Thứ Hai, 18 tháng 12, 2017

CÁNH ĐỒNG - MỘT BÀI THƠ LẠ

                              

Cánh Đồng

Sau ba năm chung thủy
Với người chồng đi xa
Chị đã thất tiết một cách lạ kỳ
Với người đàn ông xấu xí
Già hơn chị rất nhiều

Trong một buổi chiều bão tố
Khi chúng tôi đến đó
Người đàn ông đã đi rồi
Chỉ còn lại trên đồng lúa
Vết xước của dĩa bay mà thôi
(Nguyễn Đức Tùng)

Cánh Đồng là bài thơ lạ; nói thế mà không ngại, vì nó là đứa con tinh thần của Nguyễn Đức Tùng, một người rất chú trọng đến lý thuyết thơ và đang có nỗ lực làm mới thơ. Nhưng muốn để phát biểu ấy có sức thuyết phục phải “nói có sách, mach có chứng”, phải đưa bài thơ ra ngắm nghía, xem xét.

Vóc Dáng

Trước hết, đây là bài thơ có vóc dáng mới: Tác giả thong dong dạo chơi trong khu vườn thi ca vì đã hoàn toàn thoát khỏi những trói buộc của thể thơ. Bài thơ thoát hẳn truyền thống, vượt qua Thơ Mới, kể cả Thơ Mới biến thể. Số chữ trong câu, sô câu trong bài không bị một quy luật nào chi phối. 

Viết đến đây tôi chợt nhớ đến bài thơ Mắt Bồ Câu của Nguyễn Khắc Phước (1); cũng cái vóc dáng mới mẻ thu hút sự chú ý của tôi ngay lần đọc đầu tiên. Và khi xét kỹ thì cũng vượt qua cả Thơ Mới biến thể để đi vào “vùng trời tự do của thi ca”. 

Có điều theo tôi nhận xét thì Nguyễn Khắc Phước đưa Mắt Bồ Câu đến được vùng trời đó là do tình cờ (và một chút may mắn). Còn Nguyễn Đức Tùng thì ngoài Cánh Đồng còn một số bài thơ khác nữa cũng có vóc dáng tương tự (2) - nghĩa là nỗ lực làm mới thơ của anh đã có kết quả. Anh đã thấy đích và biết đường đi đến đích.

Vần

Năm câu của đoạn đầu không vần nhưng khi đọc lên, âm điệu nối kết các câu thơ với nhau, tuy không trơn tuột ngọt ngào, vẫn không bị khô cứng. Năm câu của đoạn sau thì hai câu 6 và 7 vần với nhau (tố, đó) rất tự nhiên. Câu 8 và 10 có âm hưởng của vần xa (rồi, thôi) nhưng hơi gượng. 

Nói chung, vị ngọt trong bài thơ 10 câu, 59 chữ như thế cũng tạm đủ, vần điệu của bài thơ tương đối thành công; dòng chảy của tứ thơ không mạnh, nhưng nhờ bài thơ ngắn, vẫn đưa người đọc tới bến.

Ngôn Ngữ Thơ

Nhiều người cho rằng “Ngôn ngữ thơ lung linh, trừu tượng, lại thường có ẩn dụ nên đa nghĩa, vì thế độc giả có quyền đến với tứ thơ theo cách hiểu, cảm nhận của riêng mình”. Nguyễn Đức Tùng không nói ra nhưng qua việc sử dụng ngôn ngữ và cách sắp xếp thế trận của Cánh Đồng (và mấy bài thơ khác tôi đọc được) (2), theo tôi, hình như anh không đồng ý với suy nghĩ đó. 

Việc anh tránh né những tĩnh từ, trạng từ lung linh, đa nghĩa, hoặc những câu dẫn người đọc đến ngã ba đường, là muốn người đọc vịn vào câu thơ để có thể dễ dàng đi đến đúng “bến bãi”. Anh muốn truyền đến họ tâm trạng, suy nghĩ của mình trước một cảnh đời (còn đồng cảm hay không lại là chuyện khác) chứ không muốn cho họ mượn bài thơ làm bệ phóng để thả hồn về những phương trời khác tít tắp mù khơi. 

Vì thế có thể nói từ câu đầu cho đến lúc vào “bến bãi”, tứ thơ của Cánh Đồng là con đường dễ đi. Nếu bạn đọc, vì lý do nào đó, đi lạc, không phải lỗi của tác giả.

Thế Trận - Mấy Câu Kết.

Có mấy bài toán hình học lớp Đệ Nhất B đề bài rất ngắn, chỉ vài dòng, nhưng khi giải toán phải vẽ thêm và chứng minh một số câu hỏi “trung gian” trước khi đi tới câu hỏi chính của bài toán. Giải được một bài toán như vậy “trần thân” nhưng khi hoàn thành sẽ có cảm giác khoan khoái, thích thú vì tự mình đã khám phá được lộ trình (khá dài) để đi đến kết quả cuối cùng.

Sau này đi dạy kèm tôi cũng gặp vài bài ở lớp dưới - giống y chang – nhưng được phân ra nhiều câu hỏi nhỏ. Lời giải của câu hỏi trước sẽ là chiếc cầu dẫn đường đến lời giải của câu hỏi sau và cứ thế cho đến câu hỏi chính của bài toán. Giải những bài toán phân mảnh ấy dễ dàng hơn nhiều.

Nguyễn Đức Tùng có lẽ cũng thấy điều tương tự như thế trong thơ. Anh rất chú ý đến cấu trúc của tứ thơ, đặc biệt là câu (hoặc mấy câu) cuối. Cây cầu liên tưởng ở đây thường bị cắt một (hoặc hai) nhịp nên độc giả không thể nhẹ nhàng bước qua như những bài thơ bình thường khác. 

Khoảng cầu bị cắt có lúc hẹp, có lúc rộng. Hẹp, độc giả có thể nhảy qua; rộng hơn một tý, phải xuống nước lội qua; có khi vừa rộng vừa sâu, phải cởi quần áo bỏ vô bọc ny lông - chỉ mặc quần lót – bơi qua. 

Đây là một cách “nâng tầm” bài thơ – đòi hỏi độc giả phải nâng khả năng liên tưởng cao hơn nữa để có thể hiểu được ý tác giả. Dĩ nhiên, việc hiểu được ý tác giả từ bài thơ như thế, bù lại, sẽ trao tặng độc giả một phần thưỏng - một khoái cảm khó tả - thấy khả năng thưởng thức thơ của mình đã vươn tới một tầm cao mới.

Tuyệt chiêu của bài thơ nằm ở câu (hoặc mấy câu) kết. Giống như ván bài xì phé gay cấn, chỉ khi con bài tẩy lật lên mới biết kẻ thắng, người thua. Trong Cánh Đồng (và mấy bài thơ cùng loại) Nguyễn Đức Tùng đã khéo léo giữ kín con bài tẩy đến giây phút cuối cùng. 

Khi đọc xong câu kết độc giả ngẫm nghĩ một lát rồi “À” lên một tiếng ngạc nhiên, khoái trá. Có được tiếng “À” đó vị độc giả đã bước vào “bến bãi”. Ngừng ở đó hay thả hồn đi xa hơn nữa là tùy ý mỗi người.

Tứ Thơ

Tứ thơ của Cánh Đồng có thể tóm gọn trong một câu: Sau ba năm chung thủy với người chồng đi xa người phụ nữ đã ăn nằm với người đàn ông ở tinh cầu khác.

Điểm lạ nữa của Cánh Đồng là tứ thơ. Đối với thơ Việt thì cho đến thời điểm này tình dục trong thi ca, tuy không còn xa lạ nhưng thi sĩ khi tiếp cận đề tài vẫn còn nhiều phần kiêng dè, e ngại. Sau đây là mấy bài thơ được giới thiệu theo thứ tự từ “hiền hòa” đến sừng sỏ.

1/

            CHỢT THỨC

Lão Trư Bát Giới đang ngủ yên
bỗng bừng tỉnh dậy 
phùng mang trợn mắt
là lúc lòng rạo rực
nhớ em.
(Phạm Đức Nhì)

Bài thơ tôi viết trong lúc xa nhà mấy ngày, “nổi hứng bất tử”. Tứ thơ đụng tới chuyện đó nhưng lại rất “hiền”. Với cánh đàn ông, đây là chuyện bình thường; thằng bé “vươn mình đứng dậy” làm lòng rạo rực nhớ vợ, rồi nghe chừng chẳng có cơm cháo gì đành lặng lẽ co vòi ngủ yên. Bài thơ ngắn, đơn giản, không được “bàn ra tán vào” nhiều nên đem ra lót đường để chuẩn bị giới thiệu những bài thơ sừng sỏ hơn.

2/

          CHẠM
Vùi vào tóc anh
Chạm
rong rêu đạ
i dương, ẩm mục rừng già
ngai ngái phù sa cánh đồng rơm rạ
Chạm sợi đa đoan
nhuộm màu dâu bể
Chạm sợi muộn phiền
ẩn mình lặng lẽ
Vùi vào môi anh
Chạm thềm mê man, chạm bờ mộng mị
Chạm lời chối bỏ trong lời thầm thì
Dâng bời bời nhớ
Chạm bời bời quên
Vùi vào tay anh
Chạm đường vân quen mịt mùng lạc lối
Chạm vết thương sâu dấu chai cằn cỗi
Hôn ngón yêu thương
Chạm ngón lạnh lùng
Vùi sâu vào anh
Vùi vào giấc mơ
Vào đêm
Không anh.
(Đậu Thị Thương)
Tác giả kể lại cái cảm giác sung sướng, hạnh phúc của mình trong một đêm được đắm đuối mê say dâng trọn cả linh hồn lẫn thể xác cho người yêu, nhưng bừng tỉnh mới biết đó chỉ là … mơ.
Màn ái ân trong bài thơ rất lãng mạn và “ấn tượng”. Cô giáo Đậu Thị Thương chỉ nói bóng gió rất xa nhưng do sức gợi cảm, sức khêu gợi tưởng tượng mạnh mẽ của ngôn ngữ khiến một người đọc tuổi xuân không còn phơi phới như tôi cũng hối hả chạy “tới bến” trước khi cô bừng tỉnh giấc mộng tình. (3) Tuy nhiên, xin bạn đọc ghi nhận một điều, màn yêu đương nồng thắm ấy tác giả dành cho nguời tình (chứ không phải ai khác). Chữ Dâm ở đây vẫn chưa dám vượt lằn ranh để bước qua vùng cấm.
3/
       TRÁI TIM RAO BÁN
Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán

một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau – niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán

một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!

chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh…
(Đinh Thị Thu Vân)

Trong tận cùng của cô đơn và “mỏi mòn trong ảo vọng” Đinh Thị Thu Vân đã rao bán trái tim mình với giá rất đặc biệt: Cho không (4).
Vâng, chị cho biết chỉ cần:

nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh…

Ở đây không thấy cơn hứng tình như Chạm của Đậu Thị Thương. Đinh Thị Thu Vân đã khéo léo dấu tình dục trong vỏ bọc tình yêu. Nhưng khi đã trao trái tim thì chữ Dâm sẽ ngạo nghễ bước vào. Khác với tác giả của Chạm - chỉ Dâm với người yêu - chị (ĐTTV) “sẵn sàng trao trái tim cho bất cứ ai, không cần chọn lựa”. Để đòi quyền được Dâm ĐTTV đã sẵn sàng đi xa hơn, sẵn sàng trả giá cao hơn Đậu Thị Thương rất nhiều. Chính vì thế tứ thơ của Trái Tim Rao Bán được đánh giá cao hơn tứ thơ của Chạm.

4/

          CÁNH ĐỒNG

Tứ thơ: Sau ba năm chung thủy với người chồng đi xa người phụ nữ đã ăn nằm với người đàn ông ở tinh cầu khác.

Vâng, tình dục –  thỏa mãn chữ Dâm – là một nhu cầu thiết yếu của con người. Phong tục, tập quán, lề thói xã hội nhiều nơi vẫn còn ngăn trở việc thỏa mãn “cái khoái thứ ba” rất nhân bản ấy, đặc biệt là đối với phụ nữ. Nguyễn Đức Tùng, qua bài thơ Cánh Đồng đã đi xa hơn những thi sĩ cùng thời. Theo ông, “Khi cơn Dâm trỗi dậy thì làm tình – ngay cả với người từ tinh cầu khác – cũng là chuyện bình thường, không có gì phải mặc cảm, hổ thẹn hết”.

Tôi đã từng bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình trước lòng dũng cảm của Đậu Thị Thương và Đinh Thị Thu Vân. Hai nhà thơ nữ đã đạp đổ cái hàng rào văn hóa, đòi lại quyền được tự do nói đến, và nếu cần, thỏa mãn cái nhu cầu nhân bản đó trong đìều kiện và hoàn cảnh của riêng mình, chứ không chịu gò bó trong những lề luật cứng ngắc, bất công của xã hội. Giờ đây - với tài thơ và tầm nhìn của Nguyễn Đức Tùng – các chị sẽ có một đồng minh đáng tin cậy.



Cảm Xúc

Cảm xúc ở tầng 1: Cảm xúc độc giả có được khi tiếp xúc với ngôn ngữ, hình tượng, cấu trúc câu của bài thơ (ngôn ngữ bóng đá là kỹ thuật cá nhân của cầu thủ). Vì tránh dùng những từ, hình tượng lung linh, bắt mắt nên ngôn ngữ thơ và cấu trúc câu thơ của Cánh Đồng đơn giản đến mức tối đa, không gây hứng thú cho người thưởng thức thơ quen thuộc. Cầu thủ của đội bóng Cánh Đồng không phô diễn tài nghệ cá nhân mà chỉ cố hoàn thành nhiệm vụ Huấn Luyện Viên giao phó cho mình trong đấu pháp toàn đội. Họ đá rất hiệu quả nhưng không đẹp.

Cảm xúc ở tầng 2: Cảm xúc có được khi nhận ra cái hay, cái đẹp trong thế trận của bài thơ. Cánh Đồng đã cho độc giả cái cảm giác ngạc nhiên thích thú khi đọc xong 2 câu kết và thấy được ẩn ý của tác giả. Với đấu pháp mạch lạc, ăn ý và bất ngờ đội Cánh Đồng đã tạo được bàn thắng đẹp, kết thúc trận đấu, tiếng reo hò, vỗ tay vang dậy cầu trường.

Cảm xúc ở tầng 3: Loại cảm xúc cao cấp nhất, cho người đọc cảm giác sảng khoái nhất. Nó là thứ hơi nóng không nằm trong câu chữ mà tỏa ra từ đâu đó giữa 2 hàng kẻ, không thể “bắt” được bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận bằng tâm hồn. Khi cảm xúc tầng 3 dâng cao ngất chúng ta có hồn thơ. Hồn thơ có được trong trường hợp tác giả viết lúc cao hứng, lúc lên cơn điên, cơn giận, cháy bỏng yêu thương, rực lửa căm thù … , lúc tâm hồn thoát khỏi sự điều khiển của lý trí. Cánh Đồng không có loại cảm xúc này. Lý do: Ý thơ có thể chợt đến nhưng thế trận của bài thơ được lý trí xen vào soạn thảo ngay sau đó, đặc biệt là đoạn kết. Hơn nữa, bài thơ lại ngắn, không có chỗ để “sóng sau dồn sóng trước” đẩy cơn hứng của tác giả đến cao trào. Chính vì thế, mặc dù nắm vững lý thuyết hơn, viết chắc tay hơn, Cánh Đồng so với Mắt Bồ Câu vẫn thiếu cái tươi mát đến từ một tâm hồn dạt dào cảm xúc. 

Khuyết Điểm

Bài thơ, theo tôi, có 3 khuyết điểm:

1/ Có vài chữ dư thừa, không cần thiết.

     a/ Chữ “Trong” ở câu 6.
     b/ Hai chữ “mà thôi” ở câu cuối. Nguyễn Đức Tùng không bị trói buộc với quy luật của vần nên “mà thôi” không cần thiết. Tuy nhiên, nếu vì muốn có một chút âm hưởng của “vần xa” (rồi, thôi) mà đưa vào thì gượng quá.

2/ Kịch bản

Hãy cùng tôi đọc mấy câu đầu từ bài thơ Năm Mới của Nguyễn Đức Tùng:

Một kẻ nào đã khóa cánh cửa vào năm mới
Chúng ta không có năm mới
Tất cả chúng ta đứng ngoài hành lang

Đây là một điều rất phi lý. “Năm mới” chỉ là cái mốc thời gian, làm gì có cửa để đóng với mở. Nhưng đọc hết bài thơ (ở phần Phụ Lục) chúng ta sẽ thấy tác giả đã biến cái phi lý thành có lý (trong nghệ thuật) và đã tạo nên cái duyên dáng, cái đẹp trong thơ.

Trong Cánh Đồng, tác giả đã rất thành công trong cách tiết lộ “người đàn ông xấu xí” là từ tinh cầu khác. Nhưng thông tin “Chị đã thất tiết một cách rất lạ kỳ” – tiêu điểm của tứ thơ - thì lại xem như một tiền đề, bắt người đọc chấp nhận mà không giải thích. Nhiều nghi vấn được đặt ra xung quanh hành động “thất tiết” đó đã làm bài thơ giảm sức thuyết phục.

3/ Không có cảm xúc ở tầng 3 – không có hồn thơ.   


Kết Luận

Với tôi, Cánh Đồng là một bài thơ lạ. Lạ mà hay. Vì lạ nên bài thơ kén người đọc. Và dĩ nhiên, có những nhận xét trái chiều về giá trị nghệ thuật của nó. Những xao động như thế trong làng thơ, theo tôi, là lành mạnh. Trong một bình luận trên FB dưới bài Bình Thơ Nguyễn Đức Tùng - Thơ Tình: Những Con Rệp của Nguyên Lạc, Nguyễn Đức Tùng viết “Tác phẩm văn học người khen kẻ chê là chuyện thường, nhưng phê bình không chỉ là khen chê, mà cốt ý làm cho người đọc và người viết cùng nhau ngẫm nghĩ, phân tích, tự mình rút ra nhận xét riêng” (5). Tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Mong rằng bài viết ngắn này sẽ là cái cớ để ngưòi viết và cả người đọc nhìn lại và tự rút ra (những) nhận xét hữu ích cho riêng mình. Được như thế tôi sẽ rất vui và cảm ơn cả người viết lẫn người đọc nhiều lắm lắm.

Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com

CHÚ THÍCH:

1/ Mắt Bồ Câu – Bài Thơ Mới Đọc Lần Đầu, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
2/ Phần Phụ Lục
3/ Bài Thơ “Chạm” & Mấy Lời Bình, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
4/ Trái Tim Rao Bán – Bài Thơ Đầy Bản Sắc, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com

5/ https://www.facebook.com/stevngy50/posts/1066998266774530 

PHỤ LỤC:  “Những Con Tương Cận” Của CÁNH ĐỒNG


NHỮNG CON RỆP

Ngày thứ hai của tuần trăng mật
Chúng ta ngủ trong một khách sạn rẻ tiền
Những con rệp cắn anh suốt đêm
Bây giờ đây anh nhớ chúng khôn xiết
Khi mỗi lần đi ngang mộ em



CHA VÀ CON

Mười bốn năm sau ngày cha tôi mất
Tôi trở về nằm trên chiếc giường cưới của ông
Đọc cuốn Kiều để mở
Nửa đêm thức dậy ngồi đánh cờ một mình
Buổi sáng cạo râu bằng dao cạo của cha tôi

Mười bốn năm sau ngày cha tôi mất
Tôi về bốc mộ ông
Cầm nắm đất trên tay
Gió thổi
Một chiếc xương cá mỏng

Buổi chiều tôi mang đôi ủng của cha tôi
Đi thăm cánh đồng nước lớn
Đứng trước hiên nhà
Chợt nhớ về đứa con trai đã đi xa
  


MẸ

Mẹ đã tám mươi
Người nhỏ lại
Hét lớn bên tai
Mẹ chỉ nghe rì rào gió thổi


Phá vỡ im lặng
Mẹ thu mình lên cây nhãn
Giữa những cái trứng
Của chim họa mi


Khi mẹ đi xa rồi
Mọi người trong nhà vẫn còn lớn tiếng

NĂM MỚI

Một kẻ nào đã khóa cánh cửa vào năm mới
Chúng ta không có năm mới
Tất cả chúng ta đứng ngoài hành lang
Một số người kiên nhẫn đợi chờ
Một số người lầu bầu chửi rủa
Một số người chán nản bỏ đi
Bỗng dưng cánh cửa bật mở
Quá nửa đêm, khi mọi người đã ngủ
Khi tất cả đã uống say mèm
Chỉ còn mưa, người đàn ông trước thềm, đứa trẻ ngủ trên vai

TÁM TUỔI

Những ngày buồn
Tôi ôm con trai ngủ

Lắng nghe mưa rơi rì rào
Nó bảo: con thích thế này
Nằm cong người lại
Trong lòng tôi, nhắm mắt

Tôi đã làm hết sức
Công việc càng nhiều thêm
Tôi đã khôn ngoan hơn mười năm trước
Vẫn không ngớt phạm lỗi lầm

Thế này là như thế nào? Tôi hỏi
Con tôi trả lời: là nằm im
Không làm toán, không chen lấn, không học bài, từ từ trôi về phía trước




Thứ Năm, 14 tháng 12, 2017

LUẬT HỎI NGÃ


                                                    


Trong tiếng Việt chúng ta sử dụng tất cả 1270 âm tiết với dấu hỏi hoặc với dấu ngã, trong đó có 793 âm tiết (chiếm 62%) viết dấu hỏi, 477 âm tiết (38%) viết dấu ngã. Việc nắm được quy luật dấu hỏi và dấu ngã của lớp từ láy và lớp từ Hán Việt sẽ giúp ta giảm được nhiều lỗi chính tả. 

I. TỪ LÁY; TỪ CÓ DẠNG LÁY:

• Các thanh ngang (viết không có dấu) và sắc đi với thanh hỏi, ví dụ như: dư dả, lửng lơ, nóng nẩy, vất vả...

• Các thanh huyền và nặng đi với thanh ngã, ví dụ như: tầm tã, lững lờ, vội vã, gọn ghẽ...

Quy tắc từ láy chỉ cho phép viết đúng chính tả 44 âm tiết dấu ngã sau đây:

- ã ầm ã, ồn ã
- sã suồng sã
- thãi thưà thãi
- vãnh vặt vãnh
- đẵng đằng đẵng
- ẫm ẫm ờ
- dẫm dựa dẫm, dọa dẫm, dò dẫm
- gẫm gạ gẫm
- rẫm rờ rẫm
- đẫn đờ đẫn
- thẫn thờ thẫn
- đẽ đẹp đẽ
- ghẽ gọn ghẽ
- quẽ quạnh quẽ
- kẽo kẽo kẹt
- nghẽo ngặt nghẽo 
- nghễ ngạo nghễ
- nhễ nhễ nhại
- chễm chiễm chệ
- khễng khập khễng
- tễng tập tễnh
- nghễu nghễu nghện
- hĩ hậu hĩ
- ĩ ầm ĩ
- rĩ rầu rĩ, rầm rĩ
- hĩnh hậu hĩnh, hợm hĩnh
- nghĩng ngộ nghĩnh
- trĩnh tròn trĩnh
- xĩnh xoàng xĩnh
- kĩu kĩu kịt
- tĩu tục tĩu
- nhõm nhẹ nhõm
- lõng lạc lõng
- õng õng ẹo
- ngỗ ngỗ nghịch, ngỗ ngược
- sỗ sỗ sàng
- chỗm chồm chỗm
- sỡ sặc sỡ, sàm sỡ
- cỡm kệch cỡm
- ỡm ỡm ờ
- phỡn phè phỡn
- phũ phũ phàng
- gũi gần gũi
- hững hờ hững

Ngoài ra còn có 19 âm tiết dấu ngã khác dùng như từ đơn tiết mà có dạng láy ví dụ như:

- cãi cọ
- giãy giụa
- sẵn sàng
- nẫu nà
- đẫy đà
- vẫy vùng
- bẽ bàng
- dễ dàng
- nghĩ ngợi
- khập khiễng
- rõ ràng
- nõn nà
- thõng thượt
- ngỡ ngàng
- cũ kỹ
- nũng nịu
- sững sờ
- sừng sững
- vững vàng
- ưỡn ẹo

Cần phải nhớ cãi cọ khác với củ cải, nghĩ ngợi khác với nghỉ ngơi, nghỉ học.

Như vậy quy tắc hài thanh cho phép viết đúng chính tả 63 âm tiết dấu ngã.

Ngoài ra còn có 81 âm tiết dấu ngã dưới đây thuộc loại ít dùng:

Ngãi, tãi, giãn (dãn), ngão, bẵm, đẵm (đẫm), giẵm (giẫm), gẵng, nhẵng, trẫm, nẫng, dẫy (dãy), gẫy (gãy), nẫy (nãy), dẽ, nhẽ (lẽ), thẽ, trẽ, hẽm (hẻm), trẽn, ẽo, xẽo, chễng, lĩ, nhĩ, quĩ, thĩ, miễu, hĩm, dĩnh, đĩnh, phĩnh, đõ, ngoã, choãi,doãi, doãn, noãn, hoãng, hoẵng, ngoẵng, chõm, tõm, trõm, bõng, ngõng, sõng, chỗi (trỗi), giỗi (dỗi), thỗn, nỗng, hỡ, xỡ, lỡi, lỡm, nỡm, nhỡn, rỡn (giỡn), xũ, lũa, rũa (rữa), chũi, lũi, hũm, tũm, vũm, lũn (nhũn), cuỗm, muỗm, đuỗn, luỗng, thưỡi, đưỡn, phưỡn, thưỡn, chưỡng, gưỡng, khưỡng, trưỡng, mưỡu.

Tôi để ý thấy rất nhiều lỗi chính tả ở những âm tiết rất thường dùng sau đây: đã (đã rồi), sẽ (mai sẽ đi), cũng (cũng thế), vẫn (vẫn thế), dẫu (dẫu sao), mãi (mãi mãi), mỗi, những, hễ (hễ nói là lam), hỡi (hỡi ai), hãy, hẵng.

Cũng có những trường hợp ngoại lệ như:

1. Dấu ngã: đối đãi (từ Hán Việt), sư sãi (từ Hán Việt), vung vãi (từ ghép), hung hàn (từ Hán Việt), than vãn, ve vãn, nhão nhoét (so sánh: nhão nhẹt), minh mẫn (từ Hán Việt), khe khẽ (so sánh: khẽ khàng), riêng rẽ, ễng ương, ngoan ngoãn, nông nỗi, rảnh rỗi, ủ rũ . . .

2. Dấu hỏi: sàng sảy (từ ghép), lẳng lặng, mình mẩy, vẻn vẹn, bền bỉ, nài nỉ, viển vông, chò hỏ, nhỏ nhặt, nhỏ nhẹ, sừng sỏ, học hỏi, luồn lỏi, sành sỏi, vỏn vẹn, mềm mỏng, bồi bỏ, chồm hổm, niềm nở, hồ hởi...

II. TỪ HÁN VIỆT:

a) Dùng dấu hỏi khi có phụ âm đầu là:

• Ch-: chuẩn, chỉ, chỉnh, chủ, chuẩn, chủng, chuyển, chưởng.
• Gi-: giả, giải, giảm, giản, giảng, giảo.
• Kh-: khả, khải, khảm, khảng, khảo, khẳng, khẩn, khẩu, khiển, khoả, khoản, khoảnh, khổ, khổng, khởi, khuẩn, khủng, khuyển, khử.
• Và các từ không có phụ âm đầu như: ải, ảm, ảnh, ảo, ẩm, ấn, ẩu, ổn, uẩn, ủng, uổng, uỷ, uyển, ỷ, yểm, yểu.

b) Dùng dấu ngã khi có phụ âm đầu là:

• D-: dã, dẫn, dĩ, diễm, diễn, diễu, dĩnh, doãn, dõng, dũng, dữ, dưỡng.
• L-: lãm, lãn, lãng, lãnh, lão, lẫm, lễ, liễm, liễu, lĩnh, lõa, lỗi, lỗ, lũ, lũng, luỹ, lữ, lưỡng.
• M-: mã, mãi, mãn, mãng, mãnh, mão, mẫn, mẫu, mỹ, miễn.
• N-(kể cả NH-NG): nã, não, ngã, ngãi, ngẫu, nghĩa, nghiễm, ngỗ, ngũ, ngữ, ngưỡng, nhã, nhãn, nhẫn, nhĩ, nhiễm, nhiễu, nhỡn, nhũ, nhũng, nhuyễn, nhưỡng, noãn, nỗ, nữ.
• V-: vãn, vãng, vẫn, vĩ, viễn, vĩnh, võ, võng, vũ.

c) 33 từ tố Hán-Việt có dấu ngã cần ghi nhớ (đối chiếu với bản dấu hỏi bên cạnh):

- Bãi: bãi công, bãi miễn.
- Bảo: bảo quản, bảo thủ. Bão: hoài bão, bão ho
- Bỉ: bỉ ổi, thô bỉ Bĩ: vận bĩ, bĩ cực thái lai
- Cưỡng: cưỡng bức, miễn cưỡng
- Cửu: cửu trùnh, vĩnh cửu Cữu: linh cữu
- Đãi: đối đãi, đãi ngộ
- Đảng: đảng phái Đãng: quang đãng, dâm đãng
- Để: đại để, đáo để, triệt để Đễ: hiếu đễ
- Đỗ: đỗ quyên
- Hải: hải cảng, hàng hải Hãi: kinh hãi
- Hãm: kìm hãm, hãm hại
- Hãn: hãn hữu, hung hãn
- Hãnh: hãnh diện, kiêu hãnh
- Hoãn: hoãn binh, hoà hoãn
- Hổ: hổ cốt, hổ phách Hỗ: hỗ trợ
- Hỗn: hỗn hợp, hỗn độn
- Huyễn: huyễn hoặc
- Hữu: tả hữu, hữu ích
- Kỷ: kỷ luật, kỷ niệm, ích kỷ, thế kỷ Kỹ: kỹ thuật, kỹ nữ
- Phẫn: phẫn nộ
- Phẫu: giải phẫu
- Quẫn: quẫn bách, quẫn trí
- Quỷ: quỷ quái, quỷ quyệt Quỹ: công quỹ, quỹ đạo
- Sỉ: sỉ nhục, liêm sỉ Sĩ: sĩ diện, chiến sĩ, nghệ sĩ
- Tể: tể tướng, chúa tể, đồ tể Tễ: dịch tễ
- Thuẫn: hậu thuẫn, mâu thuẩn
- Tiễn: tiễn biệt, thực tiễn, hoả tiễn
- Tiểu: tiểu đội, tiểu học Tiễu: tuần tiễu, tiễu phỉ
- Tỉnh: tỉnh ngộ, tỉnh thành Tĩnh: bình tĩnh, yên tĩnh
- Trĩ: ấu trĩ
- Trữ: tích trữ, trữ tình
- Tuẫn: tuẫn nạn, tuẫn tiết
- Xả: xả thân Xã: xã hội, xã giao, thị xã

III. TÓM LẠI:

1. Từ láy: Các thanh ngang và sắc đi với thanh hỏi. Các thanh huyền và nặng đi với thanh ngã. Để cho dễ nhớ chúng ta có thể tóm gọn trong hai câu thơ sau:

Chị Huyền vác nặng ngã đau
Anh Sắc không hỏi một câu được là (Hoàng Anh Tuấn).

2. Từ Hán Việt phần lớn viết với dấu hỏi (trong tổng số yếu tố Hán-Việt, có 176 yếu tố viết dấu hỏi, chiếm 62%; 107 yếu tố viết dấu ngã, chiếm 38%), (Hoàng Phê, 6).

• Dùng dấu hỏi khi có phụ âm đầu là CH, GI, KH và các từ khởi đầu bằng nguyên âm hoặc bán nguyên âm như ải, ảm, ảnh, ảo, ẩm, ấn, ẩu, ổn, uẩn, ủng, uổng, uỷ, uyển, ỷ, yểm, yểu.

• Dùng dấu ngã khi có phụ âm đầu là M, N(NH-NG), V, L, D, N (cho dễ nhớ tôi viết thành Mình Nên Viết Là Dãu Ngã) (Hoàng Anh Tuấn).

Như vậy chỉ cần nắm các qui tắc trên và nhớ 33 trường hợp đặc biệt viết với dấu ngã là có thể viết đúng chính tả toàn bộ 283 yếu tố Hán-Việt có vấn đề hỏi ngã cũng coi như nắm được căn bản chính tả DẤU HỎI HAY DẤU NGÃ trong tiếng Việt (Hoàng Phê, 1).

Phần 1: Các lỗi về dấu câu và cách trình bày:

Các dấu dùng để kết thúc câu (dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu ba chấm) phải viết DÍNH LIỀN với chữ cuối cùng của câu.

Ví dụ cách viết đúng:

- Hôm nay là thứ mấy? (dấu chấm hỏi viết sát chữ y)

Ví dụ cách viết sai:

- Hôm nay là thứ mấy ? (dấu chấm hỏi viết cách chữ y một khoảng trắng)

Các dấu dùng để ngăn cách giữa câu như dấu phẩy, dấu chấm phẩy và dấu hai chấm phải DÍNH LIỀN với vế trước của câu và CÁCH vế sau của câu một khoảng trắng.

Ví dụ cách viết đúng:

- Đây là vế trước, còn đây là vế sau.

Ví dụ cách viết sai:

- Đây là vế trước , còn đây là vế sau.

Dấu ngoặc đơn và dấu ngoặc kép phải DÍNH LIỀN với phần văn bản mà nó bao bọc.

Ví dụ cách viết đúng:

- Hắn nhìn tôi và nói “Chuyện này không liên quan đến anh!”

Ví dụ cách viết sai:

- Hắn nhìn tôi và nói “ Chuyện này không liên quan đến anh! ”

Phần 2: Những từ nhiều người thường viết sai:

- “Dành” và “giành”:

Dành: động từ mang nghĩa tiết kiệm, cất giữ hoặc xác định quyền sở hữu, chia phần cho ai đó. Ví dụ: để dành, phần này dành cho bạn (tương đương với “phần này thuộc về bạn”).

Giành: động từ chỉ sự tranh đoạt. Ví dụ: giành giật, giành chính quyền.

- “Dữ” và “giữ”:

“Dữ” là tính từ chỉ tính cách. Ví dụ: dữ dằn, giận dữ, dữ tợn, hung dữ, dữ dội…

“Giữ” là động từ chỉ việc sở hữu, bảo vệ. Ví dụ: giữ của, giữ gìn, giữ xe, giữ đồ…

- “Khoảng” và :khoản”:

“Khoảng” để chỉ một vùng không gian, thời gian, độ dài bị giới hạn. Vi dụ: khoảng cách, khoảng không, khoảng thời gian.

“Khoảng” cũng có khi được dùng để chỉ sự ước lượng. Ví dụ: Nhóm người đó có khoảng chục người.

“Khoản” là một mục, một bộ phận. Ví dụ: tài khoản, điều khoản, khoản tiền.

- Số chẵn, số lẻ:

Chẵn dấu ngã, lẻ dấu hỏi là đúng.

- Bán sỉ, bán lẻ:

Cách viết đúng: Cả sỉ và lẻ đều là dấu hỏi.

- “Chẳng lẽ” (một từ thường đặt ở đầu câu, dùng để diễn tả suy đoán về một khả năng mà bản thân không muốn tin hoặc không muốn nó xảy ra):

Chẳng dấu hỏi, lẽ dấu ngã. Cái này ngược lại hoàn toàn với “số chẵn, số lẻ”.

- “Chuyện” và “truyện”:

“Chuyện” là thứ được kể bằng miệng. “Truyện” là chuyện được viết ra và được đọc.

Ví dụ: “chuyện cổ tích” được kể dựa theo trí nhớ nhưng khi chuyện cổ tích được in vào sách thì nội dung được in đó gọi là “truyện cổ tích”. Và nếu có người đọc cuốn sách đó thì người đó đang đọc “truyện cổ tích”.

- “Sửa” và “sữa”:

Sửa xe, sửa máy móc, sửa chữa là dấu hỏi.

Sữa bò, sữa mẹ, sữa tươi, sữa chua là dấu ngã.

- “Chửa” và “chữa”:

Chửa: đồng nghĩa với mang thai, là dấu hỏi.

Chữa: đồng nghĩa với “sửa”, thường ghép với nhau thành từ ghép “sửa chữa” (lưu ý: sửa dấu hỏi, chữa dấu ngã mặc dù hai từ này đồng nghĩa)

- “Dục” và “giục”:

“Dục” nói về chức năng sinh lý của cơ thể hoặc ham muốn. Ví dụ: thể dục, giáo dục, tình dục, dục vọng.

“Giục” nói về sự hối thúc. Ví dụ: giục giã, xúi giục, thúc giục.

- “Giả”, “giã” và “dã”:

“Giả”: không phải thật nhưng trông giống thật. Ví dụ: hàng giả, giả dối, giả vờ

“Giả” còn là một từ gốc Hán mang nghĩa “người”. Ví dụ: tác giả (người tạo ra), cường giả (kẻ mạnh), khán giả (người xem), diễn giả (người nói trước công chúng về một chủ đề nào đó).

“Giã”: thường ghép với các từ khác. Ví dụ: giục giã, giã từ.

“Dã”: mang tính chất rừng rú, hoang sơ, chưa thuần hóa. Ví dụ: dã thú, hoang dã, dã tính, dã man.

- “Sương” và “xương”:

“Sương”: hơi nước xuất hiện vào buổi sáng sớm hoặc trong những hoàn cảnh thời tiết đặc biệt. Ví dụ: sương mù, giọt sương, hơi sương, sương muối.

“Xương”: phần khung nâng đỡ cơ thể động vật. Ví dụ: bộ xương, xương bò, xương hầm.

- “Xán lạn”:

“Xán lạn” là cách viết đúng. Cả “xán” và “lạn” đều là những từ gốc Hán. “Xán” là rực rỡ, “lạn” là sáng sủa. Tất cả các cách viết khác như “sáng lạn”, “sáng lạng”, “sán lạn”… đều là những cách viết sai. Đây là một từ khó, khó đến nỗi rất nhiều bài báo cũng dùng sai.

- “Rốt cuộc”:

“Rốt cuộc” là cách viết đúng. Nhiều người thường hay viết sai từ này thành “rốt cục” hoặc “rút cục”.

- “Kết cục”:

“Kết cục” là cách viết đúng. “Kết cuộc” là cách viết sai.

- “Xuất” và “suất”:

“Xuất” là động từ có nghĩa là ra. Ví dụ: sản xuất, xuất hiện, xuất bản, xuất khẩu, xuất hành, xuất phát, xuất xứ, xuất nhập… “Xuất” còn có nghĩa là vượt trội, siêu việt. Ví dụ: xuất sắc, xuất chúng…

“Suất” là danh từ có nghĩa là phần được chia. Ví dụ: suất ăn, tỉ suất, hiệu suất…

- “Yếu điểm” và “điểm yếu”:

“Yếu điểm”: có nghĩa là điểm quan trọng. “Yếu điểm” đồng nghĩa với “trọng điểm”.

“Điểm yếu”: đồng nghĩa với “nhược điểm”.

- “Tham quan”:

"Tham quan" nghĩa là xem tận mắt để mở rộng hiểu biết. “Tham quan” là cách viết đúng, “thăm quan” là cách viết sai.

Phần 3: Một số quy tắc chính tả:

- Ch/tr:

Chữ tr không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm như oa, oă, oe, uê. Do đó nếu gặp các vần này, ta dùng ch. Ví dụ: sáng choang, áo choàng, chích chòe, loắt choắt, chuệch choạc, chuếnh choáng…

Những từ Hán Việt có thanh nặng hoặc thanh huyền thường có âm đầu tr. Ví dụ: trịnh trọng, trình tự, trừ phi, giá trị, trào lưu...

Những từ chỉ vật dụng quen thuộc hoặc các mối quan hệ trong gia đình thường có âm đầu là ch. Những từ mang nghĩa phủ định cũng có âm đầu là ch. Ví dụ: chăn, chiếu, chai, chén, chổi, chum, chạn, chõng, chảo,... chuối, chanh, chôm chôm, cháo, chè, chả, chạy, chặt, chắn, chẻ,... cha, chú, chị, chồng, cháu, chắt,… chẳng, chưa, chớ, chả.

- R/d/gi:

Chữ r và gi không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm (oa, oe, uê, uy). Do đó gặp các tiếng dạng này thì ta chọn d để viết, không chọn r hoặc gi. Ví dụ: dọa nạt, kinh doanh, duy trì, hậu duệ…

Trong các từ Hán Việt:

+ Các tiếng có thanh ngã hoặc thanh nặng thường viết với âm đầu d.

Ví dụ: diễn viên, hấp dẫn, bình dị, mậu dịch, kì diệu...

+ Các tiếng có thanh sắc hoặc thanh hỏi thường viết gi.

Ví dụ: giải thích, giá cả, giám sát, giới thiệu, tam giác...

+ Các tiếng có thanh huyền hoặc thanh ngang thường viết với âm đầu gi khi vần có âm đầu a và viết với âm đầu d khi vần có âm đầu khác a.

Ví dụ: gian xảo, giao chiến, giai nhân, tăng gia, gia nhân, du dương, do thám, dương liễu, dư dật, ung dung...

Phần 4: Bí quyết viết đúng chính tả:

Có những lỗi chính tả chúng ta viết sai mà không biết mình viết sai. Những lỗi này thường do bạn đã quen thuộc với chúng trong thời gian dài nên dù sau khi viết xong đọc lại bạn cũng không phát hiện ra.

Tốt nhất hãy để người khác đọc bài viết của bạn và nhờ họ góp ý, sau khi đã biết được lỗi sai thì hãy ghi nhớ chúng để không phạm phải lần sau.

Tra từ điển tiếng Việt (nếu không có từ điển giấy, có thể tra từ điển online trên mạng) để kiểm tra những từ mà bạn không nhớ rõ cách viết hoặc những từ mà bạn nghi ngờ.

Có một số lỗi không phải do bạn sai chính tả mà là do lỗi đánh máy. Sau khi viết, hãy kiểm tra lại cẩn thận bài viết của bạn để tìm và sửa những lỗi này.

SƯU TẦM







Thứ Sáu, 8 tháng 12, 2017

NẠN "BÁN ĐỘ" TRONG THƠ

      

Từ Bản Nhạc Lệ Đá

 

Đến thăm thằng bạn ở Houston. Đem lên cho nó mớ cua biển con nhặt ra trong lúc lựa tôm. Với dân thành phố thì đây là món ngon “quý hiếm”. Xay nhuyễn ra, lọc kỹ lại là có vật liệu chính để nấu món bún riêu cua quê hương mà các bà rất thích.

 

Trong khi hai bà đưa nhau đi chợ để mua “đồ phụ tùng” cho món ăn đặc biệt, hai thằng chồng vào phòng Study (1) uống cà phê, nghe nhạc, tán chuyện văn chương. Thằng bạn vào đề ngay:

 

Hôm qua nghe Lệ Đá (nhạc Trần Trịnh, thơ Hà Huyền Chi) tao thấy có đoạn hơi kỳ – nói đúng ra là ‘trớt quớt’ (phát âm kiểu miền nam), định chờ hỏi xem mày có thấy thế không?

 

Đâu, đoạn nào đâu?

 

Phiên khúc thứ 2

 

Hắn bấm khởi động dàn máy đã chuẩn bị sẵn. Tiếng hát Ngọc Lan nhẹ nhàng thánh thót vang lên:

 

Thuở ấy tôi như con chim lạc đàn

Xoải cánh cô đơn bay trong chiều vàng

Và ước mong sao trời đừng bão tố

Để yêu thương càng nhiều gắn bó

Tháng ngày là men say nguồn thơ

 

Hắn tắt máy đưa mắt nhìn tôi.

 

Tôi hỏi lại:

 

Trớt quớt chỗ nào đâu?

 

Thì đó. “Chim lạc đàn, xoải cánh cô đơn” thì có đếch ai đâu mà “để yêu thương càng nhiều gắn bó”.

 

Mày coi chừng 2 chữ “thuở ấy” nha. Có nó vô ý nghĩa có thể khác biệt nhiều lắm đó, bởi nó sẽ dẫn đến khung thời gian khác.

 

Nhưng ngay cả trong khung cảnh và khung thời gian của “thuở ấy” chăng nữa tao thấy cụm từ “để yêu thương càng nhiều gắn bó” vẫn như bị lạc đường, trớt quớt.

 

Tôi bảo hắn cho nghe lại lần nữa rồi gật gù đồng tình:

 

Mày nói có lý. Mong “trời đừng bão tố” để đừng gẫy cánh chết dấp giữa đường chứ khung cảnh đó, tâm trạng đó thì có mà yêu thương gắn bó với ma. Đoạn thơ lập luận theo luật nhân quả; nhân thì lạc lõng, cô đơn đến độ thảm não mà đòi sinh ra quả “yêu thương càng nhiều gắn bó” thì đúng là lạc quẻ, trớt quớt.

 

Ông Hà Huyền Chi đột nhiên cho cầu thủ của mình tung cú sút, không vào cầu môn đối phương mà bay thẳng ra khu vực khán đài.

 

Sau khi nghe hết bản nhạc tôi nói tiếp:

 

Hơn nữa, đây phải là đoạn “yêu đương nồng thắm, hạnh phúc tràn đầy” để làm nền, giải thích và làm nổi bật nỗi buồn đau, nuối tiếc ở mấy đoạn sau. Đoạn này hỏng thành ra cả bài thơ (lời 1) không có chỗ dựa, như ngôi nhà ngả nghiêng, chao đảo khiến người nghe, người đọc hụt hẫng, chới với.

 

Khi tra cứu thêm để viết bài này tôi may mắn đọc được Vài Dòng Về Bài Hát “Lệ Đá” của nhà thơ Hà Huyền Chi thì biết đây không phải là thơ phổ nhạc mà thi sĩ đã viết lời cho bản nhạc có sẵn của Trần Trịnh. Trong bài viết có đoạn: 

 

“Hôm sau tôi đem đến Trần Trịnh lời ca thứ nhất của Lệ Đá. Kết quả ngoài sức tượng tượng là không biết bằng cảm hứng nào đó tôi đã hoà được cái rung cảm đích thực của thơ tôi cho nhạc Trần Trịnh. Trần Trịnh mừng rỡ tới sững hồn.” (2)

 

Với tôi, lời 1 của bản Lệ Đá là một bài thơ của một thi sĩ lão luyện được tuồn vào cái khuôn nhạc có sẵn của Trần Trịnh trong thời gian kỷ lục (1ngày). Có lẽ vì “thiếu thời gian thai nghén” nên mặc dù ngôn ngữ thơ đẹp một cách sang trọng, hát lên nghe rất “kêu” nhưng thiếu vắng cảm xúc.

 

Đến Nạn “Bán Độ” Trong Bóng Đá

 

Có một thời, do cơ cấu tổ chức, bóng đá Việt Nam rộ lên nạn “bán độ”. Cầu thủ thường là công nhân biên chế và thuộc bộ phận Văn Thể (Văn Hóa Thể Thao) của một đơn vị sản xuất, ban ngành chính quyền hay một đơn vị hành chánh địa phương nào đó. Họ lãnh lương của cơ quan, làm phần việc trách nhiệm của mình (thường là nhẹ nhàng) và đá bóng.

 

Mỗi khi tập trung để tập luyện hoặc thi đấu cầu thủ được lãnh tiền “bồi dưỡng”, nhưng so với vật giá lúc ấy chẳng thấm thía vào đâu. Bởi vậy, khi có trận thi đấu quan trọng, những cầu thủ ở vị trí chính trong đội hình thường được móc nối để “bán độ”. Mỗi lần “bán độ” có thể được trả số tiền tương đương 6 tháng, có khi cả năm tiền lương nên trong hoàn cảnh nghèo đói vào thời điểm ấy cầu thủ rất thường bị “dính mồi”.

 

“Bán độ” là dùng vị trí, vai trò của mình trên sân để “giúp” đội đối phương thắng đội nhà. Đầu mối của nạn “bán độ” là bệnh thành tích và hám danh của các đơn vị - dùng tiền mua trận thắng cho đội mình để giữ hạng, lên hạng hoặc để lấy tiếng. Ngoài ra còn có hiện tượng cá độ trong bóng đá. Những tay “đánh cá” bỏ tiền ra “mua” cầu thủ đội đối phương để đội mình đặt tiền đánh cá giành phần thắng. Dĩ nhiên tiền đánh cá phải lớn hơn nhiều so với tiền bỏ ra để “mua” cầu thủ.

 

Với cách nhìn khôi hài của mình tôi cho rằng trong thơ cũng có “bán độ” như bóng đá nhưng có khác biệt. Trong bóng đá, cầu thủ cố ý “bán độ” để trục lợi, kiếm tiền, còn “bán độ” trong thơ là do thi sĩ vô tình, thiếu cái nhìn bao quát và, dĩ nhiên, bất vụ lợi.

 

 

Sau đây là vài kiểu “bán độ” trong bóng đá và thơ:

 

1/

 

Bóng đá:

 

Vô hiệu hóa chính mình, trở thành kẻ “dư thừa” trên sân.

 

Thơ:

 

Chữ hoặc câu (về mặt ý nghĩa) thừa, không cần thiết – có khi vướng víu dòng chảy của tứ thơ.

 

Thí dụ:

 

Em sẽ đến với tình yêu bằng nửa trái tim yếu đuối

Còn nửa kia, đành giữ lại để... nghi ngờ

Em sẽ không hề nghĩ đến mầm cây khi nhìn những giọt mưa

Có thể rồi sẽ quên cả màu của lúa

Quên bài địa lý quê hương, những miền nào đất đen đất đỏ

Sẽ nhọc nhằn khi định nghĩa chữ "dòng kênh"

(Nếu Không Có Ngày 30 Tháng Tư, Đinh Thị Thu Vân) (3)

 

Chữ “đành” không cần thiết. Không những thế, lại không hợp với câu thơ.

Chữ “chữ” không chính xác; phải nói “hai chữ” (hoặc “từ”) “dòng kênh” mới đúng. Nhưng tốt nhất là bỏ đi, để “dòng kênh” đứng một mình - vừa gọn, vừa hay.

 

2/

 

Bóng đá:

 

Gởi thơ nhầm địa chỉ; lúc đồng đội trống trải, nhận bóng là có thể ghi bàn thì lại chuyền bóng nhầm cho cầu thủ đối phương hoặc đá ra ngoài.

 

Thơ:

 

Câu thơ, đoạn thơ lẽ ra có quan hệ nhân quả thì lại … “trớt quớt”, trật bàn đạp.

 

Thí dụ:

 

Phiên khúc 2 của Lệ Đá ở trên.

 

3/

 

Bóng đá:

 

Lối đá của cầu thủ không “hợp lý”, không “ăn rơ” với đấu pháp toàn đội.

 

Thơ:

 

Thơ không phản ảnh đúng thực tế, làm nhẹ cảm xúc, giảm sức thuyết phục.

 

Thí dụ:

 

Tôi đứng bên này sông

Bên kia vùng giặc đóng

 

là 2 câu mở đầu trong bài thơ Nhà Tôi của Yên Thao.

Khi phổ nhạc bài thơ nhạc sĩ Anh Bằng sửa lại:

 

Tôi đứng bên này sông

Bên kia vùng lửa khói

 

Nhà Tôi là tâm trạng hồi hộp, lo âu của một người lính trước giờ nổ súng mà mục tiêu của trận đánh lại chính là ngôi làng bên kia sông, có căn nhà nơi những người thân yêu nhất của mình, bà mẹ già và cô vợ trẻ, đang cư trú.

 

Trước hết, đưa cụm từ “vùng lửa khói” vào không ăn khớp với thực tế trận địa; chưa nổ súng thì làm gì có “lửa khói!”

 

Hơn nữa, chi tiết làng tôi là “vùng giặc đóng” khiến việc đánh bật trại giặc để chiếm lĩnh mục tiêu trong một trận đánh có cả pháo binh sẽ rất nguy hiểm cho căn nhà và những người sống trong đó. Điều này làm nỗi lo của người lính thật hơn, khơi dậy nơi người đọc cảm xúc mạnh hơn. Anh Bằng đã làm tứ thơ dở đi rất nhiều khi thay cụm từ trên.

 

(Anh Bằng Sửa Thơ Yên Thao, Phạm Đức Nhì, Lời Bình Ngắn Tập 1) (4)

 

4/

 

Bóng đá:

 

Cầu thủ đá tung lưới đội nhà

 

Thơ:

 

Chữ, nhóm chữ hoặc câu thơ cản dòng chảy của tứ thơ.

 

Thí dụ:

 

Chăn trâu đốt lửa trên đồng

Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều

Mải mê đuổi một con diều

Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.

(Chăn Trâu Đốt Lửa, Đồng Đức Bốn)

 

Rạ rơm ít, gió lại nhiều, đốt lửa lên mà không luôn tay chăm sóc thì chỉ một loáng là lửa tắt; đàng này lại còn lo thả diều thì củ khoai chưa chắc đã chín chứ nói gì đến cháy thành tro. Câu “Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều” gây khó khăn, cản trở cho việc cảm nhận ý của câu kết “Củ khoai nướng để cả chiều thành tro”.

 

Học Ở Trường Đời

 

Tôi có may mắn được tiếp xúc với văn chương Anh Mỹ vừa ở trường lớp và vừa từ giao tiếp, trao đổi riêng với các bạn thơ người Mỹ ở ngoài đời. Có lần tôi (cùng với vài người khác) đến nhà một vị giáo sư đại học Mỹ, đã về hưu, dạy Literary Criticism (Phê Bình Văn Học). Tôi bám sát ông ta trò chuyện và, không bỏ lỡ cơ hội, đưa ra 2 câu hỏi (đã chuẩn bị sẵn):

 

1/ “What do you expect from a poetry review?” (Ông chờ đợi những gì ở một bài bình thơ?) Ông ta mở máy tính và in cho tôi một list gồm hơn 20 đề mục. Về nhà tôi vào Google gõ “How to write a poetry review?” hoặc “How to analyze a poem?” (Làm sao để phân tích một bài thơ?) thì cũng có một list tương tự. Thành ra câu hỏi của tôi chẳng mang lại lợi ích bao nhiêu. (5)

 

Rất may, đã có câu hỏi thứ 2 gỡ lại.

 

2/ “What makes or breaks a poetry review?” (Cái gì quyết định thành bại của một bài bình thơ?) Câu trả lời của ông ta là “How he or she looks at the coherence of the poem.”(Cách người viết đánh giá sự kết nối logic tổng thể, tính nhất quán của bài thơ.) Nhờ thế tôi biết người Mỹ (văn chương Anh Mỹ) rất coi trọng thế trận chữ nghĩa của bài thơ và việc vạch mặt để loại trừ bọn “bán độ” trong thơ, với họ, là rất cần thiết.

 

Một Chút Khác Biệt

 

Một bài thơ có tứ thơ mạch lạc, “dễ bắt”, thế trận hợp lý, gọn gàng – theo những người thích thơ ở Mỹ - có thể được coi là thành công. Thi sĩ đạt đến trình độ này, dĩ nhiên, khả năng sử dụng ngôn ngữ, hình tượng, câu cú để diễn đạt tâm trạng của mình cũng không đến nỗi tệ.

 

Tuy nhiên đó chỉ như sự thành công của đội bóng đã vượt qua vòng loại để bước vào vòng chung kết. Càng tiến xa bài thơ càng “được” xét nét tỉ mỉ hơn. Và một tiêu chí khác để phân định hay dở, cao thấp trong thơ, theo tôi, sẽ thu hút sự chú ý của những người bình thơ. Đó là vần và khả năng sử dụng vần để khơi dòng cảm xúc.

 

Ở điểm này, với ngôn ngữ đơn âm như tiếng Việt, việc gieo vần dễ dàng hơn nhiều. Nếu thi sĩ cao hứng, lại có tứ thơ hay, cảm xúc được vần nâng dắt sẽ dâng trào, đẩy cơn cao hứng của thi sĩ đến đỉnh điểm. Lúc ấy lý trí sẽ biến mất, lời thơ tuôn ra từ chỗ sâu thẳm nhất của tâm hồn, sẽ là những lời chân thật của “cái tôi đích thực"

 

 Lợi Ích

 

Với thơ Việt Nam, theo tôi, vạch mặt và loại trừ bọn “bán độ” trong thơ có những lợi ích sau đây:

 

1/ Bài thơ sẽ có thế trận hợp lý, tứ thơ nhất quán.

 

2/ Thông dòng suy tưởng, dòng chảy của tứ thơ, dòng cảm xúc (nếu có).

 

3/ Tiến gần đến mục tiêu mà một định nghĩa thơ đã đề ra: Best words, best order (từ hay, đúng chỗ - theo trình tự hợp lý nhất), tiếng Việt có từ rất tuyệt là “đắt”, “đắc địa”.

 

4/ Bài thơ có tính thuyết phục, dễ tạo được sự đồng cảm, đồng tình.

 

Kết Luận

 

Vạch mặt và loại trừ bọn “bán độ” trong bóng đá để giữ sự công bằng trong thi đấu, giữ nét đẹp trong sáng của môn thể thao vua trên thế giới. Nhà phê bình chỉ ra những chữ, nhóm chữ, câu, đoạn “bán độ” của bài thơ để thi sĩ rút kinh nghiệm, để những bài thơ sau tiến gần đến mục tiêu “best words, best order”, có tính nhất quán, có nét đẹp tổng thể, đạt được điều kiện cần để thi sĩ cùng bài thơ bước qua cánh cổng, ra con đường lớn đi về hướng “Bến Bờ Thì Ca”.

 

Và nếu may mắn – đang ở trong trạng thái cao hứng đến lạc thần trí – thi sĩ cùng bài thơ của mình sẽ đi đến đích.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

CHÚ THÍCH:

 

1/ Phòng học của sinh viên, phòng để tra cứu và viết lách.

 

2/ http://nguyenquocdong.vnweblogs.com/a179271/vai-dong-ve-bai-hat-le-da.html

 

3/ https://vanhaiphong.com/tac-pham/1739-2015-04-20-14-04-51.html

 

4/ http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/08/loi-binh-ngan-tap-1.html

 

5/ http://www.iluenglish.com/how-to-analyse-a-poem-writing-poetry-reviews/