĩa Thơ Đơn Giản Nhưng Có Tính Phổ Quát Cao

Khi tôi còn ở Trung Học, định nghĩa thơ có thể ghi lại đại ý như sau: “Thơ là thể loại văn học có vần diễn tả một tâm trạng, cảm xúc hay một ý tưởng cao đẹp.”

Sau này được thay đổi thành:

“Thơ là thể loại văn học có vần và (hoặc) nhịp điệu để diễn tả một tâm trạng, cảm xúc hay một ý tưởng.”

Cho đến thời điểm này, đây là định nghĩa thơ tương đối có tính phổ quát cao; ngoài thơ truyền thống, Thơ Mới, còn có thể áp dụng cho cả những loại thơ vần biến thể hoặc không vần như thơ tự do, thơ văn xuôi.

Riêng thơ văn xuôi, đang trong tình trạng thử nghiệm, nhưng theo tôi, kết quả không được khả quan lắm.


3/ Mục Đích Tối Hậu Của Thơ.

Đã là người, ngoại trừ những bậc tu hành đạt đạo, ai cũng Xạo.

     a/ Dối Trá Đời Thường:

Nói để lừa dối người khác với mục đích kiếm lợi cho mình - vật chất, quyền hành, tình cảm, uy tín, danh vọng.

     b/ Dối Trá Vì Bị Vô Thức Điều Khiển

 Nếu không bị lôi kéo vào dối trá đời thường thì cũng rất ít người tránh khỏi bàn tay lông lá của vô thức.


“Có những điều không thể nói ra
cho dù chúng ta
có yêu nhau đến thế nào chăng nữa
mấy ngàn ngày
và có thể mấy vạn ngày bốc lửa
chuyện anh
chuyện em
vẫn ẩn chứa bí mật của mỗi người

Có những góc tối ở trong hồn
không bao giờ chia sẻ
chẳng phải vì niềm tin không vẹn vẽ
mà vì đó là căn phòng bí mật
chẳng nên mở bao giờ.”

(Trần Hạ Vi, Căn Phòng Bí Mật) (1)

Vật chứa trong căn phòng bí mật chính là vô thức. Tác giả bài thơ khuyên người đời tránh, đừng đụng chạm đến căn phòng bí mật để việc hội nhập với xã hội lịch sự văn minh được suôn sẻ, không bị trở ngại.

Người ta thường nói “giận quá mất khôn”. Khi giận quá, không kiểm soát được lý trí, căn phòng bí mật bị “bật mí”, thường lỡ lời, nói ra những điều không nên nói - những điều mà nếu lý trí còn hiện diện, sẽ chuyển lệnh của vô thức, đóng kín căn phòng bí mật, không cho nói. Lý do: Chúng sẽ gây mất lòng, hoặc bộc lộ những điều cần che dấu, có hại cho người nói.

Thật ra, chính những lời nói ra trong lúc “giận quá mất khôn” đó mới là những lời 100% chân thật.

Thi sĩ cũng vậy. Cũng Xạo và cũng có những lúc “giận quá mất khôn”. Đó là lúc cao hứng, nổi điên, cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí.

Nhưng đưa những điều muốn nói ra trong lúc nổi điên đó vào thơ không dễ dàng như người đời gặp lúc “giận quá mất khôn”. Thi sĩ phải biết chọn thể thơ “nhất khí liền mạch” (không phân mảnh, đứt đoạn), chọn cách gieo vần vừa độ ngọt để tứ thơ và cảm xúc quyện vào nhau, sóng sau dồn sóng trước, chảy thành dòng liên tục – càng mạnh càng tốt. Bởi chỉ cần ngừng chảy một chút thôi là cơn điên sẽ hạ, lý trí sẽ xuất hiện, căn phòng bí mật sẽ đóng cửa, chữ Xạo sẽ tự động bước vào bài thơ.

Sự Chân Thật (viết hoa) trong thơ cực hiếm; thi sĩ muốn đưa “tiếng lòng chân thật” của mình vào thơ phải có 2 điều kiện: Một, tâm đang ở trạng thái nổi điên và hai, chọn được thể thơ thích hợp.

Bài thơ nói lên “tiếng lòng chân thật” của thi sĩ sẽ bước vào Bến Bờ Thi Ca vì đã đạt được mục đích cao cả nhất của thơ.


MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA THƠ VÀ NHẬN XÉT


1/ Định Nghĩ Thơ Của Nguyễn Đình Thi:

“Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, - tức là chữ - để thể hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển mạnh mẽ khác thường.” 

(Mấy ý nghĩ về thơ, Nguyễn Đình Thi, Talawas, dòng 20)

NHẬN XÉT:

Định nghĩa này có 2 điểm cần bàn tới:

     a/ Không đề cập tới vần và nhịp điệu; thiếu chúng tác phẩm sẽ thành văn. Tuy nhiên, cũng có thể ông cố ý quên để nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc – “trạng thái tâm lý rung chuyển mạnh mẽ khác thường”.
     b/ Không phải thi sĩ nào khi làm thơ cũng ở trong “trạng thái tâm lý rung chuyển mạnh mẽ khác thường”. Nếu ở trong trạng thái ấy thì làm thơ sẽ nhiều cảm xúc hơn (có thể có cảm xúc tầng 3), sẽ hay hơn. Nhưng đó không phải là điều kiện cần thiết để tác phẩm được mang danh hiệu thơ.

Có những bài thơ khô khốc, hầu như chỉ toàn lý trí, thi sĩ sáng tác trong lúc “tỉnh queo”, nhưng “cái tôi riêng tư” đã có mặt trong khung cảnh bài thơ và đã lên tiếng (trong một câu thơ nào đó).

Thí dụ:

A Word Is Dead 

A word is dead
When it is said,
Some say.

I say it just
Begins to live
That day.

Dịch thoát:

Có người cho rằng
Một chữ khi được nói (viết) ra
Là đã chết

Tôi nói
Nó chỉ bắt đầu sống
Từ hôm đó

Hai chữ “tôi nói” chứng tỏ tác giả đã có mặt trong cảnh thơ và đã lên tiếng. Tác phẩm khô khốc, được thi sĩ viết ra trong lúc tỉnh queo, nhưng vẫn là thơ.

Định nghĩa của Nguyễn Đình Thi sẽ tước mất danh hiệu thơ một cách oan uổng của rất nhiều bài thơ như thế.



2/ Emily Dickinson:

“If I read a book and it makes my whole body so cold no fire can ever warm me,
I know that is poetry. If I feel physically as if the top of my head were taken off,
I know that is poetry. These are the only ways I know it. Is there any other way”

“Nếu đọc một cuốn sách làm cho tôi cảm thấy toàn thân giá lạnh mà không một ngọn lửa nào có thể sưởi ấm, tôi biết đó là thơ. Nếu tôi cảm thấy như thể chính đỉnh đầu mình bị cắt rời, tôi cũng biết đó là thơ. Đó là cách duy nhất để tôi biết những điều này. Liệu còn cách nào khác nữa không?”
Emily Dickinson's Definition of Poetry

NHẬN XÉT:

Thế giới thơ đâu phải toàn những thi sĩ tài năng thượng thặng, làm ra toàn những bài thơ tạo được cảm xúc mạnh mẽ ghê gớm như Emily Dickinson mong đợi. Những bài thơ hạng khá hoặc “thường thường bậc trung” bộ không đáng gọi là thơ hay sao? Chẳng lẽ bà muốn nhổ và vứt hết những cây thơ ấy ra khỏi vườn thơ của nhân loại? Như thế, vườn thơ còn được loe ngoe mấy cây? Và thế giới thơ còn được mấy thi sĩ?

Đúng là một định nghĩa đầy tính kiêu căng, coi thường cả “làng thơ”.

3/ Dylan Thomas:

Poetry is what makes me laugh or cry or yawn, what makes my toenails twinkle, what makes me do this or that or nothing.
“Thơ là những gì làm tôi cười, khóc hay ngáp, những gì làm cho các móng chân của tôi lấp lánh, làm tôi muốn làm điều này, điều nọ hoặc chẳng làm gì cả.


 NHẬN XÉT:

Chắc là Dylan Thomas muốn nói đến những bài thơ thành công. Vì chỉ có những bài thơ thành công – mà phải thành công vượt bực - mới tạo được “ép phê” đến như vậy cho độc giả. Nhưng còn những bài thơ chưa được thành công đến mức đó thì sao? Chẳng lẽ chúng không được gọi là thơ?

Cả Emily Dickinson và Dylan Thomas – qua định nghĩa thơ của mình – chỉ muốn nói đến những bài thơ “đặc biệt”, và vì thế, đã vứt tính phổ quát của định nghĩa thơ vào sọt rác.

4/ Robert Frost:

"Poetry is when an emotion has found its thought and the thought has found words."
Thơ ra đời khi cảm xúc đã tìm thấy ý tưởng và ý tưởng đã tìm ra con chữ để diễn đạt chúng

Tôi thích định nghĩa thơ này của Robert Frost. Nó cũng nói đến “dùng ngôn ngữ để diễn đạt cảm xúc và ý tưởng” giống định nghĩa tôi lấy làm chuẩn (ở phần đầu) để so sánh, nhưng cách nói văn hoa và bay bướm hơn. Ông không nhắc đến vần và nhịp điệu chắc là để làm nổi bật cái “cốt tủy” của thơ là cảm xúc.

5/ Kahlil Gibran

Poetry is a deal of joy and pain and wonder, with a dash of the dictionary
“Thơ là thỏa thuận giữa niềm vui, nỗi đau và băn khoăn, với một dấu gạch ngang của từ điển”. 


Kahlil Gibran cho rằng thơ là tâm trạng, cảm xúc được diễn tả bằng ngôn ngữ (con chữ). Định nghĩa này gần giống với định nghĩa của Robert Frost, đề cao cảm xúc nhưng không nói đến vần, nhịp điệu.


6/ Salvatore Quasimodo:

Poetry is the revelation of a feeling that the poet believes to be interior and personal which the reader recognizes as his own.
“Thơ là sự mặc khải rằng thi sĩ tin cảm xúc nội tâm của cá nhân mình được độc giả nhận là ‘tiếng lòng’ của họ”.

NHẬN XÉT:

Ông thi sĩ này quá quan tâm đến “tiếng lòng của độc giả” và việc tìm “người đồng cảm”. Mà lại nghĩ đến chúng trước khi làm thơ mới đáng sợ.

Hồi còn tuổi thanh xuân tôi thường nghe câu nói “Theo tình tình phớt, phớt tình tình theo” nhưng cũng không để ý lắm. Đến tuổi này nghĩ lại thấy cũng nhiều phần đúng. Những nàng mình thích, bỏ công đeo đuổi, ra sức “ga lăng”, nịnh đầm hết mức thì thường bị phớt lờ. Những cô mình không để ý đến, đối xử như bạn bè bình thường thì có khi lại quấn quýt như tình nhân.

Một thằng bạn giải thích: “Lúc mày ra sức nịnh để lấy lòng Ả thì trông mày ‘yếu’ và bệ rạc lắm, nhân cách rơi xuống gần tới thắt lưng quần. Nhưng lúc coi Ả bình thường như bao cô gái khác thì mày hành xử tự nhiên, phong thái trông rất khác, nhân cách được nâng cao hẳn lên. Có lẽ vì thế mà có sức hấp dẫn hơn chăng.”

Với thơ cũng vậy. Đành rằng làm thơ ai cũng muốn tâm tình của mình được nhiều người đồng cảm. Nhưng những câu thơ, bài thơ nịnh, dù nịnh thật khéo đi nữa, nghe cũng rất chán – chán thơ và mất cảm tình với tác giả.

Làm thơ, theo tôi, hãy cứ bộc lộ hết tâm trạng, cảm xúc chân thật bằng kỹ thuật thơ của mình. Nếu kỹ thuật thơ của mình khá, sẽ có người đồng cảm. Đồng cảm ở đây thường còn kèm theo sự mến mộ và nể phục.

 7/ Phan Ngọc

“Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này”.

(Các Quan Niệm Thơ, Mai Bá Ấn, Bích Khê)

NHẬN XÉT:

     a/ Hai chữ “quái đản” đi quá xa và đã “lạc đường”. Nói vậy thì các thể thơ truyền thống không phải là thơ sao? Nếu chỉ có một vài người làm thơ có cách “tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản” thì “quái đản” còn có nghĩa là “quái đản”, nhưng nếu thơ ai cũng “quái đản” thì “quái đản” đâu còn là “quái đản” nữa.

Không biết ông Phan Ngọc nghĩ sao về thơ Lục Bát? Nó là thể thơ “trẻ mãi không già” nhưng lại rất hiền lành và giản dị, chẳng có gì “quái đản” cả.

     b/ Hơn nữa, làm thơ mà để hết tâm trí vào “người tiếp nhận” trong khi cảm xúc của chính mình – cái tôi đích thực - lại lờ tít thì loại thơ ấy sẽ dễ kết bạn với “lời khóc, tiếng ới hỡi, ơi hời” của những người thương vay khóc mướn ở đám ma.


8/ Nguyễn Hưng Quốc:

“Thơ là cảm xúc đi tìm một đồng cảm.”

NHẬN XÉT:

Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc thấy sự quan trọng của cảm xúc trong thơ nên ông đã cho nó độc quyền đại diện trong định nghĩa thơ của mình và “lờ tít” những bộ phận khác của thơ. Làm thế, cái hay thì đã rõ ràng. Cái không hay là nhóm chữ “cảm xúc đi tìm một đồng cảm” có thể dẫn độc giả đi nhầm vào nhà một loại hình nghệ thuật khác.

Mặc dù cũng nói đến “đi tìm một đồng cảm” nhưng theo tôi, Nguyễn Hưng Quốc không cổ vũ cho trường phái “Làm thơ để khơi gợi cảm xúc (nơi người đọc)” như Salvatore  Quasimodo. Lý do: Cảm xúc trong định nghĩa thơ của ông là cảm xúc từ bài thơ đã hoàn tất chứ không phải cảm xúc từ ý định của tác giả trước lúc làm thơ.

 9/ William Wordsworth 
Poetry is the spontaneous overflow of powerful feelings: it takes its origin from emotion recollected in tranquility.'
Thơ tự trào ra khi cảm xúc dâng cao; nó bắt nguồn từ sự hồi tưởng trong yên tĩnh.


NHẬN XÉT:

Định nghĩa thơ của William Woedsworth có hai phần:

     a/ Thơ tự trào ra khi cảm xúc dâng cao: Phần này hết mực đề cao cảm xúc trong thơ - cảm xúc dâng cao thơ sẽ trào ra. Có lẽ quá chú tâm đến cảm xúc nên William Wordsworth không đề cập đến các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ.

      b/ Nó bắt nguồn từ sự hồi tưởng trong yên tĩnh: Nhưng bù lại, ở phần hai này ông đã nhắc đến thời điểm phát sinh cảm xúc để làm thơ. Điểm này rất nhiều người yêu thơ hiểu lầm.

Khi đối diện với một cảnh đời nào đó, hỷ nộ ái ố sẽ phát sinh, nhưng thường thì thơ không trào ra ngay lúc đó được. Cảnh đời và cảm xúc phát sinh từ nó sẽ tìm một chỗ sâu kín trong tâm hồn thi sĩ để trú ẩn. Một lúc nào đó (có thể một ngày, một tuần, vài tháng hay vài năm sau) có một cái gì đó khơi gợi, cảnh đời và cảm xúc đang trú ẩn đó sẽ bật dậy làm tâm hồn thi sĩ nổi sóng.

Nếu “sóng” đủ mạnh thi sĩ sẽ hồi tưởng những gì đã xảy ra, dùng kỹ thuật thơ của mình ghi lại.

 10/ Trần Dần

“Thơ cổ lai đặt ở tứ lạ, lời hay, hình ảnh đẹp, âm điệu ru hồn. Tôi giản dị đồng nhất thơ vào chữ”. (Trần Dần).
(Tìm Hiểu Một Quan Niệm Nghệ Thuật Về Ngôn Từ Trong Thơ Việt Đương Đại, Trần Ngọc Hiếu)

NHẬN XÉT:

Đây là một phát biểu tương đương với định nghĩa.

Thơ, bên cạnh chữ, hình ảnh, âm điệu, nhịp điệu, các biện pháp tu từ … còn có tứ, thế trận chữ nghĩa. Ngoài ra còn phải kể đến tâm thế của thi sĩ lúc làm thơ. Hứng càng cao, xúc động càng mãnh liệt thì càng nhiều cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cho người đọc cảm giác “đã” nhất, sướng nhất. Chữ chỉ là một trong nhiều phương tiện thẩm mỹ của bài thơ.

Nếu chỉ “đồng nhất thơ vào chữ” thì ông thi sĩ mà tôi rất mến mộ - về lý thuyết - chỉ mới đề cập đến cái đuôi của con voi thơ.
Tôi không hiểu sao một thi sĩ tài năng như Trần Dần mà lại đưa ra một định nghĩa thơ phiến diện như vậy.




11/ Samuel Taylor Coleridge

Poetry: the best words in the best order.  
Tho: Chữ hay nhất trong thứ tự hợp lý nhất.

NHẬN XÉT:

Định nghĩa của Samuel Taylor Coleridge chỉ đề cập đến 2 trong số các “phương tiện thẩm mỹ” của thơ: Ngôn ngữ thơ và thế trận. Vần, nhịp điệu, các biện pháp tu từ, và đặc biệt, cảm xúc không được nhắc đến. Tuy đỡ hơn Trần Dần, định nghĩa này cũng chỉ là một cái nhìn phiến diện về thơ.


 12/ Không Biết Tên Tác Giả

"Poetry is a faithful secretary of hearts"
Thơ là thư ký trung thành của trái tim.

NHẬN XÉT:

Định nghĩa này, nói khác đi, cho rằng thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ.

Như đã nói ở phần đầu, trong tổng số thơ của nhân loại có đến hơn 99% không ít thì nhiều có tính Xạo. Những bài thơ mà thi sĩ cho phép độc giả giao tiếp với mình bằng Tiếng Người Chân Thật (viết hoa) cực hiếm. Định nghĩa này đã nhổ bỏ hầu hết thơ của nhân loại ra khỏi vườn thơ. Như thế rất oan uổng và bất công cho những bài thơ, dù chưa đạt được mục đích tối hậu của thơ, cũng tặng người yêu thơ những rung động, xao xuyến làm tươi mát tâm hồn.

13/ Joseph Roux

"Poetry is truth in its Sunday clothes."
Thơ là sự thật trong bộ quần áo Chủ Nhật của nó
https://www.brainyquote.com/quotes/joseph_roux_395933

NHẬN XÉT:

Định nghĩa thơ này có hai phần:

     a/ “Thơ là sự thật”: Như đã nói ở định nghĩa số 12 (Không Biết Tên Tác giả), “thơ là sự thật” cực hiếm. Chỉ đòi hỏi ở phần a/ này đã loại bỏ tuyệt đại đa số thơ của nhân loại.

     b/ “Trong bộ quần áo Chủ nhật của nó”: Ở Âu Mỹ, sáng Chủ Nhật tín đồ đạo Tin Lành, Thiên Chúa Giáo đều ăn mặc đặc biệt chỉnh tề, đẹp đẽ để đi nhà thờ. Với thơ có nghĩa là ngôn ngữ thơ phải đẹp, lịch sự, trang trọng … Nói thế lại loại bỏ những bài thơ có ngôn ngữ bình dân, đời thường (chẳng hạn thơ Nguyễn Bính)

Kiếm được một bài “thơ là sự thật” đã mỏi mắt, lại còn đòi ngôn ngữ đẹp, cao sang, đầy tính văn chương nữa thì làm khó thi sĩ quá.

Định nghĩa thơ số 12 “Thơ là thư ký trung thành của trái tim” đã không tôn trọng tính phổ quát của “định nghĩa”. Định nghĩa thơ của Joseph Roux, về điểm này, còn tệ hại hơn nhiều


KẾT LUẬN:

Định Nghĩa Thơ Bằng Thơ

Để kết luận tôi xin giới thiệu thi phẩm Làm Thơ - một định nghĩa thơ bằng thơ - của Lê Đạt.

LÀM THƠ

Đêm khuya
Bóng đầu anh
Hằn trên trang sách nhỏ
Như bóng hàng cây quặn gió
Lắng xuống mặt đường

Giông bão mênh mông
Anh nhìn tổ quốc
Đất nước đêm nay trĩu đầu ngọn bút
Hàng vạn vần thơ mang nặng tình người

Anh nghe tiếng đất trời
Xao động lùm cây ngọn cỏ
Như người hiệu thính viên
Đêm không ngủ
Ghi những lời cuộc sống
điện về

Những tiếng nặng nề
Những tiếng cục cằn uất ức
Những tiếng căm thù chua chát
Những tiếng yêu thương…

Lê Đạt

(Thơ Đến Từ Đâu, Nguyễn Đức Tùng, tr. 118)

NHẬN XÉT:

Vâng,

Những tiếng nặng nề
Những tiếng cục cằn uất ức
Những tiếng căm thù chua chát
Những tiếng yêu thương…

là những hỷ nộ ái ố ai lạc dục, là thất tình, lục dục của người đời; cảm xúc trong thơ phát sinh từ đó. Nội dung của bài thơ chỉ nói đến ngôn ngữ và cảm xúc. Tác giả không đề cập đến - bằng lời - vần, nhịp điệu và những phương tiện thẩm mỹ khác của thơ. Nhưng khi độc giả đọc bài thơ – dù đọc thầm hay lớn tiếng - sẽ thấy tất cả những thứ ấy hiển hiện một cách sinh động trong tâm hồn mình.

Tôi không dám cho rằng đây là định nghĩa thơ hay nhất. Nhưng nếu bảo đây là định nghĩa thơ dễ hiểu, dễ cảm, mới lạ và rất có duyên, thì với tôi, chắc không sai.

Texas 26 tháng 5 năm 2020

PHẠM ĐỨC NHÌ


CHÚ THÍCH:

 1/

Thứ Sáu, 15 tháng 5, 2020

LÀM THƠ ĐỂ BỘC LỘ CẢM XÚC HAY KHƠI GỢI CẢM XÚC?




                                       LÀM THƠ ĐỂ BỘC LỘ CẢM XÚC HAY KHƠI GỢI CẢM XÚC?


CUỘC TRANH LUẬN DỞ DANG

Cách nay đã lâu tôi có một cuộc tranh luận khá lý thú với một bạn đọc trên Facebook. Không biết anh ta – cũng là người làm thơ - lấy đâu ra câu “Làm thơ là để khơi gợi cảm xúc (của người đọc) chứ không phải bộc lộ cảm xúc (của mình)” để chê bai, chỉ trích bài viết của tôi. 

Tôi tin ở cách nhận định và đánh giá thơ của mình, nhưng đây là đề tài lớn của thơ, bàn đến cũng tốn nhiều giấy mực chứ không phải chỉ vài bình luận qua lại trên FB là có thể tỏ rõ ngọn ngành. Ngọn ngành ở đây không phải phân định đúng sai mà là tìm hiểu xem trong hai hướng đi đó thi sĩ nên chọn hướng đi nào để có lợi nhất cho những đứa con tinh thần của mình.

Đáng tiếc là lúc ấy anh ta lại quá nóng nẩy để tranh thắng nên - sợ mất hòa khí - tôi đành tự động ngừng cuộc tranh luận, coi như nhận phần thua về mình. Hơn nữa, anh bạn chỉ nói khơi khơi, không nêu rõ xuất xứ, tôi tưởng là anh “phịa” nên nhận thua rồi thôi, không bận tâm đến “vấn đề” này nữa.

NHƯNG ANH TA KHÔNG “PHỊA”

Thế rồi khi tra cứu để bình thơ của Emily Dickinson tôi gặp một định nghĩa thơ của tự điển Merriam-Webster (1):

Poetry: “Writing that formulates a concentrated imaginative awareness of experience in language chosen and arranged to create a specific emotional response through meaning, sound, and rhythm”

Thơ: “Văn bản diễn đạt một cảm nhận đầy tính tưởng tượng của trải nghiệm bằng ngôn ngữ được lựa chọn và sắp xếp nhằm khơi gợi một cảm xúc cụ thể nào đó thông qua ý nghĩa, âm thanh và nhịp điệu.”

Nhóm chữ “created a specific emotional respond” nếu dịch sát có nghĩa là “tạo ra một phản ứng cảm xúc cụ thể nào đó (nơi người đọc)”.  Tôi tạm dịch thoát “khơi gợi một cảm xúc cụ thể nào đó”.

Giờ thì đã rõ ràng. Cái ý “làm thơ để khơi gợi cảm xúc” không phải từ trên trời rơi xuống mà đã được một quyển tự điển từ “một công ty Mỹ chuyên xuất bản sách tham khảo, đặc biệt nổi tiếng với các bộ từ điển” (2) đề cập đến.

Như vậy, anh bạn tranh luận với tôi về đề tài này đã không “phịa”. Anh chỉ không chú thích nguồn gốc, xuất xứ nên tôi đã hiểu lầm.

Để tìm hiểu xem sáng tác theo hướng nào sẽ có lợi cho thơ hơn, tôi xin phép mở ngoặc để bàn một chút về cảm xúc trong thơ.


BA LOẠI CẢM XÚC TRONG THƠ

Dù đứng ở góc nhìn nào đi nữa thì lượng cảm xúc khơi gợi được nơi tâm hồn người đọc cũng được coi là thước đo mức độ thành công của bài thơ. Mức rung động, khoái cảm nơi người đọc càng cao thì bài thơ càng hay. Có 3 loại cảm xúc trong thơ:

1/ Cảm xúc tầng 1: Cảm xúc từ câu chữ - khoái cảm phát sinh khi gặp một chữ đắt, một hình tượng đẹp, một câu hay.

2/ Cảm xúc tầng 2: Cảm xúc có được khi gặp sự phối hợp nhịp nhàng của câu chữ, hình tượng, các biện pháp tu từ … nói chung là các phương tiện thẩm mỹ của bài thơ. Sự phối hợp đó được gọi là thế trận của bài thơ. Khoái cảm phát sinh khi gặp một thế trận hoàn hảo mạnh hơn nhiều so với cảm xúc tầng 1.

3/ Cảm xúc tầng 3: Cảm xúc đến từ sự rung động mạnh mẽ (cảm xúc lấn áp lý trí) của tác giả khi làm thơ. Đây là thứ cảm xúc cao cấp nhất, quý nhất, tạo khoái cảm “đã” nhất nơi người đọc. Lý trí càng ít thì cảm xúc càng nhiều. Nếu cảm xúc mạnh đến mức phủ mờ lý trí ta có hồn thơ. Lúc ấy, lý trí mất dạng, lời thơ sẽ là Tiếng Lòng Chân Thật của tác giả. Bài thơ đã đạt được phần thưởng cao quý nhất: Bước vào Bến Bờ Thi Ca.

“LÀM THƠ ĐỂ KHƠI GỢI CẢM XÚC”

Thuở còn đi học mỗi khi trong xóm có đám ma - thường từ một gia đình khá giả, quàn xác qua đêm - tôi thường trốn mẹ đi nghe khóc mướn. Đội khóc mướn thường có mấy người chơi nhạc cụ và một hoặc 2 người “khóc”. Họ “khóc” có vần điệu, lại có nhạc đệm nên rất hay, và dĩ nhiên, có nhiều người đến ngồi nghe.
                                
Trước khi vào trận những người “khóc” thường được gặp riêng gia chủ để biết một số chi tiết về cha mẹ, anh chị em, vợ (chồng), con cháu - đặc biệt là những điểm nổi bật về tình cảm của họ đối với người chết. Người “khóc” sẽ dựa vào đó để “soạn bài”, để “khóc” cho “mùi”, cho đẹp lòng, hả dạ mọi người trong gia đình gia chủ.

Thi sĩ đi theo hướng “làm thơ để khơi gợi cảm xúc” khi chọn tứ thơ và rồi dàn thế trận cho bài thơ của mình cũng phải biết kỹ (nếu chưa biết kỹ thì mày mò tìm hiểu) những người mình muốn “khơi gợi cảm xúc” xem họ yêu thích cái gì, thù ghét cái gì để “lựa lời sáng tác” cho vừa lòng họ, khơi gợi được nhiều cảm xúc nơi tâm hồn họ. Kết quả là sẽ sản sinh ra thứ thơ “teo chim”, xu nịnh, nâng bi.

Cũng cần nói thêm, những thi sĩ theo hướng đi này, nếu tay nghề cao, khéo “chọn chữ so vần”, vẫn có thể tạo được khoái cảm - nhiều khi rất cao - cho người đọc ở tầng 1 và tầng 2. Nhưng do chữ Nịnh quá lớn nên cảm xúc tầng 3 không có hoặc có rất ít. Lý do: Nịnh sẽ sinh ra Xạo, Xạo sẽ mời gọi lý trí.

“LÀM THƠ ĐỂ BỘC LỘ CẢM XÚC”

Đây là hướng đi mà thi sĩ khi làm thơ “coi độc giả như cỏ rác”. Họ để hết tâm hồn vào bài thơ và đưa cảm xúc thâm nhập dòng chảy của tứ thơ. Dĩ nhiên, cũng có những lúc lý trí xen vào đòi quyền “biên tập” và thi sĩ phải “phùng mang trợn mắt” xua đuổi nó đi. Mức độ thành công mỗi người mỗi khác. Có người lý trí bỏ chạy biệt tăm, có người nó vẫn lỳ đòn bám trụ.

Nhưng có điều chắc chắn là họ không bị cái bóng ma lúc nào cũng lơ lửng trên đầu như những thi sĩ “làm thơ để khơi gợi cảm xúc”. Bởi muốn khơi gợi thì phải biết khơi gợi ở chỗ nào và làm thế nào để khơi gợi. Chỉ thoáng nghĩ đến hai câu hỏi đó là lý trí đã tràn ngập tâm hồn. Cảm xúc nếu có cũng sẽ tự động xẹp như bong bóng xì hơi. Rồi lại thêm “những điều không đẹp” đi kèm với những câu thơ “khơi gợi”, làm giảm giá trị bài thơ và hạ thấp nhân cách của thi sĩ.

Không bị cái bóng ma ấy ám ảnh, thi sĩ “làm thơ để bộc lộ cảm xúc” tự do thoải mái hơn trên đường đưa tứ thơ tới bến.

KHÁC BIỆT

Như đã nói ở trên, sự thành công của bài thơ cuối cùng cũng phải đo bằng lượng cảm xúc khơi gợi được ở tâm hồn người đọc. Khoái cảm nơi người đọc càng cao thì bài thơ càng hay. Nhưng lúc làm thơ mà cứ loay hoay “chọn chữ, so vần” để lấy lòng người thưởng thức thơ của mình thì thi sĩ có khác gì đám người “thương vay khóc mướn” ở đám ma - mỗi tiếng khóc, mỗi câu kể lể “ới hỡi, ơi hời” cũng cố sắp xếp sao cho “gia chủ” đẹp lòng, hả dạ. 

Dĩ nhiên thi sĩ không phải lúc nào cũng có thể nổi điên khiến lý trí hoảng sợ trốn chạy biệt tăm để có thể bộc lộ tiếng lòng chân thật của mình - phẩm chất quý giá nhất của thơ. Nhưng khi đang thả hồn theo dòng chảy của tứ thơ, thái độ “coi độc giả như cỏ rác” không những không trịch thượng, mất lịch sự mà còn là sự cần thiết. Với tâm thế này, nếu kỹ thuật thơ vững vàng, thi sĩ – qua bài thơ của mình - dễ tìm được sự đồng cảm. Có điều sự đồng cảm ở đây còn kèm theo sự mến mộ và nể phục.

KẾT LUẬN


Một hướng đi cho rằng “ta làm thơ là vì đời, vì tha nhân. Bài thơ ta làm với mục đích khơi gợi cảm xúc nơi độc giả càng nhiều càng tốt. Tâm hồn họ càng sảng khoái thì ta càng hãnh diện vì đã đem niềm vui cho người, đóng góp một cách thiết thực cho đời.”

Và một hướng đi khác nghĩ rằng “Ta làm thơ là để bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của ta trước cảnh đời. Độc giả chỉ là những vị khách mời đến dự ‘cuộc vui thơ’ khi tác phẩm đã hoàn tất và được gởi đến vườn thơ của nhân loại.” Tôi nghiêng về hướng đi này.

Với chút kinh nghiệm của người làm thơ và bình thơ tôi mạnh dạn góp vài ý kiến thô thiển. Nhưng cuối cùng thì:
Làm thơ theo hướng nào là tùy quyền thi sĩ, thích thưởng thức thơ ở hướng nào là tùy quyền độc giả.

League City - Những ngày trốn dịch Covid19

Phạm Đức Nhì


CHÚ THÍCH:

1/


2/

(Wikipedia, Merriam-Webster, câu đầu tiên)