Thứ Tư, 23 tháng 8, 2017

MỘT SỐ KIỂU XẠO TRONG THƠ


Lối Nói Thậm Xưng

Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” (1)

Thí dụ:

Muốn gởi cho em
chút gió biển Galveston

là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galvston (ở Mỹ) làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có lý trong nghệ thuật”.

Gió từ Mỹ gởi về:

để dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.

Có lý quá đi chứ! Và hai câu kế tiếp:

nhưng sợ người ta đang đi mà chợt mát
rồi bồi hồi
nhớ nhớ thương thương.

(Muốn Gởi Cho Em, Phạm Hữu T, FB Phượng Kim Ngọc Huỳnh)

vừa trữ tình lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong Áo Lụa Hà Đông -  lại vừa khôi hài ý nhị. Đoạn thơ mở đầu thật tuyệt vời. 

Đây là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, nâng cao giá trị của bài thơ.

Xạo Công Khai – Hy Sinh Danh Dự Và Nhân Cách Vì Lý Tưởng Chính Trị

Đây là trường hợp của Tố Hữu – nhà thơ lãnh đạo sinh hoạt văn hóa văn nghệ của nước VNDCCH một thời gian rất dài. Chúng ta thử đọc mấy câu thơ trong bài Đời Đời Nhớ Ông - Tố Hữu viết để khóc Stalin của Liên Xô:

“Thương biết mấy nghe con học nói
Tiếng đầu lòng con gọi Xít- Ta- Lin”    


“Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười

Với người Việt Nam, khi con bặp bẹ học nói thì được dạy những chữ đơn giản như Ba, Má, Cha, Mẹ … chứ không ai dạy con nói cái chữ tiếng Nga “Xít- Ta- Lin” xa lạ, có 3 vần trong đó có đến 2 vần phức tạp. 

Và cũng theo truyền thống văn hóa của người Việt Nam, chẳng ai đi thương cái “thằng người dưng” những mười phần trong khi cha, mẹ, chồng và chính bản thân mình chỉ thương có một. Tính xạo hiển hiện rõ ràng, công khai ngay trong câu thơ - đọc là hiểu liền, không cần liên tưởng suy luận xa xôi.

Vì mấy câu thơ này mà dù tài thơ hiếm có, uy quyền tột đỉnh, danh dự và nhân cách của Tố Hữu bị người Việt - đặc biệt trong làng thơ - đánh giá rất thấp.

Xạo Ở Thế Trận (Kịch Bản) Của Bài Thơ.

Bài thơ Tình Yêu Không Lời của thi sĩ Phạm Trung Dũng có tứ thơ khá lạ và cảm động về mối tình của một chàng trai với cô gái câm điếc. Nhưng kịch bản của bài thơ đã được tác giả nêm nếm quá tay. (Xin đọc bài thơ ở http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/06/mot-kich-ban-tho-xao.html)

Là hàng xóm sát mái, kề hè với nhau mấy tháng trời (mấy mùa cây khế trổ hoa), lại sang nhà cô chơi mấy lần mà phải chờ đến khi hai người “tò tí” xong, đọc mẩu giấy cô gái nhét vào tay, mới biết cô gái bị câm điếc và bàng hoàng thương cảm, thì thật không thể nào tin nổi. 

Phạm Trung Dũng không những chỉ nêm nếm quá tay mà – trong quá trình làm thơ và kiểm soát lại trước khi phổ biến – anh đã tự bịt mắt mình để không thấy những điều lẽ ra phải thấy.

Khi nhận ra chi tiết chính trong kịch bản của bài thơ không phải chỉ “không hợp tình hợp lý” mà còn xạo một cách trắng trợn, cảm xúc có được qua việc đọc thơ chỉ là thứ cảm xúc giả tạo, độc giả cảm thấy bẽ bàng vì bị xúc phạm. Bài thơ thất bại một cách ê chề.

Chữ “Vui” Làm Buồn Bài Thơ

Tôi đến với Niềm Tin đầu tiên qua giai điệu nhạc của Anh Linh trước khi biết bài thơ gốc của Nhất Tuấn. Nghe bài nhạc đến đoạn 
"Em biết chăng đời lính
Nắng sớm với sương chiều 
Gió rừng và mưa núi
Đã làm anh vui nhiều” 

tự nhiên tôi thấy chối tai, cảm xúc trong tâm hồn đang trôi theo tiếng hát bỗng khựng lại. Lòng tự hỏi “Trong khung cảnh đó tại sao lại “vui” nhỉ? Mà lại “vui nhiều” mới lạ chứ! Đã từng là anh lính chiến, đóng quân ở rừng sâu, núi cao, tôi đã biết thế nào là
Nắng sớm với sương chiều
Gió rừng và mưa núi
theo đúng nghĩa đen của từng chữ. Tôi quen với khung cảnh ấy, sống trong hoàn cảnh ấy không phải vài ngày, vài tuần mà tháng này qua tháng khác. Những lúc ấy ngồi trong lều nhìn cảnh núi rừng - từ sĩ quan đến lính - mắt thằng nào cũng như đang lạc vào một cõi xa xăm, mặt thằng nào cũng dài thuỗn ra, buồn rười rượi. Dĩ nhiên đời lính ở rừng sâu núi thẳm cũng có những lúc vui - những niềm vui nho nhỏ do người lính tự tạo ra - để quên nỗi nhớ thương quay quắt và để … sống. Nhưng chỉ cần một cái gì đó rất nhỏ nhặt gợi lên kỷ niệm với người thân thì từ sâu trong tâm hồn của họ nỗi buồn chia xa đang đầy ắp sẽ trào ra như thác đổ.
Câu “Đã làm anh vui nhiều” khiến Niềm Tin đang là tâm tình của người lính xa nhà bỗng trở thành một bài thơ, bài hát “phải đạo” (politically correct). Lời thơ, tiếng nhạc đang là những cảm xúc chân thật của con người bất chợt biến thành những lời đầu môi chót lưỡi, dối người và tự dối lòng mình. 
Đúng là chữ “vui” đã làm buồn bài thơ.

Nói Chắc Như Đinh Đóng Cột Nhưng Lại Không Làm

Nhà thơ Trần Trung Đạo có bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười viết về mẹ, rất cảm động, được rất nhiều người ca ngợi. 

Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm Mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương

Tiếng Mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao với
Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Đừng khóc Mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười

Tôi qua Mỹ năm 1993. Đến cuối năm 1995 mới mua được cái computer và đọc được bài thơ. Không hiểu sao tôi lại táy máy email hỏi tác giả:

Thế anh đã về thăm mẹ chưa?”

Tôi nghĩ với nỗi nhớ thương to lớn, sâu đậm như thế, viết xong bài thơ chắc Trần Trung Đạo phải vùng chạy đi mua vé máy bay về thăm mẹ ngay. Nhưng tác giả email trả lời:
“Tôi còn kẹt vài chuyện nên chưa về được.”
………………………………………………………………………….

Một Vài Nhận Xét

     1/ Lỗi Kỹ Thuật

Trong  Mẹ Và Quê Hương có những câu sau đây:
Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này. Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ.
Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã ngoài 60 tuổi và đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng Sài Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đã sống 8 năm.
Như  vây mẹ trong bài thơ là mẹ nuôi. Khi nói mẹ “trống không” người đọc sẽ hiểu là mẹ ruột. Còn nếu muốn nói đến những loại mẹ “đặc biệt” khác – mẹ kế (ghẻ), mẹ đỡ đầu, mẹ tinh thần, mẹ nuôi - phải nêu đích danh tính chất đặc biệt ấy.

Tôi nhớ đến giai thoại Tô Đông Pha sửa thơ Vương An Thạch. Bình thường ai cũng hiểu Minh Nguyệt là trăng sáng, Hoàng Khuyển là con chó vàng. Nhưng trong bài thơ của Vương An Thạch Minh Nguyệt là tên một loại chim và Hoàng Khuyển là tên một loại sâu. Lỗi ở VAT – không chú thích sự khác biệt độc đáo, chỉ có ở địa phương ấy - nên Tô Đông Pha mới hiểu lầm và sửa bài thơ. (http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/08/loi-binh-ngan-tap-1.html)

Đọc ĐCTTTMC ai cũng hiểu “mẹ” là mẹ ruột của TTĐ. Nếu TTĐ cố ý né chữ “nuôi” để mong gợi thêm cảm xúc của người đọc thì anh đã mắc tội “treo đầu dê, bán thịt chó”. Tuy nhiên, tôi không nghĩ như vậy. Với anh, ơn nghĩa công lao nuôi dưỡng 8 năm ở Hòa Hưng cũng rất lớn; tình cảm của anh với bà mẹ nuôi cũng rất sâu đậm không kém đối với mẹ ruột. Lẽ ra khi phổ biến bài thơ anh phải chú thích điều đó (ngay dưới bài thơ) để “sòng phẳng” với người đọc nhưng anh lại không làm nên gần 22 năm trôi qua, tôi vẫn đinh ninh mẹ trong bài thơ là mẹ ruột của anh. Nhưng đó chỉ là lỗi kỹ thuật.

     2/ Mười Năm Không Gọi Phone Cho Mẹ  
                                     
“Bài thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ Việt Nam. “

Câu đầu tiên khiến tôi sững sờ

“Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người”

Mười năm mới nói chuyện điện thoại với mẹ lần đầu tiên. Mà ai gọi ai? Bà mẹ nghèo khổ ở Hòa Hưng (trên 60 tuổi) gọi điện thoại đường dài cho đứa con thành đạt ở nước Mỹ.  Đọc câu thơ ấy tôi cũng “bỗng lặng người” vì thấy anh tệ quá, anh Trần Trung Đạo ơi.

     3/ Khoảng Cách Giữa Thơ Và Hành Động

Mời độc giả đọc lại mấy câu thơ kèm lời chú thích của PĐN:

Mẹ xa xôi quá làm sao với
Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Có khó gì đâu! Bỏ khoảng hơn một ngàn đô mua vé máy bay cộng thêm chút tiền đi đường là gặp được mẹ ngay chứ gì.

Đừng khóc Mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ


Ôi! Ráng chờ con thì chờ đến bao giờ? TTĐ từ giã mẹ ra đi năm1981, 10 năm sau (1991) viết bài thơ. Cuối năm 1995 (tôi nhận email của TTĐ) bài thơ viết đã được 4 năm, bà mẹ đã gần 70 tuổi và vẫn tiếp tục … chờ.

Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười

Câu thơ hay quá! Nhưng hơi “đao to búa lớn”. Cần gì “đổi cả thiên thu”. Mua vé máy bay là sẽ trực tiếp thấy vóc hình của mẹ, nghe tiếng mẹ cười và cảm được hơi ấm da thịt của mẹ trong vòng tay, đâu cần “Hơi ấm con tìm trong giấc mơ”.

Thật tình, dù chưa một lần gặp mặt, tôi vẫn quý mến và ngưỡng mộ Trần Trung Đạo. Một số việc anh đã và đang làm cho bà con ở hải ngoại và cả ở trong nước, tôi không làm được dù rất muốn. Nhưng với bài thơ ĐCTTTMC, lời thơ tha tiết quá, tình cảm sâu đậm quá, mà sao hành động của anh chẳng tương xứng tý nào.

Không biết những độc giả khác nghĩ sao chứ lúc đọc email của TTĐ xong là tôi lầu bầu trong miệng:
“Mẹ Kiếp! Lời thơ tha thiết như thế, lời hứa chắc như đinh đóng cột như thế, mà không chịu về thăm mẹ thì thật tội nghiệp cho bà cụ chờ con dài cả cổ suốt mấy năm trời. Mà không biết sau khi anh gởi email cho tôi (nói là “còn kẹt vài chuyện nên chưa về được”) bà còn phải chờ thêm bao nhiêu năm nữa?”

Sau khi hỏi một số bạn bè và nhất là nghe cuộc phỏng vấn về hai tập sách Chính Luận Trần Trung Đạo - biết chắc rằng sau chuyến ra đi năm 1981 cho đến khi tôi viết những dòng chữ này TTĐ chưa hề về Việt Nam – tôi lại càng thương và tội nghiệp cho bà mẹ trong bài thơ.

Nếu chỉ dựa vào văn bản, TTĐ rất khéo nên bài thơ phải nói là hay, ngôn ngữ đẹp và nhiều cảm xúc. Tôi tự trách mình:

“Phải chi đừng táy máy gởi cái email chết tiệt ấy nhỉ!”



Hứa Không Làm Mà Lại Làm.

Nhà thơ Nguyễn Thế Giác có bài thơ Tiết Tháo chỉ có 4 câu với 2 câu kết đầy ấn tượng:

“Không thể cam tâm về với giặc
Dù trĩu đôi vai một mẹ già.”

Ý muốn nói “Dù trĩu đôi vai một mẹ già” (câu thơ rất hay) ông cũng không về Việt Nam để giữ tròn tiết tháo. Lúc ấy tôi mới qua Mỹ được mấy năm, đọc bài thơ, phục ông sát đất, nhưng lại buồn cho mình – cũng còn mẹ già và một lũ em nghèo khổ ở trong nước.  Sau đó khá lâu, tình cờ đọc trên báo, thấy bài thơ Sài Gòn Bây Giờ với tên tác giả là Nguyễn Thế Giác:

Tôi đi trên thủ đô Sài Gòn ngày trước
nhìn rừng người lũ lượt
mà ngỡ mình lạc bước giữa một bãi tha ma”

A! Thì ra nhà thơ đã “về với giặc”. Tôi mở báo lấy số điện thoại gọi cho ông thì được biết ông phải về vì lý do “bất khả kháng” (tôi xin phép không nêu ra đây) và mong tôi thông cảm. Tôi cũng lái xe mò đến chỗ ông làm việc (cơ sở tư nhân) để trực tiếp trò chuyện.

Tôi tin, với bài thơ Tiết Tháo, lúc viết là ông viết thật lòng, tấm lòng của một cựu Sĩ Quan QLVNCH , không muốn về khi đất nước còn nằm trong tay quân thù.  Hoàn cảnh thay đổi; việc ông về (với lý do ấy) là “thiên kinh địa nghĩa”, chẳng ai có thể trách ông được.

Ông chỉ “kẹt” vì bài thơ. Một là, ông long trọng hứa không về mà ông lại về nên ông ngượng. Hai là, ông ngầm chê chúng tôi - những người về thăm gia đình ở Việt Nam - là không có tiết tháo; bây giờ ông thẹn với  hai chữ  “tiết tháo” kiểu quân tử Tàu, đã hơi bị hoen ố, của chính ông.

Xét cho cùng, ông không xạo (với “cái tôi văn hóa” của ông) khi làm thơ; ông chỉ hứa mà không giữ lời. Sự thất hứa của ông, trong trường hợp này, dễ thông cảm hơn Trần Trung Đạo.

Xạo Vì Cái Tựa Đề

Tôi biết đến thi sĩ Đỗ Trung Quân qua nhạc phẩm Quê Hương – thơ của anh được nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ nhạc. Có nhiều đoạn lời hát đẹp như những bức tranh thơ. Khi phổ nhạc, nhạc sĩ Giáp Văn Thạch đã lược bỏ mấy đoạn và đổi caí tựa từ Bài Học Đầu Cho Con thành Quê Hương. Sau đây là đoạn đầu của bài thơ:

Quê hương là gì hả mẹ
Mà cô giáo dậy phải yêu
Quê hương là gì hả mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều

Đọc đoạn thơ tôi nghĩ nhà trường đã nhét một ý niệm quá trừu tượng và phức tạp vào đầu đứa học trò trẻ dại khiến đứa bé phải nhờ mẹ giải thích. Nhưng đọc cái tựa thì tôi giật mình. Bài Học Đầu Cho Con - nghĩa là đứa bé mới học lớp Vỡ Lòng, còn thấp hơn cả Mẫu Giáo. Chuyện này làm sao có thể xảy ra trong thực tế được. Cái tựa đã làm hại bài thơ. Tác giả phải mang tiếng Xạo vì lỗi kỹ thuật. (http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/loi-binh-ngan-tap-3.html)

Xạo Vì Sợ - Vì Muốn Giữ Chức Quyền

Nhà thơ sống trong chế độ độc tài, khi chọn tứ thơ thường phải “né” một số vùng cấm để bản thân và gia đình được bình yên. Những người có chức tước, bổng lộc kha khá đôi khi phải muối mặt viết bài thơ gọi là “hưởng ứng phong trào” để “giữ lấy chén cơm”. 

Khi bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh? của cô giáo Trần Thị Lam gây xôn xao dư luận, bên cạnh những bài thơ phụ họa, tán thưởng, tôi cũng thấy vài bài (có ý phân bua cho chế độ và trách móc cô giáo) của những nhà thơ viết “vì mình ở cương vị phải viết”. Tôi gọi họ là những nhà thơ xạo vì chén cơm, manh áo.

Xạo Vì Mình Là Một Trong Hai Phe - Ủng Hộ Hoặc Chống Đối

Trong cuộc sống, rất nhiều khi nhà thơ – vì lý do nào đó - đứng ở một phía của vấn đề. Thí dụ: Cho con cái tự do luyến ái hay hôn nhân do cha mẹ định đoạt? Chọn nếp sống mới hay gìn giữ nét “chân quê"? Hoặc , trong hoàn cảnh trớ trêu của dân tộc Việt Nam, ủng hộ chế độ miền nam hay miền bắc? Để bài thơ có tính thuyết phục - đối với độc giả đồng quan điểm với mình, và nhiều khi, cả phía bên kia - thi sĩ phải xạo, nhưng phải tuân theo một số quy luật (bất thành văn).

Sau đây là một đoạn tôi viết trao đổi với một nhà văn phía bên kia:

Giả sử có một người lính gốc giang hồ, da ngăm đen, có một vết sẹo tròn, đường kính khoảng 2cm bên má trái, trông rất cô hồn. Anh ta can đảm, đánh giặc giỏi, lại may mắn nên nhiều lần được thăng cấp tại mặt trận và được cử giữ chức đại đội trưởng một đại đội trinh sát.

Nếu người lính ấy thuộc phe mình, khi viết về anh ta tôi sẽ lờ tít cái quá khứ giang hồ của anh; tôi cũng sẽ chọn chỗ đứng để chụp hình anh mà không thấy vết sẹo. Bao nhiêu chữ nghĩa sẽ dồn vào sự can trường và tài năng trận mạc của anh ta.

Ngược lại, nếu người lính ấy ở phía bên kia, tôi sẽ viết rất kỹ về quá khứ đâm thuê, chém mướn của anh. Hình chụp phải thấy rõ vết sẹo, và dĩ nhiên, khuôn mặt phải rất cô hồn. Còn lòng can đảm và chuyện xông pha trận mạc chỉ được viết qua loa.

Đó là cách viết của người lính, của nhà văn, nhà thơ chiến sĩ: Cố gắng tối đa để không ca ngợi đối phương, không kể xấu phe mình. 

Nhưng nếu vì người lính ấy thuộc phe mình, tôi lại ngợi khen quá lố: Da anh trắng như trứng gà bóc, dáng người thanh tú, mặt đầy vẻ trí thức…hoặc nếu người lính ấy thuộc phe bên kia tôi lại “thổi” đường kính vết sẹo lên đến 4cm, tưởng tượng thêm trong quãng đời “xã hội đen” anh đã giết nhiều người, hiếp dâm hàng chục cô gái…là tôi đã viết sai sự thật.

Dĩ nhiên chế độ nào cũng có ưu và khuyết điểm. Khi làm thơ ca tụng chế độ của mình, người ta thường chỉ nói về ưu điểm mà phớt lờ khuyết điểm. Ngược lại khi làm thơ chỉ trích chế độ “đối phương” tác giả chỉ nhắm vào khuyết điểm. 

Vâng! Tôi cũng có một thời “thuộc về một phía”, làm thơ chống phía bên kia.

Có một thời bị đọa đày hành hạ
thơ của tôi rực lửa căm thù
máu và nước mắt
ướt đẫm những trang thơ
nực mùi tử khí

Thơ cũng rất đậm màu chính trị
“Màu này thật dễ thương
còn màu đó ‘thấy mà ghê’
Ôi! Đẹp quá phe mình
còn phe bên kia
phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu”
(Yêu Thơ Nên Phải Hết Lòng Với Thơ, Phạm Đức Nhì, t-van.net)

Từ trong nước ra hải ngoại, trong các cuộc họp mặt bạn bè (cùng lớp, cùng trường, cùng khóa, cùng trại cải tạo, cùng là tù nhân chính trị …) tôi thường được mời đọc thơ - những bài thơ của phe ta – và cũng thường được mọi người tán thưởng. Có mấy lần, nhân ngày hội thơ Nguyên Tiêu, tôi đã ra tận Văn Miếu Quốc Tử Giám tụ họp với các nhà văn, nhà thơ trong nước, nghe thơ của họ và đọc cho họ nghe những bài thơ “không cùng chính kiến” - và cũng được họ thích thú đón nhận. 

Nhưng càng đi sâu vào thơ, càng thấy rõ tính “không hoàn toàn chân thật” của những bài thơ đó, tôi đã tự tay đâm chết “người lính” trong tâm hồn để thơ gần với con người thật của mình hơn.

“Trên trang thơ của mình
tôi chỉ trung thành
với nhịp đập của chính trái tim tôi.”

Nói là nói vậy chứ làm được cũng còn nhiêu khê lắm.

Loại thơ “phe phái” này phải nói Tố Hữu là tay tổ. Ông xoay chuyển tứ thơ rất tài để độc giả của ông thấy phe ta lúc nào cũng đẹp và phe địch lúc nào cũng xấu. Ông đã dùng thủ thuật đó hun đúc tinh thần chiến đấu của dân miền bắc để họ sau cùng “chớp thời cơ” giành chiến thắng. Ngoài cú xạo văng mạng để đời “Khóc Stalin” ông còn xạo (nhẹ hơn) trong một vài bài thơ khác. Tuy nhìên, vì ông đã có “vai diễn” ở phần trên của bài viết này, tôi xin được để dành thời gian còn lại của bài viết cho những vai khác.

Thử đọc bài thơ Chân Quê của Nguyễn Bính:

Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!

Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?

Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh!

Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều

Nguyễn Bính viết bài thơ Chân Quê nhưng thật ra là đang bước vào một cuộc tranh luận “Nên giữ ‘nét chân quê’ hay chọn nếp sống mới?” Ở đây, chủ thể đối luận của phía bên kia vắng mặt. Ông đã áp dụng đúng nguyên tắc - không ngợi ca đối phương, không kể xấu phe mình”. Ông không vi phạm luật lệ và bài thơ đã có tính thuyết phục khá cao.  

Nhưng xét về tính chân thật trong thơ, Nguyễn Bính đã cho phe của mình được lợi thế (viết toàn cái đẹp, cái duyên dáng của “nét chân quê” trong khi phía bên kia im lặng) - nghĩa là không công bằng với phía bên kia”. Nói khác đi, ông đã xạo một cách khéo léo.

Tóm lại, làm thơ mà vững lập trường (kiểu “nhà thơ - chiến sĩ”), đứng về một phía của một vấn đề nào đó, thì dù là Tố Hữu, Nguyễn Bính hay bất kỳ ai, cũng đều phải xạo - thường là “xạo cố ý” trong lúc xoay chuyển để tìm hướng đi cho tứ thơ – nhưng khi đã “nhuyễn” rồi thì lại rất tự nhiên như thể vô tình. Cái xạo này thường được độc giả đồng quan điểm bỏ qua nhưng những người ở “phía bên kia” - nếu cần tranh luận đến đầu đến đũa - sẽ soi mói.


CHÚ THÍCH:
1/ Diên Hồng Dương, Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ ‘Xạo’” https://www.facebook.com/dienhong.duong.5/posts/986680141469017



Thứ Bảy, 19 tháng 8, 2017

THI SĨ CÓ XẠO KHÔNG?



                                                 

THI SĨ CÓ XẠO KHÔNG?

 


 Người Đời Thường Gian Dối

 

Tôi học Đệ Nhất ở Lý Thường Kiệt, một trường trung học công lập quận Hốc Môn, nhưng vì nghe tiếng giáo sư Trần Bích Lan nên thỉnh thoảng cũng “vù” lên trường Văn Học ở Sài Gòn học ké mấy giờ Triết. Phải công nhận thi sĩ Nguyên Sa giảng Triết nghe đã thiệt. Có lần, không nhớ trong bài nào, thầy phát biểu:

 

Do tính sĩ diện nên người đời thường gian dối; mở miệng ra là vơ cái hay, cái tốt về mình; ngay cả khi tiết lộ một chút gì xấu của cái Tôi là cũng muốn chứng tỏ mình thành thật.

 

Sau khi “mất” Khánh Ngọc, Phạm Đình Chương đã sáng tác nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau trong đó có câu 

 

“Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin những người, ôi những người khóc lẻ loi một mình”.

 

 Ý nhạc sĩ muốn nói chỉ những người khóc lẻ loi một mình (như ông đang khóc Khánh Ngọc) mới đáng tin là có nỗi đau buồn chân thật.

 

“Bởi đàng sau những giọt nước mắt

giữa đám đông

rất có thể

ẩn hiện bóng hình

loài cá sấu.”

 (Kẻ Giết Chết Hồn Thơ, Phạm Đức Nhì, vandanviet.com)

 

Nhưng nhiểu trường hợp người ta còn dàn cảnh để “con mồi” được tận mắt xem tấn tuồng “khóc lẻ loi một mình” rồi tin và hiên ngang bước vào bẫy. (2)

 

Phạm Đình Chương, khi viết Nửa Hồn Thương Đau, không ngờ rằng ngay cả tiếng khóc lúc lẻ loi cũng có thể sản sinh những giọt nước mắt cá sấu. Tính gian dối của người đời sâu đậm đến như thế đấy.

 Thi Sĩ Có Xạo Không?

 

Trở lại buổi học Triết với thầy Trần Bích Lan. Lúc ấy, vốn có tiếng nghịch ngợm lại bạo mồm, tôi ngồi tại chỗ “hỏi chõ” lên:

 

Thế thi sĩ có xạo không thầy?”

 

Thầy nhìn về hướng tôi ngồi, trả lời tỉnh bơ:

 

Có chứ, sao lại không! Khác nhau là cố ý hoặc vô tình.”

 

Không ngờ mấy chục năm sau, vướng “đậm” vào cái nghiệp thi ca, tôi lại phải trả lời câu hỏi của chính mình. Không biết lúc ấy thầy Trần Bích Lan trả lời thật hay đùa; tôi cũng không có cơ hội để hỏi thầy đến nơi, đến chốn.

 

Nhưng đọc khá nhiều thơ, thỉnh thoảng lại chất vấn tâm hồn mình – cũng là người múa bút làm thơ – tôi thấy quả đúng như thầy nói, thi sĩ nhiều người, nhiều lúc cũng “xạo tới bến”.

 

 Tại Sao Thi Sĩ Xạo?

 

Lý do cũng dễ hiểu. Người đời trong giao tiếp hàng ngày, đôi lúc ở chỗ này chỗ khác, nói năng có điều gì thất thố, có xúc phạm ai thì cũng chỉ một số ít người biết. Sau đó lời nói sẽ bay đi như gió thoảng.

 

Còn thi sĩ, bài thơ xuất xưởng là sẽ vượt khỏi sự kiểm soát của mình, nếu sai sót điều gì hoặc đụng chạm đến ai đó, hậu quả của những dòng thơ trên giấy trắng mực đen sẽ đọng lại rất lâu.

 

 Cho nên đặt bút viết phải cẩn trọng. Cẩn trọng sẽ mời gọi lý trí. Có lý trí xuất hiện, thi sĩ - dù muốn dù không – cũng sẽ Xạo.

 

Trường Phái Siêu Thực Đã Thất Bại

Dĩ nhiên, xạo có nhiều cách, nhiều kiểu. Có kiểu xạo cố ý, có kiểu xạo vô tình. Có kiểu xạo đáng chê trách, nhiều khi đáng khinh bỉ, có kiểu xạo đáng thương, đáng thông cảm. Nhưng dù xạo kiểu gì đi nữa cũng làm ảnh hưởng đến giá trị của bài thơ.

Xóa hẳn dấu vết của chữ Xạo trong thơ không phải là chuyện đơn giản. Trường phái thơ Siêu Thực ra đời để giải quyết vấn nạn "trục xuất lý trí - nguyên nhân của chữ Xạo - trong thơ" cũng đã thất bại.

 

Có Cách Nào Không?



Nhưng những người yêu thơ cũng đừng lo buồn. Vẫn có phương cách khác, phương cách đặc biệt làm chữ Xạo biến mất để lời thơ trở thành "tiếng lòng chân thật" của thi sĩ, để người đọc và người làm thơ được trò chuyện với nhau bằng ngôn ngữ của Loài Người (viết hoa). 

Lúc ấy bài thơ đã nhận được giải thưởng cao quý nhất: Bước Vào Bến Bờ Thi Ca.   

Loạt bài HƯỚNG ĐI CỦA THƠ sẽ bàn đến phương cách này.

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

CHÚ THÍCH

 


1/ Trong Cô Gái Đồ Long của Kim Dung tên Trường Linh đã giả vờ khóc trước bàn thờ Tạ Tốn để lừa Trương Vô Kỵ, hy vọng được Vô Kỵ tin tưởng dẫn ra Băng Hỏa Đảo.

 


Thứ Ba, 15 tháng 8, 2017

VỀ MỘT CƠN "NỘ KHÍ XUNG THIÊN"

                                

Tôi quen Trần Hạ Vi chắc được khoảng hơn nửa năm, lúc mới lớ ngớ bước vào sân chơi Facebook. Cô đã rất tận tình hướng dẫn tôi đường đi nước bước trong khung cảnh mới lạ này. Biết tôi bình thơ cô đưa tôi đến các trang web văn học trẻ để đăng bài. Chúng tôi cũng trao đổi một số vấn đề về thơ ca một cách cởi mở và vui vẻ. Cô cũng được mời vào ban quản trị trang web phamnhibinhtho.blogspot.com - trang web các bạn đang đọc bài viết này- để giúp cải tiến bộ mặt hình thức của trang web. 

Trong số thơ của THV tôi thích bài Căn Phòng Bí Mật và đã viết lời bình. Có lẽ vì thế cô đã gởi tặng tôi tập thơ Lật Tung Miền Ký Ức. Mấy ngày trước - được nghỉ cày – tôi lấy tập thơ ra đọc và nhận thấy một điểm “Trái Khoáy” nên đã viết một đoạn ngắn đưa vào “kho lưu trữ” và nhân tiện gởi cho tác giả đọc chơi. Sau đây là vài trao đổi tin nhắn về Trái Khoáy: (Tôi ghi lại nguyên văn nên có nhiều chỗ không viêt hoa đầu câu)

NP (nhipham): anh gởi cho em một bài ngắn qua mail.

HV (Trần Hạ Vi): dạ để em đọc
                             em chưa thấy anh ạ

NP: đọc đừng buồn

HV: không sao ạ
       mỗi người có quyền cảm nhận riêng mà

Sau khi đọc xong THV trả lời:

HV: em lật tung miền ký ức ra mới biết là còn có “căn phòng bí mật”. như vậy cũng là 1 thành quả rồi.

NP: vậy là tốt rồi
       anh không khen xã giao
      và chê cũng thật lòng

HV: quá trình đi vào bên trong bản thân là 1 quá trình rất dài, vất vả, tốn sức, có nhiều người thậm chí thấy mệt quá chưa bao giờ đi cả. Em đi từ từ, đó cũng là cách của em vậy

dạ, em biết mà, nên em rất trân trọng (hình một trái tim đỏ)

NP: anh mừng cho em
       anh đăng bài đó được không

HV: dạ được, anh cứ đăng ạ! Tag em! (Hình một trái tim đỏ)
       hoặc đăng trên blog là em chia sẻ về

Trong những bài bình thơ tôi luôn giữ tính độc lập, không để tác giả chen vào ảnh hưởng đến cách đánh giá, khen chê của mình. Còn những bài viết khác - nếu khả thi - tôi thường gởi đến đối tượng của bài viết để được xác nhận những chi tiết liên quan đến họ.

Chính vì thế, đọc những câu văn bừng bừng lửa giận của THV tôi thấy hơi ngạc nhiên. Cô là người phóng khoáng, có lối suy nghĩ, nhìn nhận sự việc nhiều khi vuợt ra khỏi những lề thói của xã hội, người đời. Tôi thường nhủ thầm: “Con bé này gặp lúc cao hứng thế nào cũng có một bài thơ độc đáo.”

Có vài người - đặc biệt là anh Quỳnh Phạm – đã nhắn tin đề nghị tôi không nên tranh luận thêm nữa. Lý do họ đưa ra rất thuyết phục nên tôi đồng ý ngay.

Trong cái rủi cũng có cái may. Sự kiện này đã gợi ý và thôi thúc tôi viết một bài liên quan đến Lý Thuyết Thơ. Mời mọi người đón đọc Đừng Kêu Ca – Chúng Ta Đều Xạo, viết về tính Xạo của thi sĩ.

Phạm Đức Nhì

                            

Thứ Bảy, 12 tháng 8, 2017

TRÁI KHOÁY

                                            TRÁI KHOÁY

Nhận được tập thơ Lật Tung Miền Ký Ức - gồm 100 bài thơ – do Trần Hạ Vi gởi tặng. Đã gởi tin nhắn cám ơn nhưng chưa dám bình phẩm gì vì chưa đọc kỹ. Hôm qua đi làm về sớm, hôm nay lại được nghỉ nên mở tập thơ nhâm nhi, nghiền ngẫm, thấy có một điểm trái khoáy liên quan đến bài thơ mình đã viết lời bình (1) nên nổi hứng “xổ” 4 câu thơ:

Bảo lật tung mà chẳng lật tung
Đến căn phòng đó lại lừng khừng
Ngẫm nghĩ một hồi rồi quay gót
Nên nửa đời người vẫn long đong.

Lật Tung Miền Ký Ức là tập thơ “cởi mở tâm tình” – đào xới Ký Ức tung lên để bộc lộ hết những cảm xúc, tâm trạng sâu kín nhất của lòng mình.

Nhưng

“Có những góc tôí ở trong hồn
của riêng ta
không bao giờ chia sẻ”

Vâng! Thưa các bạn, đó chính là Căn Phòng Bí Mật – bài thơ thứ hai trong tập thơ. Điểm trái khoáy của tập thơ là ở chỗ đó. Trần Hạ Vi bảo sẽ lật tung hết miền ký ức nhưng  cô lại chừa ra một căn phòng rất lớn, chứa những riêng tư, bí mật của mình. Rốt cuộc những gì cô tâm sự với các bạn đọc – qua 99 bài thơ kia - chỉ nằm trên bề mặt ý thức. Còn chỗ sâu kín nhất trong tâm hồn của “cái tôi đích thực” cô vẫn khóa chặt cửa, mời chính cô và các bạn đi chỗ khác chơi.

Cũng không trách Trần Hạ Vi được. “Cái tôi văn hóa” của cô đậm nét Tây Phương – nơi mà Căn Phòng Bí Mật (Privacy) được tôn trọng và bảo vệ tối đa. Tuyệt đại đa số thi sĩ ở nơi đó cũng đang lăn lộn trên bề mặt ý thức để “chế tạo thơ ca”. Chính vì thế nên Trần Hạ Vi “nửa đời người vẫn long đong”, chưa quay về với chính mình, với “cái tôi đích thực”, cũng là điều dễ hiểu.

Rất mong sẽ có một ngày nào đó, hay chỉ một phút nào đó, Trần Hạ Vi hé mở cánh cửa Căn Phòng Bí Mật để những tâm tình “thật nhất” của mình chảy tràn vào thơ. Lúc ấy thơ của cô sẽ có một chỗ đứng trang trọng và chính cô sẽ an nhiên tự tại, không còn “long đong” nữa.

Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com

CHÚ THÍCH:
1/ Đứng Trước “Căn Phòng Bí Mật” Của Trần Hạ Vi, Phạm Đức Nhì, t-van.net





Thứ Năm, 10 tháng 8, 2017

THƠ "KHĂN ĐÓNG ÁO DÀI" VÀ SHOW, DON'T TELL

                                

Học Nghệ Thuật Hùng Biện Với LM Nguyễn Văn Vàng ở ĐH CTCT Đà Lạt.

Trước 1975, tôi có lần về học thêm chuyên môn tại Đại Học CTCT Đà Lạt và được học nghệ thuật hùng biện với LM Nguyễn Văn Vàng. Đến giờ nghỉ giải lao, một ông Trung Úy xáp lại gần LM, ra vẻ ta đây, vừa cười vừa hỏi “đểu” một câu “thối như mắm tôm”:

Thưa LM, tôi thấy ngày xưa Án Tử người nước Tề có học khóa hùng biện nào đâu mà đến du thuyết ở chỗ nào cũng thành công?

Ông LM Dòng Chúa Cứu Thế mặt vẫn hiền dịu, nhẹ nhàng trả lời:

Mỗi khi có một cuộc tranh luận thành công (hay thất bại) là có người tìm hiểu, phân tích xem nhờ đâu mà thành công hoặc vì sao mà thất bại. Rồi sau đó có người tổng hợp lại thành những nguyên tắc (có tính lý thuyết) và trường Đại Học CTCT đã mời tôi đến để truyền dạy những nguyên tắc đó cho các anh, những người cần đến kỹ năng này. Dĩ nhiên, nắm vững lý thuyết là điều kiện cần nhưng chưa đủ để trở thành người ăn nói giỏi. Dựa vào mớ lý thuyết ấy rồi tùy năng khiếu cá nhân, cộng với kinh nghiệm thực hành trong những tình huống cụ thể, khả năng nói trước đám đông của các anh sẽ tiến bộ.

Ông Trung Úy có câu hỏi “thôi như mắm tôm” đứng đực mặt ra ngượng ngùng hổ thẹn trước các bạn cùng lớp vì không hiểu sự khác biệt giữa lý thuyết và thực hành của nghệ thuật hùng biện.

Bước Vào Lãnh Vực Thơ Ca

Trong lãnh vực thơ ca cũng vậy. Từ trước khi Nguyễn Bính viết Giấc Mơ Anh Lái Đò rất lâu cho đến khi tôi viết những dòng chữ này người đời đã sáng tác rất nhiều thơ. Mỗi khi có một bài thơ hay, gây được tiếng vang là người yêu thơ tới tấp tìm đọc. Trong số đó có những người đọc tò mò. Họ thấy bài thơ hay nhưng muốn tìm hiểu xem tại sao nó hay; nếu có câu, đoạn thơ dở thì họ muốn biết tại sao nó dở. Đó chính là những người làm công việc phê bình văn học. Rồi có người đúc kết một số những câu trả lời hữu lý môt cách hệ thống (có tính lý thuyết) để giúp người đọc thơ có cơ sở để biết thế nào là một bài thơ hay (hay dở) và những người làm thơ có được những “hướng dẫn căn bản” để có thể làm thơ hay hơn.

Cuốn Cấu Trúc Thơ của nhà phê bình văn học Thụy Khuê được viết ra với mục đích đó.
 Cuốn Cấu Trúc Thơ đến với bạn đọc, không ngoài mục đích là giúp các bạn tìm hiểu thơ, nếu thấy hay thì tại sao hay? Ðạt được mục đích đó không dễ, đôi khi không chắc sẽ đạt được. Tuy nhiên sự tìm hiểu sâu xa về cấu trúc thi ca là điều kiện cần (tuy chưa đủ) để giúp chúng ta hiểu và cảm nhận thơ một cách sâu lắng hơn. (1)

Khi đọc Show, Don't Tell Trong Thơ có người email hỏi tôI “Nguyễn Bính có biết Show, Don't Tell là cái quái gì đâu mà thơ của ông cũng đi vào lòng người và hàng bảy, tám mươi năm nay vẫn hiện diện hiên ngang trong dòng thơ của dân tộc?” Ông này đã mắc chứng bệnh tương tự như ông Trung Úy ở trên – thích hỏi “đểu” thiên hạ trong khi mình chẳng hiểu gì về mối tương quan và sự khác biệt giữa Sáng Tác và Phê Bình. Câu hỏi - như một phát biểu đầy ấn tượng, nhưng lại lộ ra sự thiếu hiểu biết về điều mình phát biểu - tuy có hơi thiếu lịch sự nhưng theo tôi, trong tranh luận văn chương, vẫn có thể chấp nhận được. Hy vọng đọc phần giải thích ở trên ông sẽ thấy được cái sai của mình và có thái độ thích hợp.

Bàn Thêm Một Chút Về Sáng Tác Và Phê Bình

Khi bài thơ, bằng cách này hay cách khác được gởi đến người đọc, sẽ như cô gái giữa chợ, tha hồ cho thiên hạ khen chê, bình phẩm. Dĩ nhiên, người có học vị cao về văn chương hoặc có tên tuổi trong giới phê bình, lời bình phẩm của họ sẽ được chú ý lắng nghe và tin tưởng nhiều hơn. Tuy vậy, không có những quy định, điều kiện cụ thể (bằng cấp, chức vụ, uy tín) cho người bình thơ. Nếu bạn - bằng con đường nào đó – tin rằng mình có đủ kiến thức và tài năng để bình thơ thì bạn cứ việc bước vào sân chơi phê bình. 

Những gì bạn viết ra cũng sẽ “được” đủ mọi cặp mắt soi mói. Nếu bài bình của bạn khen đúng, chê đúng và đem lại cho người đọc những kiến thức bổ ích về Thơ, bạn sẽ được hoan nghênh. Ngược lại, nếu bạn vì tư tình mà bình thơ một chiều (chỉ khen hoặc chê), khen chê không đúng hay chỉ tán hươu, tán vượn thì bài bình của bạn, nếu không bị chê bai, chỉ trích cũng sẽ chẳng được ai để ý và sẽ đi vào quên lãng. Người đứng đắn, khi phê bình một bài bình thơ chỉ chú ý đến đối tượng tranh luận – là bài thơ và lời bình - chứ không đem chủ thể đối luận (là tác giả bài bình) ra mà xách mé, châm biếm - nói nôm na là "bỏ bóng đá người".

Sau đây là một bình luận về bài Show, Don't Tell Trong Thơ.

Chắc ngày xưa ông Nguyễn Bính chưa học được "SHOW DON'T TELL" như nhà trí thức Phạm Đức Nhì (nên) mới bị cái lỗi TO ở khổ thứ 3 (và) bị ông ấy chê. Mà nghĩ  lại, không ai biết Phạm Đức Nhì là ông nào mà Nguyễn Bính thì người yêu thơ Việt Nam ai cũng biết và ngưỡng mộ. (Hai chữ trong ngoặc đơn là của PĐN)

Đây là kiểu bình luận bá đạo – không dẫn chứng xem bài bình thơ của người ta sai ở chỗ nào mà “chêm” vào một phát biểu vừa thiếu hiểu biết – mù tịt về điều căn bản nhất của phê bình - vừa coi thường thiên hạ. Ông này cũng giống ông Trung Úy ở chỗ không biết mô tê gì về công việc phê bình mà bày đặt lên mặt hỏi “đểu”. Nhưng ông còn tệ hơn một bậc là có ác tâm, ác ý – đã nêu đích danh tác giả ra mà xách mé, châm biếm một cách sai trái. Dĩ nhiên, câu bình luận nặng mùi như thế chỉ làm ô uế môi trường tranh luận văn chương.

Vị Trí Của Show, Don't Tell Trong Thơ Việt Nam

Trong 3 tiêu chí chính để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ là Tứ Thơ, Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ thì tiêu chí Kỹ Thuật Thơ bao gồm nhiều chi tiết nhất. Ngoài hình thức của bài thơ - thể thơ, số chữ trong câu, số câu trong bài, cách gieo vần, liền mạch hay đứt đoạn -  nhà nghiên cứu, phê bình còn nắm trong tay những “tuyệt chiêu” mà một số thi sĩ tài danh đã thi triển để làm đẹp câu, đoạn, hoặc bài thơ. Mức độ thành công của việc áp dụng một “tuyệt chiêu” nào đó trong bài thơ cũng trở thành một tiêu chí để “đo” mức hay (dở) của bài thơ.

Mỗi dân tộc, dĩ nhiên, có nét riêng trong vẻ đẹp văn hóa – trong đó có thi ca - của mình. Nhưng những “tuyệt chiêu” – mà sau này được gọi chung là những biện pháp tu từ - đã trở thành tài sản chung của nhân loại. Trong thơ của Trung Hoa, Việt Nam hay các nước Âu Mỹ đều có phép ẩn dụ, hoán dụ, thi trung hữu họa, so sánh, nhân cách hóa, điệp ngữ, nói giảm, nói tránh, nói quá, tương phản ... Sinh hoạt phê bình văn học của Việt Nam còn hơi chậm chân so với sáng tác nên tuy trong thơ của khá nhiều thi sĩ tài danh đã xuất hiện Show, Not Tell nhưng chưa có nhà phê bình nào gọi tên nó chính xác bằng tiếng Việt nên trong một số trường hợp có người đã phải tạm dùng “ẩn dụ” một cách “hơi sai lạc”.

Thí dụ:
                                            
Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.
(ca dao)

Mặc dù có chứa đựng ẩn ý nhưng nếu bảo thủ pháp nghệ thuật trong câu ca dao này là ẩn dụ thì gượng ép quá. Show, Don't Tell thì hợp lý hơn.

Thử xem lại bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên.
Tác giả sắp xếp một cách khéo léo hình ảnh sinh hoạt của Ông Đồ theo dòng thời gian để độc giả tự nhận ra nền Nho Học đã đi đến chỗ lụi tàn. Ở đây cũng có ẩn ý nhưng không phải “nói cái này mà ngụ ý cái kia”. Nền Nho Học lụi tàn là kết quả tất yếu của sự suy tưởng theo dòng chảy của tứ thơ. Độc giả không phải dùng liên tưởng “nhảy cóc”, từ cái này nhảy sang cái kia.

Khi bình bài thơ Ông Đồ, mặc dù đã biết về Show, Don't Tell nhưng chưa cặn kẽ, thấu đáo, nên tôi đã dùng “ẩn dụ” để nói về kỹ thuật này của Vũ Đình Liên. Nhưng sau đó nhờ đã có mấy cuộc họp thân tình với các nhà thơ, nhà phê bình văn học Mỹ (để giới thiệu thơ của mình) tôi đã vỡ lẽ ra sự khác biệt lớn giữa Ẩn Dụ và Show, Don't Tell. Theo tôi, thủ pháp nghê thuật Vũ Đình Liên dùng trong bài thơ Ông Đồ là Show, Don't Tell chứ không phải Ẩn Dụ. (2)

Nhắc lại định nghĩa Show, Don't Tell

Show, Don't Tell là một biện pháp tu từ, thay vì dựa vào một (hoặc vài) tĩnh từ, trạng từ khô cứng nào đó để kể lại một sự kiện, bày tỏ một tâm trạng, tác giả tạo ra những hình ảnh sống động, cụ thể để từ đó độc giả tự khám phá, hiểu ra sự kiện, tâm trạng ấy. Độc giả sẽ cảm thấy thích thú vì không chỉ đọc một cách thụ động mà còn được tham dự một cách tích cực vào tiến trình tìm gặp điểm đến của tứ thơ.

Như vậy Show, Don't Tell đã hiện diện khá rộng rãi và thường xuyên trong thơ Việt Nam. Có điều chúng ta chưa có tên gọi bằng tiếng Việt cho nó. Tệ hại hơn, có người nhiều lúc còn đánh đồng nó với Ẩn Dụ một cách không được chính xác lắm. Ai là người đầu tiên đưa thủ pháp này ra tranh luận trong các diễn đàn thơ ca Việt Nam, tôi không biết. Tôi chỉ là người dùng nó như một tiêu chí để bình thơ, và tình cờ, vướng vào một cuộc trao đổi khá lý thú (nếu bỏ qua một vài bình luận khiếm nhã). Đây là một trong vài “tuyệt chiêu” đem lại hiệu quả rất cao trong việc nâng giá trị một đoạn thơ, một bài thơ.

Thơ Khăn Đóng Áo Dài Và Thơ Áo Vest

Nhà phê bình Châu Thạch cũng đóng góp một bình luận cho bài viết Show, Don't Tell Trong Thơ của tôi, đại ý: “Thơ Việt Nam là thơ Khăn Đóng Áo Dài mà cứ lấy áo Vest trùm lên thì kỳ quá. Lại còn đụng đến cả cụ Nguyễn Du nữa!” (Bình luận của ông trên FB sau đó được xóa đi nên tôi chỉ ghi lại ý chính mà tôi nhớ được.)

 Theo dòng phát triển của nhân loại, về phương diện văn hóa, mỗi dân tộc đều cố gắng gìn giữ bản sắc của dân tộc mình trong khi ra sức tiếp nhận có chọn lựa những cái hay, cái đẹp của những nền văn hóa khác. Trong cái gọi là nền văn hóa “Khăn Đóng Áo Dài”, sau “một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây” (3), cái “chất Việt” cũng không còn đậm đà lắm. Ngay bộ trang phục “Khăn Đóng Áo Dài mà Châu Thạch đã bóng gió đặt tên cho Thơ Việt Nam, nếu truy nguyên nguồn cội, thì có tỉ lệ rất cao là sản phẩm của Trung Hoa. Có thể nói, “Khăn Đóng Áo Dài” trong ý nghĩa nét đẹp văn hóa, tuy chưa bị tuyệt chủng nhưng cơ hội xuất hiện cũng vô cùng thưa thớt.

Riêng nhà phê bình Châu Thạch, nhìn hình của ông trên Facebook và các trang mạng mà ông cộng tác, tôi thấy ông thường mặc đồ Vest, Cà Ra Vát nghiêm chỉnh. Thỉnh thoảng, trong những khung cảnh thân tình, ông mặc quần tây, áo sơ mi – nghĩa là cái nét văn hóa “Khăn Đóng Áo Dài”của ông đã bị trang phục tây phương trùm kín mít.

Chính tôi, trong rất nhiều đám xá, hội họp, tiệc tùng giao tiếp vẫn thường khoác bộ đồ Vest để có vẻ lịch sự  và hòa hợp với đám đông. Trong những khung cảnh “bình dân” khác, tôi - bắt chước Châu Thạch – quần tây, áo sơ mi “bỏ trong thùng” hoặc thân tình hơn nữa, quần jean áo “pull” (áo thun có cổ) – nghĩa là cũng lấy đồ tây trùm kín mít “Khăn Đóng Áo Dài”.

Thật ra, không phải chỉ có Châu Thạch và tôi thường “quên” “Khăn Đóng Áo Dài” trong cuộc sống thường ngày mà đại đa số đàn ông Việt Nam cũng như vậy. Trước hết, trang phục tây phương gọn gàng, tiện lợi, “bắt mắt” và hợp với trào lưu phát triển văn hóa của nhân loại hơn. Sau nữa, mặc trang phục tây phương không có nghĩa là quên cội nguồn dân tộc. Có nhiều cách khác, cũng rất hiệu quả để biểu lộ bản sắc văn hóa của dân tộc.

Thử Đọc Hai Đoạn Thơ Của Châu Thạch

Dốc ngược chai, rượu long lanh chảy
Ta nâng ly uống cạn cả ngàn trăng
Khà một cái, hơi bay mờ mặt đất
Còn một trăng treo mộng ở trên cao

Em ngồi lại cùng ta, đừng đi vội
Nửa vầng trăng ta đã cắn làm đôi
Nghe vị ổi vừa chua và vừa chát
Trong miệng ta nguyệt đã vỡ tan rồi

(Rượu Dưới Trăng, Văn Nghệ Quảng Trị)

Không bàn đến tài thơ của tác giả mà chỉ nhìn hình thức của hai đoạn thơ tôi biết ngay ông đã viết theo thể Thơ Mới; đoạn đầu không gieo vần, đoạn sau nghiêm túc hơn (mỗi câu đều 8 chữ) gieo vần gián cách ở câu 2 và câu 4.  Nếu không có những nhà thơ trong Phong Trào Thơ Mới (39 – 45) đi tiên phong, lấy áo Vest trùm lên “Khăn Đóng Áo Dài” thì Châu Thạch làm gì có cái “khung hình thức” để viết bài thơ lãng mạn như thế?

Tiện đây tôi xin mở ngoặc để “bốc thơm” anh Nguyễn Khắc Phước một cái. Theo tôi biết, anh là người yêu văn chương nhưng làm thơ không nhiều. Mấy năm trước tôi tình cờ đọc được bài thơ Mắt Bồ Câu của anh trên Văn Nghệ Quảng Trị. Bài thơ đã làm tôi bâng khuâng đến mấy ngày. Tác giả viết về một người – có thể là bạn, có thể là người tình cũ - có đôi mắt bồ câu. Tứ thơ như thế không có gì mới lạ lắm. Tôi có viết lời bình cho bài thơ và ghi nhận một số ưu điểm: Hình ảnh đẹp, nên thơ, tứ thơ bồng bềnh nhưng dễ “bắt”. Thêm vào đó, từ mỗi con chữ, từ khoảng trống giữa những câu thơ, hơi ấm cảm xúc nhẹ nhàng lan tỏa tạo cảm giác thật dễ chịu cho người đọc thơ. (Mắt Bồ Câu – Bài Thơ Mới Đọc Lần Đầu, Phạm Đức Nhì, Văn Nghệ Quảng Trị)

Nhưng điều làm tôi bất ngờ đến sững sờ là hình thức của bài thơ. Tôi cũng đã từng làm khá nhiều thơ, đã nhiều năm trời mày mò, học hỏi, tìm kiếm  một thể thơ vừa cho mình sự tự do để vung bút, vần tạo vị ngọt vừa phải để nối kết các câu thơ thành dòng chảy một cách tự nhiên nhưng không gây cảm giác ầu ơ, nhàm chán. Bài thơ phải nhất khí liền mạch, “sóng sau dồn sóng trước” để nếu gặp lúc cao hứng có thể đánh bật lý trí, tạo hồn thơ.

Mắt Bồ Câu của Nguyễn Khắc Phước, về hình thức, có đủ những đặc tính “cao cấp” (mà tôi cố công tìm kiếm) để bài thơ có cơ hội “đi xa”. Tiếc một điều là cảm xúc của anh sâu lắng nhưng chưa đủ mạnh để làm anh nổi điên, đưa vào thơ những câu “văng mạng”, “bất cần đời”, “phi lý trí” của “cái tôi đích thực”.

Tuy nhiên, phải công nhận anh đã đi trước tôi – và rất đông người làm thơ khác - khá xa. Hình thức thơ của tôi tuy có thể nói là tự do, phóng khoáng nhưng vẫn còn mang chút dáng dấp của Thơ Mới. Mắt Bồ Câu của Nguyễn Khắc Phước đã chia tay Thơ Mới để rẽ vào một con đường khác. Anh không những đã lấy Áo Vest trùm lên Khăn Đóng Áo Dài mà Áo Vest của anh đã mang một sắc thái mới, khác hẳn chiếc Áo Vest mà những nhà thơ trong Phong Trào Thơ Mới đã đem về nước những năm 39 – 45.

Là một người bình thơ, xin ghi nhận nỗ lực làm mới thơ rất thành công của anh Nguyễn Khắc Phước. Cá nhân tôi xin bày tỏ lòng khâm phục.

 Hai Đặc Tính Của Phong Cách Bình Thơ Châu Thạch

Đọc mấy bình luận “ngây ngô” của những người chơi FB bình thường khác tôi không lấy làm lạ vì đó là chuyện “thường ngày ở huyện”. Nhưng đọc bình luận của Châu Thạch thì tôi hơi ngạc nhiên.  Một người yêu thơ, làm thơ và bình thơ  như ông tại sao lại đặt vấn đề một cách gay gắt với việc khen chê (hợp lý) của tôi đối với thủ pháp Show, Don't Tell trong bài Giắc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính?
Cả tuần qua tôi bỏ thời gian đọc những bài bình thơ mới nhất của Châu Thạch trên Văn Nghệ Quảng Trị và nhận ra hai đặc tính. Một là, ông bình thơ không bàn thi pháp và hai là, bình thơ nhưng đại đa số chỉ khen, không chê.

     1/ Bình thơ không thi pháp

Theo tôi, hình thức của bài thơ biểu lộ nhiều điểm liên quan đến “tay nghề”, phong thái của thi sĩ, dòng chảy của tứ thơ. Bỏ qua thi pháp, những biện pháp tu từ và nhiều chi tiết khác về cấu trúc thơ, qua bài bình của Châu Thạch độc giả không thấy được bức tranh toàn cảnh của bài thơ. Ông đã bỏ sót nhiều “tiêu chí” để giúp nhà phê bình thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ một cách toàn diện hơn. Đôi khi ông còn vô ý đưa luôn kết quả chung cuộc của lời bình vào cái tựa.

Thí dụ: 

Đọc Thơ Hay “Chấp Chới” Của Đặng Xuân Xuyến Và “Tháng Tư Ơi” Của Bùi Thị Quý

Hoặc:

Đọc “Thơ Ngắn Ngọt Ngào” Nguyễn Như Mây.

Chưa đọc bài bình độc giả đã biết đó là hai bài thơ hay (thí dụ trên) hoặc “thơ ngắn ngọt nào” (thí dụ dưới). Con tẩy của ván bài xì phé đã bị lộ ngay từ phút đầu, có tiếp tục chơi cũng chỉ để ăn thua chứ ván bài đã không còn hấp dẫn nữa. Đây là sai sót kỹ thuật. Về khía cạnh tâm lý, kết luận chung cuộc (KHEN) về giá trị của bài thơ đã được đưa vào ngay phần đầu của bài viết – cái tựa – thì người đọc dễ có cảm giác là nhà phê bình đã có vẻ hơi nịnh tác giả. Đây là điều mà những người bình thơ chuyên nghiệp đều cố tránh.

     2/ Bình thơ chỉ khen, không chê

Châu Thạch bình thơ giống như một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp chụp hình cho khách hàng. Ông sắp xếp thế đứng, kiểu ngồi sao cho những khuyết điểm trên cơ thể khách hàng được che khuất, chỉ có nét đẹp, nét duyên dáng được xuất hiện trên tấm hình chụp.

Trong một trao đổi trên FB, Châu Thạch cho rằng, đại ý: “Bài thơ như một cô gái đẹp; tôi muốn phô bày những nét đẹp của cô cho mọi người thưởng ngoạn. Nếu lỡ cô gái có một đốm tàn nhang hoặc một nốt ruồi thiếu thẩm mỹ, tôi sẽ lờ đi để người đọc được thưởng ngoạn vẻ đẹp đó một cách trọn vẹn”.

Dĩ nhiên, tác giả bài thơ được bình rất khoái nhưng độc giả sẽ bị thiệt thòi - chỉ được tiếp cận bài thơ qua lăng kính phiến diện của người bình.

Châu Thạch là một nhà phê bình cao tuổi, nhiều kinh nghiệm sống, lại sành tâm lý nên ông nương theo tứ thơ rồi tán rộng ra đọc, nghe rất đã. Nhưng có 3 tiêu chí chính để bình thơ là tứ thơ, kỹ thuật thơ và hồn thơ thì ông chỉ chú tâm vào tứ thơ mà “quên” đi hai tiêu chí còn lại.

Với cách bình thơ ấy, độc giả không thấy hết tài (kỹ thuật) thơ của tác giả, không có cơ sở để nắm bắt hồn thơ (nếu có) và chính người bình thơ sẽ không hoàn thành nhiệm vụ của phê bình là hỗ trợ và dẫn đường cho sáng tác.

Trần Hạ Vi Đụng Đến Cụ Nguyễn Du

Trần Hạ Vi là một nhà thơ trẻ, mới bước vào sân chơi thi ca không lâu. Sau khi đọc Show, Not Tell Trong Thơ của tôi đã tra cứu tìm hiểu và đóng góp một số bình luận rất hữu ích cho bạn đọc Facebook, trong đó có bình luận về mấy câu Kiều của cụ Nguyễn Du đã làm anh Châu Thạch mủi lòng than: “Lại còn đụng đến cả cụ Nguyễn Du nữa!”

Dưới đây là trao đổi giữa Trần Hạ Vi và tôi về mấy câu Kiều.

Theo Trần Hạ Vi

Ví dụ như khi Nguyễn Du viết:

"Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày" 

cũng tả, không kể, nhưng ý là đau buồn xốn xang, khắc khoải dữ lắm...

Tuy nhiên, nếu nhìn trong chùm 4 câu:

"Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn
sầu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày"

thì chữ "sầu" trong câu hai đã phá vỡ thế "Show, Don't Tell" của câu 3 và 4, vì chữ "sầu" đã kể (tell), đã bộc bạch ra rồi. 


Và đây là ý kiến của tôi (PĐN):

Cám ơn anh Lac Nguyen và Trần Hạ Vi đã có những bình luận làm sáng tỏ thêm thủ pháp Show, Don't Tell. Đặc biệt là Trần Hạ Vi đã bỏ công tra cứu và trích dẫn “đúng” những điểm cần trích dẫn để bạn đọc không những hiểu mà còn có sự tin tưởng hơn về loạt bài của tôi.

Anh Lac Nguyen thì tôi không dám nói, nhưng riêng Trần Hạ Vi thì xin được phép khen cô em một tiếng. Em rất xuất sắc trong những bình luận về đề tài Show, Don't Tell. Một điểm đáng khen nữa là không biết em “lấy ở đâu” hay tự tìm ra mấy câu Kiều liên quan đến đề tài này và “chê” rất xác đáng.

Anh chỉ mới đụng đến chữ “to” của Nguyễn Bính mà đã bị “đá giò lái”; còn em dám “nắn gân” cụ Nguyễn Du mà còn được nhà văn Nguyen Lac biểu đồng tình thì thật đáng khâm phục. 

Trần Hạ Vi trả lời:

Còn mấy câu Kiều kia là tự động nhảy vào đầu em ấy chứ, em đọc mấy bài "Show, Don't Tell" một hồi em tự nhiên nhớ ra câu "Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày", xong rồi lần ra mấy câu kia thôi. 

Sau đó em gởi cho tôi qua tin nhắn trên FB

Em học từ anh mà.

Nhà phê bình Châu Thạch không nói việc Trần Hạ Vi “chê” 4 câu Kiều sai ở chỗ nào mà chỉ phiền trách là đã đụng đến cụ Nguyễn Du. Tại sao vậy? Châu Thạch cho rằng Truyện Kiều là một tác phẩm toàn bích, không có sai sót gì chăng? Thái độ tôn thờ quá mức một tác phẩm như thế lẽ ra không nên có nơi một người viết phê bình văn học.

Riêng tôi, xin được ca ngợi nhà thơ trẻ Trần Hạ Vi. Em đã không sợ một tác phẩm lớn như Truyện Kiều, đã đưa ra lời phê bình rất xác đáng. Tôi có thể không thua em về lòng can đảm, nhưng hiểu Kiều đến mức “moi” ra được 4 câu ấy để minh họa cho “sự phá vỡ” (chữ của THV) thủ pháp Show, Don't Tell thì tôi xin bái phục.

Kết Luận

Đến đây, sau khi đã đi loanh quanh, đặt nền móng cho lập luận của mình, tôi xin trả lời phần đầu bình luận của Châu Thạch.

Show, Don't tell không phải là cái “khuôn” của tây phương để trùm lên thơ “Khăn Đóng Áo Dài” của Việt Nam. Nó là một trong những “tuyệt chiêu” trong thơ đã được những nhà phê bình có tài nghiên cứu và đúc kết thành một biện pháp tu từ (giống như ẩn dụ). “Thơ Ca Không Biên Giới” nên nó đã trở thành tài sản chung của nhân loại. Thi sĩ có thể áp dụng nó để làm thơ hay hơn. Người bình thơ có thể xem nó như một tiêu chí để nếu gặp bài thơ như thế sẽ có chỗ dựa lý thuyết thẩm định giá trị nghệ thuật.

Show, Don't Tell, theo tôi, đã và đang gắn bó với thơ Việt dù người đọc có nhận ra điều đó hay không. Hy vọng một ngày gần đây nó sẽ có tên gọi bằng tiếng Việt – cái tên xứng đáng với vai trò của nó.

PHẠM ĐỨC NHÌ
phamnhibinhtho.blogspot.com

CHÚ THÍCH:

1/ http://chimviet.free.fr/tacpham1/cautructho/mucluc.html
2/ (Ông Đồ - Những Bức Tranh Thơ, Phạm Đức Nhì, t-van.net)

3/ (Gia Tài Của Mẹ, Trịnh Công Sơn)

Chủ Nhật, 16 tháng 7, 2017

BÀN THÊM VỀ "SHOW NOT TELL"

                                                               

Bài viết Show, Not Tell Trong Thơ vừa phóng đi tôi nhận được một số bình luận. Xin được trả lời chung để bổ sung cho bài viết.

Bình Luận Của Cô Giáo Diên Hồng Dương

Show, not tell là một cách nói khác về phương thức ẩn dụ trong phê bình. Cảm ơn tác giả đã có tinh thần kết nối cộng đồng thế giới thông qua việc sử dụng thuật ngữ chung - Anh ngữ- mang tính quốc tế hóa cao, cô đọng và dễ tiếp thu.

Thưa cô giáo Diên Hồng Dương

Cám ơn cô giáo đã rộng lượng chấp nhận thuật ngữ Show, Not Tell (tiếng Anh). Nhưng nếu Show, Not Tell là ẩn dụ thì tôi đã viết là ẩn dụ chứ tội gì phải bám lấy mấy chữ tiếng Anh ấy. Theo tôi, mặc dù trong Show, Not Tell và ẩn dụ đều có ẩn ý của tác giả mà người đọc phải sử dụng khả năng liên tưởng của mình để tìm ra, nhưng giữa Show, Not Tell và ẩn dụ (metaphor) có khác biệt rõ ràng.
Ẩn dụ là nói cái này mà ngụ ý cái kia – nghĩa là liên tưởng theo chiều ngang, nhảy trực tiếp từ cái này sang cái kia. Một ẩn dụ được coi là thành công khi “cái này hợp tình hợp lý và cái kia cũng hợp lý, hợp tình.

“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
[ca dao]
 [thuyền – người con trai; bến – người con gái]

Trong thực tế thì bến không đi đâu cả, cứ ở nguyên môt chỗ chờ đợi thuyền về; “cái này” rất hợp tình, hợp lý. Ngụ ý của tác giả câu ca dao là người con gái muốn nhắn gởi với người con trai mình yêu là “em lúc nào cũng chờ đợi anh”; “cái kia” cũng rất hợp lý, hợp tình. Ẩn dụ trong câu ca dao thành công.

 Show, Not Tell là một biện pháp tu từ, thay vì dựa vào một (hoặc vài) tĩnh từ, trạng từ khô cứng nào đó để kể lại một sự kiện, bày tỏ một tâm trạng, tác giả tạo ra những hình ảnh sống động, cụ thể để từ đó độc giả tự khám phá, hiểu ra sự kiện, tâm trạng ấy. Độc giả sẽ cảm thấy thích thú vì không chỉ đọc một cách thụ động mà còn được tham dự một cách tích cực vào tiến trình tìm gặp điểm đến của tứ thơ. Dòng suy tưởng ở đây chảy theo chiều dọc.

Để tôi mơ mãi mơ nhiều
Tước đay se võng nhuộm điều ta đi
Tưng bừng vua mở khoa thi
Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.

Anh lái đò đang mơ giấc mơ thi đỗ, được “vinh quy bái tổ”. Và trong giấc mơ đẹp đó cô gái chiếm một vị trí trang trọng. Người đọc theo dòng suy tưởng của chính mình đến đây đã “bắt” được ý của tác giả - anh lái đò đã yêu cô gái tha thiết.
Show, Not Tell thành công khi dẫn dòng suy tưởng của người đọc theo lộ trình đến đúng “bến đỗ” - mà tôi thường gọi là “điểm đến” - của tứ thơ.

Một khác biệt nữa là Show, Not Tell chỉ có một điểm đến – nghĩa là người đọc phải “bắt” được đúng ý của tác giả. Ẩn dụ thì khác. Tác giả viết về “cái này” mà có thể có một, hai hay nhiều “cái kia”

Thí dụ: Tác giả viết về một loài hoa dại, khiêm tốn đứng bên đường, tỏa sắc hương làm đẹp cuộc đời nhưng người đọc có thể liên tưởng đến một nhà thơ, một nhà giáo, một huynh trưởng Hướng Đạo… đem cái đẹp của tâm hồn mình truyền cho lớp trẻ. (Hoa Dại, PĐN, vannghequangtri.blogspot.com)

Bình Luận Của Anh An Vuong 
                          
Phương pháp " Show, not tell " là của thi pháp nước nào vậy? Sao lại không dùng là " không kể ra mà chỉ bày tỏ " hoặc như tác giả " Bày tỏ, không kể." Tác giả không thoát được ý tưởng sính chữ Tây chăng?

Thưa anh An Vuong,

Theo Wikipedia (1) thì Show, Not Tell đã được nhà biên kịch người Nga Anton Chekhop sử dụng đầu tiên. Không biết thủ pháp này đã đến nước Mỹ từ năm nào nhưng chính tôi đã được học trong chương trình English 2 (Anh Ngữ năm thứ hai đại học) và sau đó vài năm đã phải giảng giải cho các con khi chúng bước vào hai năm cuối ở bậc trung học (2002 – 2003). Không có từ tương đương trong tiếng Việt nên khi đề cập đến nó tôi thường dùng nguyên gốc Show, Not Tell để tránh phải viết cả một đoạn dài “một biện pháp tu từ, thay vì dựa vào một (hoặc vài) tĩnh từ, trạng từ khô cứng nào đó để kể lại một sự kiện, bày tỏ một tâm trạng, tác giả tạo ra những hình ảnh sống động, cụ thể để từ đó độc giả tự khám phá, hiểu ra sự kiện, tâm trạng ấy. Độc giả sẽ cảm thấy thích thú vì không chỉ đọc một cách thụ động mà còn được tham dự một cách tích cực vào tiến trình tìm gặp điểm đến của tứ thơ.”

Dịch Show, Not Tell là “bày tỏ, không kể” rất gượng, nếu đứng một mình rất dễ gây hiểu lầm. Chắc anh An Vuong cũng hiểu, tôi chơi trò Bình Thơ này cũng vì yêu tiếng Việt, muốn góp sức làm trong sáng ngôn ngữ mà tôi yêu mến, nên chỉ sử dụng ngoại ngữ trong bài viết của mình khi thật cần thiết.

Nếu anh vào Google và gõ “show, not tell” hoặc “show, don’t tell” anh sẽ có thể tự trả lời câu hỏi của chính anh.

Bình Luận Của Chị Thị Quỳnh Dung Lê

Anh Nhì phân tích rất hay
Nhưng tôi lạm ý như sau: Chữ "to" nằm đó mới đúng là Nguyễn Bính bình dân, mộc mạc. Thơ ông vốn giản dị; ông góp nhặt lời ăn tiếng nói của quần chúng lao lực vất vả ở miền Bắc vào thơ, nên chữ “to” đây là khẩu ngữ có hơi hướm mỉa mai quần chúng hay dùng. Nó cũng show đấy chứ??

Chị Thị Quỳnh Dung Lê ơi,

Đồng ý với chị chữ “to” là bình dân, mộc mạc, là “đúng là Nguyễn Bính”. Nhưng về kỹ thuật thơ - ở đây là thủ pháp Show, Not Tell - chữ “to” đã làm lộ ý của tác giả. Thay vì Not Tell - để người đọc theo dòng chảy của tứ thơ mà tìm ra – tác giả lại Tell ngay từ lúc đầu nên thủ pháp Show, Not Tell thất bại. Tôi “chê” chữ “to” ở nghĩa ấy.

Bình Luận của anh Tam Tran

Cách diễn tả "show, not tell" còn gọị là "Ý tại ngôn ngoại", hay "reading between the lines" Bài viết với các thí dụ rõ ràng. Cám ơn tác giả.

Thưa anh Tam Tran,

Cám ơn anh đã nhắc đến hai thuật ngữ rất gần với Show, Not Tell. Theo tôi, “Ý Tại Ngôn Ngoại” hơi quá tổng quát. Nó bao gồm cả một số biện pháp tu từ khác như ẩn dụ, hoán dụ … nên không thể gọi là Show, Not Tell. Reading Between The Lines (đọc giữa những hàng kẻ) thì nghiêng về phía người đọc hơn. Đọc một đoạn thơ Show, Not Tell là đi vào con đường một chiều - cứ theo đó để gặp điểm đến của tứ thơ, hiểu ngụ ý của tác giả. “Đọc Giữa Những Hàng Kẻ” là cách đọc đa chiều, nhiều hướng; người đọc có thể đọc theo chiều dọc để hiểu thông điệp của tác giả và cũng có thể đọc theo chiều hướng khác để thấy những điều tác giả không muốn bày tỏ nhưng vô tình bộc lộ.

Chú Thích:

Phạm Đức Nhì