Lê Đạt và Tô Thùy Yên là hai tài năng thơ đặc biệt của Văn Học Việt Nam. Khi đất nước chia đôi năm 1954, Lê Đạt ở miền bắc. Từ những năm 50 ông đã nỗ lực thay đổi bộ mặt của hình thức thơ. Về nội dung, ông tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đứng về phía nhân dân chĩa mũi dùi vào những bất công, bất cập của chế độ.
Bài thơ Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử được nhiều người biết đến và một thời đã gây xao động văn đàn miền bắc.
Tô Thùy Yên ở miền nam. Cũng vào những năm cuối thập niên 50 ông nằm trong nhóm Sáng Tạo, tìm một hướng đi mới cho thơ ca và văn học miền nam. Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo 10 năm. Được thả, ông sáng tác bài Ta Về được rất nhiều người tìm đọc và khen ngợi.
Hai bài thơ của hai tài năng thơ ca này có điểm giống nhau là đều dài nhưng lại khác nhau về mặt hình thức.
1/ Ta Về có hình thức là Thơ Mới Trường Thiên phân mảnh đứt đoạn.
Bài thơ gồm 124 câu, 86 chữ, chia làm 31 đoạn. Mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu 7 chữ, có thể đứng độc lập như một bài thơ hoàn chỉnh, diễn tả một mảnh tâm trạng của tác giả.
2/ Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử có dạng Thơ Mới Biến Thể, Nhất Khí Liền Mạch
Bài thơ có 900 chữ, thêm đoạn Tái Bút 358 chữ, tổng cộng 1258 chữ. Số chữ trong câu thay đổi với biên độ rộng, gieo vần liên tiếp, dàn trải liên tục từ câu đầu đến câu cuối.
Xét về nét đẹp văn chương thì Ta Về nổi trội hơn nhiều. Mỗi đoạn là một “bài thơ’ ngắn cô đọng, súc tích và rất đẹp.
Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử thì ngôn ngữ, câu cú dễ tiêu, dòng chảy xiết, “sóng sau dồn sóng trước”, Hồn Thơ mạnh.
Mời bạn thưởng thức 2 tuyệt tác thi ca và sau đó là mấy lời bình ngắn về nét đẹp riêng của mỗi bài thơ.
Ta Về
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can
Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen
Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.
Tô Thùy Yên
Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử
Lê Đạt
Ðọc báo Nhân dân số 822
Có đăng tin mấy người tự tử
Vì câu chuyện tình duyên trắc trở
Ðêm mùa hè nóng nôi như lửa
Tôi ngồi làm thơ
Vừa giận, vừa thương mấy người xấu số
Chân chưa đi hết nửa đường đời
Ðã vội nằm im dưới mộ
Cuộc sống cho dù lắm mưa nhiều gió
Nhiều cay đắng xót xa
Cũng còn đẹp gấp vạn lần cái chết
Chết là hết
hết đau
hết khổ
Nhưng cũng hết vầng trăng soi sáng trên đầu
Hết những bàn tay e ấp tìm nhau
Len lén, bước chân hò hẹn
Bây giờ gặp gỡ nơi đâu?
Dù có chết cùng nhau
Cũng vẫn là chia tay vĩnh viễn
Trời đầu xuân mây vần bão chuyển
Có lạnh không?
Tôi biết hai người khổ lắm
Còn gì buồn bằng không được yêu nhau
Nhưng sao lại chết?
Nhà đạo đức vuốt hàng râu mép
Hạ kính
lắc đầu
Chép miệng
“Hòa bình chủ nghĩa”
Tôi không nghĩ vội vàng như thế
Tôi đã từng yêu
từng đã khổ nhiều
Nhưng không thể tán thành cái chết
Tôi không thích loại cúi đầu theo số kiếp
Không sống cùng nhau
Thà chết cùng nhau
Con người ta cần cứng một cái đầu
Chọi nhau cùng số kiếp
Cắn răng vào cứ sống cứ yêu
Khi Lương Sơn Bá tương tư trên giường bệnh
Ngày một võ vàng
Ôm bóng người yêu mà chết
Khi Chúc Anh Ðài xăm xăm vào huyệt
Theo nhau cho trọn lời nguyền,
Cả rạp lặng yên
Những chiếc khăn tay đầm đìa nước mắt,
Sự thật cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật,
Lương Sơn Bá, Chúc Anh Ðài
Sống không được yêu nhau,
Chết còn được hóa thành đôi bướm,
Nhưng mấy người tự tử
Xác bây giờ mục nát dưới mồ,
Biết ai thương họ?
Có phải vì chúng ta quá yêu người cũ
Mà quên người sống bây giờ?
Có phải vì chúng ta mất nhiều trong Kháng chiến,
Nên chủ trương tiết kiệm lòng mình?
Có phải vì chúng ta muôn việc rối tinh
Ðành xếp lại chuyện mấy người tự tử?
Lịch sử trải qua bao nhiêu đau khổ
Những người chết thiêu trong lửa
Những người chết gục trong tù
Những người chết treo trên cột
Tùng xẻo lăng trì
Rỏ máu trên bàn thờ nhân loại
Cho con người được làm người
Cho con người được yêu được sống
Tôi muốn gào lên cho đến khi lạc giọng:
“Không gì đau thương bằng mất một con người"
Sao họ lại đưa nhau đi tự tử
Có phải họ không bằng lòng chế độ
Bất mãn với cuộc đời?
Không.
Họ chưa hai mươi
Cô bé hôm nào mới lớn
Soi trộm vào gương, thấy má mình hồng
Nghĩ đến chuyện lấy chồng
đỏ mặt
Người con trai ngồi trên gò đất
Thổi sáo gọi người yêu
Làm nắng chiều
dừng lại
Lúa đương thì con gái
Cũng thấy rộn trong lòng
Xôn xao gió thổi
Ðầu sát bên đầu bàn chuyện tương lai
Thôn xóm tan dần bóng đen địa chủ
Cuộc đời như ánh trăng mỗi ngày một tỏ
Sáng bừng lên
trong những chiếc hôn đầu
Chế độ ta không cấm họ yêu nhau
Mà sao họ chết?
Người công an đứng ngã tư
đường phố
Chỉ huy
bên trái
bên phải
xe chạy
xe dừng
Rất cần cho việc giao thông.
Nhưng đem bục công an
máy móc
đặt giữa tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
Theo đúng luật đi đường nhà nước
Có thể gây rất nhiều chua xót
ngoài đời
Ngày Phật đản vừa rồi được nghỉ
Tôi đến nhà Văn Cao
Hai đứa rủ nhau
đi ăn thịt chó
Văn Cao vốn là người nể vợ
Ăn xong mua một gói về nhà
Tôi bỗng giật mình,
(nhưng không để lộ ra)
Người chủ xé thơ tôi
gói thịt
Ngay lúc đó tôi chỉ còn muốn chết
Như dại như điên tôi oán đất, oán trời.
Nhưng hôm nay tôi chỉ oán mình tôi
Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ
Vì tôi đã ngủ quên trong chế độ
Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ
La liệt đầy đường hoa nở
chim kêu
“Tốt tốt!
xà và!
tốt tốt!”
Qua thơ tôi
cuộc đời như hết chuyện
Có thể khoanh tay yên trí đi nằm
Như Thượng đế bước sang ngày thứ tám
Không! Không!
bóng những ngày xưa u ám
Còn lởn vởn che cuộc đời như gấu ăn giăng
Cải cách đợt năm
Tôi có qua thăm nhiều thôn xóm
Những cây lúa cúi đầu dưới ruộng
Ðã ngẩng mặt lên trời
Mơ ước mấy nghìn đời
biểu tình trên dãy thẻ
Lũy tre làng phơi phới bay xa
Mở rộng cửa đón những ông chủ mới
Ruộng đất nông dân được đội về cởi trói
Nhưng còn tim
còn óc con người?
Giữa năm Cộng hòa lớn khôn mười một tuổi
Vẫn còn lọt lưới
nhiều thói “an nam”
Dán nhãn hiệu
“Made in Cách mạng”
Ngang nhiên xúc phạm con người
Ðẩy họ đi tự tử.
Phải quét sạch mây đen
cho chân trời rộng mở
Chặt hết gông xiềng
cho những cánh tung lên
Ngày và đêm
mộng bay đầy cuộc sống
Khát vọng theo khát vọng
Không gì ngăn cản con người.
Hà Nội, tháng 6-56
Lê Đạt
Bài thơ đến đây, đáng lẽ là chấm hết
Nhưng tác giả đọc cho mấy người quen biết
Thấy cần tái bút đôi lời
Một anh bạn chửi tôi:
“Hết chuyện rồi sao
Mà lại đẽo đến chuyện người tự tử
Ngậm mực phun đen chế độ”
Anh bạn ơi!
Tôi khuyên anh
Không đẹp gì cái lối vu oan giá hoạ
Ném bã rượu vào nhà người
“Trăm năm bia đá thời mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”
Lịch sử luôn luôn duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời
Trước tòa án ngày mai
Mấy thằng bán rẻ ông cha đi làm chó
Đánh hơi gật gù
“Lại một thằng làm thơ bất mãn”
Lân la xán đến gần
Hoa chân múa tay
Rêu rao miền Bắc
Trong kia miền Nam
Thế này
Thế khác.
Cút ngay đi! Đừng giở trò kiếm chác
Ăn bẩn sủa càn
Đất nước trong khó khăn
Đối với chúng ta càng yêu càng quý
Con thương cha mẹ
Lúc ốm
Lúc đau
Chén thuốc múi chanh bảo nhau chạy chữa.
Tôi chưa quên những ngày qua đau khổ
Kiếp sống nặng trên vai
Như một án tù
Cắt tóc đi tu
Tu không trọn
Thuốc phiện dấm thanh không thoát nợ đời
Mười tám tuổi già hơn ông cụ:
Tôi đã biết thế nào là tự tử
Nên tôi yêu thiết tha cuộc đời
Càng yêu cuộc đời
Tôi càng yêu chế độ
Chế độ của tôi
Sống để bụng
Chết mang theo dưới mộ
Nhưng yêu thương
Không có nghĩa là tụng kinh gõ mõ
Bán dầu cù là
Xoen xoét “vì Đảng vì Dân”
Để lừa Dân lừa Đảng
Cuộc sống đòi hỏi người làm thơ can đảm
Vạch mặt những con sâu cách mạng
Ẩn núp trong nếp cờ
Đội mũ đi hia
Phè phỡn trên lưng chế độ
Tôi trở lại chuyện mấy người tự tử
Họ đúng hay sai,
Thôi để họ nằm yên ngủ
Dù khen dù chê
Họ cũng đã chết rồi
Nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ những người
Còn sống
Phải hiểu
Phải yêu
Phải trọng
Con người…
Hà Nội, tháng 7-56
Đọc Ta Về, tôi tưởng tượng Tô Thùy Yên như một người khổng lồ đeo trên lưng một bọc lớn đựng đầy cảm xúc. Đáy bọc có một cái vòi, có valve để có thể đóng mở theo ý muốn. Thế rồi thi sĩ của chúng ta tay cầm xẻng đào hố, tay cầm vòi, mỗi hố lại mở valve xịt vào một ít cảm xúc. Được 31 hố thì buông xẻng ngửa mặt lên trời than rằng:
“Ôi! Bọc cảm xúc còn nhiều quá mà ta không còn đủ sức đào hố nữa rồi.”
(“Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.”)
Đọc Ta Về của Tô Thùy Yên người đọc sẽ lững thững đi tới từng chiếc hố – cả 31 hố, hố nào cũng đẹp – để thưởng thức đường nét tinh xảo của từng nhát xẻng, màu sắc đẹp đẽ, sang trọng pha lẫn chút kiêu sa của cái khối cảm xúc ở trong hố, để thấy khối cảm xúc đó sóng sánh như muốn trào lên miệng hố.
Tô Thùy Yên, qua Ta Về, đã chú trọng rất nhiều đến các đoạn thơ. Tâm huyết của ông đổ vào cho việc tuyển chọn ngôn từ, tạo dựng hình ảnh. Ông cho rằng: “…một bài thơ dài thành công, tức không bị sa lầy vào sự phân giải lắm lời, phải là một bài thơ mà mỗi đoạn ngắn của nó, nếu như được tách riêng ra, đã có đầy đủ cường độ của một bài thơ hoàn chỉnh.” (Vài Suy Nghĩ Về Thơ Vần, dactrung.net).
Mỗi đoạn của Ta Về – đúng vậy – nếu tách riêng ra “đã có đầy đủ cường độ của một bài thơ hoàn chỉnh.” Không những hoàn chỉnh mà còn rất hay, không một chút tì vết. Nhưng gộp 31 đoạn thơ lại ta chỉ có 31 hố thơ, 31 vũng thơ chứ không có một dòng thơ, như một dòng suối, dòng sông, biểu lộ dòng cảm xúc của tác giả.
Về mặt hình thức, bài thơ Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử gồm 127 câu (theo cách đếm câu của người viết bài này)- không kể đoạn viết thêm 52 câu – viết theo lối thơ mới biến thể. Số chữ trong câu nhiều, ít tùy hứng. Vần gieo liên tiếp, nhưng những lúc cần tác giả sẵn sàng bỏ vần để khơi rộng dòng chảy của cảm xúc.
Thêm vào đó, những câu chuyển ý, chuyển đoạn thường thoát vận nên bài thơ tuy dài, đọc giả dường như không cảm thấy dấu hiệu của hội chứng nhàm chán vần. Vào năm 1956 có được hình thức bài thơ như thế đã là rất mới.
Có thể nói giá trị nghệ thuật của bài thơ chỉ gồm trong hai chữ: Cảm xúc. Bài thơ (thực sự) lấy cảm xúc làm chủ đạo. Mặc dù Lê Đạt đã có thể sử dụng ngôn ngữ đời thường để diễn đạt những ý niệm trừu tượng, phức tạp một cách tài tình, nhưng tựu trung, ngôn từ, câu cú trong bài thơ chỉ là những công cụ để khơi dòng, để cho cảm xúc đầy ắp trong lòng tác giả chảy đến trái tim độc giả.
Khác với Tô Thùy Yên, Lê Đạt không đào hố. Thay vào đó, ông đào một con kênh dài rồi đổ ào cả cái bọc cảm xúc xuống. Cảm xúc cứ nối tiếp nhau, "sóng sau dồn sóng trớớc" chảy thành dòng cuồn cuộn. Và khi đến cuối kênh, dòng cảm xúc đã hợp đủ sức mạnh để đẩy tung cánh cửa trái tim của độc giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét