Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2017

TRAO ĐỔI VỚI CHÂU THẠCH


                        TRAO ĐỔI VỚI CHÂU THẠCH

 

Về “sức ma mị” trong thơ Nguyễn Khôi.

Cả anh Châu Thạch và bác Nguyễn Bàng đều tra tự điển và đều cho rằng hai ông Lê Mai và Nguyễn Ngọc Kiên có ý xấu khi gán cụm từ “ma mị” cho thơ NK.

Đầu tiên là anh Châu Thạch:

Trước hết tôi tra tự điển hai chữ “ma mị” và thấy giải thích như sau: Ma mị (khẩu ngữ) như ma giáo. Sau đó tôi tra tiếp chữ “ma giáo” và thấy giả thích như sau: Ma giáo (khẩu ngữ) xảo trá bịp bợm.

Sau đó là bác Nguyễn Bàng:

Tôi có cảm giác đây là một lời khen đểu mà đểu nhất ở cái từ “ma mị” bởi ma mị không chỉ như từ điển diễn giải giống như “ma giáo” mà nó còn bao hàm 3 yếu tố: Kích thích nhẹ, quyến rũ nhẹ và kinh dị nhẹ….

Và nếu đúng thế thì, nhận định ấy không chỉ coi nhẹ thơ Nguyễn Khôi mà còn coi thường người đọc thơ Nguyễn Khôi và đặc biệt là những người yêu thích thơ ông là những người không hiểu nhiều gì về nghệ thuật thi ca mà chỉ là những người rất tầm thường, bị cuốn hút bởi những tiếng thơ như tiếng hồn ma ấy chả khác gì những kẻ sợ ma nhưng thích nghe truyện ma,


Tôi cũng tra mấy cuốn tự điển rồi dạo internet vài vòng và tìm được khá nhiều cách dùng chữ “ma mị” không xấu như anh Châu Thạch và bác Nguyễn Bàng đã đưa ra để chỉ trích hai ông Lê Mai và Nguyễn Ngọc Kiên. Xin cử ra vài chỗ:

Chất ma mị trong giọng hát của Lana Del Rey


Nổi da gà trước giọng hát ma mị của Miu Lê


Ngỡ ngàng trước vẻ đẹp ma mị của Krystal (f(x)) trong MV hợp tác với thành viên ban nhạc Indie


Theo tôi “giọng hát ma mị”, “vẻ đẹp ma mị”, “thơ NK có sức ma mị” là những lời khen “đắt giá”, ý nói giọng hát của Lana Del Rey, Miu Lê, vẻ đẹp của Krystal hay thơ Nguyễn Khôi có khả năng xâm nhập và (đôi khi) chiếm đoạt tâm hồn người nghe, người xem, người đọc một cách phi logic – không thể giải thích được.

Nếu sự tra cứu và giải thích của tôi đúng với tâm ý của hai ông NNK và Lê Mai (tôi hy vọng là như vậy) thì khi viết câu “nó có sức ma mị” (ông Lê Mai viết, ông NNK trích dẫn) cả hai ông đều nghĩ là đang trao tặng nhà thơ NK một bó hoa hồng tươi thắm, nhưng qua sự phân tích của anh Châu Thạch và bác Nguyễn Bàng, bó hoa hồng đã biến thành một rổ cà chua trứng thối. Thật bẽ bàng cho cả người trao tặng lẫn người đưa tay đón nhận.

Dù có đúng như thế, tôi vẫn nghĩ đây là lỗi kỹ thuật trong sạch. Cả anh Châu Thạch và bác Nguyễn Bàng đều không có ác tâm, ác ý trong chuyện này. 

Thơ Nguyễn Khôi có độc đáo không?

Ông NNK trích lời ông Lê Mai, nghĩa là cả hai ông, đều cho rằng thơ NK không độc đáo. Nhưng trong phần chứng minh “nó có sức ma mị” ông viết:

            Thôi, mai em về Cửu Long giang cuộn sóng
            Nhớ sông Seine... thời khắc chẳng ngừng trôi 
            khung cửa hẹp 
            ôi thu, hừng sắc tím 
            tím cả hồn thơ thả mộng lên trời...
                 (Gửi em – Paris mùa thu tím)
Xưa nay chỉ thấy các thi sĩ nói về màu tím tình yêu, chứ còn nói “Paris mùa thu tím” thì đúng là chỉ có ở … Nguyễn Khôi. Như vậy ông NNK đã tự đưa bóng vào lưới nhà; với kết luận “Paris Mùa Thu Tím” thì đúng là chỉ có ở Nguyễn Khôi” – theo định nghĩa – ông đã xác nhận bài thơ ấy của NK là độc đáo. Và cái nhận xét “gộp” hơi cẩu thả của cả hai ông “Thơ Nguyễn Khôi không độc đáo. Không lạ. Không sang trọng” đã sai bét trong phần “độc đáo”. Mà đã độc đáo thì đương nhiên phải “lạ”, vì “độc đáo” là tinh trạng đặc biệt nhất, cao nhất của “lạ”.

Nhưng tranh luận về thơ ca không nên chỉ ngừng ở chỗ đúng sai, thắng bại (ở đây đối phương tự đá vào lưới nhà). Mục đích của phần này là trả lời câu hỏi “Thơ Nguyễn Khôi có độc đáo không? Cứ cho rằng, sau khi tra cứu khắp nơi, không có ai sử dụng hình ảnh “Paris Mùa Thu Tím” trong thơ. Chúng ta có thể tạm kết luận bài thơ Gửi Em – Paris Mùa Thu Tím là độc đáo. Nhưng từ chỗ NK có bài thơ Gửi Em - Paris Mùa Thu Tím độc đáo để đi đến kết luận thơ NK độc đáo thì đường còn xa thăm thẳm.

Thơ Nguyễn Khôi Có Sang Trọng Không?

Theo Châu Thạch thì:
Thơ Nguyễn Khôi có Sang trọng: Tiến sĩ Kiên dùng lời của nhà thơ Lê Mai viết ở trên: “Nhưng thơ Nguyễn Khôi cuốn hút rất nhiều người đọc. Từ nam phụ, lão ấu. Từ những vị ni cô, sư nữ ở chùa tận Bình Dương và Huế cho đến những phụ nữ có học vấn, học hàm học vị cao ở trường ĐH Quốc Gia” Toàn những người sang trọng yêu thơ Nguyễn Khôi. Vậy nếu thơ ông bình dân thì họ yêu được sao?

Rồi anh viết tiếp:

Với tôi thơ Nguyễn Khôi rất sang trọng. Sang trọng từ ý, từ tứ, từ từ và cả cách diễn đạt. Đọc thơ ông ta biết ngay đây là một tác giả trí thức có phong cách sang trọng, thanh tao. Một vài bài thơ ông có lời thơ rất dí dỏm nhưng bằng một phong cách thâm thúy, bác học trong sự dí dỏm đó.

Tôi đồng ý với anh ở phần sau. Phần đầu (chữ nghiêng), lý luận của anh có “lỗ hổng”.

Vế 1: Thơ Nguyễn Khôi sang trọng nên nhiều người sang trọng yêu thơ ông. Thực tế chứng minh là đúng.

Vế 2: Nhiều người sang trọng yêu thơ Nguyễn Khôi nên thơ Nguyễn Khôi sang trọng. Không nhất thiết phải như vậy! Anh nghĩ sao về trường hợp Nguyễn Bính? Thơ NB bình dị, dân dã nhưng cũng được khá đông người đọc thuộc tầng lớp trí thức (sang trọng) yêu mến.

Như vậy, nhận xét của anh về tính Sang Trọng của thơ Nguyễn Khôi là đúng. Nhưng lập luận để chứng minh, có một đoạn, theo tôi, có “lỗ hổng”, nên bỏ đi.

Tôi vừa về Việt Nam dự đám cưới đứa cháu gái. Thằng em út tôi, lái xe ôm ở bến xe An Sương, cũng sắm bộ đồ Vest để đi đám cưới. Bộ đồ may ở tiệm đàng hoàng, mặc rất vừa vặn. Nhưng trông dáng nó mặc Vest vẫn còn đậm nét nhà quê của người lao động. Nguyễn Khôi mà đóng bộ Vest vào thì trông oách ngay. Nét sang trọng đã thám vào cốt cách của ông từ rất lâu. Đúng như Châu Thạch nói, NK đã dùng rất nhiều từ đời thường trong thơ của mình để nâng cao chức năng truyền thông, để cây cầu đến với độc giả rộng mở, nhưng đọc thơ ông chất trí thức, tính bác học, nét sang trọng vẫn hiện ra rất rõ. Trong trường hợp này nếu nói gộp lại‘Thơ Nguyễn Khôi sang trọng” vẫn có thể chấp nhận được.

Tắt Trăng

Tôi khoái phần phản biện của anh Châu Thạch về 2 chữ “tắt trăng”. Những gì tôi định viết thì anh đã đi trước nên giành hết rồi. Thực tế thì các nàng chọn đêm không trăng để ra tắm, nhưng nhà thơ của chúng ta giả vờ lẫn lộn “nhân vói quả”, làm như có bàn tay vô hình nào đó từ “bầu trời” vừa thấy các nàng liền “tắt trăng” để Ao Làng vẫn còn cái vẻ kín đáo e lệ của Á Đông.. Rất có duyên, rất nên thơ và rất đẹp. Tôi cũng đồng ý với anh về những lời “khá nặng” đối với “suy diễn” của nhà thơ Lê Mai. Chỉ có những người đầu óc điên loạn mới có cái lối liên tưởng bệnh hoạn, như vậy, đã biến một tứ thơ đẹp đẽ, thanh cao thành dung tục, dơ bẩn. Thêm nữa, với tôi, chữ “tắt” đắt như kim cương, không thể thay thế bằng bất kỳ chữ nào khác.

 

Về bài thơ Đêm Mộc Châu

          Đêm Mộc Châu lần đầu nghe nai “ tác”
         Dân đốt nương núi cháy xém vầng trăng
         Mới hay cuộc sống còn đói khát 
         Đốt cả đất trời kiếm miếng ăn

Ông NNK phán “Ở đây Nguyễn Khôi chắc cũng trong cơn ngái ngủ, mê sảng mà nghe thấy tiếng “nai tác”. Câu này hơi nặng, hơi độc nhưng theo tôi, nếu cảnh rừng đúng như ông Nguyễn Ngọc Kiên mô tả, thì câu đó vẫn chấp nhận được vì đúng quá. (Cảnh rừng không thể có tiếng “nai tác” mà NK tưởng tượng ra tiếng “nai tác” thì không ngái ngủ mê sảng thì là gi?)

Châu Thạch lấy trải nghiệm của chính mình xông lên biện hộ cho NK. Nhưng vẫn còn trong tình trạng cân bằng lực lượng. Tác giả thì dĩ nhiên, yên lặng nghe kẻ chỉ trích, người bênh vực, “sư bảo sư phải, vãi nói vãi hay.” Rất mong có ai đó có hiểu biết và trải nghiệm về “nai tác” nhập cuộc kẻo nhà thơ Nguyễn Khôi mang tiếng (có thể oan) là sáng tác thơ trong lúc ngái ngủ, mê sảng.

Sức Nặng Của Những Lời Phản Biện, Chỉ Trích

1/ Ở đây Nguyễn Khôi chắc cũng trong cơn ngái ngủ, mê sảng mà nghe thấy tiếng “nai tác”(NNK)

2/ Theo tôi nếu có người đọc nào thấy chữ “tắt’ mà “liên tưởng đến chu kỳ của chị em phụ nữ” như nhà thơ Lê Mai đã nói thì người đó bị bệnh hoạn trong tâm thần, chưa chắc họ đã xem thơ mà ta cũng không cần đề cập tới những con người thô tục đọc thơ làm gì. (Châu Thạch)

3/ Chỉ có những người đầu óc điên loạn mới có cái lối liên tưởng bệnh hoạn như vậy, đã biến một tứ thơ đẹp đẽ, thanh cao thành dung tục, dơ bẩn. (PĐN)

4/ Đánh vào hạ bộ (PĐN)

Mặc dù cả 4 lời chỉ trích trên rất nặng nề (và có hơi “độc”) nhưng tôi tin rằng chúng vẫn có chỗ đứng trong Tranh Luận Văn Chương Nghiêm Túc.

Phạm Đức Nhì


 

 

 

 

 

 

 

Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2017

MỘT CÁCH NHÌN KHÁC VỀ VAI TRÒ CỦA VẦN TRONG THƠ


                                 MỘT CÁCH NHÌN KHÁC

                        VỀ VAI TRÒ CỦA VẦN TRONG THƠ

Lan Man Về Cái Tôi

Để có thể hội nhập và thích ứng với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều. Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có 2 cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: cái tôi đích thực và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là “cái tôi văn hóa”. Tuổi đời càng cao cái tôi văn hóa càng mạnh, càng rõ nét và cái tôi đích thực càng yếu kém, mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia. Lúc ấy, nói như Jean Paul Sartre (1) thì con người là một “kẻ vong thân” (đánh mất chính mình). Còn nói như Albert Camus (1) thì con người đích thực đã bất lực - để một “kẻ xa lạ” đến chiếm hữu thân xác mình.

Hai Trường Hợp “Đánh Mất Cái Tôi”

     1/ Tại các nước dân chủ tự do: Con người dạy bảo nhau tạo phong cách lịch thiệp trong giao tiếp, xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh để hội nhập vào dòng phát triển của nhân loại. Lâu dần cái tôi văn hóa sẽ che khuất cái tôi đích thực. Con người chỉ còn là một “cỗ máy” do lý trí điều khiển. Mọi suy nghĩ, hành động đều là phản ứng (có điều kiện) của “cỗ máy” trước hoàn cảnh xã hội. Đây là nỗi băn khoăn, lo ngại của các triết gia phương tây về thân phận con người.

     2/ Tại các nước độc tài chuyên chế: Cái tôi đích thực bị một cổ 2 tròng, vừa bị “cái tôi văn hóa” chèn ép, vừa bị nỗi sợ cường quyền ám ảnh nên nhiều lúc phải hóa trang thành một cái tôi khác mà tôi xin phép gọi là “cái tôi teo chim”. (Tôi hoàn toàn không có ý “xách mé” gì những người làm công tác văn học ở trong nước mà chỉ muốn nhắc tới một thực tế không được vui về hoàn cảnh của nhà văn, nhà thơ Việt Nam trong đó có nhiều người tôi rất kính trọng và quý mến).

Giữa cái tôi văn hóa và cái tôi teo chim thì cái tôi teo chim mạnh hơn, có uy thế hơn nhiều. Nghĩ đến chết chóc, tù đày, gia đình bị tước đoạt mọi phương tiện, nguồn sống, ngòi bút của thi sĩ đôi lúc phải cong lại hoặc vừa viết lại vừa phải “lách”. Trong các tác phẩm của Nguyễn Khải cái tôi teo chim đã che khuất cái tôi văn hóa nên ông nhà văn của chúng ta vào cuối đời đã phải la toáng lên “Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất” và phải chờ đến đúng ngày sau khi xác thân mình đã nằm dưới huyệt vợ con mới được chuyển cái thông điệp thương tâm ấy đến mọi người. Thông điệp trong Bánh Vẽ của Chế Lan Viên mạnh hơn, triệt để hơn, nên thời gian chờ đợi lâu hơn - chết rồi cũng chưa yên tâm - phải sau mấy lần “giỗ” mới được xì ra ngoài. Nói như nhà thơ Nguyễn Khôi là “kiểu để hạ cánh an toàn một cách chắc chắn đã”.

Lý Trí: Kẻ Thù Của Thi Sĩ Trong Lúc Làm Thơ

Thi sĩ làm thơ trong lúc tỉnh táo quá thì những điều viết ra sẽ được cân nhắc, suy hơn, tính thiệt kỹ càng. Đó sẽ là những vần thơ phải đạo được “đạo diễn” bởi “cỗ máy biết suy nghĩ” -  “cái tôi văn hóa”. Nếu thi sĩ có kỹ thuật thơ cao cường – ngôn từ trong sáng, thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, hiệu quả - thì thơ vẫn có cảm xúc, vẫn có thể “hay” nhưng không có Hồn.

Khi thi sĩ thật cao hứng, lên cơn điên vì yêu, hận (giận), vui sướng, buồn bã, ghen ghét, ham muốn … cảm xúc sẽ sôi lên phủ mờ lý trí, “cái tôi đích thực” sẽ vùng dậy đẩy “cái tôi văn hóa” (và “cái tôi teo chim”, nếu có) vào bóng tối để dành quyền “đạo diễn” bài thơ của mình. Thi phẩm viết ra trong tâm cảnh ấy sẽ chẳng màng đến chính kiến, lập trường, truyền thống, đạo đức, lễ giáo, thước đo giá trị của người đời … mà chỉ là những gì tuôn trào ra ngòi bút bởi “cơn điên” của thi sĩ đang thôi thúc trong lòng. Lúc ấy kỹ thuật thơ vẫn mang dáng dấp đẳng cấp của thi sĩ nhưng lời thơ, tứ thơ – không còn bị chi phối bởi cái tôi văn hóa - sẽ là tâm tình chân thật của “cái tôi đích thực”. Nếu thi sĩ chọn được thể thơ thích hợp, tứ thơ sẽ chảy thành dòng, cảm xúc ở tầng 3 (2) sẽ lớn mạnh, bài thơ sẽ có hồn. thông điệp của thi sĩ sẽ đi vào lòng độc giả một cách dễ dàng.

Khi trạng thái cao hứng, “lên cơn” của thi sĩ “xẹp” xuống, cảm xúc nguội dần, lý trí sẽ xuất hiện, lời thơ ít nhiều cũng sẽ ẩn chứa sự “khôn mgoan, khéo léo”, sẽ bớt chân thật, câu thơ sẽ nhạt, hồn thơ sẽ lặng lẽ ra đi.

Một Chút Trải Nghiệm Cá Nhân

Tôi đang sống trên nước Mỹ

đất nước tự do

làm thơ

không phải lấm lét nhìn trước, ngó sau

nỗi lo sợ theo vào

cả trong giấc ngủ

giật thót mình nghe tiếng chó sủa

ban đêm (3)


Nhưng sao trước mặt vẫn chập chờn

những bóng ma quá khứ

ánh mắt van lơn

bàn tay níu giữ

khiến đã biết bao lần

dòng thơ đang băng băng tuôn chảy

phải khựng lại

luồn lách qua hướng khác


Để có thể hết lòng hết dạ

trọn tình trọn nghĩa

với Nàng Thơ

tôi

tay cầm bút viết

tay nắm dao quơ

đuổi, giết bằng sạch những hồn ma, bóng quỷ

(truyền thống, khuôn phép lễ giáo, thước đo giá trị

của người đời)


Trên trang thơ của mình

tôi chỉ trung thành

với nhịp đập

của chính trái tim tôi.

(Yêu Thơ Nên Phải Hết Lòng Với Thơ, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com)


Thú thật, tôi đã nhiều lần bị cái tôi văn hóa bất ngờ xuất hiện che lấp trang thơ đang viết dở của mình. Đó là lúc hết hứng, cơn điên đã “xẹp”. Lúc ấy nói:

Trên trang thơ của mình

tôi chỉ trung thành

với nhịp đập

của chính trái tim tôi

thì rất dễ nhưng thực hiện lại vô cùng khó khăn. Muốn viết tiếp bài thơ khi cơn điên đã “xẹp” mà không phản bội nhịp đập của chính trái tim mình là một điều không thể được. Chỉ có cách cho bài thơ vào kho để chờ đợi một cơn điên khác nhưng điều này cũng khó xảy ra.

Tôi cũng đã gặp những bài thơ “nửa điên nửa tỉnh” - đoạn đầu khá nhiều cảm xúc, đoạn sau khô khan, nhạt nhẽo, đọc chán phèo. Đó là trường hợp tác giả hết hứng nhưng “tiếc của giời” cố viết cho xong bài thơ.

Tại Sao Thơ Nên Là Món Ăn Nhẹ Dễ Tiêu?

Một lần chạy xe Honda (2 bánh) từ Cầu Rào đến phi trường Cát Bi (Hải Phòng) tôi gặp một tấm bảng chỉ đường kích thước khoảng 30 x 40 cm trên viết đến chục hàng chữ đầy cả tấm bảng. Xe dừng lại (vì đèn đỏ) ở cách bảng 20 mét, tôi muốn đọc để biết tấm bảng chỉ dẫn điều gì cũng chỉ “chữ được chữ mất”. Còn nếu đang lái xe trên đường thì có thể nói “tấm bảng ấy có cũng như không”.

Ở Mỹ tôi có người bạn làm ở ngành giao thông (Department of Transportation) của tiểu bang Texas. Nhiệm vụ của anh bao gồm cả việc thiết lập và bảo trì những bảng chỉ đường trên các trục lộ giao thông. Anh cho biết tất cả những bảng chỉ đường hoặc cắm bên vệ đường hoặc treo băng ngang xa lộ - từ kích thước tấm bảng cho đến cỡ kiểu chữ và các ký hiệu bằng hình, màu sắc - đều được nghiên cứu kỹ lưỡng để người lái xe liếc qua là có thể tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng để kịp thời ứng xử với tình huống được cảnh báo ở phía trước. Sau khi đường được nâng cấp – có thể nâng tốc độ của phương tiện di chuyển (thí dụ từ 45 lên 60 dặm/giờ) – thì những bảng cảnh báo phải cắm lùi lại để người lái xe (với tốc độ mới) có đủ thời gian tiếp nhận thông tin và chuẩn bị ứng phó với tình huống mà bảng chỉ đường đã cảnh báo.

Với thơ cũng vậy. Đọc thơ là thả hồn mình theo dòng chảy của tứ thơ để cảm nhận tâm tình của tác giả. Mỗi câu thơ, trong chức năng truyền thông, còn là tấm bảng chỉ đường dẫn dắt độc giả đi một đoạn trên lộ trình của bài thơ. Nếu dòng chảy của tứ thơ nhanh mà câu thơ lại khó tiêu - giống như bảng chỉ đường khó đọc, khó hiểu - độc giả hoặc là chạy quá (và đi lạc) hoặc phải tạm ngừng, đọc đi đọc lại để hiểu ý tác giả. Cuối cùng dù có hiểu được chăng nữa thì cũng mất hứng, tiến trình thưởng thức thơ không được suôn sẻ, ảnh hưởng đến mức độ thành công của bài thơ.

Sau đây là một số đoạn thơ từ Dễ đến Khó Tiêu (chỉ là những thí dụ tượng trưng):

1/ Thi hóa thân thành họa:

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Đây là loại thơ dễ tiêu nhất vì ngôn ngữ đã tan biến, hóa thân vào trong tranh, đi thẳng vào tâm hồn độc giả. Lý trí thất nghiệp.

2/ Thi trung hữu họa: Trong thơ có tranh.

Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Anh thay mực cho vừa màu áo tím...

Chữ nghĩa có tranh minh họa nên dễ cảm nhận, lý trí có kiểm soát nhưng ít khi can thiệp.

2/ Show, Not Tell: Đưa ra dữ kiện để độc giả tự “suy ra” và cảm nhận tâm trạng.

Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau

Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.

Độc giả “bắt” được, hiểu được những dữ kiện tương đối dễ dàng nên có thể thả hồn theo dòng chảy của tứ thơ. Đến câu cuối, tùy độ nhạy bén của tâm hồn, độc giả có thể hiểu được ẩn ý của tác giả từ sau vài giây đến vài phút. Lúc ấy cảm giác thích thú sẽ tăng lên gấp bội.

4/ Thơ không vần, khêu gợi óc tò mò của độc giả:

 Nó không hình không sắc

Tuyệt không có tiếng có lời

Nó không có gì. Chỉ là một sự chờ đợi lặng lẽ

Thế thôi.


Nó là sự chờ đợi từ vô thuỷ đến vô chung

Ai nấy lần lượt đến với nó, không ai gặp nó

Tất cả đều hướng về nó, như hướng về ý nghĩa cốt tuỷ của chính mình

Tất cả đi về hướng nó. Nó chờ.

Nó chờ một con kiến, nó chờ một con voi.

Nó chờ một hạt bụi, nó chờ một đoàn quân.


Trên dòng thời gian đang trôi, những kẻ xanh mặt bảo nhau: “Nó chờ.”
Những kẻ mặt xám như tro bảo nhau: “Nó chờ đấy.”
Những kẻ run rẩy, tắc cổ, nghẹn họng thì thào: “Sắp rồi. Nó thôi.”
Trông cái nắng ngoài song cửa, tôi nghĩ: Nó đang chờ.
Nhìn chiếc răng em trắng muốt, tôi thầm nghĩ: Nó đang chờ.
Mắt nhìn con chữ đang thành hình trên giấy, tôi kêu thầm trong trí: Nó đang chờ.
 
Sự chờ đợi không lời mỗi lúc mỗi thiết tha

Và mỗi khẩn trương.

(Sự Chờ Đợi, Võ Phiến, tienve.org)


Đây là bài thơ tác giả viết bằng cái đầu, nặng chất trí tuệ, thiếu cảm xúc. Độc giả muốn hiểu tứ thơ cũng phải căng óc ra mà đọc. Giữa người viết và người đọc không có "chỗ" để tâm hồn giao cảm. Có thể nói đây chỉ là sản phẩm của lý trí, không phải là thơ.

5/ Ý tứ mù mịt, khó hiểu:

Trên sông Tiền Đường bình lặng, Thúy Kiều ngồi ở đầu thuyền gởi khúc hồng nhan bạc mệnh vào thiên cổ. Nàng đã vứt vào sọt rác những con cu thối và trở về. Trong ánh sáng khai nguyên của các thần linh, âm hộ nàng trong suốt. Và reo vui. Không phải vì trái tim nàng đã được lau chùi bằng nước mắt và tóc. Không phải vì sự đền đáp của hư vô… (Và Bởi Vì Âm Hộ Nàng Trong Suốt, Nguyễn Viện, tienve.org)

Nguyễn Viện là một nhà thơ thành danh trong việc làm mới thơ trên trang tienve.org. Nhưng với tôi, bài thơ của ông quá khác biệt với những gì tôi gọi là Thơ.

Nếu đưa ngôn từ có tính học thuật, hàn lâm, triết lý (nặng chất trí tuệ) vào thơ để chuyển tải một ý tưởng cao siêu, một trạng thái tâm lý phức tạp nào đó thì người đọc sẽ “chậm tiêu”, khó cảm và sẽ tạo cơ hội cho lý trí xen vào gây rắc rối cho tiến trình thẩm thấu thơ. Lúc ấy chức năng truyền thông của bài thơ, nếu may mắn lắm cũng chỉ thành công một nửa - độc giả có thể hiểu (nếu uyên bác hoặc đọc kỹ) nhưng khó cảm được tứ thơ và bài thơ bị coi là thất bại. Nói như thế không có nghĩa không thể dùng thơ để diễn tả một ý tưởng cao siêu. Ý tưởng cao siêu nên là cái đích cuối cùng, còn ngôn ngữ, lời thơ dẫn độc giả đi đến cái đích ấy nên đơn giản, dễ hiểu và dễ cảm.

Vai Trò Của Vần (Hoặc Nhịp Điệu) Trong Thơ

Với thi sĩ, vần giúp xâu kết những ý tưởng, sự kiện, những mảnh tâm tình khiến bài thơ liền mạch, nhất khí. Trong bài thơ có vần (ngoại trừ thể thơ mới trường thiên từng đoạn 4 câu) cảm xúc tuôn chảy thành dòng, lớn mạnh nhanh chóng nhờ sóng sau dồn sóng trước. Khi thi sĩ đang cao hứng, “lên cơn”, dòng cảm xúc liền mạch, trôi nhanh đó giúp tứ thơ tuôn trào, không có “thời gian chết” để lý trí xuất hiện, tạo cơ hội cho hồn thơ hình thành.

Với độc giả, vần là thuốc dẫn, là thứ “dầu bôi trơn” giúp thông điệp của bài thơ theo dòng cảm xúc trôi nhanh vào hồn. Nhờ thứ “dầu bôi trơn” ấy ông (bà) ta “cảm” được tâm tình của thi sĩ một cách dễ dàng hơn, (có thể) không phải trải qua tiến trình suy nghĩ, tránh được (hoặc giảm thiểu) sự chen vào can thiệp của lý trí để cuối cùng có thể bắt gặp hồn thơ (nếu có).

Nhưng vần là con dao hai lưỡi; nếu vần quá đậm thì bài thơ sẽ mắc phải “hội chứng nhàm chán vần” đọc rất “ầu ơ”, dễ ngán.

Chè Đường


Tôi thích chè

chè ngọt

bởi có đường

đường ít

chè không đủ ngọt

không ngon

đường nhiều

ngọt lợ

ăn gắt cổ.


Nấu chè ngon do đó,

cũng cần có tài

ngoài việc phải biết chọn các thứ đậu, dừa, bột, nếp,

các thứ khoai

(thứ nào nấu với thứ nào

liều lượng bao nhiêu thì hợp)

còn phải biết

nêm đường cho vừa ngọt


Chè có món có thể nêm đường kha khá

có món ít đường một chút cũng không sao

nhưng đã là chè thì phải có đường

nấu chè

nếu không nêm đường

(hoặc bằng cách nào đó

giúp chè có vị ngọt)

thì chè sẽ không còn là chè nữa

mà thành món khác.

(Phạm Đức Nhì


Vâng! Đúng vậy. Nếu không có vần (vị ngọt của thơ ca) thì Thơ sẽ không còn là Thơ nữa mà thành Thứ Khác.

Kết Luận

Đối với bạn đọc yêu thơ, tôi có một tin vui muốn chia sẻ với các bạn. Nếu có một giây phút nào đó trong đời, bạn đọc hoặc nghe được một bài thơ có hồn và chính bạn cũng cảm được cái hồn của bài thơ đó, thì chính giây phút đó bạn là một trong số rất ít người may mắn trên thế giới; bạn đang được giao tiếp với đồng loại của mình bằng “ngôn ngữ của loài người”, từ con người đích thực chứ không phải từ những cỗ máy di động mà suy nghĩ, lời nói hay cung cách giao tiếp chỉ là phản ứng có điều kiện trước hoàn cảnh xã hội. Như thế không phải là điều vô cùng sung sướng hay sao? Và thi sĩ sáng tác bài thơ có hồn đó đã ban ơn cho nhân loại, cho người yêu thơ cơ hội được đọc, nghe tiếng người từ con người đích thực. Tôi xin phép được mượn 2 câu ca dao nói về Phúc, Nghiệp của đạo Phật (tôi sửa lại câu thứ 2) để nói đến cái phúc của thi sĩ khi cống hiến cho đời một bài thơ như thế:

Dù xây chín đợt phù đồ  

Không bằng viết được Bài Thơ Có Hồn. (4)

Và để đạt được cái Phúc lớn lao ấy Vần (vị ngọt của thơ ca) đã đóng góp một phần công sức không nhỏ.

Phạm Đức Nhì


Blog phamnhibinhtho.blogspot.com

Chú Thích:

1/ Đều là đại diện của Chủ Nghĩa Hiện Sinh

    Tác phẩm tiêu biểu:

     Jean Paul Sartre:  La Nausée (Buồn Nôn)

     Albert Camus: L’Étranger (Kẻ Xa Lạ)

2/Ba tầng cảm xúc

     a/ Tầng 1: Do câu chữ

     b/ Tầng 2: Do thế trận của tứ thơ

     c/ Tầng 3: Do trạng thái cao hứng, “nổi điên” của thi sĩ. Đây chính là Hồn Thơ (nằm ngoài chữ nghĩa)

3/ Vâng, chính tôi (PĐN) cũng đã từng làm thơ (ở VN) khi cái tôi văn hóa và cái tôi teo chim cùng chiếm hữu thân xác mình.

4/ Nguyên văn 2 câu thơ là:

Dù xây chin đợt phù đồ

Không bằng làm phúc cứu cho một người.

(Có bản viết “bậc” thay vì “đợt”)


Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

TRẢ LỜI BÁC NGUYỄN BÀNG


TRẢ LỜI BÁC NGUYỄN BÀNG

Ai cũng biết Đầu Xuân Thì Thầm Với Nhà Thơ Nguyễn Khôi là một bài bình thơ. Ở đây ông Nguyễn Ngọc Kiên không bình một bài thơ nào riêng biệt mà đưa ra nhận xét “gộp” cả một đời thơ của nhà thơ lão thành ở Hà Nội. Ông áp dụng phép Quy Nạp hơi cẩu thả nên có một vài sơ sót và đã được nhà phê bình Châu Thạch vạch ra từng điểm một. Tôi có ý định sẽ trao đổi với nhà phê bình Châu Thạch về các vấn đề cùng quan tâm ở bài viết kế tiếp.

Ở đây tôi chỉ xin trả lời bác Nguyễn Bàng 2 điểm:

1/ Bác Bàng viết:

Tôi không có một mẩu bằng Đại học nào chứ nói gì đến cả cái bằng Tiến sĩ Ngữ văn như ông Nguyễn Ngọc Kiên mặc dầu tôi biết ở xứ mình hiện nay sản xuất tiến sĩ như gà đẻ: Mỗi ngày một ‘tiến sĩ’.

Và tôi đã lên tiếng: “Trước hết, bác Nguyễn Bàng không nên “xách mé” cái bằng Tiến Sĩ Ngữ Văn của ông NNK như thế,” Chữ “xách mé” ở đây tôi dùng với nghĩa châm biếm, chửi xéo, thiếu lịch sự. Nếu đọc cái đoạn in nghiêng ở trên mà bác Nguyễn Bàng không nhận ra là mình đã châm biếm, đã chửi xéo, đã thiếu lịch sự với ông Nguyễn Ngọc Kiên thì tôi đành chịu thua, để bác muốn chửi sao thì chửi.

 2/ Ông Nguyễn Ngọc Kiên viết Đầu Xuân Thì Thầm Với Nhà Thơ Nguyễn Khôi là để có cái tựa văn vẻ một tý, chứ thực tế thì ông chỉ muốn bình thơ Nguyễn Khôi thôi. Và dĩ nhiên vì là bình thơ nên ông viết để “nói cho cả bàn dân thiên hạ được nghe thấy”. Cũng may nhà thơ Nguyễn Khôi hiểu được ngụ ý của ông NNK nên không vểnh tai lên để chờ nghe lời Thì Thầm, chứ nếu cứ hiếu như bác Nguyễn Bàng thì chắc là rất mỏi lưng và mỏi cổ.

Rồi bác Nguyễn Bàng kết thúc thư của mình bằng đoạn “… xin ông (Nguyễn Ngọc Kiên) hãy nhớ cho, ông còn trẻ hơn nhà thơ Nguyễn Khôi rất nhiều và ông đã là Tiến sĩ Ngữ Văn chắc ông thừa biết câu “Hãy kính trọng người già khi bạn còn trẻ”. Nếu còn thì thầm với nhà thơ lão thành Nguyễn Khôi, xin ông Nên hãy (thì) thầm những lời đúng và đẹp như hoa Xuân thì hay hơn, ông Tiến sĩ Ngữ Văn à!”

Bác Nguyễn Bàng đã đem tuổi già ra làm con ngoáo ộp đe nẹt ông NNK (và những người yêu thơ trẻ tuổi khác) nên tôi đã lên tiếng: “Xin đừng bắt ông ta vì câu “Hãy kính trọng người già khi bạn còn trẻ” mà phải thì thầm vào tai nhà thơ lão thành Nguyễn Khôi những lời “đẹp như hoa xuân” khi tâm ý của ông không muốn như vậy. Thi sĩ nếu muốn được nghe những lời “đẹp như hoa xuân” của người phê bình thì phải thai nghén, phải ủ tứ thơ cho chín, cho lên men, rồi chờ lúc cao hứng dùng kỹ thuật thơ điêu luyện của mình viết lên những vần thơ dạt dào cảm xúc. Xin đừng mang tuổi già ra hù dọa lớp trẻ để làm thui chột tính công bằng của việc phê bình.”

Xin được giải thích thêm một tý cho rõ ràng.

Ở Mỹ tôi đã có cơ hội theo dõi và tham dự (cả với tư cách cử tri và ủng hộ viên) nhiều cuộc bầu cử ở mọi cấp chính quyền. Ai cũng muốn các ứng cử viên bày tỏ lập trường, chính sách của mình (về các vấn đề dân chúng quan tâm) để cử tri cân nhắc, lựa chọn khi đi bầu. Nhưng không phải cuộc bầu cử nào cũng có môi trường chính trị trong sạch như thế. Rất nhiều ban vận động tranh cử (tôi biết một vài ban như thế) có hẳn một nhóm người (group) chuyên đào bới, moi móc đời tư của ứng cử viên đối phương, nhiều khi không từ cả gia đình, họ hàng của ông (bà) ta nữa, để tìm ra những “điều không tốt” rồi “xì” ra cho báo chí, truyền thông để hạ uy tín đối thủ của mình. Đây là phương cách vận động bầu cử bá đạo bị nhiều người lên án.

Trong môi trường tranh luận văn chương cũng có một số trường hợp tương tự như vậy mà thư của bác Nguyễn Bàng gởi ông NNK là một thí dụ điển hình. Thay vì mổ xẻ những điểm chính của cuộc đối thoại văn chương là:

1/ Ông NNK trích lời nhà thơ Lê Mai cho rằng “Thơ Nguyễn Khôi không độc đáo. Không lạ. Không sang trọng.

2/ Nó có sức ma mị.

3/ Nhóm chữ “tắt trăng” trong đoạn thơ:

        Vượt biển, chơi hồ, trở quá giang
            Bỗng dưng lại thấy nhớ ao làng
            Cái đêm hè ấy ai ra tắm
            Để cả bầu trời phải tắt trăng.



4/Nhóm chữ “nai tác” trong bài thơ Đêm Mộc Châu

      Đêm Mộc Châu lần đầu nghe nai “ tác”
         Dân đốt nương núi cháy xém vầng trăng
         Mới hay cuộc sống còn đói khát 
         Đốt cả đất trời kiếm miếng ăn

thì bác Nguyễn Bàng lại:

1/ Ngay ở phần mở đầu đã xách mé (châm biếm, chửi xéo) cái bằng Tiến Sĩ Ngữ Văn của ông NNK.

2/ Ở đoạn kết của lá thư đã đem Tuổi Già ra để đe nẹt, hù dọa ông NNK (vì ông còn trẻ) và dĩ nhiên, làm hoảng sợ nhiều người yêu thơ trẻ tuổi khác. Hậu quả là làm không khí tranh luận không còn thoải mái, cởi mở và làm thui chột tính công bằng của việc phê bình.

Hai đoạn ấy chỉ nhằm bới móc, nói xấu để hạ uy tín ông NNK chứ không ăn nhập gì đến đối tượng đang tranh luận mà nhà phê bình Châu Thạch đã phân tích cặn kẽ từng điểm một.

Tôi bỗng nhớ đến một điều luật trong môn Quyền Anh (Boxing): Khộng được đánh dưới thắt lưng.  Theo luật thi đấu võ đài, võ sĩ bị cấm ngặt, không được phép ra đòn dưới thắt lưng, tức đánh dưới háng. Dù vô tình hay cố ý, ai phạm luật sẽ bị trọng tài phạt cảnh cáo hay bị loại thi đấu tùy theo mức độ nặng nhẹ hay tái phạm và bị xem là kẻ chơi xấu.


Võ sĩ Nguyễn Bàng rất hùng dũng bước lên võ đài để so găng với võ sĩ Nguyễn Ngọc Kiên và ngay những giây phút đầu tiên đã “chơi” một cú rất mạnh vào hạ bộ đối thủ. Sau đó ông mượn lời cô Dương Đình Ninh múa mấy đường quyền (theo đúng luật Quyền Anh "cao thượng") một hồi lâu rồi bất ngờ tung một cú đấm như trời giáng cũng vào ngay “bộ đồ lòng” của vỏ sĩ NNK một lần nữa rồi mỉm cười đắc thắng. Tôi là một khán giả đến xem cuộc tỷ thí, thấy chuyện bất bình tri hô lên “Chơi Xấu! Chơi Xấu!” thì bị võ sĩ Nguyễn Bàng “sửng cồ”, dùng lời lẽ rất đẹp mắng như tát nước.

Bị mắng, mà lại bị mắng oan, kể cũng hơi tức. Nhưng tôi lại thấy vui vui vì đã có thêm cơ hội trao đổi với các bác trên diễn đàn này về Phong Cách Bình Thơ. Tôi biết rằng, đang nóng giận, không dễ gì bác Nguyễn Bàng nhận ra tâm ý của tôi qua bài viết ngắn này. Nhưng cứ “tận nhân lực” trước đã. Hơn nữa, còn rất nhiều khán giả cùng xem võ đài như tôi, chẳng lẽ không ai thấy võ sĩ Nguyễn Bàng “Chơi Xấu”? Mà lại “Chơi Xấu” đến hai lần?

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

 

 

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017

ĐOẠN KẾT CỦA BÀI THƠ NGỌN CỎ


                    ĐOẠN KẾT CỦA BÀI THƠ NGỌN CỎ

 Ngọn Cỏ

 
Tiếng nước đái

nhỏ giọt

trong bồn cầu tí tách

thứ nước ấm sóng sánh vàng

hổ phách

trong người tôi tuôn ra

 

Phải rồi

tôi là đàn bà

hạng đàn bà đái không qua ngọn cỏ

bây giờ

được ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệ

tương lai không chừng tôi sẽ

to con mập phệ

tí tách như mưa

ngọn cỏ gió đùa.

(Nguyễn Hoàng Bắc)


Đang muốn biểu lộ thái độ hùng dũng, vùng lên “đứng đái đàng hoàng”  như các đấng nam nhi mà lại kết thúc bằng “ngọn cỏ gió đùa” - chấp nhận thân phận đàn bà như ngọn cỏ, gió muốn đùa hướng nào cũng phải chịu -  thì đúng là cung đàn lạc điệu. Nguyễn Đúc Tùng vì đang phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng Bắc nên chỉ lịch sự cho rằng câu cuối bài thơ gây cảm giác mơ hồ (ambiguous).

Nguyễn Thị Hoàng Bắc sau đó bật mí:

 Nếu tường minh hàm ý mấy chữ ấy bằng ngôn ngữ bình thường thì đại khái có thể diễn đạt là “ngọn cỏ gió đùa? xin lỗi nghen!” hoặc “ngọn cỏ gió đùa? không dám đâu!”

Ô! Thật lạ! Chị viết “ngọn cỏ gió đùa” mà lại muốn người đọc hiểu là “ngọn cỏ gió đùa? không dám  đâu!”, nghĩa hoàn toàn trái ngược, thì đúng là làm khó người đọc quá.

Với tôi, đây là bài thơ hay. Hay về ý tứ táo bạo, hay về hình thức mới mẻ, hay về thế trận chữ nghĩa chặt chẽ. Chỉ tiếc câu cuối “ngọn cỏ gió đùa” lạc quẻ, trật bàn đạp, làm hỏng bài thơ.

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com