Lời Nói Đầu
Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - nằm
trong danh sách khá dài những bài thơ “phản kháng” - tự nó đã nặng mùi chính trị.
Lưu chuyển nó - nếu gặp người khắt khe - cũng có thể bị coi là có ý đồ không tốt.
Nhưng chẳng lẽ bình thơ mà gặp bài thơ nội dung súc tích như thế, kỹ thuật thơ
hay như thế lại đang tâm ngoảnh mặt làm ngơ? Thế là tôi quyết định viết Lời
Bình cho bài thơ.
Tôi không muốn biến bài
bình thơ của mình thành một phương tiện tuyên truyền. Đối với những độc giả hiểu
biết thì làm như thế là thừa, phí công vô ích. Đối với người khác thì họ đâu có
thèm để mắt tới những bài viết khô khan, khó đọc như thế này.
Vì thế tôi chỉ chú trọng đến
khía cạnh văn chương: kỹ thuật thơ, tứ thơ, hơi thơ, hồn thơ …
Nhưng khi giải thích một
câu thơ - đặc biệt trong bài thơ này – nó sẽ ít nhiều đụng đến lập trường, quan
điểm. Nói thì chưa chắc người đọc sẽ tin, nhưng tôi đã đứng ngay thẳng, nghiêm
chỉnh để viết lời bình cho NTXTQ.
Dĩ nhiên bình thơ - ngoại
trừ những bài thơ toàn bích rất hiếm gặp - phải có khen, có chê. Đụng đến khen
chê thì có người đồng ý, có người không. Tôi sẵn sàng đón nhận mọi ý kiến của
các bậc trương thượng, của các bạn văn, bạn thơ, của những người yêu văn
chương, và của mọi độc giả. Khen chê gì xin quý vị cứ gởi đến. Tôi sẽ trả lời tất
cả, không trừ một ai. Nếu ý kiến hay, sẽ được tuyển lựa để đưa vào bài viết tổng
hợp: Ba Bài Thơ Phản Kháng - Lời Bình – So Sánh và Tranh Luận.
Ba bài thơ đó là: Nhìn Từ
Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy, Tạ Lỗi Trường Sơn của Đỗ Trung Quân và Bánh Vẽ của
Chế Lan Viên
Xin cám ơn bất cứ ai đọc
bài viết này.
Phạm Đức Nhì
Nghe Mang Máng Về Bài Thơ
Hạ tuần tháng 8 năm 1988
tôi đang nằm ở khu C1 của Trại Giam Số 4 Phan Đăng Lưu chờ ra tòa (1) thì có một
tù nhân mới nhập phòng. Ông đã đứng tuổi (trên 50) là một cán bộ của Sở Văn Hóa
TT TP HCM. Nội vụ còn trong vòng điều tra nên ông chỉ cho biết ông bị nghi ngờ
một tội mà ông không liên can.
Sau khi đã quen nước quen
cái ông kể cho bạn đồng tù nghe về một bài thơ lúc đó ở bên ngoài đang làm xôn
xao dư luận cả nước; “nội dung thì đụng đến những yếu huyệt của Chế Độ, còn kỹ
thuật thơ thì ‘hết sẩy’, đọc là khoái liền.” Rồi ông ta nói thêm: “Tác giả còn
trẻ lắm. Sinh năm 48, 49 gì đó. Chưa đến 40 tuổi đầu.”
Thế rồi do chính sách cởi mở của Nguyễn Văn Linh
chúng tôi được miễn tố và trả tự do. Chật vật với cuộc sống ở trong nam rồi lại
ra bắc vượt biên 2 lần thất bại, cuối cùng tháng 6/1991 chuyến đi của tôi đến bến
Hồng Kông, tháng 7/93 qua được Mỹ.
Làm công việc đi biển bắt
cua nặng nhọc được mấy năm thì bị đụng xe gẫy chân, tôi xin tiền chính phủ vào
học đại học và dạy tiếng Việt cho trẻ em vào ngày Chủ Nhật kiếm thêm chút ít phụ
giúp cuộc sống của gia đình. Lúc ấy - nhờ có cái computer - tôi mới được đọc
Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc đầy đủ trọn vẹn. Mãi đến những năm sau này, con cái lớn đi
làm, sức ép tài chánh nhẹ hẳn đi, tôi mới mon men bước vào chăm sóc vườn thơ của
mình và bắt đầu bình thơ của người khác. Và hôm nay – rà soát lại lưng vốn văn
chương, thấy đã kha khá - mới “sờ” đến bài thơ “nặng ký” của Nguyễn Duy.
Tứ Thơ:
Bài thơ không có phép ẩn dụ
toàn bài nên ý với tứ là một - từ xa nhìn về tổ quốc thấy quê hương dân tộc có
quá nhiều vấn nạn (căn bệnh) quái ác mà không biết cách giải quyết (chữa trị)
nên lòng đau quặn thắt.
Hình Thức:
Bài thơ vẫn còn vóc dáng của
thơ mới nhưng tác giả đã biết phá luật, tháo bỏ xích xiềng để có thể tự do
phóng bút.
1/ Viết hết ý thì thôi,
không cần biết bài thơ có bao nhiêu câu.
2/ Số chữ trong câu tự do
thoải mái.
3/ Vần liên tiếp kiểu Nhớ
Rừng nhưng nhiều phá lệ khéo léo, hợp lý nên độ ngọt của thơ vừa phải, không có
hội chứng “nhàm chán vần”.
Ngôn Ngữ Hình Tượng:
Rất xuất sắc, đầy ấn tượng,
đặc biệt ở phần chính của bài thơ - những vấn nạn của quê hương dân tộc.
Bố Cục:
Bài thơ có thể chia làm 4
phần:
1/ Nhập đề: Hoàn cảnh ra đời của bài thơ
2/ Phần đầu
của thân bài: Những chứng bệnh (vấn nạn)
trầm trọng của quê hương, dân tộc.
3/ Phần sau
của thân bài: Chẩn đoán (tìm nguyên nhân)
và cách chữa trị
4/ Kết luận:
Niềm tin ở tương lai dân tộc
Hoàn Cảnh Ra Đời Của Bài Thơ
Bài thơ được (bắt đầu) viết
vào một đêm ở Moscow (Nga) nên tác giả thấy thấp thoáng cái bóng của mình dưới
ngọn đèn và nẩy ra ý định trò chuyện với nó để bày tỏ tâm sự và dàn trải tứ thơ.
Ông viết với tâm thế của “bên thắng cuộc” – là con cưng của chế độ (được du học
ở Nga) - một lòng một dạ sắt son yêu quê hương đất nước:
“Dù ở đâu vẫn Tổ Quốc
trong lòng
cột biên giới đóng từ
thương đến nhớ”
Những Căn Bệnh Quái Ác
Đây là phần chính của bài
thơ - tác giả vạch ra những vấn nạn lớn của quê hương, dân tộc.
1/ Hát đồng ca
Có một thời ta mê hát đồng
ca
chân thành và say đắm
“ta là ta mà ta cứ mê ta”
(*)
tất cả trôi xuôi – cấm lội
ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi
hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
(*) Thơ Chế Lan Viên
Không phải chỉ ở ngành văn
hóa văn nghệ mà hầu như ở mọi nơi, mọi mặt trong cuộc sống người Việt Nam đều phải “hát đồng ca” đúng những
chủ trương chính sách của Đảng – “chỉ được trôi xuôi, cấm lội ngược dòng.”
Thi sĩ kiêm bác sĩ Nguyễn
Duy đã chẩn đoán, “bắt” được chứng bệnh đầu tiên của chế độ: Tự do ngôn luận bị
bóp nghẹt, văn thi sĩ cứ cúi đầu nhắm mắt ngợi ca chế độ hết mình đến nỗi Chế
Lan Viên cũng phải ngượng ngùng thốt lên: “Ta là ta mà ta cứ mê ta”. Cái gì của
ta và phe ta (phe XHCN) cũng là nhất nên lại sinh ra biến chứng: nhiều thần tượng
giả được phịa ra để làm gương, điển hình:
Thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
2/ Xứ sở phì
nhiêu sao thật lắm ăn mày?
Từ những bài học dạy con
em ở trường, những câu nói cửa miệng của cán bộ đảng và nhà nước đến những khẩu
hiệu biểu ngữ đỏ đường, đỏ thành phố trên khắp quê hương thường có đoạn: Đất nước
ta giầu và đẹp. Trong bài hát Tình Đất Đỏ Miền Đông của Trần Long Ẩn có câu
“Trong đấu tranh người Miền Đông anh dũng; trong lao động người lại cũng anh
hùng (nghĩa là còn hơn cả cần cù chăm chỉ).
Thế nhưng “sao thật lắm ăn
mày?” Theo tôi, cơ chế chính quyền và cơ cấu xã hội bất công - đặc biệt là
chính sách Làm Chủ Tập Thể (cha chung không ai khóc) - đã làm nguội lạnh ý chí,
nhiệt tình lao động của người dân; thà đi ăn mày còn hơn “còng làm cho thẳng
lưng ăn”.
3/ Thương binh
liệt sĩ bị bỏ bê.
Lãnh đạo chóp bu chỉ biết bằng mọi cách đẩy
thanh niên ra chiến trường. Chính Chế Lan Viên đã tự thú:
Mậu Thân 2.000 người xuống
đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có
30
Ai chịu trách nhiệm về cái
chết 2.000 người đó?
Tôi!
(Ai? Tôi!, Chế Lan Viên)
http://www.thica.net/2008/03/15/ai-toi/
Đến khi họ chết hoặc bị thương thì vì không dự
trù ngân sách nên không có chích sách đãi ngộ, đành ngoảnh mặt làm ngơ, bỏ mặc
họ với gia đình trong khốn quẫn.
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh
đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường
làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ
lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà
quan
Đoạn thơ đã quá rõ ràng,
quá thật và quá mạnh, không cần giải thích gì thêm nữa.
4/ Tín ngưỡng bị
chà đạp
Đức tin, tín ngưỡng của
con người bị ngang nhiên xúc phạm, chà đạp. Tính vô thần của Chủ Nghĩa Cộng Sản
lộ rõ mặt, không còn lấp liếm chối cãi được nữa.
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm
kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả
thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin
lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
Đoạn thơ thật hay về cả 3 mặt: ngôn ngữ, hình ảnh
và âm điệu.
5/ Công việc
giáo dục, đào tạo nhân tài cho tương lai bị bỏ bê, coi thường.
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất
học
lắm ngôi trường xơ xác đến
tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước
mắt
tuổi thơ còng lưng xuống
chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư
đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng
thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất
thểu
Tám câu thơ đã vẽ lên những
bức tranh thê thảm của tuổi trẻ Việt Nam, hoàn toàn trái ngược với những thông
tin “màu hồng” từ các phương tiện tuyên truyền của nhà nước. Với một thế hệ trẻ
như vậy, tương lai đất nước thật vô cùng ảm đạm. Ở đây hình tượng thơ đã thừa sức
thuyết phục, không cần biện giải dài dòng.
6/ Nhân phẩm con
người rẻ mạt
Và con người - để sống còn
- phải học dối gian, lừa đảo, trở thành những thứ điếm.
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ –
điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn
nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng
nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
phải tự hủy hoại nhân phẩm và lắm lúc phải bán
rẻ linh hồn.
7/ Cơ chế chính
quyền, cơ cấu xã hội thối nát
Để ứng phó với cơ chế bất
công, xã hội thối nát con người phải khôn vặt, trở nên lười biếng, ma giáo và
vô cảm.
Xứ sở cần cù
sao thật lắm Lãn Ông
lắm mẹo lãn công
……………………
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
buôn hàng lậu – buôn quan
– buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá
trước công đường
Xã hội thối nát đến mức
mua quan bán tước, “quyền lực bày ra đấu giá trước công đường” thì không còn gì
để nói nữa, dân chỉ còn nước bó tay kêu trời.
8/ Nhiều chính
sách tàn ác, phân biệt đối xử, gây chia rẽ
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa
xứ
lắm cuộc chia li toe toét
cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng
gái góa
chen nhau sang nước người
làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh
thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn
ngày về
Sau 30/4/75 có những người đang ở trên tàu chuẩn
bị ra khơi nhưng vì yêu đất nước và:
thương cha mẹ già, đàn em dại
nên:
tôi bước lên bờ ở lại quê
hương (2)
Nhưng chính quyền của “xứ sở bao dung” đã đưa
họ và hàng trăm ngàn quân nhân, viên chức của chế độ cũ (VNCH) vào các trại tập
trung cải tạo.
“Và bằng những lời dối trá
trái tim vô tình
tia nhìn thù hận
các anh cướp mất của tôi
những tháng năm đẹp nhất
cuộc đời” (2)
Không những chỉ bị đày đọa đến thân tàn ma dại
mà còn biết bao người bỏ xác nơi rừng sâu nước độc. Thân nhân của họ ở ngoài
thì bị phân chia thành phần, phân biệt đối xử, tước hết mọi phương tiện để mưu
sinh nên đành liều mình - bất kể sông chết - vượt biên. Sau này nhiều người được
đi theo diện đoàn tụ gia đình, hoặc xuất khẩu lao động – đi làm thuê ở nước
ngoài. Nhìn “lắm cuộc chia li toe toét miệng cười” như thế thật đau lòng cho những
ai yêu quý quê hương đất nước.
9/ Luật pháp như
đùa, lãnh chúa và đủ loại vua xuất hiện
Các quan chức địa phương thì không do dân bầu
trực tiếp như các nước dân chủ mà từ tiền bạc và thế lực phe nhóm. Quan chức
cao thấp các ngành không được tuyển chọn do khả năng chuyên môn mà đều có “giá
cả” như một món hàng giữa chợ - chồng tiền là lãnh chức. Người mua chức sẽ trở
thành lãnh chúa một vùng, thành vua trong ngành và tha hồ vơ vét để lấy lại vốn
và sau đó kiếm lời.
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua
chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai
choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa sứ quân san sát
vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu
trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có
như không có
một người đi chật cả con
đường
Những thành phần lừa đảo, mánh
mung chôm chỉa cũng trở thành những vua con trong lãnh vực mình hoạt động. “Luật
pháp như đùa như có như không có” nghĩa là chỉ áp dụng với dân đen còn thì dung
túng cho đám có quyền, có tiền tự tung, tự tác.
Những Vấn Nạn Của Quê
Hương Dân Tộc là phần hay nhất, được nhắc đến và trích dẫn nhiều nhất của bài
thơ. Ông bạn tù - cán bộ Sở Văn Hóa TT - cho rằng nội dung đã “đụng đến những yếu
huyệt của chế độ” chắc là ông muốn nói đến phần này.
Nguyễn Duy tạo ra được những
đoạn thơ tuyệt vời như thế, trước tiên, vì ông là người “nằm trong chăn” nên
“biết chăn có rận”. Nhưng có phải mình ông biết đâu. Con số “biết chăn có rận”
lên đến hàng vạn, hàng triệu người nhưng chỉ có ông lòng đau quặn thắt vì yêu
nước thương dân, tài thơ trác tuyệt, đởm lược hơn người, lại gặp lúc cao hứng -
cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí – không biết sợ, không suy tính thiệt hơn nên mới
“tuôn ra” được những vần thơ chân thật, có hồn. Ông viết về những xấu xa tệ hại
của XHCN và con người Việt Nam đúng và thật quá, ngôn ngữ hình tượng mạnh mẽ,
sinh động và táo bạo quá.
Chính ông sau này cũng phải
công nhận “khi viết xong thì chính bản thân tôi cũng bất ngờ bởi vì không nghĩ
là mình viết được những câu thơ như vậy.”
Chẩn Đoán Bệnh Và Cách Chữa Trị
Muốn bắt đúng bệnh thì việc
đầu tiên phải cho bác sĩ thấy, sờ, khám những bộ phận của cơ thể bị che dấu bởi
nhiều lớp áo quần - phải “lột mặt nạ” để nhìn rõ chân tướng sự vật
Thì lột mặt đi lần lữa mãi
mà chi
dù dối nữa cũng không lừa
được nữa
khôn và ngu đều có tính mức
độ
Và thi sĩ đã tìm ra mấy nguyên nhân đã
gây ra và ủ bệnh từ nhiều năm:
miếng quá độ nuốt vội vàng
sống sít
mất vệ sinh bội thực tự
hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc
ca ngợi
1/ Áp đặt quá hấp
tấp “bước quá độ” của CNXH vào hoàn cảnh
đất nước Việt Nam trong khi cơ sở vật chất còn chưa đủ lớn, đủ vững.
2/ Tự hào vô lối, vô căn cứ đến độ “bội thực”, cả nước vỗ ngực ngợi ca
mình, ngợi ca đảng, ngợi ca chế độ, ngợi ca nhau đến mức “ngộ độc ca ngợi”.
3/ Trên lừa dưới,
dưới lừa trên, cả nước lừa nhau để được sống
“an lành”. Cụm từ “sự thật hôn mê” được dùng rất chính xác, rất đắt.
Nhưng muốn chữa trị thì Nguyễn Duy bất lực:
“biết thế nhưng mà biết
làm thế nào”
Bốc thang chửi bới thì sợ
bị lợi dụng, van lạy để cầu xin đổi mới thì không biết:
“Đổi mới thật hay giả vờ đổi
mới”
nên đành buông một câu hỏi
bâng quơ mà chính mình không biết - và không ai có thể cho mình - câu trả lời:
“Máu nhiễm trùng ta có thể
thay chăng?”
Đối Thoại Với Cái Bóng - Và Hồn Thơ
Sau phần nhập đề - khoảng
trên dưới 20 câu nhẹ nhàng từ tốn - nhịp thơ nhanh dần lên khi bước vào phần
chính của tứ thơ. Cũng là người làm thơ, tôi có cảm giác Nguyễn Duy đang lên
cơn điên – điên vì quá đau thương, điên vì quá giận dữ. Ông đã không đắn đo hơn
thiệt, không biết sợ hãi, để mặc cho các con chữ tuôn ra. Cảm xúc từ mỗi chữ, mỗi
câu tỏa ra nóng hổi. Ý này nối tiếp ý kia, vấn nạn sau nối tiếp vấn nạn trước,
chảy xiết cứ như dòng sông vào mùa nước lũ.
Nhưng sao thật lạ! Ở những
đoạn sau, cảm xúc từ mỗi câu thơ vẫn nóng như lửa, cơn điên của tác giả hình
như vẫn chưa hạ, mà sao có một “cái gì đó”, một “lực nào đó” trì kéo lại, không
cho tứ thơ chuyển động nhanh như trước. Tôi đọc lại phần chính của tứ thơ vài lần
và hình như đã tìm ra nguyên nhân.
Số là Nguyễn Duy trong lúc
xác lập khung cảnh (setting) của bài thơ đã có một sáng kiến. Để khỏi phải tự
mình đơn độc kể lể giãi bày tâm sự như các thi sĩ khác ông “đè” cái bóng của
chính mình ra để nói chuyện với nó. Làm thế có cái lợi trước mắt là giọng thơ bớt
đơn điệu. Tôi đã nghe ông đọc bài thơ trên Youtube. Mỗi lúc quay qua nhấn giọng
hỏi cái bóng: Ai? thì vài khán giả ngồi gần ông – cũng giống ông - mắt lại sáng
lên khoái chí; không khí bài thơ tươi, vui hơn.
Tuy nhiên, để có được cái
không khí có vẻ tươi vui ấy bài thơ đã phải trả một giá khá đắt.
Một là, hỏi giật giọng như
vậy một, hai lần thì còn lôi cuốn sự chú ý của độc giả, tạo không khí sống động
cho bài thơ, nhưng chơi cái mửng ấy đến 10 lần - mà lần nào câu hỏi cũng chỉ một
chữ Ai? và câu trả lời cũng là dáng điệu bất tri, bất lực của cái bóng (3) -
thì càng về sau cảm giác nhàm chán càng nặng nề.
Hai là, về chữ nghĩa, ý tứ
thì bài thơ nhất khí liền mạch nhưng hơi thơ, dòng thơ thì vì phải qua hơi nhiều
bảng Stop nên không có trớn, chảy không được nhanh, được mạnh, không tận dụng
được sự gia tăng tốc độ và cường độ dòng chảy khi có “sóng sau dồn sóng trước”.
Do đó, thiệt thòi cho sự lớn mạnh của hồn thơ.
Tôi nghĩ rằng nếu không có
quá nhiều bảng Stop do “đối thoại với cái bóng” tạo ra thì hơi thơ, hồn thơ sẽ
mạnh hơn nhiều và giá trị nghệ thuật của bài thơ còn cao hơn nữa.
Đoạn
Kết Thiếu Thuyết Phục
Mới đây cô giáo Trần Thị Lam cũng vẽ lên một bức
tranh đen tối của đắt nước qua bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh? Cô
chấm dứt bài thơ bằng một câu hỏi:
Ai trả lời giùm đất nước sẽ về đâu?
làm xốn xang, rung động trái tim của hàng triệu
người yêu thơ, yêu quê hương dân tộc bởi vì đó là nỗi băn khoăn chung của toàn
dân trước hiện tình đất nước..
Nguyễn Duy đã moi tâm huyết, dùng tài thơ của
mình vẽ lên bức tranh về con người và quê hương đất nước Việt Nam rất sinh động,
rất thật nhưng đen như mõm chó, đen như cái “sự đời”. Vâng, bức tranh Nhìn Từ
Xa … Tổ Quốc đầy đủ, cụ thể, rõ nét, sinh động và “đen” hơn bức tranh của cô
giáo nhiều. Nhưng nhà thơ của chúng ta lại rất lạc quan bảo người dân Việt Nam:
“Còn thơ còn dân
ta là dân - vậy thì ta tồn
tại (sic!)
Giọt từng giọt
nặng nhọc thay
Dù có sao đừng thở dài
Còn da lông mọc còn chồi nảy
cây
thì đúng là ngài nói cho lấy được, chẳng “tâm
lý” tý nào. Lạc quan của ngài là thứ lạc quan tếu và niềm tin của ngài chỉ nhẹ
như những câu xã giao, đầu môi chót lưỡi của láng giềng an ủi nhau trong cảnh
nghèo hoặc khi gặp hoạn nạn:
“Thôi! Bác cũng đừng quá
buồn. Hết cơn bỉ cực tới hồi thái lai.” (Sau đó nếu nó cứ bỉ cực hoài mà không
thấy thái lai thì cũng cố chịu vậy nhé)
Khi viết:
Giọt từng giọt
nặng nhọc thay
không biết có phải ngài muốn
nói đến việc thay máu nhiễm trùng không? Nếu đúng thế thì nhà thơ kiêm bác sĩ
(mà tôi rất yêu mến và nể trọng) đang … mơ. Lẽ ra phải giải quyết cái nguồn đưa
vi trùng vào máu thì ngài lại “thay máu từng giọt”. Chữa bệnh kiểu đó thì ngài
– và hàng mấy chục triệu bệnh nhân khác - sẽ “chết trước giờ xổ số”.
Riêng câu “Dù có sao đừng thở dài” thì rất
“chõi” với tứ thơ, như một cái gai nhọn và cứng đâm vào da thịt người đọc.
Tôi nhớ đã khá lâu rồi - khi gặp nhau ở Cali
(Mỹ) - một bạn thơ đã nói với tôi “Biết đâu nếu không có cái đoạn kết lạc quan
tếu ấy thì giờ này Nguyễn Duy đang mịt mù ở một vùng núi rừng nào đó còng lưng
cuốc đất như Trần Dần, Lê Đạt, Hữu Loan thời Nhân Văn Giai Phẩm. Nguyễn Duy viết
như thế là ‘hay’ đấy, chứ không phải ‘dở’ đâu.”
Theo tôi, đó chỉ là suy
đoán; và “hay, dở” như ông bạn tôi nói là cách ứng xử của thi sĩ trước cường
quyền. Nhiệm vụ của tôi - một người bình thơ - là dựa vào văn bản để tìm ra cái
hay, cái dở của kỹ thuật và nghệ thuật thơ. Và đoạn kết của NTXTQ với tôi, đã
không cùng hướng với dòng chảy của tứ thơ và là một đoạn kết dở.
Đởm Lược Của Nguyễn Duy
Nguyễn Duy nhìn quanh quất rồi than một câu
não nuột trong bài thơ của mình:
“Ngày càng hiếm hoi câu
thơ tuẫn tiết”
Nhân sĩ Bắc Hà và cả miền
nam (13 năm sau ngày đổi chủ)) đã biết rõ chế độ XHCN nó nguy hại như thế mà miệng
vẫn ngậm tăm. Để giải thích hiện tượng này nhà phê bình Chu Văn Sơn đã viết “Rồi
yêu nước cũng phải có chỉ đạo nữa. Có phải thế không mà lòng yêu nước, nỗi đau
đời lắm khi cứ phải nói chui như một thứ hàng lậu. Thiện chí bị nghi ngờ, thiện
tâm bị cảnh giác. Lời tâm huyết bị kiểm duyệt, cắt xén sao cho hợp những cái
khuôn cấm kỵ, lọt được những lỗ tai đông đặc nghi kỵ. (3)
Riêng Nguyễn Duy, ông
không chỉ than suông mà đã viết – viết đúng những vần thơ tuẫn tiết - phổ biến
là có thể mất mạng hoặc tù đày. Biết thế nhưng ông vẫn cứ “chơi” và sẵn sàng chấp
nhận hậu quả. Người đời kính trọng ông, yêu mến ông vì tài thơ, vì lòng yêu nước,
nhưng có lẽ còn kính trọng và yêu mến ông nhiều hơn nữa vì đởm lược – thái độ
anh hùng, hiên ngang bất khuất - của ông. Bàì thơ vì thế xuất hiện đúng lúc,
tính thời sự nóng hổi, có tiếng vang lớn cả bắc lẫn trong nam.
Kết
Luận
Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc là một bài thơ rất hay -
tứ thơ táo bạo, ngôn ngữ hình tượng tuyệt vời, viết trong lúc cao hứng nên cảm
xúc mạnh, thơ có hồn. Có chút “xộc xệch” về thế trận chữ nghĩa nên bài thơ chưa
phải là toàn bích.
Nhưng chỉ với hình hài như
thế thôi nó đã làm chính quyền bối rối. “Nó cũng như một giọt nước đầy ly, tạp
chí Sông Hương đang có một số vấn đề mà gặp bài “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” này
thành ra họ phải đình bản để kiểm điểm.”(4)
Còn độc giả thì khỏi nói, trình độ thưởng thức thơ càng cao thì càng
khoái - đọc mà nở từng khúc ruột.
Tôi xin mạn phép xếp nó
vào danh sách gồm 3 bài thơ phản kháng xuất sắc (5), về giá trị nghệ thuật đã đủ
tầm vóc để đại diện cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc – giai đoạn CNXH bị
áp đặt trên toàn nước Việt Nam.
Texas 07/ 2016
Phạm Đức Nhì
Blog:
phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
1/ Vũ Ánh, một phóng viên
tài ba, một viên chức cao cấp trong ngành Truyền Thanh Truyền Hình VNCH (Sau
này là chủ bút báo Người Việt ở Califonia) trong thời gian bị giam ở Trại Trừng
Giới A 20 Xuân Phước đã thực hiện tờ Hợp Đoàn - một tờ báo “chui”, kiểu Nguyệt
San - để đấu tranh chống chính sách đối xử dã man với tù nhân của trại.
Sau khi anh bị đưa đi “xà
lim” dài hạn, tôi được đề cử thay thế phụ trách tờ báo. Được thêm 3 số nữa thì
báo bị đình bản vì lý do an ninh. Một năm sau, chuyện làm báo bị đổ bể nhưng
không có vật chứng. Tuy nhiên, Bộ Nội Vụ vẫn bắt giải những người liên can về Số
4 Phan Đăng Lưu để thụ lý chờ ra tòa. Ngoài ra tôi còn dính líu tới một bài thơ
“có vấn đề” mà người lưu giữ nó đã bị xử 12 năm tù.
2/ Bờ Vẫn Quá Xa, Phạm Đức
Nhì, t-van.net
3/ Mượn chữ của Chu Văn
Sơn trong bài Nhìn Từ Xa Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng https://ngominhblog.wordpress.com/2015/02/26/nhin-tu-xa-to-quoc-tieng-tho-quan-quai-bi-hung/
4/ http://hatranghn.blogtiengviet.net/2013/05/15/bani_thai_nhann_tarl_xa_tar_quar_c_carsa
5/ Gồm: Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc
của Nguyễn Duy, Bánh Vẽ của Chế Lan Viên và Tạ Lỗi Trường Sơn của Đỗ Trung
Quân.
PHỤ LỤC:
Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc
Ðối diện ngọn đèn
trang giấy trắng như xeo bằng
ánh sáng
Ðêm bắc bán cầu vần vụ trắng
nơm nớp ai rình sau lưng
ta
Nhủ mình bình tâm nhìn về
quê nhà
xa vắng
núi và sông
và vết rạn địa tầng
Nhắm mắt lại mà nhìn
thăm thẳm
yêu và đau
quằn quại bi hung
Dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong
lòng
cột biên giới đóng từ
thương đến nhớ
*
Ngọn đèn sáng trắng nóng mắt
quá
ai cứ sau mình lẩn quất
như ma
Ai ?
im lặng
Ai ?
cái bóng !
A… xin chào người anh hùng
bất lực dài ngoẵng
bóng máu bầm đen sõng soài
nền nhà
Thôi thì ta quay lại
chuyện trò cùng cái bóng
máu me ta
*
Có một thời ta mê hát đồng
ca
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta cứ mê ta(*)
Vâng – đã có một thời hùng
vĩ lắm
hùng vĩ đau thương hùng vĩ
máu xương
mắt người chết trừng trừng
không chịu nhắm
Vâng – một thời không thể
nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi – cấm lội
ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi
hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
*
Ta đã xuyên suốt cuộc chiến
tranh
nỗi day dứt không nguôi
vón sạn gót chân
nhói dài mỗi bước
Thời hậu chiến vẫn ta người
trong cuộc
xứ sở phì nhiêu sao thật lắm
ăn mày ?
Ai ?
không ai
Vết bầm đen đấm ngực
*
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh
đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường
làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ
lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà
quan
Ai ?
không ai
Vết bầm đen quều quào giơ
tay
*
Xứ sở từ bi sao thật lắm
thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà –
ma mãnh…
quỉ nhập tràng xiêu vẹo những
hình hài
Ðêm huyền hoặc
dựng tóc gáy thấy lòng
toang hoác
mắt ai xanh lè lạnh toát
lửa ma trơi
Ai ?
không ai
Vết bầm đen ngửa mặt lên
trời
*
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm
kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả
thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin
lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
Ai ?
không ai
Vết bầm đen tọa thiền
*
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất
học
lắm ngôi trường xơ xác đến
tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước
mắt
tuổi thơ còng lưng xuống
chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư
đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng
thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất
thểu
Ai ?
không ai
Vết bầm đen cúi đầu lặng
thinh
*
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ –
điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn
nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng
nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Ai ?
không ai
Vết bầm đen vò tai
*
Xứ sở cần cù
sao thật lắm Lãn Ông
lắm mẹo lãn công
Giả vờ lĩnh lương
giả vờ làm việc
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
Ðạo Chích thành tôn giáo
phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập
đoàn quân buôn
buôn hàng lậu – buôn quan
– buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá
trước công đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen nhún vai
*
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa
xứ
lắm cuộc chia li toe toét
cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng
gái góa
chen nhau sang nước người
làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh
thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn
ngày về
Ai ?
không ai
Vết bầm đen rứt tóc
*
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua
chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai
choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa xứ quân san sát
vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu
trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có
như không có
một người đi chật cả con
đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen gập vuông thước
thợ
*
?…
?…
?…
*
Ai ?
Ai ?
Ai ?
Không ai !
Không ai !
Không ai !
Tự vấn – mỏi
vết bầm đen còng còng dấu
hỏi
*
Thôi thì ta trở về
còn trang giấy trắng tinh
chưa băng hoại
còn chút gì le lói ở trong
lòng
*
Ðôi khi nổi máu lên đồng
hồn thoát xác
rũ ruột gan ra đếm
Chích một giọt máu thường
xét nghiệm
tí trí thức – tí thợ cày –
tí điếm
tí con buôn – tí cán bộ –
tí thằng hề
phật và ma mỗi thứ tí ti…
Khốn nạn thân nhau
nặng kiếp phân thân mặt nạ
Thì lột mặt đi lần lữa mãi
mà chi
dù dối nữa cũng không lừa
được nữa
khôn và ngu đều có tính mức
độ
*
Bụng dạ cồn cào bất ổn làm
sao
miếng quá độ nuốt vội vàng
sống sít
mất vệ sinh bội thực tự
hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc
ca ngợi
bệnh và tật bao nhiêu năm ủ
lại
biết thế nhưng mà biết làm
thế nào
Chả lẽ bây giờ bốc thang
chửi bới
thầy chửi bới nhe giàn
nanh cơ hội
Chả lẽ bốc thang cỏ khô
nhai lại
lạy ông-cơ-chế lạy
bà-tư-duy
xin đừng hót những lời
chim chóc mãi
Ðừng lớn lối khi dân lành ốm
đói
vẫn còng làm cho thẳng
lưng ăn
Ðổi mới thật không hay giả
vờ đổi mới?
máu nhiễm trùng ta có thể
thay chăng?
*
Thật đáng sợ ai không có
ai thương
càng đáng sợ ai không còn
ai ghét
Ngày càng hiếm hoi câu thơ
tuẫn tiết
ta là gì ?
ta cần thiết cho ai ?
*
Có thể ta không tin ai đó
có thể không ai tin ta nữa
dù có sao vẫn tin ở con
người
Dù có sao
đừng khoanh tay
khủng khiếp thay ngoảnh mặt
bó gối
Cái tốt nhiều hơn sao cái
xấu mạnh hơn ?
những người tốt đang cần
liên hiệp lại!
*
Dù có sao
vẫn Tổ Quốc trong lòng
mạch tâm linh trong sạch
vô ngần
còn thơ còn dân
ta là dân – vậy thì ta tồn
tại
*
Giọt từng giọt
nặng nhọc
Nặng nhọc thay
Dù có sao
đừng thở dài
còn da lông mọc còn chồi nảy
cây.
____
1. Thơ Chế Lan Viên