PHỎNG VẤN NHÀ THƠ PHẠM ĐỨC NHÌ VỀ BÌNH THƠ
Phan Võ Hoàng Nam:
Tôi là một người rất yêu thích thơ và cũng đã in cho mình một tập nho nhỏ mươi bài để thỏa chút đam mê văn chương. Mặc dù rất yêu thích, nhưng đối với Lý luận phê bình thì tôi chỉ là người ngoại đạo và khả năng cảm thụ văn chương có hạn, nên tôi thường xuyên đọc các bài bình thơ hầu mong có thêm hiểu biết.
Gần đây đọc được một số
bài phê bình thơ của anh Phạm Đức Nhì tôi thật sự rất ấn tượng với lối bình thơ
vừa mới lạ vừa sâu sắc của anh. Trung thực, khách quan nhận xét với sự sắc sảo
trong cảm nhận nghệ thuật và những phân tích chi tiết với vốn kiến thức phong
phú của mình là điều tôi rất thích trong những bài viết của anh.
Cơ duyên, tôi và anh đã
có những buổi trò chuyện văn chương qua video call thật thú vị (chủ yếu là tôi
nghe nhiều hơn nói). Nhằm để tìm hiểu một cách đàng hoàng hơn về Lý luận phê
bình của anh, tôi có đề nghị anh chia sẻ những nghĩ suy của anh xoay quanh vấn
đề mình quan tâm. Được anh vui vẻ đồng ý nên tôi đã mạnh dạn gửi đến anh một số
câu hỏi. Xin giới thiệu đến bạn bè gần xa cùng yêu thích văn thơ.
Vài lời phi lộ của
Phạm Đức Nhì:
Phan Võ Hoàng Nam (tên thật là Nguyễn Hoàng Nam) là
một nghệ sĩ đa tài. Anh làm thơ, viết nhạc, ca hát và còn làm tranh đá (Bảy
Núi). Có lẽ có cảm tình với cách bình thơ của tôi nên anh đã liên lạc và mời
tôi tham dự một cuộc “phỏng vấn”. Người ở Mỹ, kẻ ở Việt Nam, việc hỏi đáp “mặt
đối mặt” cũng có đôi điều bất tiên nên anh đề nghị sẽ gởi cho tôi một số câu
hỏi về Bình Thơ để tôi tùy tiện trả lời. Thấy anh rất tha thiết với mảng đề tài
mà tôi tâm huyết nên tôi đồng ý.
Đầu tiên anh gởi 6 câu
hỏi. Sau khi nhận được bản trả lời của tôi, ngay dưới câu trả lời đầu tiên, anh
đặt thêm 2 câu hỏi “phát sinh” (follow up) - tổng cộng là 8 câu hỏi.
Sau đây là nội dung cuộc
“phỏng vấn”:
Phan Võ Hoàng Nam:
Thưa anh, sau một thời
gian dài làm thơ và bình thơ, anh có thể cho độc giả biết về vai trò của nguời
bình thơ trong sự phát triển thơ ca.
Phạm Đức Nhì:
Theo tôi, người bình
thơ có 3 nhiệm vụ chính:
1/ Chỉ ra những vụng
về, bất cập của thi sĩ trong bài thơ
Sau khi đọc bài viết
Cảm Xúc Trong Thơ của tôi, chị Vân Anh - một bạn Facebook – đã viết một bình
luận gồm 2 đoạn như sau:
Không là dòng chảy trong mương
Không là sóng cả đại dương thăng trầm
Người – êm ái mạch nước ngầm -
Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về.
Cám ơn anh Nhì Phạm.
Bài viết của anh thật thú vị. Em cũng từng nguệch ngoạc đôi dòng
nhưng vẫn chưa thấy dáng dấp thơ trong đó. Đọc bài viết của anh và ngộ ra khá
nhiều lỗ hổng trong những dòng nguệch ngoạc của mình.
Hai câu cuối của đoạn thơ, được in đậm, chính là nhiệm vụ đầu tiên
của người bình thơ - chỉ ra những vụng về, bất cập của thi sĩ trong bài thơ.
Rồi chỉ khoảng vài
tiếng sau chị Vân Anh lại cho ra đời bài thơ Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh
trong đó có 4 câu nói đến hai nhiệm vụ khác nữa của người bình thơ.
2/ Chỉ ra những điểm
hay, đẹp, mới lạ của bài thơ
Anh trải rộng những cánh đồng mướt xanh
em ngửa mặt hít hà
hương lúa mới
3/ Chỉ ra hướng đi và
điểm đến cho Thi Sĩ
Anh tuôn chảy dòng
sông diệu vợi
thuyền em trôi thênh
thang
Xin phép được dừng một
tý để cám ơn cô giáo Vân Anh. Mới đọc có vài bài viết mà cô giáo đã thấy hết
gan ruột của tác giả. Mà lại còn diễn đạt cái “thấy” của mình bằng thơ mới đáng
nể chứ. Tôi đã ngả mũ bái phục cô giáo rồi đấy.
Phan Võ Hoàng Nam:
“Người êm ái mạch nước
ngầm
Chảy trong tôi suốt tháng
năm vụng về”
có vẻ như là một nhiệm vụ
quan trọng của người bình thơ. Nhưng sao tôi thấy có một số nhà bình thơ “chỉ
khen không chê”. Anh nghĩ sao về cách bình thơ theo “trường phái” này?
Phạm Đức Nhì:
Khi bình thơ thì chê khó
hơn khen. Hạ bút chê một câu thơ, một ý thơ hay chỉ một chữ trong bài thơ, nhà
bình thơ phải có kiến thức rộng và nội lực sung mãn, đủ khả năng phản biện khi
có ý kiến trái chiều.
Khen nếu lỡ hơi “nặng
tay” một chút thì tác giả bài thơ dĩ nhiên sẽ không lên tiếng, còn độc giả cũng
dễ “cho qua”, ít người “làm ầm ĩ”.
Nhưng nếu chê không đúng
thì nhà bình thơ sẽ lãnh đủ. Thi sĩ bị chê sẽ không dễ gì im lặng, bạn bè cuả anh
(chị) ta hoặc độc giả khác thấy chuyện bất bình cũng có khi nhảy vào “nói mấy
lời công đạo”. Chỉ cần một đôi lần như thế uy tín của nhà bình thơ sẽ xuống
thấp. Bởi thế, một số nhà bình thơ đã chọn cách “chỉ khen không chê” để “an
toàn trên xa lộ”.
Bình thơ “chỉ khen không
chê” có mấy cái hại:
1/ Tác giả bài thơ không
biết điểm sai, điểm yếu của mình để sửa chữa, tránh đi vào vết xe đổ hầu có sự
tiến bộ trong tương lai.
2/ Thơ hay thơ dở đánh
lộn sòng, làm nhiễu loạn khả năng thưởng thức thơ của độc giả.
3/ Sinh ra thói nịnh
nhau, bốc thơm nhau. Tệ hơn nữa, còn có “nghề khen thơ” – như trong bài viết
cùng tên của Nông Hồng Diệu trên báo Tiền Phong. Đàng sau những bài bình thơ
“chỉ khen không chê” đôi khi còn ẩn hiện bóng dáng chiếc phong bì.
Phan Võ Hoàng Nam:
Trở lại 3 nhiệm vụ của nhà
bình thơ. Xin anh Phạm Đức Nhì cho biết Điểm Đến của thơ là chỗ nào ạ?
Phạm Đức Nhì:
Cái này hơi dài đấy.
Nhưng tôi sẽ cố gắng tóm tắt cho thật gọn.
Để có thể thích ứng và hội nhập với cuộc sống hàng
ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc
giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng
nhiều.
Sau khi vào đời một thời
gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có 2 cái tôi
cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác
đó: Cái tôi đích thực và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi
tạm gọi là “cái tôi văn hóa”.
Tuổi đời càng cao cái
tôi văn hóa càng mạnh, càng rõ nét và cái tôi đích thực càng yếu kém, mờ nhạt.
Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền
chiếm hữu cái thân xác kia. Lúc ấy, nói như Jean Paul Sartre thì con người là
một “kẻ vong thân” (đánh mất chính mình). Còn nói như Albert Camus thì con
người đích thực đã bất lực - để một “kẻ xa lạ” đến chiếm hữu thân xác mình.
Thi sĩ làm thơ trong lúc
tỉnh táo quá thì những điều viết ra sẽ được cân nhắc, suy hơn, tính thiệt kỹ
càng. Đó sẽ là những vần thơ phải đạo được “đạo diễn” bởi “cỗ
máy biết suy nghĩ” - “cái tôi văn hóa”. Nếu thi sĩ có kỹ thuật thơ cao
cường – ngôn từ trong sáng, thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, hiệu quả - thì thơ vẫn
có cảm xúc, vẫn có thể “hay” nhưng lời thơ chưa hoàn toàn chân thật.
Khi thi sĩ thật cao
hứng, lên cơn điên vì yêu, hận (giận), vui sướng, buồn bã, ghen ghét, ham muốn
… cảm xúc sẽ sôi lên phủ mờ lý trí, “cái tôi đích thực” sẽ vùng dậy đẩy “cái
tôi văn hóa” vào bóng tối để dành quyền “đạo diễn” bài thơ. Thi phẩm viết ra
trong tâm cảnh ấy sẽ chẳng màng đến chính kiến, lập trường, truyền thống, đạo
đức, lễ giáo, thước đo giá trị của người đời … mà chỉ là những gì tuôn trào ra
ngòi bút bởi “cơn điên” của thi sĩ đang sôi sục trong lòng.
Lúc ấy kỹ thuật thơ vẫn
mang dáng dấp đẳng cấp của thi sĩ nhưng lời thơ – không còn bị chi phối bởi cái
tôi văn hóa - sẽ là tâm tình chân thật của “cái tôi đích thực”. Nếu thi sĩ chọn
được thể thơ thích hợp, tứ thơ sẽ chảy thành dòng, cảm xúc ở tầng 3 sẽ lớn
mạnh, bài thơ sẽ có hồn. thông điệp của thi sĩ sẽ đi vào lòng độc giả một cách
dễ dàng.
Bài thơ đã cho độc giả
cái vinh dự được giao tiếp với thi sĩ bằng Tiếng Người Chân Thật, đã xứng đáng
bước vào Bến Bờ Thi Ca.
Phan Võ Hoàng Nam:
Nói đến cảm xúc thì theo
anh, làm thơ để bộc lộ cảm xúc hay để khơi gợi cảm xúc? Nói rõ hơn là làm thơ
để bộc lộ cảm xúc của mình hay khơi gợi cảm xúc của độc giả?
Phạm Đức Nhì:
Làm thơ để khơi gợi cảm xúc (của độc giả) chẳng khác gì những người
khóc mướn ở đám ma. Họ chẳng dây mơ rễ má gì với người chết nhưng cũng cố khóc
cho có vần có điệu, cho thật mùi mẫn, thật thảm thiết, để làm vừa lòng chủ nhà
hầu được trả tiền công hậu hĩnh. Những tiếng khóc của họ là giả tạo, không thật
lòng tý nào.
Trong ca khúc Nửa Hồn
Thương Đau, ở đoạn cuối nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã viết:
“Đôi khi tôi muốn tin
… Đôi khi tôi muốn tin … những người, ôi những người khóc lẻ loi một mình.” -
vì khóc lẻ loi một mình, không ai thấy, không ai nghe thường là tiếng khóc của
người có nỗi đau buồn chân thật.
Tôi viết thêm:
“Bởi đàng sau những
giọt nước mắt giữa đám đông thường ẩn hiện bóng hình loài cá sấu.”
Cho nên, là thi sĩ,
khi làm thơ thì “trên trang thơ của mình tôi chỉ trung thành với nhịp đập của
chính trái tim tôi” và coi độc giả như cỏ rác.
Còn khi bình thơ thì
những câu nịnh, giả dối đều bị tôi nhìn với đôi mắt thiếu thiện cảm.
Phan Võ Hoàng Nam:
Thưa anh, theo suy nghĩ cuả riêng tôi, kể từ Hoài Thanh, Hoài
Chân đến nay lý luận phê bình thơ Việt Nam vẫn chủ yếu thiên về cảm nhận
nội dung, tứ thơ … mà chưa chú trọng đúng mức phần kỹ thuật (Thi Pháp). Vậy
theo anh thì Thi Pháp có đóng góp gì cho giá trị nghệ thuật của bài thơ hay
không?
Phạm Đức Nhì:
“Thi pháp (poetics) là
phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm
mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông
điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả.”
Với thơ, cảm xúc gần như là tất cả, thông điệp chỉ là thứ yếu. Dĩ
nhiên, tứ thơ hay, ngôn từ trau chuốt, hình tượng đẹp cũng góp phần nâng giá
trị của bài thơ nhưng chính
cảm xúc mới có thể đưa bài thơ lên “đài danh vọng”, mới giúp bài thơ chiếm một
vị trí trang trọng trong lòng độc giả, mới tạo nên sự cách biệt giữa một tuyệt
tác thi ca với những bài thơ làng nhàng.
Muốn “đo” khối lượng cảm xúc của một bài thơ nhà phê bình trước
hết phải “cảm đoán” xem thi sĩ viết bài thơ với tâm thế nào. Nếu ngài “trút bầu
tâm sự” lên trang giấy thì bài thơ dễ có nhiều cảm xúc và có cơ hội đạt danh
hiệu cao quý: “Bài Thơ Có Hồn”. Đến đây nhà phê bình phải dùng chiêu thi pháp
để tìm kết quả. Vần, nhịp điệu và các phương tiên thẩm mỹ khác sẽ được đưa lên
bàn mổ để xem có nối kết các con chữ thành một thế trận hoàn hảo và có tạo được
cao trào không?
Bởi vậy nếu không bàn thi pháp thì sẽ rất khó nhận biết cảm xúc
tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp đến từ trạng thái cao hứng của thi sĩ – và đỉnh
điểm của nó là hồn thơ. Không làm được điều đó, theo tôi, bài bình thơ thất
bại.
Bình thơ không bàn thi pháp chắc chắn sẽ dẫn đến bất công. Người
bình chỉ chú ý đến ý tứ, còn kỹ thuật thơ thì “ngoảnh mặt làm ngơ”. Tác giả bài
thơ đã có “tay nghề” cao hay vẫn còn lẹt đẹt ở phía sau cũng đều được đánh giá
giống nhau, cá mè một lứa.
Người may mắn có được những bước chân khai phá đi đúng hướng bến
bờ thi ca thì vì mang tâm trạng nửa tin, nửa ngờ, không có người biết chuyện chia
sẻ, thông cảm, khuyến khích nên vẫn cứ ngập ngừng, vừa bước vừa run; nếu bất
ngờ đụng phải một trở ngại nhỏ cũng dễ dàng bỏ cuộc. Người vẫn còn lẹt đẹt -
nhưng lại không biết mình ở phía sau - vẫn cứ tiếp tục đi, lắm lúc còn ưỡn ngực
tự hào dù thực sự đang quanh đi quẩn lại, bì bõm trong vũng sình lầy
lội.
Thưa tất cả những nhà phê bình thuộc trường phái Bình Thơ Không
Bàn Thi Pháp,
Với lối bình thơ ấy quý vị đã đối xử với bài thơ như một đoạn
văn không hơn, không kém. Tâm của quý vị có thể chính trực nhưng lời bình của
quý vị lại thiên vị, bất công, thơ hay thơ dở đánh lộn sòng.
Bao nhiêu những tố chất để làm nên “tính thơ” quý vị đều phớt
lờ. Quý vị đã cầm dao đâm chết bài thơ trước khi viết lời bình. Những phân
tích, bàn tán hoa mỹ của quý vị chỉ là những cánh hoa phủ lên một “cái xác
không hồn”, một bài thơ không có “tính thơ”.
Xin những người yêu thơ hãy cùng tôi lên tiếng để cứu thơ. Nếu
không, một ngày nào đó thơ – cái thứ thơ mà chúng ta trân trọng yêu quý - sẽ
không còn nữa.
Nguyễn Hoàng Nam:
Trong một số bài phê bình, nhận xét về thơ của anh được phổ biến
trên mạng Internet, anh đã sử dụng rất nhiều tiêu chí về mặt kỹ thuật để đánh
giá một bài thơ (có khi lên đến 22 tiêu chí như bài “Nét Đẹp Của Bài Thơ “Đợi”
– Vũ Quần Phương – Qua Lăng Kính Kỹ Thuật”). Thưa anh cách đánh giá đó có phải
là thẩm mỹ văn học phương
Tây chủ yếu thiên về lý
tính, và khi áp đặt cách nhìn ấy vào những bài thơ thiên về cảm xúc của mỹ cảm phương Đông liệu có tạo nên sự khập khiễng trong phương pháp không ạ?
Phạm Đức Nhì:
Đại đa số những bài bình thơ Việt - kể cả của những nhà bình thơ
nổi tiếng – đã chỉ bình tán ý tứ và phớt lờ phần thi pháp. Điều này làm tôi rất
lo ngại. Bình như thế người thưởng thức thơ khó thấy được giá trị nghệ thuật
đích thực của bài thơ.
Tôi đã viết hai bài để thử nghiệm:
1/ Nhận Xét Lan Man Về Bài Thơ “Hoa Tím” Của Dư Bình.
2/ Nét Đẹp Của Bài Thơ “Đợi” Của Vũ Quần Phương Qua Lăng Kính Kỹ
Thuật.
Đây không phải là những bài bình thơ mà chỉ là liệt kê những tiêu chí
để thẩm định giá trị của bài thơ và những nhận xét vắn tắt về mức độ thành công
của tác giả trong mỗi tiêu chí. Độc giả đọc cả bài nhận xét sẽ thấy “nét đẹp”
(hay không đẹp, chưa đẹp) của bài thơ về mặt kỹ thuật.
Tôi gọi “bảng liệt kê” đó là “bộ thước” gồm 22 “cây thước” (hoặc
nhiều hơn nữa) có tính gợi ý, để nếu thấy “cây thước” nào hợp thì lấy ra phân
tích, bàn tán khi bình một bài thơ. Có bộ thước trong túi, khi bình thơ sẽ
không sợ quên, không sợ thiếu sót. Tôi học được lối bình thơ “bài bản” này từ
người Mỹ.
Tuy nhiên, tôi chỉ học
cái “cách bình thơ bài bản” của họ, còn bộ thước và nôi dung của mỗi cây thước
một phần đã có sẵn trong văn chương Việt, phần còn lại do tôi đặt ra.
Khi bình thơ tôi sẽ
chọn một số cây thước thích hợp với bài thơ, sắp xếp lại theo một trình tự hợp
lý rồi khai triển rộng ra. Như một số bạn đọc nhận xét “Nó là cái sườn để mình
dựng một bài bình thơ bài bản, đầy đủ và chi tiết”. "Mỹ cảm phương Đông”,
đặc biệt là cái “hồn Việt” không mất đi tý nào.
Bạn Phan Võ Hoàng Nam
thấy đó - chẳng có gi là “khập khiễng” hết
Phan Võ Hoàng Nam:
Trong những năm qua, những
bài bình thơ của anh được các nhà thơ, nhà phê bình và độc giả đánh giá cao.
Nhiều người nhận xét cách bình thơ của anh “lạ lùng”, “rất mới”, “anh có thế
giới riêng cho mình” …
Anh có thể chia sẻ cái “lạ
lùng”, “rất mới”, “thế giới riêng cho mình”… trong các bài bình thơ của anh
được không ạ?
Phạm Đức Nhì:
Cái mới lạ trong cách
bình thơ của tôi nằm trong hai chữ “Thi Pháp”. Ngoài việc giải thích, bình tán
tứ thơ như những nhà bình thơ khác, tôi đã mạnh dạn đưa những “phương tiện thẩm
mỹ” khác của thi pháp vào bài bình thơ, xem việc sử dụng (hoặc không sử dụng)
những “phương tiện thẩm mỹ” ấy ảnh hưởng ra sao đến giá trị nghệ thuật của bài
thơ.
Xin phép được trích dẫn nhận xét của nhà thơ Đậu Thị Thương,
giáo viên môn văn ở Hà Tĩnh:
“Cách thẩm bình của anh luôn thú vị và hấp dẫn, vừa rất cổ điển
vừa tự do phóng khoáng. Bình thơ như anh hiện không có. Người ta, nếu ở góc thi
pháp mà bình thì nặng nề, nếu ở góc ấn tượng thì lan man. Anh đọc thơ ở cả hai
góc ấy nhưng uyển chuyển và sắc nét. Anh chơi thơ với đôi mắt xanh say đắm và
lạ.
Mong đọc nhiều hơn các bài của anh”.
Tôi cũng xin được nói lời cảm ơn đến nữ sĩ Đậu Thị Thương. Chị
đã bỏ công đọc, đã thấy và đưa ra nhận xét vừa đúng lại vừa hay. Thật quý hóa
có một bạn thơ hiểu mình đến như vậy.
Phan Võ Hoàng Nam:
Anh cho rằng “Tứ thơ hay, câu từ trau chuốt, bóng
bẩy đều ít nhiều giúp
nâng giá trị nghệ thuật của bài thơ, nhưng chính cảm xúc mới có thể đưa bài thơ
lên “đài danh vọng”
Vậy theo anh, thế nào là
một bài thơ có nhiều cảm xúc?”
Phạm Đức Nhì:
Đã được gọi là thơ thì
ít nhiều cũng có cảm xúc. Như tôi đã “liệt kê” trong bộ thước mẫu ở trên, có 3
tầng cảm xúc:
1/ Cảm xúc tầng 1:
Phát sinh từ câu chữ, hình tượng, các biện pháp tu từ.
2/ Cảm xúc tầng 2:
Phát sinh từ thế trận hợp lý của bài thơ.
3/ Cảm xúc tầng 3:
Không phát sinh từ câu chữ, thế trận mà từ trạng thái cao hứng của thi sĩ; nói
văn vẻ một chút, nó phát sinh từ “giữa 2 hàng kẻ” – nghĩa là ở ngoài câu chữ.
Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 có thể tìm hiểu, học
hỏi để nhận biết bằng lý trí. Riêng cảm xúc tầng 3 chỉ có thể “cảm” được
bằng tâm hồn. Trong bộ thước mẫu có 7 cây thước tôi gọi là Cái Nền Kỹ Thuật của bài thơ. Bảy cây
thước này sẽ giúp người thưởng thức thơ đến gần với cảm xúc tầng 3 hơn.
BẢY CÂY THƯỚC CỦA CÁI NỀN KỸ THUẬT
1/ Thể Thơ:
Nếu thể thơ phân mảnh
đứt đoạn, khi ngừng nghỉ để chuyển đoạn lý trí sẽ tái xuất hiện, cảm xúc sẽ teo
tóp, không có cơ hội lớn mạnh.
Nếu thể thơ nhất khí
liền mạch: Có dòng chảy của tứ thơ – chưa chắc chắn nhưng có cơ hội, có hy vọng
sẽ tiến xa.
2/ Độ Dài Của Bài Thơ:
Bài thơ ngắn (4 câu
hoặc ít hơn): Cảm xúc chưa đủ lớn mạnh thì bài thơ đã hết.
Bài thơ đủ dài để có
“sóng sau dồn sóng trước”: Có thêm hy vọng.
3/ Chức Năng Truyền
Thông:
Dễ hiểu, dễ tiêu để
không có mô gò cản đường: Giúp dòng chảy thông thoáng.
4/ Vần Và Dòng Âm
Điệu:
Vần vừa ngọt để dòng
âm điệu hỗ trợ (làm trơn) dòng chảy của tứ thơ. Đừng quá ngọt để tránh hội
chúng nhàm chán vần; Đừng thiếu ngọt, tứ thơ sẽ “không chảy” - tạo cơ hội cho
lý trí xuất hiện.
5/ Nhịp Điệu:
Thay đổi số chữ trong
câu để dòng chảy uyển chuyển, phóng khoáng, tránh nhịp điệu đều đều tẻ nhạt,
nhàm chán.
6/ Phong Thái Của Thi
Sĩ Lúc Làm Thơ:
Ung dung, thoải mái –
không tự nguyện tuân thủ những luật lệ gò bó trói buộc có tính “thói quen”,
truyền thống; lý trí không có lý do để xía vào.
7/ Dòng Cảm Xúc
Cảm xúc tầng 3 (nếu
có) sẽ nhập vào dòng tứ thơ, dòng âm điệu để thành dòng cảm xúc.
Nếu tứ thơ có dòng chảy xiết, thi sĩ cao hứng hoặc nổi điên, dễ tạo được cao
trào và Hồn Thơ.
TÓM LẠI:
Nếu qua được 2 tiếu
chí đầu tiên, tùy mức độ thành công của 5 tiêu chí còn lại, cảm xúc tấng 3 sẽ ở
vào những thứ hạng sau đây:
1/ Thi sĩ tỉnh táo, lý
trí nắm quyền đạo diễn: Không có cảm xúc tầng 3, không có hồn thơ.
2/ Thi sĩ có hứng: Có
cảm xúc tầng 3 nhưng lý trí vẫn còn mạnh - hồn thơ mới phơn phớt nhẹ.
3/ Thi sĩ cao hứng:
Cảm xúc tầng 3 lớn mạnh, lý trí vẫn còn nhưng yếu - hồn thơ đã rõ nét.
4/ Thi sĩ nổi điên:
Cảm xúc tầng 3 đầy ắp, ngập tràn, lý trí trốn biệt - hồn thơ lai láng.
Dĩ nhiên, đây chỉ là những gợi ý. Bỏ thêm
công phân tích, bình tán, nêm nếm mắm muối hành tiêu tỏi ớt bạn sẽ có một bài
bình thơ “ngon miệng”.
Phan
Võ Hoàng Nam:
Rất
cảm ơn anh Phạm Đức Nhì đã dành thời gian để có những chia sẻ hết sức nghiêm
túc và thú vị. Tin rằng những người làm thơ và quan tâm đến thơ sẽ tìm thấy
trong những câu trả lời của anh những điều bổ ích.
Chúc
anh luôn dồi dào sức khoẻ và nhiều niềm vui để ngày càng có nhiều bài viết hay,
có giá trị học thuật.
Trân
trọng chào anh!
BÀI LIÊN QUAN
THI PHÁP THỰC DỤNG
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2022/05/thi-phap-thuc-dung.html
Trở Về Trang Chính:
https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2023/11/vai-net-ve-trang-blog-ly-thuyet-tho.html
Rất vui anh em mình hợp tác trong đề tài này.
Trả lờiXóaNếu không có người đặt câu hỏi thì chẳng thể có câu trả lời
XóaCách thứ hỏi và trả lời đều hay. Tôi chưa được đọc bài bình thơ của anh Nhì. Nhưng cái cách cân, đong, đo, đếm, thơ như thế, thiệt lạ và mới, hiện đại!
XóaCám ơn anh đã đọc và bình luận. Nếu anh cho email tôi sẽ gởi tặng anh mấy bài
XóaMai đã đọc đi đọc lại mà vẫn thấy hấp dẫn và lôi cuốn. Mai thật sự không biết bình thơ, nhưng lại thích làm thơ, mặc dù thơ Mai chỉ làng nhàng nhưng nghe các anh hỏi và trả lời, Mai hiểu thêm một chút về nghệ thuật của thơ
Trả lờiXóaCảm ơn hai anh thật nhiều nhiều ạ. Chúc hai anh sức khỏe, hạnh phúc và tay viết luôn thăng hóa nhé
Mình còn gặp nhau nhiều mà em.
Trả lờiXóa