Thứ Năm, 20 tháng 1, 2022

PHỎNG VẤN NHÀ THƠ PHẠM ĐỨC NHÌ VỀ BÌNH THƠ

 


 

PHỎNG VẤN NHÀ THƠ PHẠM ĐỨC NHÌ VỀ BÌNH THƠ

 

Phan Võ Hoàng Nam:


Tôi là một người rất yêu thích thơ và cũng đã in cho mình một tập nho nhỏ mươi bài để thỏa chút đam mê văn chương. Mặc dù rất yêu thích, nhưng đối với Lý luận phê bình thì tôi chỉ là người ngoại đạo và khả năng cảm thụ văn chương có hạn, nên tôi thường xuyên đọc các bài bình thơ hầu mong có thêm hiểu biết.

 

Gần đây đọc được một số bài phê bình thơ của anh Phạm Đức Nhì tôi thật sự rất ấn tượng với lối bình thơ vừa mới lạ vừa sâu sắc của anh. Trung thực, khách quan nhận xét với sự sắc sảo trong cảm nhận nghệ thuật và những phân tích chi tiết với vốn kiến thức phong phú của mình là điều tôi rất thích trong những bài viết của anh.

 

Cơ duyên, tôi và anh đã có những buổi trò chuyện văn chương qua video call thật thú vị (chủ yếu là tôi nghe nhiều hơn nói). Nhằm để tìm hiểu một cách đàng hoàng hơn về Lý luận phê bình của anh, tôi có đề nghị anh chia sẻ những nghĩ suy của anh xoay quanh vấn đề mình quan tâm. Được anh vui vẻ đồng ý nên tôi đã mạnh dạn gửi đến anh một số câu hỏi. Xin giới thiệu đến bạn bè gần xa cùng yêu thích văn thơ.    

 

Vài lời phi lộ của Phạm Đức Nhì:

Phan Võ Hoàng Nam (tên thật là Nguyễn Hoàng Nam) là một nghệ sĩ đa tài. Anh làm thơ, viết nhạc, ca hát và còn làm tranh đá (Bảy Núi). Có lẽ có cảm tình với cách bình thơ của tôi nên anh đã liên lạc và mời tôi tham dự một cuộc “phỏng vấn”. Người ở Mỹ, kẻ ở Việt Nam, việc hỏi đáp “mặt đối mặt” cũng có đôi điều bất tiên nên anh đề nghị sẽ gởi cho tôi một số câu hỏi về Bình Thơ để tôi tùy tiện trả lời. Thấy anh rất tha thiết với mảng đề tài mà tôi tâm huyết nên tôi đồng ý.

Đầu tiên anh gởi 6 câu hỏi. Sau khi nhận được bản trả lời của tôi, ngay dưới câu trả lời đầu tiên, anh đặt thêm 2 câu hỏi “phát sinh” (follow up) - tổng cộng là 8 câu hỏi.

Sau đây là nội dung cuộc “phỏng vấn”:

 

Phan Võ Hoàng Nam:

Thưa anh, sau một thời gian dài làm thơ và bình thơ, anh có thể cho độc giả biết về vai trò của nguời bình thơ trong sự phát triển thơ ca.

 

Phạm Đức Nhì:

 

Theo tôi, người bình thơ có 3 nhiệm vụ chính:

1/ Chỉ ra những vụng về, bất cập của thi sĩ trong bài thơ

Sau khi đọc bài viết Cảm Xúc Trong Thơ của tôi, chị Vân Anh - một bạn Facebook – đã viết một bình luận gồm 2 đoạn như sau:

 

Không là dòng chảy trong mương

Không là sóng cả đại dương thăng trầm

Người – êm ái mạch nước ngầm - 

Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về.

 

Cám ơn anh Nhì Phạm.

 

Bài viết của anh thật thú vị. Em cũng từng nguệch ngoạc đôi dòng nhưng vẫn chưa thấy dáng dấp thơ trong đó. Đọc bài viết của anh và ngộ ra khá nhiều lỗ hổng trong những dòng nguệch ngoạc của mình.

 

Hai câu cuối của đoạn thơ, được in đậm, chính là nhiệm vụ đầu tiên của người bình thơ - chỉ ra những vụng về, bất cập của thi sĩ trong bài thơ.

 

Rồi chỉ khoảng vài tiếng sau chị Vân Anh lại cho ra đời bài thơ Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh trong đó có 4 câu nói đến hai nhiệm vụ khác nữa của người bình thơ.

2/ Chỉ ra những điểm hay, đẹp, mới lạ của bài thơ

Anh trải rộng những cánh đồng mướt xanh

em ngửa mặt hít hà hương lúa mới

 

3/ Chỉ ra hướng đi và điểm đến cho Thi Sĩ

 

Anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi

thuyền em trôi thênh thang

 

Xin phép được dừng một tý để cám ơn cô giáo Vân Anh. Mới đọc có vài bài viết mà cô giáo đã thấy hết gan ruột của tác giả. Mà lại còn diễn đạt cái “thấy” của mình bằng thơ mới đáng nể chứ. Tôi đã ngả mũ bái phục cô giáo rồi đấy.

 

Phan Võ Hoàng Nam:

 

“Người êm ái mạch nước ngầm

Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về”

 

có vẻ như là một nhiệm vụ quan trọng của người bình thơ. Nhưng sao tôi thấy có một số nhà bình thơ “chỉ khen không chê”. Anh nghĩ sao về cách bình thơ theo “trường phái” này?

 

Phạm Đức Nhì:

 

Khi bình thơ thì chê khó hơn khen. Hạ bút chê một câu thơ, một ý thơ hay chỉ một chữ trong bài thơ, nhà bình thơ phải có kiến thức rộng và nội lực sung mãn, đủ khả năng phản biện khi có ý kiến trái chiều.

 

Khen nếu lỡ hơi “nặng tay” một chút thì tác giả bài thơ dĩ nhiên sẽ không lên tiếng, còn độc giả cũng dễ “cho qua”, ít người “làm ầm ĩ”.

 

Nhưng nếu chê không đúng thì nhà bình thơ sẽ lãnh đủ. Thi sĩ bị chê sẽ không dễ gì im lặng, bạn bè cuả anh (chị) ta hoặc độc giả khác thấy chuyện bất bình cũng có khi nhảy vào “nói mấy lời công đạo”. Chỉ cần một đôi lần như thế uy tín của nhà bình thơ sẽ xuống thấp. Bởi thế, một số nhà bình thơ đã chọn cách “chỉ khen không chê” để “an toàn trên xa lộ”.

 

Bình thơ “chỉ khen không chê” có mấy cái hại:

 

1/ Tác giả bài thơ không biết điểm sai, điểm yếu của mình để sửa chữa, tránh đi vào vết xe đổ hầu có sự tiến bộ trong tương lai.

 

2/ Thơ hay thơ dở đánh lộn sòng, làm nhiễu loạn khả năng thưởng thức thơ của độc giả.

 

3/ Sinh ra thói nịnh nhau, bốc thơm nhau. Tệ hơn nữa, còn có “nghề khen thơ” – như trong bài viết cùng tên của Nông Hồng Diệu trên báo Tiền Phong. Đàng sau những bài bình thơ “chỉ khen không chê” đôi khi còn ẩn hiện bóng dáng chiếc phong bì.

 

 

Phan Võ Hoàng Nam:

 

Trở lại 3 nhiệm vụ của nhà bình thơ. Xin anh Phạm Đức Nhì cho biết Điểm Đến của thơ là chỗ nào ạ?

 

Phạm Đức Nhì:

 

Cái này hơi dài đấy. Nhưng tôi sẽ cố gắng tóm tắt cho thật gọn.

 

 Để có thể thích ứng và hội nhập với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều.

 

Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có 2 cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: Cái tôi đích thực và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là “cái tôi văn hóa”.

 

Tuổi đời càng cao cái tôi văn hóa càng mạnh, càng rõ nét và cái tôi đích thực càng yếu kém, mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia. Lúc ấy, nói như Jean Paul Sartre thì con người là một “kẻ vong thân” (đánh mất chính mình). Còn nói như Albert Camus thì con người đích thực đã bất lực - để một “kẻ xa lạ” đến chiếm hữu thân xác mình.

 

 

Thi sĩ làm thơ trong lúc tỉnh táo quá thì những điều viết ra sẽ được cân nhắc, suy hơn, tính thiệt kỹ càng. Đó sẽ là những vần thơ phải đạo được “đạo diễn” bởi “cỗ máy biết suy nghĩ” - “cái tôi văn hóa”. Nếu thi sĩ có kỹ thuật thơ cao cường – ngôn từ trong sáng, thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, hiệu quả - thì thơ vẫn có cảm xúc, vẫn có thể “hay” nhưng lời thơ chưa hoàn toàn chân thật.

 

Khi thi sĩ thật cao hứng, lên cơn điên vì yêu, hận (giận), vui sướng, buồn bã, ghen ghét, ham muốn … cảm xúc sẽ sôi lên phủ mờ lý trí, “cái tôi đích thực” sẽ vùng dậy đẩy “cái tôi văn hóa” vào bóng tối để dành quyền “đạo diễn” bài thơ. Thi phẩm viết ra trong tâm cảnh ấy sẽ chẳng màng đến chính kiến, lập trường, truyền thống, đạo đức, lễ giáo, thước đo giá trị của người đời … mà chỉ là những gì tuôn trào ra ngòi bút bởi “cơn điên” của thi sĩ đang sôi sục trong lòng.

 

Lúc ấy kỹ thuật thơ vẫn mang dáng dấp đẳng cấp của thi sĩ nhưng lời thơ – không còn bị chi phối bởi cái tôi văn hóa - sẽ là tâm tình chân thật của “cái tôi đích thực”. Nếu thi sĩ chọn được thể thơ thích hợp, tứ thơ sẽ chảy thành dòng, cảm xúc ở tầng 3 sẽ lớn mạnh, bài thơ sẽ có hồn. thông điệp của thi sĩ sẽ đi vào lòng độc giả một cách dễ dàng.

Bài thơ đã cho độc giả cái vinh dự được giao tiếp với thi sĩ bằng Tiếng Người Chân Thật, đã xứng đáng bước vào Bến Bờ Thi Ca.

 

 

 

Phan Võ Hoàng Nam:

 

Nói đến cảm xúc thì theo anh, làm thơ để bộc lộ cảm xúc hay để khơi gợi cảm xúc? Nói rõ hơn là làm thơ để bộc lộ cảm xúc của mình hay khơi gợi cảm xúc của độc giả?

 

Phạm Đức Nhì:

 

Làm thơ để khơi gợi cảm xúc (của độc giả) chẳng khác gì những người khóc mướn ở đám ma. Họ chẳng dây mơ rễ má gì với người chết nhưng cũng cố khóc cho có vần có điệu, cho thật mùi mẫn, thật thảm thiết, để làm vừa lòng chủ nhà hầu được trả tiền công hậu hĩnh. Những tiếng khóc của họ là giả tạo, không thật lòng tý nào.

 

Trong ca khúc Nửa Hồn Thương Đau, ở đoạn cuối nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã viết:

 

“Đôi khi tôi muốn tin … Đôi khi tôi muốn tin … những người, ôi những người khóc lẻ loi một mình.” - vì khóc lẻ loi một mình, không ai thấy, không ai nghe thường là tiếng khóc của người có nỗi đau buồn chân thật.

 

Tôi viết thêm:

 

“Bởi đàng sau những giọt nước mắt giữa đám đông thường ẩn hiện bóng hình loài cá sấu.”

 

 

Cho nên, là thi sĩ, khi làm thơ thì “trên trang thơ của mình tôi chỉ trung thành với nhịp đập của chính trái tim tôi” và coi độc giả như cỏ rác.

 

Còn khi bình thơ thì những câu nịnh, giả dối đều bị tôi nhìn với đôi mắt thiếu thiện cảm.

 

Phan Võ Hoàng Nam:

 

Thưa anh, theo suy nghĩ cuả riêng tôi, kể từ Hoài Thanh, Hoài Chân đến nay lý luận phê bình thơ Việt Nam vẫn chủ yếu thiên về cảm nhận nội dung, tứ thơ … mà chưa chú trọng đúng mức phần kỹ thuật (Thi Pháp). Vậy theo anh thì Thi Pháp có đóng góp gì cho giá trị nghệ thuật của bài thơ hay không?

 

Phạm Đức Nhì:

 

 

“Thi pháp (poetics) là phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả.”

 

 

Với thơ, cảm xúc gần như là tất cả, thông điệp chỉ là thứ yếu. Dĩ nhiên, tứ thơ hay, ngôn từ trau chuốt, hình tượng đẹp cũng góp phần nâng giá trị của bài thơ nhưng chính cảm xúc mới có thể đưa bài thơ lên “đài danh vọng”, mới giúp bài thơ chiếm một vị trí trang trọng trong lòng độc giả, mới tạo nên sự cách biệt giữa một tuyệt tác thi ca với những bài thơ làng nhàng.

 

Muốn “đo” khối lượng cảm xúc của một bài thơ nhà phê bình trước hết phải “cảm đoán” xem thi sĩ viết bài thơ với tâm thế nào. Nếu ngài “trút bầu tâm sự” lên trang giấy thì bài thơ dễ có nhiều cảm xúc và có cơ hội đạt danh hiệu cao quý: “Bài Thơ Có Hồn”. Đến đây nhà phê bình phải dùng chiêu thi pháp để tìm kết quả. Vần, nhịp điệu và các phương tiên thẩm mỹ khác sẽ được đưa lên bàn mổ để xem có nối kết các con chữ thành một thế trận hoàn hảo và có tạo được cao trào không?

 

Bởi vậy nếu không bàn thi pháp thì sẽ rất khó nhận biết cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp đến từ trạng thái cao hứng của thi sĩ – và đỉnh điểm của nó là hồn thơ. Không làm được điều đó, theo tôi, bài bình thơ thất bại.

 

 

Bình thơ không bàn thi pháp chắc chắn sẽ dẫn đến bất công. Người bình chỉ chú ý đến ý tứ, còn kỹ thuật thơ thì “ngoảnh mặt làm ngơ”. Tác giả bài thơ đã có “tay nghề” cao hay vẫn còn lẹt đẹt ở phía sau cũng đều được đánh giá giống nhau, cá mè một lứa. 

 

Người may mắn có được những bước chân khai phá đi đúng hướng bến bờ thi ca thì vì mang tâm trạng nửa tin, nửa ngờ, không có người biết chuyện chia sẻ, thông cảm, khuyến khích nên vẫn cứ ngập ngừng, vừa bước vừa run; nếu bất ngờ đụng phải một trở ngại nhỏ cũng dễ dàng bỏ cuộc. Người vẫn còn lẹt đẹt - nhưng lại không biết mình ở phía sau - vẫn cứ tiếp tục đi, lắm lúc còn ưỡn ngực tự hào dù thực sự đang quanh đi quẩn lại, bì bõm trong vũng sình lầy lội.   

 

Thưa tất cả những nhà phê bình thuộc trường phái Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp,

 

Với lối bình thơ ấy quý vị đã đối xử với bài thơ như một đoạn văn không hơn, không kém. Tâm của quý vị có thể chính trực nhưng lời bình của quý vị lại thiên vị, bất công, thơ hay thơ dở đánh lộn sòng.

 

Bao nhiêu những tố chất để làm nên “tính thơ” quý vị đều phớt lờ. Quý vị đã cầm dao đâm chết bài thơ trước khi viết lời bình. Những phân tích, bàn tán hoa mỹ của quý vị chỉ là những cánh hoa phủ lên một “cái xác không hồn”, một bài thơ không có “tính thơ”.

 

Xin những người yêu thơ hãy cùng tôi lên tiếng để cứu thơ. Nếu không, một ngày nào đó thơ – cái thứ thơ mà chúng ta trân trọng yêu quý - sẽ không còn nữa.

 

Nguyễn Hoàng Nam:

 

Trong một số bài phê bình, nhận xét về thơ của anh được phổ biến trên mạng Internet, anh đã sử dụng rất nhiều tiêu chí về mặt kỹ thuật để đánh giá một bài thơ (có khi lên đến 22 tiêu chí như bài “Nét Đẹp Của Bài Thơ “Đợi” – Vũ Quần Phương – Qua Lăng Kính Kỹ Thuật”). Thưa anh cách đánh giá đó có phải là thẩm mỹ văn học phương Tây chủ yếu thiên về lý tính, và khi áp đặt cách nhìn ấy vào những bài thơ thiên về cảm xúc của mỹ cảm phương Đông liệu có tạo nên sự khập khiễng trong phương pháp không ạ?

 

Phạm Đức Nhì:

 

 

Đại đa số những bài bình thơ Việt - kể cả của những nhà bình thơ nổi tiếng – đã chỉ bình tán ý tứ và phớt lờ phần thi pháp. Điều này làm tôi rất lo ngại. Bình như thế người thưởng thức thơ khó thấy được giá trị nghệ thuật đích thực của bài thơ.

 

Tôi đã viết hai bài để thử nghiệm:

 

1/ Nhận Xét Lan Man Về Bài Thơ “Hoa Tím” Của Dư Bình.

2/ Nét Đẹp Của Bài Thơ “Đợi” Của Vũ Quần Phương Qua Lăng Kính Kỹ Thuật.

 

Đây không phải là những bài bình thơ mà chỉ là liệt kê những tiêu chí để thẩm định giá trị của bài thơ và những nhận xét vắn tắt về mức độ thành công của tác giả trong mỗi tiêu chí. Độc giả đọc cả bài nhận xét sẽ thấy “nét đẹp” (hay không đẹp, chưa đẹp) của bài thơ về mặt kỹ thuật.

 

Tôi gọi “bảng liệt kê” đó là “bộ thước” gồm 22 “cây thước” (hoặc nhiều hơn nữa) có tính gợi ý, để nếu thấy “cây thước” nào hợp thì lấy ra phân tích, bàn tán khi bình một bài thơ. Có bộ thước trong túi, khi bình thơ sẽ không sợ quên, không sợ thiếu sót. Tôi học được lối bình thơ “bài bản” này từ người Mỹ.

 

 

Tuy nhiên, tôi chỉ học cái “cách bình thơ bài bản” của họ, còn bộ thước và nôi dung của mỗi cây thước một phần đã có sẵn trong văn chương Việt, phần còn lại do tôi đặt ra.

 

Khi bình thơ tôi sẽ chọn một số cây thước thích hợp với bài thơ, sắp xếp lại theo một trình tự hợp lý rồi khai triển rộng ra. Như một số bạn đọc nhận xét “Nó là cái sườn để mình dựng một bài bình thơ bài bản, đầy đủ và chi tiết”. "Mỹ cảm phương Đông”, đặc biệt là cái “hồn Việt” không mất đi tý nào.

Bạn Phan Võ Hoàng Nam thấy đó - chẳng có gi là “khập khiễng” hết

 

 

Phan Võ Hoàng Nam:

 

Trong những năm qua, những bài bình thơ của anh được các nhà thơ, nhà phê bình và độc giả đánh giá cao. Nhiều người nhận xét cách bình thơ của anh “lạ lùng”, “rất mới”, “anh có thế giới riêng cho mình” …

 

Anh có thể chia sẻ cái “lạ lùng”, “rất mới”, “thế giới riêng cho mình”… trong các bài bình thơ của anh được không ạ?

 

Phạm Đức Nhì:

 

Cái mới lạ trong cách bình thơ của tôi nằm trong hai chữ “Thi Pháp”. Ngoài việc giải thích, bình tán tứ thơ như những nhà bình thơ khác, tôi đã mạnh dạn đưa những “phương tiện thẩm mỹ” khác của thi pháp vào bài bình thơ, xem việc sử dụng (hoặc không sử dụng) những “phương tiện thẩm mỹ” ấy ảnh hưởng ra sao đến giá trị nghệ thuật của bài thơ.

 

Xin phép được trích dẫn nhận xét của nhà thơ Đậu Thị Thương, giáo viên môn văn ở Hà Tĩnh:

 

“Cách thẩm bình của anh luôn thú vị và hấp dẫn, vừa rất cổ điển vừa tự do phóng khoáng. Bình thơ như anh hiện không có. Người ta, nếu ở góc thi pháp mà bình thì nặng nề, nếu ở góc ấn tượng thì lan man. Anh đọc thơ ở cả hai góc ấy nhưng uyển chuyển và sắc nét. Anh chơi thơ với đôi mắt xanh say đắm và lạ.

Mong đọc nhiều hơn các bài của anh”.

 

Tôi cũng xin được nói lời cảm ơn đến nữ sĩ Đậu Thị Thương. Chị đã bỏ công đọc, đã thấy và đưa ra nhận xét vừa đúng lại vừa hay. Thật quý hóa có một bạn thơ hiểu mình đến như vậy.

 

Phan Võ Hoàng Nam:

 

Anh cho rằng “Tứ thơ hay, câu từ trau chuốt, bóng bẩy đều ít nhiều giúp nâng giá trị nghệ thuật của bài thơ, nhưng chính cảm xúc mới có thể đưa bài thơ lên “đài danh vọng”

Vậy theo anh, thế nào là một bài thơ có nhiều cảm xúc?”

Phạm Đức Nhì:

 

Đã được gọi là thơ thì ít nhiều cũng có cảm xúc. Như tôi đã “liệt kê” trong bộ thước mẫu ở trên, có 3 tầng cảm xúc:

1/ Cảm xúc tầng 1: Phát sinh từ câu chữ, hình tượng, các biện pháp tu từ.

2/ Cảm xúc tầng 2: Phát sinh từ thế trận hợp lý của bài thơ.

3/ Cảm xúc tầng 3: Không phát sinh từ câu chữ, thế trận mà từ trạng thái cao hứng của thi sĩ; nói văn vẻ một chút, nó phát sinh từ “giữa 2 hàng kẻ” – nghĩa là ở ngoài câu chữ.

 

Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 có thể tìm hiểu, học hỏi để nhận biết bằng lý trí. Riêng cảm xúc tầng 3 chỉ  có thể “cảm” được bằng tâm hồn. Trong bộ thước mẫu có 7 cây thước tôi gọi là Cái Nền Kỹ Thuật của bài thơ. Bảy cây thước này sẽ giúp người thưởng thức thơ đến gần với cảm xúc tầng 3 hơn.

 

BẢY CÂY THƯỚC CỦA CÁI NỀN KỸ THUẬT

 

1/ Thể Thơ:

 

Nếu thể thơ phân mảnh đứt đoạn, khi ngừng nghỉ để chuyển đoạn lý trí sẽ tái xuất hiện, cảm xúc sẽ teo tóp, không có cơ hội lớn mạnh.

 

Nếu thể thơ nhất khí liền mạch: Có dòng chảy của tứ thơ – chưa chắc chắn nhưng có cơ hội, có hy vọng sẽ tiến xa.

 

2/ Độ Dài Của Bài Thơ:

 

Bài thơ ngắn (4 câu hoặc ít hơn): Cảm xúc chưa đủ lớn mạnh thì bài thơ đã hết.

 

Bài thơ đủ dài để có “sóng sau dồn sóng trước”: Có thêm hy vọng.

 

3/ Chức Năng Truyền Thông:

 

Dễ hiểu, dễ tiêu để không có mô gò cản đường: Giúp dòng chảy thông thoáng.

 

4/ Vần Và Dòng Âm Điệu:

 

Vần vừa ngọt để dòng âm điệu hỗ trợ (làm trơn) dòng chảy của tứ thơ. Đừng quá ngọt để tránh hội chúng nhàm chán vần; Đừng thiếu ngọt, tứ thơ sẽ “không chảy” - tạo cơ hội cho lý trí xuất hiện.

 

5/ Nhịp Điệu:

 

Thay đổi số chữ trong câu để dòng chảy uyển chuyển, phóng khoáng, tránh nhịp điệu đều đều tẻ nhạt, nhàm chán.

 

6/ Phong Thái Của Thi Sĩ Lúc Làm Thơ:

 

Ung dung, thoải mái – không tự nguyện tuân thủ những luật lệ gò bó trói buộc có tính “thói quen”, truyền thống; lý trí không có lý do để xía vào.

 

7/ Dòng Cảm Xúc

 

Cảm xúc tầng 3 (nếu có) sẽ nhập vào dòng tứ thơ, dòng âm điệu để thành dòng cảm xúc. Nếu tứ thơ có dòng chảy xiết, thi sĩ cao hứng hoặc nổi điên, dễ tạo được cao trào và Hồn Thơ.

 

TÓM LẠI:

Nếu qua được 2 tiếu chí đầu tiên, tùy mức độ thành công của 5 tiêu chí còn lại, cảm xúc tấng 3 sẽ ở vào những thứ hạng sau đây:

 

1/ Thi sĩ tỉnh táo, lý trí nắm quyền đạo diễn: Không có cảm xúc tầng 3, không có hồn thơ.

 

2/ Thi sĩ có hứng: Có cảm xúc tầng 3 nhưng lý trí vẫn còn mạnh - hồn thơ mới phơn phớt nhẹ.

 

3/ Thi sĩ cao hứng: Cảm xúc tầng 3 lớn mạnh, lý trí vẫn còn nhưng yếu - hồn thơ đã rõ nét.

 

4/ Thi sĩ nổi điên: Cảm xúc tầng 3 đầy ắp, ngập tràn, lý trí trốn biệt - hồn thơ lai láng.

 

Dĩ nhiên, đây chỉ là những gợi ý. Bỏ thêm công phân tích, bình tán, nêm nếm mắm muối hành tiêu tỏi ớt bạn sẽ có một bài bình thơ “ngon miệng”.

 

Phan Võ Hoàng Nam:

 

Rất cảm ơn anh Phạm Đức Nhì đã dành thời gian để có những chia sẻ hết sức nghiêm túc và thú vị. Tin rằng những người làm thơ và quan tâm đến thơ sẽ tìm thấy trong những câu trả lời của anh những điều bổ ích.

 

Chúc anh luôn dồi dào sức khoẻ và nhiều niềm vui để ngày càng có nhiều bài viết hay, có giá trị học thuật.

 

Trân trọng chào anh!



BÀI LIÊN QUAN 


THI PHÁP THỰC DỤNG


http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2022/05/thi-phap-thuc-dung.html 


 

Trở Về Trang Chính:

https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2023/11/vai-net-ve-trang-blog-ly-thuyet-tho.html







Thứ Ba, 23 tháng 11, 2021

BẠN THÍCH THƠ ĐẸP HAY THƠ CÓ HỒN?

 

 

Lê Đạt và Tô Thùy Yên là hai tài năng thơ đặc biệt của Văn Học Việt Nam. Khi đất nước chia đôi năm 1954, Lê Đạt ở miền bắc. Từ những năm 50 ông đã nỗ lực thay đổi bộ mặt của hình thức thơ. Về nội dung, ông tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đứng về phía nhân dân chĩa mũi dùi vào những bất công, bất cập của chế độ.

 

Bài thơ Nhân Câu Chuyện  Mấy Người Tự Tử được nhiều người biết đến và một thời đã gây xao động văn đàn miền bắc.

 

Tô Thùy Yên ở miền nam. Cũng vào những năm cuối thập niên 50 ông nằm trong nhóm Sáng Tạo, tìm một hướng đi mới cho thơ ca và văn học miền nam. Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo 10 năm. Được thả, ông sáng tác bài Ta Về được rất nhiều người tìm đọc và khen ngợi.

Hai bài thơ của hai tài năng thơ ca này có điểm giống nhau là đều dài nhưng lại khác nhau về mặt hình thức.


1/ Ta Về có hình thức là Thơ Mới Trường Thiên phân mảnh đứt đoạn.


Bài thơ gồm 124 câu, 86 chữ, chia làm 31 đoạn. Mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu 7 chữ, có thể đứng độc lập như một bài thơ hoàn chỉnh, diễn tả một mảnh tâm trạng của tác giả.


2/ Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử có dạng Thơ Mới Biến Thể, Nhất Khí Liền Mạch 


Bài thơ có 900 chữ, thêm đoạn Tái Bút 358 chữ, tổng cộng 1258 chữ. Số chữ trong câu thay đổi với biên độ rộng, gieo vần liên tiếp, dàn trải liên tục từ câu đầu đến câu cuối.


Xét về nét đẹp văn chương thì Ta Về nổi trội hơn nhiều. Mỗi đoạn là một “bài thơ’ ngắn cô đọng, súc tích và rất đẹp.

Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử thì ngôn ngữ, câu cú dễ tiêu, dòng chảy xiết, “sóng sau dồn sóng trước”, Hồn Thơ mạnh.

 

Mời bạn thưởng thức 2 tuyệt tác thi ca và sau đó là mấy lời bình ngắn về nét đẹp riêng của mỗi bài thơ.

 

 

Ta Về

Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ

Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay

Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ

Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng

Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa

Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi

Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời

Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can

Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta

Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền

Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa

Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi

Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?

Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu

Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên

Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông

Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau

Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm

Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa

Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi

Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen

Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa

Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao

Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh

Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi

Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.

Tô Thùy Yên

 

Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử

Lê Đạt

Ðọc báo Nhân dân số 822

Có đăng tin mấy người tự tử

Vì câu chuyện tình duyên trắc trở

Ðêm mùa hè nóng nôi như lửa

Tôi ngồi làm thơ

Vừa giận, vừa thương mấy người xấu số

Chân chưa đi hết nửa đường đời

Ðã vội nằm im dưới mộ

Cuộc sống cho dù lắm mưa nhiều gió

Nhiều cay đắng xót xa

Cũng còn đẹp gấp vạn lần cái chết

Chết là hết

hết đau

hết khổ

Nhưng cũng hết vầng trăng soi sáng trên đầu

Hết những bàn tay e ấp tìm nhau

Len lén, bước chân hò hẹn

Bây giờ gặp gỡ nơi đâu?

Dù có chết cùng nhau

Cũng vẫn là chia tay vĩnh viễn

Trời đầu xuân mây vần bão chuyển

Có lạnh không?

Tôi biết hai người khổ lắm

Còn gì buồn bằng không được yêu nhau

Nhưng sao lại chết?

Nhà đạo đức vuốt hàng râu mép

Hạ kính

lắc đầu

Chép miệng

“Hòa bình chủ nghĩa”

Tôi không nghĩ vội vàng như thế

Tôi đã từng yêu

từng đã khổ nhiều

Nhưng không thể tán thành cái chết

Tôi không thích loại cúi đầu theo số kiếp

Không sống cùng nhau

Thà chết cùng nhau

Con người ta cần cứng một cái đầu

Chọi nhau cùng số kiếp

Cắn răng vào cứ sống cứ yêu

Khi Lương Sơn Bá tương tư trên giường bệnh

Ngày một võ vàng

Ôm bóng người yêu mà chết

Khi Chúc Anh Ðài xăm xăm vào huyệt

Theo nhau cho trọn lời nguyền,

Cả rạp lặng yên

Những chiếc khăn tay đầm đìa nước mắt,

Sự thật cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật,

Lương Sơn Bá, Chúc Anh Ðài

Sống không được yêu nhau,

Chết còn được hóa thành đôi bướm,

Nhưng mấy người tự tử

Xác bây giờ mục nát dưới mồ,

Biết ai thương họ?

Có phải vì chúng ta quá yêu người cũ

Mà quên người sống bây giờ?

Có phải vì chúng ta mất nhiều trong Kháng chiến,

Nên chủ trương tiết kiệm lòng mình?

Có phải vì chúng ta muôn việc rối tinh

Ðành xếp lại chuyện mấy người tự tử?

Lịch sử trải qua bao nhiêu đau khổ

Những người chết thiêu trong lửa

Những người chết gục trong tù

Những người chết treo trên cột

Tùng xẻo lăng trì

Rỏ máu trên bàn thờ nhân loại

Cho con người được làm người

Cho con người được yêu được sống

Tôi muốn gào lên cho đến khi lạc giọng:

“Không gì đau thương bằng mất một con người"

Sao họ lại đưa nhau đi tự tử

Có phải họ không bằng lòng chế độ

Bất mãn với cuộc đời?

Không.

Họ chưa hai mươi

Cô bé hôm nào mới lớn

Soi trộm vào gương, thấy má mình hồng

Nghĩ đến chuyện lấy chồng

đỏ mặt

Người con trai ngồi trên gò đất

Thổi sáo gọi người yêu

Làm nắng chiều

dừng lại

Lúa đương thì con gái

Cũng thấy rộn trong lòng

Xôn xao gió thổi

Ðầu sát bên đầu bàn chuyện tương lai

Thôn xóm tan dần bóng đen địa chủ

Cuộc đời như ánh trăng mỗi ngày một tỏ

Sáng bừng lên

trong những chiếc hôn đầu

Chế độ ta không cấm họ yêu nhau

Mà sao họ chết?

Người công an đứng ngã tư

đường phố

Chỉ huy

bên trái

bên phải

xe chạy

xe dừng

Rất cần cho việc giao thông.

Nhưng đem bục công an

máy móc

đặt giữa tim người

Bắt tình cảm ngược xuôi

Theo đúng luật đi đường nhà nước

Có thể gây rất nhiều chua xót

ngoài đời

Ngày Phật đản vừa rồi được nghỉ

Tôi đến nhà Văn Cao

Hai đứa rủ nhau

đi ăn thịt chó

Văn Cao vốn là người nể vợ

Ăn xong mua một gói về nhà

Tôi bỗng giật mình,

(nhưng không để lộ ra)

Người chủ xé thơ tôi

gói thịt

Ngay lúc đó tôi chỉ còn muốn chết

Như dại như điên tôi oán đất, oán trời.

Nhưng hôm nay tôi chỉ oán mình tôi

Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ

Vì tôi đã ngủ quên trong chế độ

Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ

La liệt đầy đường hoa nở

chim kêu

“Tốt tốt!

xà và!

tốt tốt!”

Qua thơ tôi

cuộc đời như hết chuyện

Có thể khoanh tay yên trí đi nằm

Như Thượng đế bước sang ngày thứ tám

Không! Không!

bóng những ngày xưa u ám

Còn lởn vởn che cuộc đời như gấu ăn giăng

Cải cách đợt năm

Tôi có qua thăm nhiều thôn xóm

Những cây lúa cúi đầu dưới ruộng

Ðã ngẩng mặt lên trời

Mơ ước mấy nghìn đời

biểu tình trên dãy thẻ

Lũy tre làng phơi phới bay xa

Mở rộng cửa đón những ông chủ mới

Ruộng đất nông dân được đội về cởi trói

Nhưng còn tim

còn óc con người?

Giữa năm Cộng hòa lớn khôn mười một tuổi

Vẫn còn lọt lưới

nhiều thói “an nam”

Dán nhãn hiệu

“Made in Cách mạng”

Ngang nhiên xúc phạm con người

Ðẩy họ đi tự tử.

Phải quét sạch mây đen

cho chân trời rộng mở

Chặt hết gông xiềng

cho những cánh tung lên

Ngày và đêm

mộng bay đầy cuộc sống

Khát vọng theo khát vọng

Không gì ngăn cản con người.

Hà Nội, tháng 6-56

Lê Đạt



 Tái Bút

 

 

Bài thơ đến đây, đáng lẽ là chấm hết

Nhưng tác giả đọc cho mấy người quen biết

Thấy cần tái bút đôi lời

Một anh bạn chửi tôi:

“Hết chuyện rồi sao

Mà lại đẽo đến chuyện người tự tử

Ngậm mực phun đen chế độ”

 

Anh bạn ơi!

Tôi khuyên anh

Không đẹp gì cái lối vu oan giá hoạ

Ném bã rượu vào nhà người

“Trăm năm bia đá thời mòn

Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”

Lịch sử luôn luôn duyệt lại

Không ai lừa được cuộc đời

Trước tòa án ngày mai

 

Mấy thằng bán rẻ ông cha đi làm chó

Đánh hơi gật gù

“Lại một thằng làm thơ bất mãn”

Lân la xán đến gần

Hoa chân múa tay

Rêu rao miền Bắc

Trong kia miền Nam

Thế này

Thế khác.

Cút ngay đi! Đừng giở trò kiếm chác

Ăn bẩn sủa càn

Đất nước trong khó khăn

Đối với chúng ta càng yêu càng quý

Con thương cha mẹ

Lúc ốm

Lúc đau

Chén thuốc múi chanh bảo nhau chạy chữa.

 

Tôi chưa quên những ngày qua đau khổ

Kiếp sống nặng trên vai

Như một án tù

Cắt tóc đi tu

Tu không trọn

Thuốc phiện dấm thanh không thoát nợ đời

Mười tám tuổi già hơn ông cụ:

Tôi đã biết thế nào là tự tử

Nên tôi yêu thiết tha cuộc đời

Càng yêu cuộc đời

Tôi càng yêu chế độ

Chế độ của tôi

Sống để bụng

Chết mang theo dưới mộ

Nhưng yêu thương

Không có nghĩa là tụng kinh gõ mõ

Bán dầu cù là

 

Xoen xoét “vì Đảng vì Dân”

Để lừa Dân lừa Đảng

Cuộc sống đòi hỏi người làm thơ can đảm

Vạch mặt những con sâu cách mạng

Ẩn núp trong nếp cờ

Đội mũ đi hia

Phè phỡn trên lưng chế độ

 

Tôi trở lại chuyện mấy người tự tử

Họ đúng hay sai,

Thôi để họ nằm yên ngủ

Dù khen dù chê

Họ cũng đã chết rồi

Nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ những người

Còn sống

Phải hiểu

Phải yêu

Phải trọng

Con người…

 

Hà Nội, tháng 7-56

 

Đọc Ta Về, tôi tưởng tượng Tô Thùy Yên như một người khổng lồ đeo trên lưng một bọc lớn đựng đầy cảm xúc. Đáy bọc có một cái vòi, có valve để có thể đóng mở theo ý muốn. Thế rồi thi sĩ của chúng ta tay cầm xẻng đào hố, tay cầm vòi, mỗi hố lại mở valve xịt vào một ít cảm xúc. Được 31 hố thì buông xẻng ngửa mặt lên trời than rằng:

“Ôi! Bọc cảm xúc còn nhiều quá mà ta không còn đủ sức đào hố nữa rồi.”

(“Ta tiếc đời ta sao hữu hạn

Đành không trải hết được lòng ta.”)


Đọc Ta Về của Tô Thùy Yên người đọc sẽ lững thững đi tới từng chiếc hố – cả 31 hố, hố nào cũng đẹp – để thưởng thức đường nét tinh xảo của từng nhát xẻng, màu sắc đẹp đẽ, sang trọng pha lẫn chút kiêu sa của cái khối cảm xúc ở trong hố, để thấy khối cảm xúc đó sóng sánh như muốn trào lên miệng hố.

Tô Thùy Yên, qua Ta Về, đã chú trọng rất nhiều đến các đoạn thơ. Tâm huyết của ông đổ vào cho việc tuyển chọn ngôn từ, tạo dựng hình ảnh. Ông cho rằng: “…một bài thơ dài thành công, tức không bị sa lầy vào sự phân giải lắm lời, phải là một bài thơ mà mỗi đoạn ngắn của nó, nếu như được tách riêng ra, đã có đầy đủ cường độ của một bài thơ hoàn chỉnh.” (Vài Suy Nghĩ Về Thơ Vần, dactrung.net).

Mỗi đoạn của Ta Về – đúng vậy – nếu tách riêng ra “đã có đầy đủ cường độ của một bài thơ hoàn chỉnh.” Không những hoàn chỉnh mà còn rất hay, không một chút tì vết. Nhưng gộp 31 đoạn thơ lại ta chỉ có 31 hố thơ, 31 vũng thơ chứ không có một dòng thơ, như một dòng suối, dòng sông, biểu lộ dòng cảm xúc của tác giả.

 

 

Về mặt hình thức, bài thơ Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử gồm 127 câu (theo cách đếm câu của người viết bài này)- không kể đoạn viết thêm 52 câu – viết theo lối thơ mới biến thể. Số chữ trong câu nhiều, ít tùy hứng. Vần gieo liên tiếp, nhưng những lúc cần tác giả sẵn sàng bỏ vần để khơi rộng dòng chảy của cảm xúc.

Thêm vào đó, những câu chuyển ý, chuyển đoạn  thường thoát vận nên bài thơ tuy dài, đọc giả dường như không cảm thấy dấu hiệu của hội chứng nhàm chán vần. Vào năm 1956 có được hình thức bài thơ như thế đã là rất mới.

Có thể nói giá trị nghệ thuật của bài thơ chỉ gồm trong hai chữ: Cảm xúc. Bài thơ (thực sự) lấy cảm xúc làm chủ đạo. Mặc dù Lê Đạt đã có thể sử dụng ngôn ngữ đời thường để diễn đạt những ý niệm trừu tượng, phức tạp một cách tài tình, nhưng tựu trung, ngôn từ, câu cú trong bài thơ chỉ là những công cụ để khơi dòng, để cho cảm xúc đầy ắp trong lòng tác giả chảy đến trái tim độc giả.

Khác vi Tô Thùy Yên, Lê Đạt không đào hố. Thay vào đó, ông đào một con kênh dài rồi đổ ào cả cái bọc cảm xúc xuống. Cảm xúc cứ nối tiếp nhau, "sóng sau dồn sóng trớớc" chảy thành dòng cuồn cuộn. Và khi đến cuối kênh, dòng cảm xúc đã hợp đủ sức mạnh để đẩy tung cánh cửa trái tim của độc giả.