Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2019

ĐÓA HOA HỒNG CHO NGƯỜI BÌNH THƠ


                       ĐÓA HOA HỒNG CHO NGƯỜI BÌNH THƠ

Từ Một Bình Luận Trên Facebook

Mới đây, dưới bài viết Hồn Thơ Và Cảm Xúc (1) của tôi trên Facebook có hai bình luận của Vân Anh; đúng ra là một bình luận được chia làm hai phần - phần đầu là 4 câu thơ và phần sau có vẻ như là lý do chị đã viết 4 câu thơ đó.

Dưới đây là nguyên văn bình luận:

Không là dòng chảy trong mương
Không là sóng cả đại dương thăng trầm
Người – êm ái mạch nước ngầm
Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về.

Cám ơn anh Nhì Phạm.

Bài viết của anh thật thú vị. Em cũng từng nguệch ngoạc đôi dòng nhưng vẫn chưa thấy dáng dấp thơ trong đó. Đọc bài viết của anh và ngộ ra khá nhiều lỗ hổng trong những dòng nguệch ngoạc của mình.

Tôi trả lời:

Cảm thấy vui khi đọc những dòng "tự thú" của em. Ít ra là bài viết của anh đã có ích cho một người. Rất Yêu Quý em, Vân Anh ạ.
Bốn câu thơ của em hay lắm. Hôm nào có hứng sẽ có mấy dòng "chọc phá" em.

Bài Thơ Đã Có Tựa Đề

Sau khi cùng tôi trao đổi qua mục nhắn tin của Facebook, chị đã chọn cho đoạn thơ một tựa đề. Và bài thơ đã có bộ mặt hoàn chỉnh như sau:

MẠCH NƯỚC NGẦM

Không là dòng chảy trong mương
Không là sóng cả đại dương thăng trầm
Người – êm ái mạch nước ngầm
Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về.
(Vân Anh)

Tứ Thơ

Tứ thơ dựa trên văn bản:

Không là dòng chảy trong mương, cũng không phải đại dương sóng cả, Người là mạch nước ngầm, êm ái chảy trong tâm hồn tôi suốt những tháng năm vụng về.

Tứ thơ đúng là “kín như bưng”.

Cũng may, nhờ có phần sau của bình luận, tứ thơ có diện mạo dễ coi và dễ hiểu như sau:

Nhờ đọc và tiếp nhận “hương hoa” của những bài bình thơ từ 4 phương, 8 hướng, tác giả chợt “ngộ” ra rằng những nhà bình thơ (đúng ra là tác phẩm của họ), không là dòng chảy trong mương, cũng không phải đại dương sóng cả, mà hình như là một mạch nước ngầm, nhẹ nhàng êm ái chảy trong tâm hồn suốt những tháng năm chị còn vụng về trong việc sáng tác cũng như cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca.

Ý: Chính những nhà bình thơ đã giúp thi sĩ chỉnh sửa những vụng về, bất cập trong thơ họ sáng tác cũng như cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca của họ.

Thể Thơ

Mạch Nước Ngầm được viết bằng thể thơ lục bát, vần gieo đầy đủ, gần như là chính vận (mương/dương, trầm /ngầm, ngầm/năm) nhưng bài thơ ngắn (4 câu) nên vần chỉ vừa độ ngọt, không có hội chứng nhàm chán vần.

Nhịp điệu không mới theo nghĩa đột phá, tiên phong nhưng cũng không quá cũ. Câu 2 có đảo ngữ của tĩnh từ “sóng cả”; câu 3 có đảo ngữ của tĩnh từ “êm ái” với nhịp 1/2/3 (Người/ êm ái/ mạch nước ngầm) cũng khá lạ nhưng rất tự nhiên, không có vẻ “cố làm mới” một cách gượng gạo.

Nói chung, bài thơ gọn, đẹp về mặt hình thức.

Ngôn Ngữ, Hình Tượng

Ngôn ngữ ở câu đầu “Không là dòng chảy trong mương” có nét đẹp giản dị dân dã của cô gái quê. Đến câu thứ hai “Không là sóng cả đại dương thăng trầm” nét đẹp đã có chút ít vẻ cao sang. Về ý nghĩa, cả 2 câu đều tương hợp với - và trong chừng mực nào đó, có đóng góp cho - tứ thơ, nhưng cũng chỉ là những diễn viên phụ, đóng vai dọn cảnh.

Đến 2 câu cuối:

Người – êm ái mạch nước ngầm
Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về
                     
sự thăng hoa đã hiện ra rất rõ ràng. Đài các, quý phái nhưng không kênh kiệu lố lăng; trang điểm theo sát cung cách, thời trang đương đại nhưng vẫn duyên dáng, dễ mến. Và quan trọng hơn, hồn cốt của bài thơ nằm ở 2 câu này.

Người”: Danh từ, có thể số ít và cũng có thể số nhiều (hiểu với nghĩa số nhiều thì đúng hơn) – là nhà bình thơ, cũng có thể hiểu với nghĩa “hương hoa” của những tác phẩm bình thơ, hay khái quát hơn là công việc bình thơ.

Êm ái, mạch nước ngầm”: Khác với lời giải của một bài toán, những nhận định hay, dở về một bài thơ hoặc những đúng, sai liên quan đến lý thuyết thơ đều chưa phải là kết luận chung cuộc. Chúng còn phải chịu thử thách của nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều, trước khi đủ độ khả tín để thuyết phục người đọc. “Hương hoa” của những bài bình thơ, nói chung là công việc bình thơ, được tác giả gọi là “mạch nước ngầm êm ái”. Nhờ “mạch nước ngầm êm ái” đó tác giả có thể chỉnh sửa những “vụng về” trong thơ, cũng như những thiếu sót, bất cập trong cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca của mình.

“Chảy trong tôi”: Tiến trình thẩm thấu nội dung và tiêu hóa các bài bình thơ trong tâm hồn người đọc, ở đây là tác giả Mạch Nước Ngầm.

“Suốt tháng năm”: Học hỏi để biết thế nào là thơ hay, thế nào là thơ dở, để có nhận định đúng đắn về thơ nói chung, không phải chỉ một sớm, một chiều mà là công việc lâu dài; có thể nói “Còn làm thơ, còn thưởng thức thơ - nếu muốn làm thơ hay, thưởng thức thơ sành điệu - là còn phải học”.

“Vụng về”: Những yếu kém, khuyết điểm của thi sĩ biểu hiện trong tác phẩm hoặc trong cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca.

Cả 14 chữ kết nối với nhau chặt chẽ, đắc địa đến từng chữ một – nghĩa là không thể thay thế bất cứ chữ nào bằng chữ khác hoặc hoán chuyển vị trí bất cứ chữ nào (hoặc nhóm chữ nào) với chữ khác (hoặc nhóm chữ khác), mà không làm giảm cái hay, cái đẹp tuyệt vời của cả đoạn thơ.

Thêm vào đó, để giải thích “tàm tạm” 14 chữ này tôi đã phải “gói gọn” trong 279 chữ (tỉ lệ 1/20). Có thể nói sức nén của những con chữ trong đoạn thơ này thật ghê gớm.

Bố cục:

Bố cục hay thế trận của bài thơ liền lạc, gắn bó chặt chẽ. Hai câu đầu tuy không đắc địa đến từng chữ một như 2 câu sau nhưng cũng cần thiết để làm nổi bật tứ thơ. Chữ nào cũng làm tròn nhiệm vụ của mình. Không có chữ thừa, “vô tích sự”.

Thủ Pháp Phúng Dụ
                           
Mạch Nước Ngầm của Vân Anh sử dụng thủ pháp phúng dụ (allegory) - mượn một hình ảnh trực quan để bóng gió diễn đạt một ý tưởng trừu tượng. Hình ảnh trực quan ở đây là “mạch nước ngầm”; ý tưởng trừu tượng là công việc bình thơ. Có điều “mạch nước ngầm” lại là “mạch nước ngầm” chảy trong tâm hồn nên không được trực quan cho lắm. Do đó, sợi dây nối giữa công việc bình thơ và “mạch nước ngầm”– qua tài diễn đạt của thi sĩ – dù rất hợp lý, chắc chắn và kín kẽ (không để lầm lẫn “ý tưởng trừu tượng” này với “ý tưởng trừu tượng” khác) nhưng lại quá kín, không thể “nhận diện” bằng “mắt thường”.

Có thể nói nếu chỉ dựa vào văn bản thì độc giả, kể cả những vị nhạy bén, có kinh nghiệm, cũng khó mà thấy được tứ thơ. Sợi dây nối của thủ pháp phúng dụ không hiện hình, bài thơ sẽ là một câu đố bí hiểm, chỉ tác giả mới có câu trả lời. Đây là lỗi kỹ thuật mà thi sĩ sử dụng các thủ pháp ẩn dụ, phúng dụ, “gợi, không kể” thường mắc phải. Nếu không có “thuốc chữa” bài thơ sẽ đi vào quên lãng một cách hết sức oan uổng.

Chính vì thế, tạm coi là người trong cuộc, tôi đã mạnh dạn đưa vào bài viết phần sau của bình luận nhằm “hé mở cánh cửa” để độc giả có thể bước vào thưởng thức cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của bài thơ. Đối với lỗi kỹ thuật kiểu này, chỉ cần chữa trị một lần. Sau đó, chỉ một chú thích nhỏ, hoặc nếu bài thơ có sức sống, dù chẳng chú thích, người đọc cũng dễ dàng biết được căn nguyên, nguồn cội để “bắt” được ý tứ của bài thơ. 

Thông Điệp Sau Cùng

Viết với tâm thế của người thọ nhận, Vân Anh giống như một bệnh nhân mắc chứng “vụng thơ”, được các bác sĩ từ khắp nơi gởi về tặng mỗi người một loại thuốc. Chị tuyển lựa rồi gộp chung lại chế biến thành một món thuốc riêng, uống vào thành “mạch nước ngầm” lưu chuyển trong người mình. Nhờ món thuốc ấy, vi trùng gây bệnh mỗi ngày một chết bớt hoặc yếu dần.

Mới đây, khi có cảm giác là mình đã khỏi bệnh, chị bày tỏ tâm sự của mình bằng một bài thơ. Hai chữ “vụng về” trong bài thơ là thủ pháp “gợi, không kể” (Show, Don’t tell). Khi nghe bệnh nhân thố lộ là nhờ “thuốc” của mình chị đã khỏi bệnh, các bác sĩ - ẩn trong phép phúng dụ là các nhà bình thơ - sẽ mỉm cười khi thấy trước mắt mình một chiếc cầu ngắn. Bước qua chiếc cầu ngắn đó bằng một chút liên tưởng, họ sẽ nhận ra: “Chữa trị chứng bệnh ‘vụng thơ’ là nhiệm vụ chính của mình, của công việc bình thơ”.

Không ít nhà bình thơ, với số lượng bài viết đáng nể, vẫn tiếp tục bình thơ không bàn thi pháp hoặc chỉ khen không chê, nghĩa là không để ý, hoặc tác động được rất ít, đến chứng bệnh “vụng thơ” của tác giả. Với Mạch Nước Ngầm, Vân Anh thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của chị đối với những người làm công việc bình thơ, nhưng cũng rất tế nhị, nhắc khéo họ quan tâm đến hai chữ “vụng về” của thi sĩ.

Cái Dở Của Phúng Dụ lại Thành Hay

Như đã nói ở trên, phúng dụ là mượn một hình ảnh trực quan để bóng gió diễn đạt một ý tưởng trừu tượng. Nhưng hình ảnh trực quan trong bài thơ là “mạch nước ngầm” mà lại là “mạch nước ngầm” chảy trong tâm hồn nên không được “trực quan” cho lắm. Hậu quả là độc giả rất khó “bắt” được tứ thơ. Tuy nhiên, khi đã “hé mở cánh cửa” thì cái “mông lung sương khói” của “mạch nước ngầm chảy trong tâm hồn” lại trở thành cây cầu liên tưởng rất đẹp khiến độc giả thật sảng khoái khi đi trên đường đến bến đỗ của tứ thơ, rồi sau đó hiểu được ẩn ý của tác giả.

Tôi không biết Vân Anh vô tình hay cố ý. Nhưng dù gì đi nữa, cuối cùng cái dở của phép phúng dụ lại thành hay.

Sự Kín Kẽ Của Phúng Dụ

Trong các cuộc trao đổi, tranh luận về thơ, có một câu nói thường được đưa ra, đại ý:

“Mỗi người có một ‘bộ’ tâm tư, tình cảm khác nhau, nên khi đọc một bài thơ họ có quyền hiểu theo ‘hệ quy chiếu’ của riêng họ, có khi khác xa với ý của tác giả.”

Tôi không nghĩ như vậy. Thi sĩ làm thơ là để chia sẻ nỗi lòng, tâm sự - những vui buồn, ưu tư, băn khoăn, yêu thương, thù hận … của mình trước cảnh đời - với độc giả; còn có được sự thông cảm hoặc đồng cảm hay không lại là chuyện khác. Nhưng chắc là ít ai bỏ tim óc ra làm thơ lại muốn thấy thiên hạ không cần tìm hiểu nỗi lòng, tâm sự của mình mà chỉ mượn bài thơ làm “bệ” để “phóng” tâm hồn họ đi trăm phương ngàn hướng.

Làm thơ mà để độc giả (có trình độ) không “bắt” được tứ thơ, không hiểu được nỗi lòng của mình, hoặc nỗi lòng này lại hiểu lầm thành nỗi lòng khác, thì theo tôi, trách nhiệm phần lớn thuộc về thi sĩ.

Dĩ nhiên, có những câu, những đoạn thơ gợi cho người đọc những kỷ niệm vui, buồn của một thời xa xưa, có khi không giống với khung cảnh của bài thơ, hoặc vùng trời ước mơ của thi sĩ (nhưng cả bài thì lại khác). Thỉnh thoảng cũng có những bài thơ mà ở đoạn cuối tác giả tự tìm đến một chân trời rộng mở để thả hồn mình vào mênh mông. Lúc nó người đọc tha hồ “phóng” tâm hồn đến bất cứ nơi nào mình muốn.

Tôi nhớ đến bài thơ Mắt Bồ Câu của Nguyễn Khắc Phước. Khi thi sĩ chạy 150 cây số chỉ để về đứng lặng, ngắm ngã ba sông, rồi:

chép giấc mơ vào con thuyền giấy
thả trôi vào mênh mông (2)

thì trong khung cảnh đó, độc giả - với cùng nỗi nhớ thương, tiếc nuối như tác giả - có quyền thả con thuyền giấy của riêng mình trôi đến bến bờ nào cũng được.  

Nhưng đại đa số những bài thơ khác, viết là để bộc lộ, chia sẻ tâm tình. Mạch Nước Ngầm của Vân Anh thuộc loại này. Nhưng đặc biệt, nhờ ngôn ngữ của bài thơ chắt lọc, đắc địa đến từng chữ một (ở 2 câu cuối), thủ pháp phúng dụ lại không một khe hở, nên khi đã “hé mở cánh cửa” để độc giả bước vào khung cảnh của bài thơ thì họ chỉ có một đường cùng đi với tác giả đến bến đỗ của tứ thơ. Rồi sau đó bước qua một chiếc cầu ngắn nữa của thủ pháp “gợi, không kể” để hiểu thông điệp của bài thơ. Không có con đường nào khác.  

Với bài thơ sử dụng đến 2 biện pháp tu từ (phúng dụ và “gợi, không kể”) - trong đó “hình ảnh trực quan” của phúng dụ lại cũng “mông lung sương khói” - như Mạch Nước Ngầm mà vẫn không để độc giả có lý do (chính đáng) rẽ ngang, rẽ dọc, vẫn thẳng một đường đi đến cánh cửa tâm hồn mình - thì thi sĩ quả là “cao tay ấn”.

Đây là ưu điểm rất đáng khen của Mạch Nước Ngầm.

Khí Tông Và Kiếm Tông
                                                                                                                         
Võ học Hoa Sơn chia làm hai phe: Kiếm Tông và Khí Tông. Kiếm tông lấy chiêu thức làm chính - cứ luyện kiếm thành thục thì nội công tự động tăng tiến. Ngược lại, Khí Tông lấy khí làm gốc, nội công vững thì kiếm pháp có chỗ dựa để tiến xa hơn. (3)

Thơ của phe Kiếm Tông chú trọng kỹ thuật thơ - ngôn ngữ, hình tượng, thế trận chữ nghĩa và các biện pháp tu từ. Thi sĩ của phe Kiếm Tông ít nhiều đều treo giải thưởng cho người “bắt” được, hiểu được ý tứ của bài thơ. Đó là cảm giác sung sướng khó tả khi khám phá ra con đường chứa đầy hoa thơm cỏ lạ, và cứ thế từng bước đi đến cánh cửa tâm hồn của tác giả.

Trong thơ của phe Kiếm Tông cảm xúc tầng 1 và tầng 2 thường mạnh, hoặc rất mạnh. Cảm xúc tầng 3 (đỉnh điểm là hồn thơ) thường vắng bóng (hoặc rất nhẹ, không đáng kể).

Một số bài thơ nổi tiếng của phe Kiếm Tông là: Sông Lấp của Tú Xương (4), Lương Châu Từ của Vương Hàn (5), Bánh Vẽ của Chế Lan Viên (6)…

Thơ của phe Khí Tông chú trọng cảm xúc. Các phương tiện thẩm mỹ khác của thi pháp chỉ là phương tiện để khơi dòng cho cảm xúc tuôn chảy. Trong những bài thơ thành công của phe Khí Tông, cảm xúc tầng 3 rất mạnh, nhiều bài lên tới đỉnh điểm. Đó là lúc thi sĩ nổi điên, cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí, Hồn Thơ lai láng. Lời thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ. Bài thơ đã dành được phần thưởng cao quý nhất - bước vào Bến Bờ Thi Ca.

Vài bài thơ nổi tiếng (đã bước vào Bến Bờ Thi Ca) của phe Khí Tông là: Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương (7), Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy (8), Tạ Lỗi Trường Sơn của Đỗ Trung Quân (9)… Ở đây, tôi chỉ dựa vào trạng thái “lạc thần trí“ của thi sĩ (có tiếng lòng chân thật) để đưa bài thơ vào Bến Bờ Thi Ca. Vị trí cao thấp của thi phẩm trong Bến Bờ Thi Ca còn tùy thuộc những phương tiện thẩm mỹ khác của thi pháp.

“Mạch Nước Ngầm” Của Vân Anh Thuộc Kiếm Tông Hay Khí Tông?

Mạch Nước Ngầm có những đặc điểm sau đây:

1/ Bài thơ bày tỏ lòng biết ơn, nhưng cũng là lời nhắc khéo để giới bình thơ nhìn lại nhiệm vụ của mình: Ca ngợi cái hay cái đẹp nhưng cũng đừng quên chỉnh sửa những vụng về, bất cập của thơ.

2/ Ngôn ngữ chắt lọc, đắc địa - đặc biệt ở 2 câu cuối.

3/ Vần vừa đủ độ ngọt, nhịp điệu của thể thơ lục bát không ở vị thế tiên phong nhưng cũng không quá cũ.

4/ Thế trận chặt chẽ

5/ Thủ pháp phúng dụ kín kẽ.

6/ “Gợi, không kể” mời gọi một “liên tưởng gần”, cây cầu ngắn, dễ bước qua.

7/ Phúng dụ kết hợp với “gợi, không kể” đưa độc giả vào một cuộc phiêu lưu lý thú để vào bến đỗ của tứ thơ rồi sau đó bắt gặp thông điệp của tác giả.

8/ Bài thơ ngắn, thiên về kỹ thuật (chiêu thức) nên không có cảm xúc tầng 3. Tuy nhiên, cảm xúc tầng 1 và tầng 2 rất mạnh.


Tóm lại, Mạch Nước Ngầm thuộc phe Kiếm Tông, nhưng có thể nói, nó là một trong số ít những cao thủ của phe kiếm này.

Kết Luận

Vân Anh hiện đang là giáo viên Tiểu Học. Chị có năng khiếu về thơ nhưng hiểu biết sâu sắc về kỹ thuật thơ của chị, theo tôi, đều được lựa lọc, học hỏi từ Đại Học Trường Đời. Nếu xem Mạch Nước Ngầm là luận văn tốt nghiệp thì chị xứng đáng được chấm đỗ Ưu hạng.

Đọc thơ chị, thấy cũng có một số bài viết theo lối Khí Tông – thiên về cảm xúc. Tôi mong rằng sẽ có một lúc nào đó, gặp một cảnh đời nào đó, khiến chị nổi điên – điên vì quá yêu thương, buồn chán, thù hận … _ cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí, thì với kỹ thuật thơ chắc tay như thế, việc cho ra đời một bài thơ có thể hiên ngang bước vào Bến Bờ Thi Ca, với chị, cũng không quá tầm tay với.

Xin cám ơn Vân Anh. Chị đã tặng chúng tôi - những người đang miệt mài, say sưa với công việc bình thơ - thi phẩm Mạch Nước Ngầm, đẹp như một đóa hoa hồng tươi thắm.

Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com

CHÚ THÍCH:

1/ Hồn Thơ Và Cảm Xúc, FB nhipham

2/ “Mắt Bồ Câu – Bài Thơ Mới Đọc Lần Đầu, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com

3/ Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung.

4/ Sông Lấp - Một Bài Thơ Toàn Bích, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com

5/ Lương Châu Từ - Rượu Và Nỗi Sầu Chinh Chiến, Phạm Đức nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com

6/ “Bánh Vẽ” Và Nhân Cách Môt Nhà Thơ, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com

7/ Say Đi Em - Một Bài Thơ Tới Bến, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com

8/ Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Nỗi Đau Quặn Thắt Của Một Người Việt Yêu Nước, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com

9/ Tạ Lỗi Trường Sơn – Bài Thơ Ngược Dòng Nóng Bỏng, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com

Thứ Ba, 7 tháng 5, 2019

LƯƠNG CHÂU TỪ - RƯỢU VÀ NỖI SẦU CHINH CHIẾN


                                                

“Lương Châu” Và “Từ”  

Lương Châu nay thuộc tỉnh Cam Túc, giữa Lan Châu và Vũ Uy, trước đây là nơi hàng bao thế kỷ người Hồ và người Hán đánh nhau. Lương Châu Từ là một điệu hát cổ nói về chuyện trận mạc biên ải. Những điệu hát cổ như: Thượng Chi Hồi, Chiến Thành NamThương Tiến TửuQuân Mã HoàngViễn Như KỳHoàng Tước HànhLạc Mai Hoa, v.v... được các thi nhân thời trước lấy làm đầu đề để sáng tác. (thivien.net/Vương-Hàn/Lương-Châu-từ-kỳ-1/poem) (1)

Từ, nói chung, là một khúc nhạc. Có rất nhiều điệu Từ. Mỗi điệu có một từ phổ, tác giả phải tìm những chữ thích hợp về thanh âm với công thức từ phổ để điền vào. Sáng tác Từ còn gọi là Điền Từ.

Như vậy, có thể nói Lương Châu Từ là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, luật bằng, vần bằng được tác giả khéo léo điền vào ăn khớp với một từ phổ của xứ Lương Châu. Đo đó, Lương Châu Từ còn được gọi là Khúc Hát Lương Châu.

Với thơ thất ngôn tứ tuyệt thì “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”. Tuy nhiên, khi điền từ thì “nhất tam ngũ” nhiều khi cũng không được “bất luận” mà phải “uốn mình” cho hợp với thanh âm của công thức từ phổ.

Đây là bài bình thơ nên tôi chỉ bàn đến khía cạnh văn chương – nghĩa là sẽ đối xử với Lương Châu Từ như một bài thơ. Còn lãnh vực âm nhạc xin mời các cao nhân khác.

LƯƠNG CHÂU TỪ

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
VUONG HÀN (1)


2/ Ba Cách Hiểu – Ba Bản Dịch 


Câu thứ hai của bài thơ

Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi

có 3 cách hiểu.

1/ Muốn uống (mà chưa uống) thì tiếng nhạc của nhóm nhạc công “cỡi ngựa chơi đàn tỳ bà” đã vang lên thúc giục, khuyên mời (uống rượu). Ở đây “tỳ bà mã thượng” được hiểu là nhóm nhạc công chuyên chơi đàn tỳ bà trên lưng ngựa.

2/ Muốn uống (mà chưa uống) thì ngay lập tức tiếng đàn tỳ bà đã vang lên thúc giục, khuyên mời (uống rượu). Ở đây “mã thượng” được hiểu là ngay lập tức, tức thì.

3/ Muốn uống nhưng tiếng đàn tỳ bà đã thúc giục lên ngựa ra đi.

Do câu thứ hai có 3 cách hiểu nên bài thơ có 3 bản dịch khác nhau.

1/

Rượu bồ đào rót vào chén dạ quang, mới dợm uống thì tiếng tỳ bà trên lưng ngựa đã giục giã khuyên mời. Đừng cười ta say vùi năm lăn trên bãi cát, anh nhé, vì xưa nay chinh chiến đã mấy ai sống sót mà về. (Khúc Hát Lương Châu, Chin Shun-Shin, Nguyễn Nam Trân dịch) (2)

2/

Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Mới dợm uống thì đàn tỳ bà đã ngay lập tức giục giã khuyên mời
Nếu có say nằm lăn trên bãi cát xin bạn chớ cười (sa trường là bãi cát, nơi tập họp quân, chờ lên đường)
Bởi xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.
(Tự dịch)

3/

Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười (sa trường là chiến trường)
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.
(Wikisource) (3)                          

Tác Giả Và Bối Cảnh Của Bài Thơ

Tác giả của Lương Châu Từ là Vương Hàn (687 – 735) - tự Tử Vũ, người đất Tấn Dương (nay thuộc thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Thi đỗ Tiến Sĩ, đã từng được Tể Tướng Trương Thuyết mời về kinh đô làm Bí Thư Chính Tự, lo việc thư tịch.

Ông vốn con nhà giàu có, tính tình hào phóng phong lưu, hơi tự cao; khi uống rượu vui chơi thường sánh mình với các bậc vương hầu nên bị nhiều người đố kỵ. Năm 726, Trương Thuyết thất sủng phải giáng làm Trưởng Sử Nhữ Châu, Vương Hàn cũng bị đổi ra Tiên Châu (nay thuộc huyện Tây Phong tỉnh Liêu Ninh) làm chức nhàn quan hữu danh vô thực là Biệt giá. Sau ông lại bị biếm ra Đạo Châu và mất ở đấy.

Bài thơ là cảnh tiễn quân lên đường ra trấn nhậm (và chiến đấu) nơi miền biên ải. Quân thì đã tập họp đông đủ chờ lệnh. Lời thơ là tâm trạng của vị tướng chỉ huy đang nhận chén rượu tiễn đưa kèm những lời dặn dò, khích lệ của cấp trên (có thể là vua hoặc quan chức lớn hơn).

Vì thế, nếu cho rằng “mới dợm uống thì đàn tỳ bà trên lưng ngựa đã giục giã khuyên mời” (cách hiểu 1) hoặc “mới dợm uống thì ngay lập tức tiếng đàn tỳ bà đã vang lên giục giã khuyên mời (uống rượu)” (cách hiểu 2) và sau đó “nếu có say vùi nằm lăn trên bãi cát (nơi quân lính tập họp) xin bạn đừng cười bởi xưa nay chinh chiến mấy ai trở về” thì rõ ràng không hợp với bối cảnh của bài thơ.

Có mấy điểm hơi khó chấp nhận:

1/ Rượu bồ đào hảo hạng và chén ngọc lưu ly là những món quý thời bấy giờ nên khó có đủ để “mời’ cả đoàn quân uống đến mức “say vùi nằm lăn trên bãi cát”.

2/ Chuẩn bị xuất quân mà lại chuốc rượu cho cả tướng lẫn binh sĩ “say vùi nằm lăn trên bãi cát” thì không “thực tế” chút nào.

Tác Giả Có Phải Là Nhân Vật Chính Trong Bài Thơ?

Vương Hàn đỗ Tiến Sĩ, đã từng làm Bí Thư Chính Tự (chuyên về thư tịch) ở kinh đô nên không phải là võ quan - nhân vật chính (speaker) trong bài Lương Châu Từ. Có lẽ từng được chứng kiến nhiều buổi lễ tiễn quân lên đường, trong đó có một số vị tướng ông quen biết đã ra đi không về, nên sự thương cảm chất chứa trong lòng thôi thúc ông viết bài thơ.

Vốn con nhà giàu có, tính tình hào phóng, hay mở tiệc rượu vui chơi nên bài thơ của ông là lời kêu gọi sự thông cảm, bao dung cho những thái độ, hành động “hơi khó coi” của những người phải “bỏ dở cuộc vui” ở hậu phương để lên đường chinh chiến nơi miền biên ải, sống chết khó lường.


 “Lương Châu Từ” Là Bài Thơ Về Rượu Hay Về Nỗi Sầu Chinh Chiến?

Lương Châu Từ chỉ có 4 câu, 28 chữ nhưng nếu đọc lên hoặc ngâm nga thì có đến 16 chữ thấm đẫm hơi men, thơm nồng mùi rượu (câu 1, câu 3 và 2 chữ “Dục ẩm” của câu 2), 12 chữ còn lại (5 chữ sau của câu 2 và cả câu 4) bao phủ một không khí ly biệt, chết chóc, thê lương của chiến tranh. Cả bài thơ là một nỗi buồn sầu bao la, sâu lắng.

Câu hỏi được đặt ra ở đây là “Ý chính của bài thơ là gì? Rượu hay Chiến Tranh?” Tác giả mượn rượu để nói về chiến tranh hay mượn chiến tranh để nói về rượu?

Trong Say Đi Em, Vũ Hoàng Chương mượn rượu để nói đến nỗi tủi nhục, uất ức, buồn sầu (nói chung là thành sầu) của mình trước cảnh quê hương tan nát dưới gót giầy xâm lược của thực dân Pháp.
Nguyễn Bá Trác qua Hồ Trường mượn rượu để bày tỏ tâm trạng bất đắc chí của một sĩ phu yêu nước.

Chúng ta thử cùng xem cách dàn ý của Lương Châu Từ: (Tôi xin được dịch sát và thay đổi thứ tự các ý nhỏ để độc giả dễ phân biệt đâu là ý chính của tác giả và đâu là những ý phụ tác giả mượn để diễn đạt ý chính đó).

Rượu ngon chưa kịp uống (chưa được say) đã có tiếng tỳ bà giục lên ngựa (ra đi) mà chinh chiến thì xưa nay có mấy ai (sống sót) trở về nên nếu có say khướt, nằm dài giữa chiến trường xin bạn thông cảm, đừng chê cười.

Phần chữ in đậm là ý chính và phần chữ nghiêng là những ý mượn.

Như vậy, khác với Say Đi Em và Hồ Trường, Lương Châu Từ mượn chuyện chén rượu ngon chưa kịp uống và sự sống chết bất thường của chinh nhân rồi dùng thủ pháp “xạo nghệ thuật” biện minh và kêu gọi sự bao dung, thông cảm cho việc say khướt đến mức lố bịch ngoài chiến trường.

Cũng xin nói thêm là vào cuộc chinh chiến không phải lúc nào chinh nhân cũng cầm guơm giáo lăn xả vào đâm chém, sống chết với quân địch. Cũng có nhiều khoảng thới gian giữa những trận đánh - có khi rất dài - tướng tá, binh sĩ được thảnh thơi, dưỡng sức, vui chơi. Đó là lúc tìm những cuộc vui nho nhỏ cho qua ngày tháng và cũng có khi “say khướt, nằm dài giữa chiến trường” như đã nói ở trên.

Một điểm đặc biệt trong Lương Châu Từ là không biết vô tình hay cố ý Vương Hàn đã cho “ý mượn” được tiến lên vị trí ngang hàng với ý chính.

1/ Bằng câu “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” ông đã thổi phồng quá lố con số những người ra đi không về đến nỗi nhà phê bình Thu Tứ phải lên tiếng:

“Ờ, mà đi thường cũng nhiều về chớ đâu tới nỗi hiếm. Trận nào đây mà người dự bi quan thế?” (Lương Châu Từ Của Vương Hàn, Thu Tứ, gocnhin.net) (4)

2/ Câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” thuộc phần “ý mượn” nhưng lại được đặt ở cuối bài làm nhiệm vụ của câu kết nên lưu lại ấn tượng mạnh hơn.

Chính vì thế tuy phần nói về chiến tranh chỉ là phụ, là “ý mượn”, nhưng không khí ly biệt, chết chóc của chiến tranh 
trong bài thơ có vẻ như không thua kém hình ảnh “túy ngọa sa trường” tý nào – dù hình ảnh này đã được thủ pháp “xạo nghệ thuật” tô vẽ thêm rất nhiều.

Phương cách có hơi bá đạo (thổi phồng quá lố) nhưng với độc giả của Lương Châu Từ lại đạt hiệu quả cao. Họ rất dễ thông cảm với hành động “tìm những cuộc vui nho nhỏ” ngoài chiến trường dù lắm khi đi đến chỗ “khó coi” như “túy ngọa sa trường”. 

Sau đây là vài khuyết điểm của bài thơ:

Thổi Phồng Quá Lố.

Như đã nói ở trên, “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” là câu thơ hơi “xa sự thật”. Tuy nó đóng góp rất nhiều cho việc vẽ lên bức tranh chết chóc, thê lương một cách đáng sợ của chiến tranh, giúp thuyết phục đám đông độc giả dễ tính thông cảm, chấp nhận hình ảnh “túy ngọa sa trường” của chinh nhân. Nhưng nó cũng để lại một vết ố không nhỏ trong bài thơ dưới mắt những người làm công việc thẩm định giá trị nghệ thuật thơ ca.

Mời độc giả thử để ý câu thơ:

Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu

Câu thơ này có 2 phần. “Tửu phùng tri kỷ” là phần “gốc”, là chỗ dựa, là cái cớ để tác giả vin vào đó mà “xạo tới bến”, “nói một tấc đến giời”.  Thiên bôi thiểu” là phần “ngọn”, là phần “nói một tấc đến giời” đó. Do có “phần gốc” hợp lý, vững chãi làm chỗ dựa nên phần ngọn dù cường điệu hết cỡ, dù “xạo tới bến” vẫn rất dễ được chấp nhận. Uống rượu gặp tri kỷ thì nghìn chén cũng là ít. “Nghìn chén cũng là ít” là quá xa sự thực, quá xạo, quá vô lý. Nhưng cái quá xạo, quá vô lý ấy đã “tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” nên đã làm mới câu thơ và được hoan nghênh nhiệt liệt. Đó là biện pháp tu từ có tên “lối nói thậm xưng” mà trong một số bài viết tôi gọi là “xạo nghệ thuật”.

Cũng vì sự quá lố của câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà thủ pháp “xạo nghệ thuật” trong Lương Châu Từ đã bị giảm hiệu quả khá nhiều.

Cái Kẹt Của Thơ Tứ Tuyệt

Thử tưởng tượng đang xem một pha đá phạt trong bóng đá. Điểm đá phạt ở ngoài nhưng ngay sát vòng 16 mét 50 trước khung thành đối phương. Cầu thủ được huấn luyện viên chỉ định đá phạt cầm bóng đặt vào vị trí. Những cầu thủ khác của cả hai đội cũng tùy nhiệm vụ của mình mà dàn quân. Ai cũng sẵn sàng để nếu bóng bật ra là tìm cách đưa bóng vào khung thành (nếu là đội công) hoặc cản phá (nếu là đội thủ). Thế rồi tiếng còi của trọng tài vang lên, cầu thủ đá phạt - bằng kỹ thuật và kinh nghiệm của riêng mình – sút bóng qua hàng rào người, vào lưới. Tiếng reo hò, vỗ tay của khán giả vang dậy cầu trường.

Nhưng nếu bóng đá mà chỉ toàn những cú đá phạt như vậy thì chán chết. Khán giả sẽ không thấy được tài sắp xếp thế trận của huấn luyện viên, không thấy được khả năng chận bóng, đi bóng, lừa bóng, sút bóng “sống”, cản phá bóng, khả năng phối hợp nhịp nhàng với đồng đội khi lên công, lúc về thủ của cầu thủ. Khán giả sẽ không có những giây phút đứng tim khi đội bóng cao hứng chơi xuất thần, có những đường chuyền “đẹp như mơ”, những cú sút “không thể tin là có thực” đưa bóng vào cầu môn đối phương. Tất cả đã đưa bóng đá lên ngôi “thể thao vua”, thu hút sự yêu mến đến cuồng nhiệt của hảng tỷ người trên thế giới.

Cũng vậy, một bài thơ ngắn cỡ tứ tuyệt không đủ chữ để thi sĩ trổ tài điều binh khiển tướng, sắp xếp đội hình cho một trận đánh có tầm vóc. Đề tài thường rộng, chung chung, không đủ không gian và thời gian đi vào tâm tình riêng tư của nhân vật để cảm xúc có cơ hội dâng lên cao ngất.

Trong Lương Châu Từ, bóng dáng của lý trí vẫn còn rất rõ nét trong từng chữ, từng câu thơ. Tứ thơ không đủ dài để độc giả thấy được sự “vận động” của ngôn ngữ, để cảm xúc có sóng sau dồn sóng trước, lớn mạnh đến mức đẩy lý trí đi chỗ khác chơi, tạo được cao trào cho hồn thơ xuất hiện.

Hai Chữ “Dục Ẩm” Vừa Dở Lại Vừa Hay Tuyệt

Một điểm hơi xa thực tế nữa đến từ hai chữ “Dục ẩm” – trong ngữ cảnh của bài thơ có nghĩa là “muốn uống”, “toan uống”, “chưa kịp uống”. Như đã nói ở trên, bài thơ là khung cảnh tiễn quân lên đường ra trấn nhậm (và chiến đấu) nơi vùng biên ải. Quân thì đã tề tựu đông đủ; tướng thì đang nhận chén rượu tiễn đưa kèm những lời dặn dò của vua hoặc một quan chức lớn hơn.

Nghe dặn dò xong, hớp vội chén rượu, vị tướng bước ra cổng thì đàn tỳ bà trỗi lên thúc giục ông lên ngựa – và cũng thúc giục cả đoàn quân - lên đường. Dốc cạn chén rượu chưa hết một giây nên chuyện “chưa kịp uống” là rất khó xảy ra.  Thêm vào đó, cái cảnh bỏ lại chén rượu cấp trên ban thưởng để lên ngựa dẫn quân ra trận là rất ‘khó coi”. Vội vã như thế không phải lối; vừa bất kính với cấp trên, vừa không hợp với cung cách ứng xử của một vị tướng.

Hơn nữa, người chỉ huy ban nhạc đàn tỳ bà đâu phải “muốn chơi lúc nào cũng được” mà phải trổi nhạc đúng thời điểm đã được căn dặn trước (lúc vị tướng uống rượu xong).

Thấy ra điểm bất hợp lý này nên một nhà thơ, nhà văn, nhà sử học người Anh ông Pierre Stephen Robert Payne (1911-1983), đã dịch bài thơ ra tiếng Anh như sau:
 The Song of Diangchow

The beautiful grape wine, the night-glittering cups
Drinking or not drinking, the horns summon you to mount.
Do not laugh if I am drunk on the sandy battlefield
From ancient times, how many warriors ever returned! 
(Lương Châu Từ, Lý Văn Quý) (5)


trong đó câu thứ 2

Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi” được dịch là “Uống hay không uống, tù và đã giục lên ngựa”.

Tuy nhiên, “Dục ẩm” cũng có cái hay của nó. “Muốn uống”, “chưa kịp uống” nếu hiểu rộng ra còn có nghĩa là “cuộc vui chưa trọn”. Mà cuộc vui trên đời đâu phải chỉ có rượu. “Cuộc vui chưa trọn” còn có thể là ái ân phu thê đứt đoạn, tình yêu lứa đôi dở dang, ơn cha chưa trả, nghĩa mẹ chưa đền, những dự tính, ước mơ chưa thực hiện … và còn muôn ngàn thứ khác nữa.

Lên đường chinh chiến không phải chỉ đem mạng sống của mình “đùa” với giáo gươm, súng đạn mà còn là chấp nhận nhiều mất mát hy sinh khác; đó là chấp nhận giã từ biết bao “cuộc vui chưa trọn” của đời người.

Bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan có nói gì đến chết chóc ngoài chiến trường đâu. Anh chồng chiến binh mới cưới vợ và 3 người anh của vợ cũng đều là bộ đội, vẫn sống nhăn trong khi cô vợ ở hậu phương yên bình thì lại …  chết đuối trong lúc đi giặt quần áo ở bờ sông. (Lời Tự Thuật Của Hữu Loan, Tác Giả Màu Tím Hoa Sim) (6)

Tội ác của chiến tranh trong Màu Tím Hoa Sim không phải là những cái chết của người lính ngoài chiến trường mà là sự chia xa, phải giã từ những “cuộc vui chưa trọn”. Sau đây là vài chi tiết làm quặn thắt lòng người:

1/

Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân

Đám cưới mà cô dâu không có thời gian (và tiền) để may áo cưới. Chú rể mặc đồ lính, đôi giầy vẫn còn vết bùn chưa giặt sạch.

2/

Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi

Được 2 tuần phép nhưng phải để một tuần hâm nóng tình xưa, “tuần sau đó” mới kết hôn. Như vậy, cưới vợ xong, chỉ có một tuần trăng mật; đang mặn nồng đã phải chia tay lên đường ra đơn vị. (6)

3/

Ba người anh được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng

Đám cưới của em gái không được về dự, rồi quan san cách trở đến mức “biết tin em gái mất trước tin em lấy chồng” thì quả là vô cùng đau xót.

Ở đây con người không bị đổ chung vào một thúng kiểu “cá mè một lứa” như Lương Châu Từ mà là một cá thể có tâm trạng và cảm xúc riêng biệt. Hữu Loan đã đủ tài năng và nhạy cảm để qua Màu Tím Hoa Sim, cho độc giả thấy một khuôn mặt khác của chiến tranh, không sặc mùi xương máu, chết chóc mà có vẻ rất hiền lảnh - hiền lành nhưng đã nhẫn tâm cướp đi những thứ quý giá nhất của con người.

Vương Hàn, qua Lương Châu Từ, chỉ với hai chữ “Dục ẩm”, đã bóng gió nói đến những “cuộc vui chưa trọn”, những thứ quý giá nhất đó. Có điều vì thể thơ tứ tuyệt “thiếu quân” nên điều muốn nói không được đậm nét và mãnh liệt như Màu Tím Hoa Sim.

Con người trong hoàn cảnh đó có sống cũng chỉ là cái sống sinh học của thể xác, còn những thứ để con người được sống như một Con Người đã bị chiến tranh cướp mất.

Sống như thế, đến cuối đời nhìn lại, quãng thời gian đó chẳng khác gì mình đã chết.

“Tử Biệt” “Sinh Ly” Trong Cuộc Nội Chiến Bắc Nam

Mới đây, nhân ngày 30 tháng Tư (2019), tôi đọc được đoạn thơ của nhà giáo Thái Bá Tân (qua emails):

Bộ đội Miền Bắc chết
Một triệu một trăm nghìn. 
Số lính Miền Nam chết -
Hai trăm tám hai nghìn. 

19 Tháng Tư, 2019
(Thái Bá Tân, 30 Tháng Tư, 1975)

Tác giả không chú thích nên tôi không biết nguồn gốc của những con số ấy. Nhưng tôi không tin là ông viết bừa, nói bậy. Thứ nhất, vì uy tín của mình; thứ hai, nếu “được hỏi thăm” mà ú ớ, không biết những con số đó xuất xứ từ đâu thì … kẹt lắm - cả về trách nhiệm dân sự lẫn hình sự.

“Một triệu một trăm nghìn” bộ đội chết là con số rất lớn (so với dân số Miền Bắc thời chiến tranh) nhưng đã tương xứng với câu thơ “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” chưa, thì còn tùy độc giả nhận định. Có điều tôi dám xác quyết là nỗi khổ, nỗi buồn “sinh ly” của bộ đội và người dân Miền Bắc so với binh lính và người dân Miền Nam thì khác nhau một trời một vực.

Tôi có ông anh họ ở Kiến An. Cuối năm 1988 tôi về quê tìm đường vượt biên, gặp nhau hắn tâm sự:

Tớ vừa đến tuổi, chưa biết yêu, chưa nếm mùi đàn bà, đã phải lên đường vào Nam. Không nhớ là mấy năm sau, gặp thằng bạn cùng lớp ở rừng Quảng Đức, hỏi thăm chuyện gia đình thì nó vừa cười vừa nói “Tao có khác gì mày. Trời sinh ra cái b. của tụi mình chỉ để đái thôi”.

Chỉ một câu nói đùa nhẹ nhàng mà làm xót xa biết bao nhiêu cõi lòng, làm nhức nhối biết bao nhiêu trái tim. Bởi nếu cái b. chỉ để đái, thế còn “cái ấy” của phụ nữ thì sao? Rồi còn sợi dây tình cảm nối người này với những người khác; chính sợi dây đó làm đời sống tinh thần của con người thêm phần phong phú. Thiếu nó, thiếu chút ít thì còn cố chịu được, chứ thiếu nhiều thì “chất người” sẽ nhạt dần đi, còn vắng bặt nó thì con người sẽ không còn là con người nữa. 

 Những người lính ở Miền Nam cũng đau thương mất mát nhưng không đến nỗi ghê gớm như vậy. Họ được chiến đấu ở “sân nhà” nên hậu phương gần gũi hơn, mất mát về mặt tình cảm ít hơn, nhẹ hơn. Những “cuộc vui dang dở” thường có cơ hội lập lại để “vui trọn đêm nay”. Nhưng mất mát dù có nhẹ hơn chút ít cũng vẫn là mất mát, cũng để lại những vết thương, những nỗi đau sâu đậm trong tâm hồn mỗi người, chữa trị phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.

Tóm Tắt Giá Trị Nghệ Thuật Của Bài Thơ

ƯU ĐIỂM:

1/ Tứ thơ hay: Lương Châu Từ mượn chuyện sống chết bất kỳ của chinh nhân trong chiến tranh để biện minh (xin thông cảm) cho một số thái độ, hành động của người lính ngoài chiến trường. “Túy ngọa sa trường” chỉ là một thí dụ.

2/ Tính nhân Bản: Cái hay tuyệt của bài thơ nằm ở 2 chữ “Dục ẩm” – có ý nói tiệc rượu chưa tàn, nói rộng ra là “cuộc vui chưa trọn”. Chiến tranh là tử biệt, sinh ly (chưa nói đến sự tàn phá về vật chất). Nhưng  người đời thường chú trọng phần “tử biệt” mà coi nhẹ phần “sinh ly”. Chính “sinh ly” đã bóp nghẹt chữ “tình” để con người chỉ còn là những cỗ máy lao vào chém giết. Vương Hàn, bằng 2 chữ “Dục ẩm” đã sử dụng thủ pháp “gợi, không kể” (Show, Don’t Tell) một cách điệu nghệ làm nổi bật chữ “tình” bị bóp nghẹt đó. Tính nhân bản của bài thơ rất sâu đậm.

3/ Mặc dù trong bài thơ, chiến tranh chỉ được mượn để biện minh cho một số thái độ và hành động của người lính ngoài chiến trường nhưng chính hình ảnh chiến tranh lại hiện lên rất đậm nét ở cả 2 mặt “tử biệt” và “sinh ly”. Có người còn đặt tựa cho bài viết của mình về bài thơ này là “Lương Châu Từ và Nỗi Buồn Chiến Tranh” hoặc “Lương Châu Từ - Khúc Bi Ca Thời Chiến”. Tôi cho rằng, trong trường hợp Lương Châu Từ, họ hoàn toàn có quyền làm như vậy.

KHUYẾT ĐIỂM:

1/ Hai chữ “Dục ẩm” (như đã nói ở trên) hơi không hợp lý.

2/ Câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” hơi “xa sự thực”, ảnh hưởng đến thủ pháp “xạo nghệ thuật” và độ khả tín của bài thơ.  Chỉ nên nói đại ý “chinh chiến thì sinh tử bất kỳ”.

3/ Bài thơ nặng về “kỹ thuật” (ngôn ngữ, hình tượng, “gợi không kể”), ít cảm xúc, lại quá ngắn nên không có chỗ cho cảm xúc lớn mạnh để tạo cao trào – không có cơ hội để hồn thơ xuất hiện.

Phổ Biến Rộng Rãi Nhờ Tứ Thơ

Thảm họa của chiến tranh quá khủng khiếp. Nó là nỗi sầu, nỗi lo sợ, nỗi ám ảnh lớn nhất của nhân loại. Mà muốn “phá thành sầu”, muốn quên sợ, muốn trốn ám ảnh thì không gì bằng rượu.  Vì thế Lương Châu Từ là bài thơ khá phổ biến, thỉnh thoảng được đọc trong các tiệc rượu, hoặc những lúc “trà dư tửu hậu” thời chiến tranh. Hơn nữa, nó ngắn, dễ thuộc lại là thơ Hán - Việt nên đọc cũng là một cách “khoe tài”. 

Những nhà Nho Hán rộng, những người có hiểu biết về văn chương, thơ phú thì không nói làm gì; ngay cả các ông một chữ Hán bẻ làm đôi không biết, nói đến thơ phú thì ù ù cạc cạc, cũng ráng học thuộc lòng bài thơ rồi nhờ người giảng giải để ghi nhớ, chờ cơ hội vào bàn nhậu là “trổ tài” góp vui với bà con cô bác. (Tôi đã được hân hạnh giúp vốn cho hơn một chục ông như vậy).

Bài thơ là tâm sự của một vị tướng chỉ huy, nhưng người đọc thơ không phải là tướng tá (sĩ quan) cũng không sao. Đã mặc áo lính là có thể ưỡn ngực với danh hiệu chinh nhân. Mà nếu không phải là chinh nhân cũng đâu có hề gì. Thảm họa của chiến tranh lớn quá. Bàn tay tàn ác, gớm ghiếc của nó – lúc trực tiếp, khi gián tiếp - có thể vươn tới tất cả mọi người, bất kể lính tráng hay dân thường. 

Rồi câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” có quá lố một chút thì cũng có gì mà ầm ĩ? Rạch ròi làm chi cái con số người sống sót trở về! Và như thế, dù là người đọc hay người nghe, rất dễ thả hết tâm hồn vào bài thơ, đồng cảm với tác giả - nghĩa là cũng mở lòng bao dung với thái độ, hành động của người lính ngoài chiến trường (hay khi về phép ở hậu phương) – đôi lúc thái quá, “khó coi” có khi còn hơn cả “túy ngọa sa trường” nữa.

Điểm thành công lớn của bài thơ là ở chỗ đó.



Kết Luận

Xét về nghệ thuật thơ, Lương Châu Từ vẫn còn đôi chỗ lộm cộm, nhưng nhờ tứ thơ hay, đầy tính nhân bản nên đã 13 thế kỷ trôi qua, nó vẫn chưa có dấu hiệu sẽ đi vào quên lãng. Theo tôi, đây là một bài thơ độc đáo. Với những người yêu thích cổ thi Trung Hoa, khi nhâm nhi ly bia, chén rượu, tách trà, nhớ đến nỗi sầu “sinh ly tử biệt” của chiến tranh, Lương Châu Từ rất dễ bước vào câu chuyện để “Mua vui cũng được một vài trống canh.”  

TEXAS 05/2019
PHẠM ĐỨC NHÌ


CHÚ THÍCH

1/

2/

3/

4/

5/

6/


THAM KHẢO


1/ Bài Thơ Lương Châu Từ kỳ 1, Vương Hàn, Thi Viện

2/ Lương Châu Từ, Lý Văn Quý

3/ Về Bài “Lương Châu Từ” Của Vương Hàn, Hà Việt Hùng, Làng Huệ

4/ Lương Châu từ, Wikipedia tiếng Việt

5/ Lương Châu Từ, Nguyễn Hoài Văn

6/ Lương Châu Từ, Khai Phi Hạnh Nguyên

7/ Lương Châu Từ - Khúc Bi Ca Thời Chiến, Lê Quang Đức

8/ Lương Châu Từ Và Nỗi Buồn Chiến Tranh, Hình Phước Liên