Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2016

TẢN MẠN VỀ VAI TRÒ CỦA Ý TỨ TRONG THƠ


                        TẢN MẠN VỀ VAI TRÒ CỦA Ý TỨ TRONG THƠ  

    

     Trên đường tìm học rồi nghiên cứu văn chương tôi may mắn được quen biết 2 ông giáo sư đại học Mỹ; một ông là thầy, ông kia là đồng nghiệp của thầy; một ông dạy Creative Writing (Sáng Tác), ông kia chuyên về Literature Review (Phê Bình Văn Học), một ông có bằng Master, ông kia là Tiến Sĩ Văn Chương và đều là thi sĩ. 

Số là cách đây khoảng hai mươi mấy năm tôi bị đụng xe rất nặng. Sau khi xuất viện, không thể tiếp tục đi làm, tôi vào học mấy năm ở đại học. Mê thơ nên tôi chọn những lớp học nặng tính văn chương. Trong một bài essay (luận văn) của lớp English 2 tôi đã đưa bài thơ của mình (đã dịch ra Anh ngữ) vào để đối chiếu với bài thơ For My Daughter (Cho Con Gái Tôi) của Weldon Kees. Bài luận văn của tôi được điểm A+ và sau đó tôi được ông thầy và đồng nghiệp của ông xem là thành viên trong loài “động vật quý hiếm” (1), thỉnh thoảng được cùng – lúc ông này, lúc ông kia - mời uống cà phê, ăn bánh ngọt và tán chuyện văn chương với bạn bè của họ.

 Ông thầy thì dặn tôi “Viết Cái Gì không quan trọng lắm; tài năng của tác giả một bài thơ được đánh giá ở chỗ ông (bà) ta Viết Thế Nào. Trong sáng tác thơ ca How quan trọng hơn What gấp trăm lần. Từ kỹ thuật thơ như ngôn từ, hình tượng, biện pháp tu từ, thế trận chữ nghĩa đến cảm xúc, hồn thơ tất cả đều được gói trọn trong chữ How. Nếu cứ ngồi chờ đến khi có được ý tưởng hoàn toàn mới lạ, độc đáo mới viết thì cả đời liệu viết được mấy bài thơ?

Còn ông kia, lúc ngồi riêng với tôi hay nhắc nhở: “Trong thơ đừng coi thường What; ý tưởng mới lạ làm tăng giá trị của bài thơ lên rất nhiều; nếu không được là người tiên phong dọ dẫm những bước chân khai phá thì chí ít cũng cố gắng đừng đi vào con đường đã có hàng triệu dấu giầy”

Tôi nhủ thầm: “Bàn về một tiêu chí quan trọng của thơ mà ông này nói đàng Đông, ông kia nói đàng Tây thì biết nghe ông nào bây giờ?”

Đối với thơ Việt Nam What gồm cả ý và tứ mà người đọc thơ rất dễ hiểu lầm hoặc lẫn lộn. Cho nên trong bài viết này tôi sẽ cố gắng làm rõ vai trò không những của ý mà còn của tứ trong thơ. Để đi đến mục tiêu đó tôi sẽ chọn một số bài thơ quen thuộc với những người thường đến với sân chơi thi ca (có vài bài tôi đã viết lời bình) để vừa minh họa vừa dẫn chứng cho những suy nghĩ, nhận định của mình.

 

Phân biệt Ý và Tứ

 

Tứ: Cách để tiếp cận, diễn đạt ý. (nghĩa trên văn bản hoặc nghĩa đen của bài thơ)

Ý: Điều tác giả muốn nói đến, (ngụ ý hoặc nghĩa bóng)

Khi tác giả chọn cách nói trực tiếp, nói thẳng vảo điều muốn nói, bài thơ có ý và tứ giống nhau. Ý là tứ, tứ là ý, ý với tứ là một. Ở đây không có ngụ ý hoặc nghĩa bóng (không có phép ẩn dụ)

Thí dụ:

Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác:

Ý và Tứ là một: Hào khí của một sĩ phu trước cảnh đất nước điêu linh.

Tống Biệt Hành của Thâm Tâm:

Ý và Tứ là một: Tâm trạng của con người trong một cuộc chia ly

     Khi tác giả không muốn nói trực tiếp, không muốn nói thẳng vào điều muốn nói mà mượn một hình ảnh khác, một sự kiện khác để thố lộ lòng mình, bài thơ có ý và tứ khác nhau. Ý là điều muốn nói; tứ là hình ảnh mượn để thố lộ lòng mình. Tác giả đã áp dụng thủ pháp Show, Not Tell hoặc phép ẩn dụ toàn bài.

Thí dụ:

Ông Đồ của Vũ Đình Liên

Tứ: Ông Đồ ngồi bên phố viết câu đối thuê cho khách du xuân. Nay xuân đến, không thấy ông đồ nữa, nhiều người tiếc nhớ.

Ý: Tác giả muốn nói đến nền nho học đang lụi tàn.

 
Sông Lấp của Tú Xương

Tứ: Con sông Vị Hoàng chảy qua khu nhà của tác giả đã bị lấp nhưng vẫn còn lởn vởn trong tâm tưởng của ông.

Ý: Tác giả nuối tiếc nền nho học đã lụi tàn
 

     TẤM  BẢN  ĐỒ  VẼ  SAI

 
Chọn lô đất tốt xây được ngôi nhà mới

ông mở tiệc mừng tân gia

“Đến chơi! Hay lắm!”

thư ông viết

mời bằng hữu gần xa

 

Ngay giữa trang thư một bản đồ

dọc ngang tự tay ông vẽ 

và lời chỉ dẫn cặn kẽ

đường đi nước bước đến cuộc vui

 

Giờ hẹn đến rồi

chưa thấy bóng khách mời nào xuất hiện

đồ ăn nguội lạnh

bàn tiệc vẫn vắng tanh

 

Vài ngày sau

ông nhận được mấy thư trả lời

trong thư chỉ vỏn vẹn:

“Xin lỗi!

Không tìm thấy nhà.”

(Phạm Đức Nhì)

 

Tứ: tấm bản đồ vẽ sai, khách bị lạc, không tìm thấy nhà.

Ý: Nếu chức năng truyền thông của bài thơ thất bại, người đọc sẽ (đi lạc) không hiểu tác giả nói gì qua bài thơ, không có nhịp cầu thông cảm giữa tác giả và người đọc.

 

Trước hết là 3 bài thơ của Tú Xương cùng viết về một đề tài:

CÁI HỌC NHÀ NHO

Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
Mười người đi học, chín người thôi .
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi.
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo,
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi .
Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ?
Trình có quan tiên thứ chỉ tôi.

 

CHỮ NHO

Nào có ra gì cái chữ nho!
Ông nghè, ông Cống cũng nằm co.
Chi bằng đi học làm thầy Phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò!

 

ĐỔI THI

Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cố đỗ mau đi!
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì.

 

Theo tôi, làm thơ mà sử dụng cái phương cách kể lại, nói thẳng, nói trực tiếp những suy nghĩ trong đầu mình như Trần Tế Xương trong 3 bài trên là hạ sách. Ở đây ý và tứ giống nhau: tâm trạng ngao ngán, chán chường của tác giả trước sự suy tàn của nền Nho học. Trong những bài thơ này cái vẻ lung linh sương khói, mờ mờ ảo ảo - một trong những nét đẹp của thơ ca – thường vắng bóng, hoặc nếu có thì cũng rất ít (vì chỉ phát xuất từ ngôn từ).

Nó rõ ràng như một “bài toán văn chương” nên người đọc không có cơ hội vận dụng khả năng liên tưởng của mình, không có cơ hội dùng đến thứ vốn quý của người đọc thơ là cái “tài cảm nhận thơ” của mình. Trong khung cảnh ấy, môi trường ấy, người sính thơ, sành thơ và người dốt thơ, mù thơ hình như cũng chẳng khác gì nhau mấy tý. Chính vì thế trong văn chương, đặc biệt là thơ, thủ pháp Show, Don't Tell, đưa ra những sự kiện để người đọc tự hiểu ra, tự cảm nhận điều tác giả muốn nói đến, hoặc cao hơn nữa là phép ẩn dụ, rất được coi trọng.

 

Đến Ông Đồ của Vũ Đình Liên

 

             ÔNG  ĐỒ

 

            Mỗi năm hoa đào nở

            Lại thấy ông đồ già

            Bày mực tàu, giấy đỏ

            Bên phố đông người qua

 

            Bao nhiêu người thuê viết

            Tấm tắc ngợi khen tài

            Hoa tay thảo những nét

            Như phượng múa rồng bay

 

            Nhưng mỗi năm mỗi vắng

            Người thuê viết nay đâu?

            Giấy đỏ buồn không thắm

            Mực đọng trong nghiên sầu

 

            Ông đồ vẫn ngồi đấy

            Qua đường không ai hay

            Lá vàng rơi trên giấy

            Ngoài trời mưa bụi bay

 

            Năm nay đào lại nở

            Không thấy ông đồ xưa

            Những người muôn năm cũ

            Hồn ở đâu bây giờ?

              (Vũ Đình Liên)

 

Cũng cái ý về sự lụi tàn của nền Nho học nhưng bài thơ Ông Đồ bề thế hơn, đạo quân chữ nghĩa đông hơn, và đặc biệt, thủ pháp Show, Don't Tell đã đến mức tuyệt luân. Hơn thế nữa, tác giả đã ra lệnh cho các con chữ của mình học phép tàng hình (khi đọc thì chữ hiện ra, khi đọc xong thì chữ biến mất) để hóa thân thành những bức tranh – đúng ra là một truyện bằng tranh - sống động. 

Đây là trình độ thượng thừa trong thơ ca; ở đó chữ nghĩa đã mất biệt, lý trí bị đuổi việc, không còn chõ miệng vào chỗ này, chỗ kia bàn tính thiệt hơn. Người đọc thả hồn theo dòng chữ như có phép tàng hình để thưởng ngoạn những bức tranh thơ tuyệt đẹp.

Rất tiếc Những Bức Tranh Thơ của Ông Đồ đã có một chỗ hoen ố; đó là 2 câu cuối của bài thơ:

          “Những người muôn năm cũ

            hồn ở đâu bây giờ”

Nhiều nhà phê bình đã khen 2 câu thơ này hết lời.

Riêng tôi, về ý tứ thì đồng ý với họ, nhưng xét về Kỹ Thuật Thơ thì 2 câu ấy đã làm giảm giá trị của bài thơ rất nhiều. Những con chữ đột nhiên mất phép tàng hình và nổi lên cồm cộm. Bức tranh cuối - nửa tranh, nửa chữ - trông rất mất vẻ mỹ thuật. Đưa 2 câu ấy vào bài thơ tác giả đã để vuột mất chiếc huy chương vàng - giải thưởng cao quý nhất trong thơ ca.

Nếu không có cái lỗi ấy Ông Đồ không những đã có thể đẩy Sông Lấp qua một bên để giành vị trí “bài thơ tiêu biểu, chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam: giai đoạn cáo chung của nền văn học chữ Nho”, mà hơn thế nữa, sẽ là một viên ngọc quý của thơ ca, không những chỉ đẹp lộng lẫy, chói lọi trên thi đàn Việt Nam mà ngay cả khi đứng trước kho tàng văn chương Trung quốc – nó cũng không chịu nhường một bước. Chắc nhiều người yêu thơ, thông hiểu chữ Hán đều biết hai câu thơ được coi là niềm tự hào của thi ca Trung Quốc:

          Lạc hà dữ cô vụ tề phi

          Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc

          Ráng chiều rơi xuống, với cánh cò đơn chiếc cùng bay

          Làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc

          (Trần Trọng San dịch)

vì đó là một bức tranh thơ tuyệt đẹp.

Tôi tra cứu thì được biết người ta đã bới tung bài Đằng Vương Các Tự (dài trên trăm câu) nổi tiếng của Vương Bột (2) mới tuyển chọn được bức tranh thơ ấy. Trong khi Ông Đồ của Vũ Đình Liên là cả một bộ truyện lịch sử bằng tranh sinh động. Đọc Đằng Vương Cát Tự độc giả phải “đãi cát tìm vàng”, còn với Ông Đồ họ sẽ thấy trước mắt mình nằm xếp lớp những thỏi vàng óng ánh.

 

                SÔNG LẤP

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò

(Trần Tế Xương)

 

Phép ẩn dụ trong Sông Lấp rất kín, kín đến nỗi ngay cả có người bình bài thơ ấy cũng không thấy được, cảm được ẩn ý của tác giả. 

Có thể nói Sông Lấp không phải là một đoàn quân trùng trùng, điệp điệp, nhưng lại có bề thế của một mặt trận, một điệp vụ tình báo siêu đẳng, đưa được những điệp viên thượng thặng, bí mật nằm giữa bộ chỉ huy của quân địch. Phép ẩn dụ ấy được kết hợp một cách tài tình với thủ pháp “Show, Don't Tell”, tạo ra một chuỗi những chiếc cầu liên tưởng, dẫn người đọc đi từ hình tượng này đến hình tượng khác. 

Từ tiếng ếch kêu, trong hoàn cảnh riêng của mình, trong tâm tình riêng của mình, nhà thơ “tưởng tiếng ai gọi đò”. Đây là một liên tưởng rất riêng tư; nếu ông không bộc bạch, bày tỏ thì người đọc khó có thể đoán ra được. Biết thế nên ông đã đưa tay dắt chúng ta bước lên chiếc cầu đầu tiên. 

Đến 2 chiếc cầu liên tưởng kế tiếp thì người đọc đã có thể tự mình qua được; từ tiếng gọi đò nhớ bến đò ngang, từ bến đò ngang nhớ con sông Vị Hoàng ngày xưa, nay đã bị lấp. 

Khi từ con Sông Lấp đặt chân lên chiếc cầu sau cùng, bằng vốn kiến thức về lịch sử, văn học sử, cộng với một chút trực giác thi ca, người đọc sẽ bắt gặp nỗi lòng sâu kín của nhà thơ: nhớ thương, tiếc nuối cái thời tạm gọi là vàng son của mình, cái thời Nho học vẫn còn chỗ đứng khá trang trọng trong đời sống người dân Việt. Và người đọc sẽ tròn xoe mắt “À” lên một tiếng khoái trá. (3)

 

Ngoài ra Sông lấp còn có những ưu điểm khác như thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, rất nhiều chữ ở vị trí đắc địa, bài thơ không lộ một chút sơ hở. Chính vì thế Sông Lấp được coi là bài thơ tiêu biểu cho tâm tình hoài cổ hoặc là chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử - giai đoạn suy tàn của nền nho học.

SHOW, DON'T TELL Và

 

GIẤC MƠ ANH LÁI ĐÒ

1/ Năm xưa chở chiếc thuyền này
    Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
2/ Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
   “Tước đay se võng nhuộm điều ta đi
   Tưng bừng vua mở khoa thi,
   Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
   Võng anh đi trước võng nàng
   Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.”
3/ Đồn rằng đám cưới cô to
   Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
   Nhà gái ăn chín nghìn cau
   Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn…
4/ Lang thang tôi dạm bán thuyền
   Có người giả chín quan tiền, lại thôi!

    (Nguyễn Bính)

Bài thơ có ý và tứ giống nhau: vì nghèo nên anh lái đò đành nhìn người yêu đi lấy chồng rồi trở về con đò của mình với mối tình vô vọng. Đây là đề tài muôn thuở, cũ rich như “chuyện thường ngày ở huyện”, là con đường đã mòn dấu chân người, nhưng nhờ thủ pháp Show, Don't Tell được áp dụng gần như hoàn hảo (chỉ không khéo ở chữ “to” câu 9 - xin đọc GMALĐ hay Mối Tình Vô Vọng, Phạm Đức Nhì) nên vẫn được người đọc yêu thích và trở thành một trong những bài thơ hay của thời tiền chiến.

Sau đây là bài thơ GMALĐ được tôi tóm lại dưới dạng Tell để hy vọng người đọc nhận ra sự khác biệt.

1/ Đưa đò nên quen biết nàng

2/ dần dà tôi đã yêu nàng thiết tha

3/ nhìn nàng đi lấy đại gia

4/ tôi nghẻo nên vẫn con đò cô đơn

 

Mỗi câu ở phần dưới là thu gọn của một đoạn ở phần trên. Ở phần dưới anh lái đò chỉ sơ lược, tóm tắt kể lại (Tell) câu chuyện lòng mình trong khi ở phần trên anh dàn trải (Show) tâm trạng  một cách chi tiết hơn, tự đặt mình vào một tình huống cụ thể, thực tế và sống động, cung cấp cho người đọc những thông tin cần thiết để họ tự hiểu rồi thông cảm với hoàn cảnh và tâm tình của anh. Bài thơ càng mang nhiều tính cách Show thì càng thật, càng dễ cảm, giá trị càng cao.

Qua bài thơ và phần phân tích trên đây tôi nhận ra rằng: “Dù ý, tứ thơ đã cũ mòn nhưng nếu tay nghề của thi sĩ cao, có thể sử dụng điêu luyện một thủ pháp nghệ thuật nào đó, và nếu được viết trong lúc tràn đầy thi hứng thì vẫn có cơ hội tặng cho đời một bài thơ hay.” Lời nhắc nhở của ông bạn Mỹ “Viết Cái Gì không quan trọng lắm; tài năng của tác giả một bài thơ được đánh giá ở chỗ ông (bà) ta Viết Như Thế Nào. Trong sáng tác thơ ca How quan trọng hơn What gấp trăm lần.” nghe cũng có lý đấy chứ!

 

Mấy Bài Thơ Của TTKh

 

 Vào thời TTKh viết Hai Sắc Hoa Ti Gôn (và 3 bài thơ khác) con người VN còn sống bó buộc trong cái khung của lễ giáo phong kiến: “Liệt nữ bất canh nhị phu” nghĩa là gái chính chuyên chỉ có một chồng. Sự chung thủy là một đức tính, một nguyên tắc ứng xử - chỉ áp dụng cho phái nữ - được hết mực ca ngợi. Đã “đeo gông vào cổ” rối mà còn “tơ tưởng đến ông láng giềng” hay bất cứ người đàn ông nào khác là đã “ngoại tình trong tư tưởng”, là đã phạm một điều đại cấm kỵ, bị xóm làng nguyền rủa, xã hội lên án. 

Những bài thơ của TTKh đã đạp đổ cái luật lệ khắt khe bất nhân ấy, đã gột rửa lớp son phấn giả tạo của Khổng Giáo trên thân thể người phụ nữ, để lộ ra trước xã hội, trước cuộc đời một Con Người có trái tim, biết yêu thương, biết nhung nhớ, biết khổ đau. Ý tưởng của mấy bài thơ, lúc ấy, được coi là vô cùng táo bạo, không những thoát khỏi mà còn chảy ngược với dòng thơ phải đạo.

Sau đây là vài đoạn tiêu biểu trong mấy bài thơ nổi tiếng của bà:

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người

(Hai Sắc Hoa Ti Gôn)

 

Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời.

(Đan Áo Cho Chồng)

 

Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

(Bài Thơ Thứ Nhất)

 

Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ nhớ không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh, có một người.

(Bài Thơ Cuối Cùng)

 

  Trước TTKh chắc cũng có nhiều bậc thức giả đã nhận ra khía cạnh bất nhân trong cái gọi là “tam tòng tứ đức” của đạo Khổng - đã ép buộc nhiều phụ nữ phải gạt nước mắt chia tay người mình hết lòng thương mến, để vì lễ giáo, vì môn đăng hộ đối, vì lệnh của song thân, phải lấy, rồi ăn ở suốt đời với người mình không hề yêu thương. Nhưng họ hoặc không dám nói ra hoặc chỉ than thở lén lút và những lời than thở ấy cũng thoảng bay theo gió. Tuy vậy, thi đàn nước Việt có ít nhất 2 tác phẩm đề cập đến sự coi thường tình cảm của phụ nữ trong hôn nhân vẫn còn được lưu truyền:

 

Cung Oán Ngâm Khúc

Theo Wikipedia thì “Cung oán ngâm khúc là tiếng thét oán hờn của một trang nữ lưu tố cáo và phản kháng chế độ phong kiếnphong kiến đã đối xử phũ phàng tàn ác đối với phẩm giá và những tình cảm trong sáng, cao quý của người phụ nữ. 

Cung nữ chính là nạn nhân bi thảm của những đặc quyền phong kiến ích kỷ và vô nhân đạo, bị vua chúa biến thành đồ chơi để thoả mãn thú tính hoang dâm của mình, rồi bị ném đi không thương tiếc vào lãng quên. 

Nguyễn Gia Thiều là một văn hào uyên thâm và chứa chan tinh thần nhân đạo đã thấu hiểu nỗi lòng của người cung nữ, đã dồn hết tâm huyết và văn tài để viết nên một tác phẩm bất hủ, đau đớn xé lòng về cuộc đời nàng.

Ngôn ngữ trong Cung oán ngâm khúc hết sức tài hoa, đài các, tinh xác và nhuần nhịCâu thơ trong Cung oán ngâm khúc được trau chuốt đến mức tuyệt xảo, âm điệu góc cạnh và dữ dội, dùng nhiều ngoa ngữ; mỗi câu thơ như dao khắc chạm vào đá gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ:

Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió

Áo vũ kia lấp ló trong trăng

hay

Thân này uốn éo vì duyên

Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời!”(4)

 

Tôi có mấy nhận xét sau đây:

     1/ Đối tượng của ý thơ nhắm vào những cung nữ trong cung đình, chỉ là một bộ phận nhỏ trong cộng đồng phụ nữ của dân tộc. 

     2/Thể thơ song thất lục bát đã không còn được ưa thích và ngày càng ít xuất hiện trên thi đàn.

     3/ Khi tôi viết những dòng chữ này (2016) chế độ phong kiến đã cáo chung từ lâu. Không còn tam cung lục viện, không còn hàng ngàn cung phi, mỹ nữ, có người phải lén rải cỏ non trước cửa phòng với ước mơ xe dê của vua ngừng lại và tấm thân trong trắng ngọc ngà của mình được ngài đoái hoài đến. Ý tưởng chính của tác phẩm - “Tiếng thét oán hờn của trang nữ lưu” - đã không còn tính thời sự, không còn thôi thúc, không gây được ấn tượng mạnh như thời Nguyễn Gia Thiều.

Có lẽ vì thế mà CONK dù vẫn có vị trí trong văn học sử, giá trị và ảnh hưởng của nó phải xếp phía sau mấy bài thơ của TTKh.

 

Cảnh Làm Lẽ

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không ...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.

 (Hồ Xuân Hương)

 

Đối tượng của Cảnh Làm Lẽ cũng chỉ là một thiểu số phụ nữ - vì một lý do nào đó - chấp nhận làm lẽ. Thể thơ đường luật chật hẹp quá, gò bó quá nên chỉ mới chạm vào lớp vỏ ngoài của nỗi khổ phải “lấy chồng chung”. Bài thơ gợi được mối thương cảm nơi người đọc nhưng mối thương cảm ấy không lớn, không sâu sắc.

 Trong khi đó đối tượng của mấy bài thơ của TTKh là toàn thể giới phụ nữ. Độ phủ sóng ở đây lớn hơn gấp bội. Thêm vào đó hôn nhân ép buộc kiểu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” đang xảy ra trước mắt mọi người, đang là một vấn nạn lớn của xã hội nên mấy bài thơ ấy – có thể nói mà không sợ bị cho là quá lời – đã góp đặt nền móng cho việc đạp đổ lễ giáo phong kiến của Khổng Tử, làm cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ sau này.

Thể thơ mới phóng khoáng, tự do hơn nên TTKh đã trải tâm sự của mình một cách thoải mái, đầy đủ, sâu sắc. Hơn nữa đội quân chữ nghĩa của bà thế trận chặt chẽ hơn, chia thành 4 đạo quân bao kín trận địa (4 bài thơ) và đã chinh phục hoàn toàn tim óc của người đọc thời bấy giờ.

Dưới cái nhìn của thơ ca hiện đại thì mấy bài thơ của TTKh – dù nhỉnh hơn CONK và Cảnh Làm Lẽ - chỉ ở mức khá hoặc trên khá một chút - nhưng nhờ có ý tưởng nhân bản và táo bạo – đòi lại  quyền làm chủ trái tim mình cho toàn thể phụ nữ - nên chúng, tuy chưa phải là tuyệt tác, vẫn có một vị trí đặc biệt trong văn học sử, trở thành cột mốc quan trọng trên chặng đường tiến hóa của dân tộc.

Đến đây tôi lại nhớ ông bạn Mỹ. Câu nói của ông ““Trong thơ đừng coi thường What; ý tưởng mới lạ làm tăng giá trị của bài thơ lên rất nhiều; nếu không được là người tiên phong dọ dẫm những bước chân khai phá thì chí ít cũng cố gắng đừng đi vào con đường đã có hàng triệu dấu giầy”

 trong trường hợp này cũng rất có lý.

 

 Chăn Trâu Đốt Lửa

Chăn trâu đốt lửa trên đồng

Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều

Mải mê đuổi một con diều

Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.

(Đồng Đức Bốn)

 

Bài thơ ngắn nhưng tứ thơ rất hay: mê thả diều để củ khoai nướng, có thể là bữa ăn đạm bạc của trẻ chăn trâu, cháy thành tro. Khung cảnh rất thực, rất dân dã của bài thơ khiến tứ thơ dễ bắt, người đọc có thể hiểu ngay. Nhưng ngụ ý của tác giả thì hơi có vẻ mờ mờ ảo ảo, bềnh bồng, lung linh sương khói, đòi hỏi một trực giác nhạy bén, một khả năng liên tưởng mạnh mẽ và chính xác để cảm nhận. Sau đây xin trích dẫn liên tưởng của nhà bình thơ Đức Thọ:

“Trẻ chăn trâu mải mê theo đuổi một con diều (cái đó là tất yếu sẽ diễn ra với trẻ chăn trâu). Nhưng trong cuộc sống ngày nay có biết bao nhiêu cá thể cũng mải mê theo đuổi một “con diều”. Một con diều không hơn không kém và đúng nghĩa là một thú vui của trẻ chăn trâu, nhưng còn “con diều” của những cá thể chúng ta thì nó nhiều vô kể. Mải mê vậy để một củ khoai nướng đốt cả chiều thành tro thì quả là một kết cục rất thực đời. Mải mê nghe điện thoại khi đang điều khiển xe dẫn đến mất mạng sống. Mải mê theo đuổi ánh kim của tiền bạc dẫn đến tan cửa nát nhà hoặc lâm vào trong vòng lao lý và mải mê… v.v. và v.v.…” (5)

 

Đúng là bài thơ có ý tưởng rất tuyệt, tuyệt đến mức ông Đức Thọ đã đưa nó lên hàng “triết lý nhân sinh”. Tôi nể phục và đồng ý với việc nâng cấp ấy nhưng lại có ý kiến rất khác với ông về những thí dụ minh họa.

Cái chuyện “Mải mê nghe điện thoại khi đang điều khiển xe dẫn đến mất mạng sống. ” hoặc “Mải mê theo đuổi ánh kim của tiền bạc dẫn đến tan cửa nát nhà hoặc lâm vào trong vòng lao lý” làm sao có thể cho là một “triết lý nhân sinh” được. 

Đó chỉ là một sự dại dột và bướng bỉnh đến độ coi thường mạng sống hoặc tham lam đến độ mờ mắt, coi thường đạo lý và pháp luật, để rồi trong một phút bất cẩn gây tai nạn, hoặc đổ bể sự việc – không những mất mạng mình mà còn mang khổ ải đến cho bao nhiêu người khác. Đó không phải “triết lý” mà là cái dại, cái tham làm hại cái thân. 

Nếu hiểu như ông Đức Thọ thì bài thơ Chăn Trâu Đốt Lửa đã đi vào quên lãng từ lâu rồi chứ đâu còn được lưu truyền đến ngày hôm nay để người này nguời kia tham gia lý sự. 

Có một cách hiểu khác có vẻ có lý hơn là “Hãy sống thực tế, đừng mơ mộng viển vông”. Miền bắc Việt Nam vào những năm ĐĐB viết CTĐL là một vùng “người khôn của khó”, quần quật suốt ngày kiếm đủ cơm khoai dưa mắm cho gia đình đã là may mắn lắm rồi. Hơn nữa, trận đói năm Ất Dậu (1945) là một cơn ác mộng, một nỗi kinh hoàng lúc nào cũng ám ảnh tâm trí mỗi người. Nắm gạo, củ khoai, con cá, lá rau là những món thiết thực, gần gũi với mọi gia đình. 

Những câu “Có thực mới vực được đạo” hay “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông lại nhất nông nhì sĩ” đã là những câu nói cửa miệng nhắc nhở con cháu trong nhà – hãy bước đi bằng đôi chân chạm đất chứ đừng có bay lơ lửng trên không kẻo lại “giật mình tỉnh dậy thấy mình đói meo”. 

Nhưng nếu hiểu theo cách này thì ý tưởng trong bài thơ của ĐĐB có gì đặc biệt đâu, cũng chỉ lập lại những điều mà người dân đồng bằng Bắc Bộ đã nhắc nhở nhau, dặn dò nhau đến nhàm đến chán.

Theo tôi, ngụ ý của Đồng Đức Bốn như sau:

Con người nhiều khi chạy theo những cái viển vông, cao tít trên trời mà quên đi những thứ thiết thực, gắn bó với cuộc sống, ngay trên mặt đất. Nhưng cũng chẳng có gì nuối tiếc vì những thứ viển vông, cao tít đó chính là thức ăn cho tinh thần, cho phần hồn của con người; đó chính là niềm vui, hạnh phúc mà vật chất không thể tạo ra được.

Ở môi trường xã hội mà cái đói luôn là nỗi ám ảnh - dầm mưa dãi nắng từ sáng tinh mơ đến tối mịt mới có được 2 bữa ăn - con người lắm khi bị kéo xuống rất gần với con vật. Vâng ở cái môi trường đó mà dám “coi thường” củ khoai (mặc cho nó cháy thành tro) để đánh đổi lấy một niềm vui tinh thần, được cùng với con diều bay bổng trên bầu trời chiều thì theo tôi, đó là hành vi vô cùng dũng cảm. 

Ở đây cũng có một chút vô tâm, bất cẩn và sau đó là một chút tiếc rẻ khi bụng – vì thiếu củ khoai – đã bắt đầu cồn cào. Nhưng việc đổi củ khoai lấy những giây phút sảng khoái, hạnh phúc trên cánh đồng vẫn là một thương vụ có lời. Cậu bé trong thơ ĐĐB tối hôm ấy có thể bị lên giường ngủ với cái bụng trống không nhưng chắc là miệng sẽ mỉm cười và có một giấc mơ thật đẹp. Cậu bé đã dám “quên” củ khoai, chấp nhận chịu đói để được hưởng những giây phút sảng khoái trong tâm hồn. 

ĐĐB đã cho cậu bé chăn trâu bước ra khỏi “cái trại mà ở đó con người gần ngang hàng với con vật”, lùa trâu về chuồng trên con đường làng mà lòng tràn ngập niềm vui và tự hào vì thấy hồn mình đang bay lên một tầm cao mới, tầm cao của CON NGƯỜI được viết hoa thật đẹp. Ý tưởng của bài thơ tuyệt vời là ở chỗ ấy. Và triết lý nhân sinh cũng là ở chỗ ấy. 

         Rất tiếc ĐĐB đã phạm một lỗi nặng trong kỹ thuật thơ ca là dung dưỡng một câu thơ nội gián. Câu “rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều” tuy không tệ hại, mâu thuẫn, câu sau chửi cha câu trước như bài thơ:

Trên đường có nhị chàng trai

Đầu râu tóc bạc cỡi hai ngựa hồng

Ngựa thì trắng toát như bông

Giữa đường cát trắng bụi hồng tung bay”

nhưng đã làm mạch thơ, con thuyền tứ thơ - đang băng băng chảy thì bị một dòng đối lưu cản lại – tròng trành như muốn vỡ. Cuối cùng nhờ tài lèo lái của tài công, thuyền cũng trôi tới bờ, tới bến nhưng đã bị tổn thương nặng.

 

Có 2 cách phát biểu về bài thơ Chăn Trâu Đốt Lửa:

     1/ Nếu không có phần ý và tứ tuyệt vời như thế thì với cái lỗi “dung dưỡng một câu thơ nội gián” trong bài thơ chỉ có 4 câu người đọc đã có thể gạt bài thơ qua một bên để đọc những bài thơ khác. Và bài thơ sẽ hoàn toàn đi vào quên lãng.

     2/ Nếu ĐĐB không phạm lỗi “dung dưỡng một câu thơ nội gián” thì với phần ý và tứ thơ tuyệt vời như thế Chăn Trâu Đốt Lửa chắc sẽ chiếm một vị trí trang trọng trong kho tàng thơ ca Việt Nam và theo tôi, còn cao hơn Sông Lấp của Tú Xương một bậc.   

Ngoài ra, qua CTĐL mối tương quan giữa tác giả, ý, tứ và độc giả cũng hiện ra rõ ràng:

Tác giả đã hoàn thành chức năng truyền thông của bài thơ, tạo được nhịp cầu để người đọc ai cũng có thể “bắt” được, đến được với tứ thơ, hiểu được nghĩa đen (trên văn bản) của bài thơ và hiểu giống nhau (không thể có chuyện người hiểu tứ thơ thế này, người hiểu tứ thơ thế khác). Dĩ nhiên có thể mỗi người mỗi ý khi nói đến cái hay (hoặc dở) của câu chữ, hình tượng, kỹ thuật thơ … nhưng nội dung của bài thơ phải hiểu đúng như ngôn ngữ đã chuyên chở nó.

Riêng với ngụ ý của bài thơ thì tùy theo óc tưởng tượng, khả năng liên tưởng và trực giác thơ ca của mình, mỗi người đọc có thể sẽ cảm nhận khác nhau (có khi khác với tác giả). Một trong những nhiệm vụ của người bình thơ là tìm ra, thuyết phục để người yêu thơ đến với, và chấp nhận cách hiểu vừa hợp lý vừa nâng giá trị của bài thơ lên cao nhất.

 

So Sánh CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA Và SÔNG LẤP

Chăn Trâu Đốt Lửa:
  • Ý tưởng độc đáo, tuyệt vời, “sâu sắc một triết lý nhân sinh” (3)
  • Hình ảnh đứa bé chăn trâu, con diều, củ khoai rất gần gũi, dân dã nhưng lại rất hợp, rất ăn khớp với đề tài; có thể nói tứ thơ rất khéo, hay và dễ thương.
  • Cái dở của CTĐL là có câu thơ nội gián, thế trận chữ nghĩa xộc xệch.
Sông Lấp:
  • Ý tưởng: nuối tiếc nền Nho học đang lụi tàn, cùng với một số bài thơ khác là chứng nhân của một giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam, không hay bằng CTĐL.
  • Tứ thơ hay hơn vì có 2 tầng ẩn dụ rất khéo.
  • Chữ dùng rất đắt, thế trận chặt chẽ.
  • Bài thơ toàn bích, không một chút sơ hở.

Theo nhận định chủ quan của người viết thì Sông Lấp hay hơn. Chăn Trâu Đốt Lửa cũng như cô gái đẹp nhưng bị khuyết tật. Dưới con mắt của các anh hùng hảo hán đi tìm người yêu vẻ đẹp của cô gái ấy đã giảm đi quá nửa. Cũng vậy, ý tứ có hay cách mấy mà kỹ thuật thơ kém, thế trận chữ nghĩa xộc xệch thì bài thơ sẽ bị coi là hỏng, hoặc ít ra, giá trị cũng bị giảm đi rất nhiều.



 

Nhìn Từ Xa Tổ Quốc (8/1988)

 
Xin trích vài đoạn chính:

 

Vâng – một thời không thể nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi – cấm lội ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan

………………………………..

Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan

…………………………………………………………….

Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn

Ðạo Chích thành tôn giáo phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
buôn hàng lậu – buôn quan – buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường

…………………………………………………….


Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về

…………………………………………………………………..

Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không
một người đi chật cả con đường
(7)

…………………………………………………………..

 

 

Với tôi, đây là bài thơ rất hay, có thể nói là một “bài thơ lớn”, ngôn ngữ, hình tượng sắc sảo, thật và sống động; hơi thơ dài và mạnh, cảm xúc nóng bỏng, hồn thơ lai láng. Bằng tấm lòng yêu nước sắt son, bằng những vần thơ như dao sắc của mình, Nguyễn Duy đã gởi đến độc giả những lời tâm tình khó nghe nhưng rất thật; đó là những tiêu cực, những tệ nạn xấu xa của con người nói riêng và xã hội VN nói chung, mà sau hơn 13 năm chấm dứt chiến tranh vẫn tồn tại, vẫn hiện ra nhan nhản mà chưa được công khai nói đến. 

Ngay từ lúc mới phổ biến bài thơ đã gây sóng gió trên thi đàn, xôn xao dư luận. “Nó cũng như một giọt nước đầy ly, tạp chí Sông Hương đang có một số vấn đề mà gặp bài “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” này thành ra họ phải đình bản để kiểm điểm.” (8) Nhưng sau đó sóng gió cũng qua, sự thật vẫn là sự thật; bài thơ đã được chấp nhận và công khai in ấn.
 

Nguyễn Duy viết NTXTQ với tâm thế của bên thắng cuộc (con cưng của chế độ, được đi du học ở Nga, đầu tàu của phong trào Xã Hội Chủ Nghĩa) nhưng ông - đã rất khéo - nhân danh một con dân VN yêu nước, nói tiếng nói chung cho cả dân tộc, tầm nhìn xa, khối độc giả rất lớn. Hơn nữa, những vấn nạn ông đưa ra to lớn và nghiêm trọng, lời trách móc của ông nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc, “nỗi đau” trong thơ nhân bản và sâu sắc.

Nguyễn Duy là nhà thơ tài năng, kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn, đã viết NTXTQ trong lúc thi hứng ngất trời, để lại cho đời một bài thơ “rất nặng ký”. Nhưng chính ý tứ (ở đây là nội dung) của bài thơ – dám bước vào khu vườn cấm, lội ngược với dòng thơ phải đạo – đã khiến hai bài thơ đã hay lại càng thêm hấp dẫn.

 

              NAM QUỐC SƠN HÀ

           Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

           Tiệt nhiên phân định tại Thiên thư.

           Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

           Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

 

             SÔNG NÚI NƯỚC NAM

 

           Sông núi nước Nam, vua Nam ở

           Rành rành phân định tại sách trời

           Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

           Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

           (Trần Trọng Kim dịch)

 

Năm 1076, hơn 30 vạn quân nhà Tống (Trung Quốc) do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược Đại Việt (tên nước Việt Nam thời đó). Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến tại sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn địch. Quân của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn. Nhiều trận quyết chiến ác liệt đã xảy ra tại đây nhưng quân Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh. 

Đang đêm, Lý Thường Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở phía nam bờ sông Như Nguyệt, giả làm thần đọc vang bài thơ trên. Nhờ thế tinh thần binh sĩ lên rất cao. Lý Thường Kiệt liền cho quân vượt sông, tổ chức một trận quyết chiến, đánh thẳng vào trại giặc. 

Phần vì bất ngờ, phần vì sĩ khí quân Đại Việt đang lên, quân Tống chống đỡ yếu ớt, số bị chết, bị thương đã hơn quá nửa. Lý Thường Kiệt liền cho người sang nghị hòa, mở đường cho quân Tống rút quân về nước, giữ vững bờ cõi nước Đại Việt. (9)

 

Ý và tứ của bài thơ giống nhau và rất rõ ràng. Nếu đục thủng cái vỏ chữ Hán thì đa số binh sĩ cũng có thể hiểu được. Lúc ấy ý niệm về Luật Quốc Tế (International Law) còn rất xa lạ. Tác giả đã khéo léo lồng ý tứ bài thơ – quan niệm về chủ quyền quốc gia - vào thuyết thiên mệnh, một học thuyết gần gũi với suy nghĩ của người dân. Ý thơ hay và đầy sức thuyết phục nên binh sĩ đã hết lòng chiến đấu và đã đánh thắng quân Tống, giữ vững cõi bờ Đại Việt. 

Nhờ ý tứ mới lạ và độc đáo đó bài thơ đã được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nuớc. Hơn một ngàn năm trôi qua nó được tôn xưng là bài thơ có ý tưởng hay nhất của văn học Việt Nam và tôi tin rằng ngày nào nước Việt còn tồn tại bài thơ Nam Quốc Sơn Hà sẽ không bao giờ đi vào quên lãng.

 

 
Một Chút Riêng Tư
 

Cá nhân tôi, rất nhiều khi nẩy ra một ý thơ định ngồi dậy cầm bút viết thì nhận ra cái ý ấy người ta – không phải một mà vô số người – đã viết từ lâu rồi. Một đề tài về bất cứ khía cạnh nào của cuộc sống, thường là đã được - ở chỗ này hay chỗ khác, ở thời điểm này hay thời điểm khác, bằng cách này hay cách khác - đề cập đến. 

Cho nên nghĩ ra một ý tưởng hay, mới lạ, độc đáo để đưa vào thơ là cực kỳ khó. Chỉ có những tài năng đặc biệt, có khi phải nhờ may mắn, cộng thêm một chút duyên nữa mới có thể nghĩ ra, và đôi lúc, còn cần đến lòng dũng cảm vượt bậc mới dám viết về cái “ý mới” ấy. Còn số đông nhà thơ khác đều lũ lượt nối đuôi nhau tìm đến những đề tài muôn thuở: tình yêu, quê hương, chính trị xu thời, thị hiếu của đám đông và những đề tài phải đạo khác.

Đến đây tôi mới hiểu ra lời dặn dò của 2 ông bạn Mỹ, tuy có vẻ đối nghịch nhau nhưng bổ khuyết cho nhau và đều rất hữu lý. Nếu tổng hợp hai ý kiến ấy cộng với một số tìm hiểu của riêng tôi, vai trò của ý tứ trong thơ có thể được trình bày như sau:

Ý tưởng chính, đề tài của bài thơ có thể được chia làm mấy hạng (từ cao xuống thấp):

     1/ Cao đẹp, khai phóng, thăng hoa tâm hồn con người, hoàn toàn mới lạ, độc đáo. (Điều này có thể đạt được nhưng rất khó và rất hiếm)

     2/ Lách, thoát hẳn ra khỏi (hoặc ngược với) dòng thơ Phải Đạo.

     3/ Một hiện tượng, một lối sống, một cách nghĩ của một giai đoạn lịch sử đã lác đác có người viết đề cập đến nhưng chưa có tác phẩm nào xuất sắc.

     4/ Viết theo phong trào, xu hướng chính trị, theo thị hiếu của đám đông, chọn những đề tài muôn thuở (tình yêu, quê hương …), những con đường đã có hàng triệu dấu chân.

Nghĩ được một ý tưởng hay thì phải bắt lấy ngay vì bài thơ có ý hay, độc đáo sẽ được đánh giá cao gấp bội. Nhưng nếu thi hứng của mình cứ nghiêng về phía “đường xưa lối cũ” thì hãy chọn con đường ít dấu chân hoặc chưa có dấu chân nào đậm nét. Thi sĩ cũng có thể tạo một khung cảnh mới để tiếp cận đề tài (thí dụ: Sông Lấp); ý chưa được mới lạ thì ít nhất cũng có tứ hay.

Ý tứ là quan trọng đấy; tuy nhiên, còn quan trọng hơn chính là tay nghề của thi sĩ. Kỹ thuật thơ mà kém cỏi thì ý tứ có hay bài thơ cũng chìm xuồng, không thể nổi đình, nổi đám trong tâm hồn người đọc được

Kết Luận

Tóm lại, Ý Tứ chỉ là một trong nhiều tiêu chí để thẩm định giá trị một bài thơ. Tìm được ý tưởng hay, hoàn toàn mới lạ, độc đáo (không phải dễ và không phải cứ nỗ lực là sẽ tim được) sẽ nâng giá trị bài thơ lên rất nhiều. Với thơ, ý tưởng là một tiêu chí rất khó đạt điểm tối đa. Tuy nhiên, nếu đặc biệt quan tâm đến việc chọn cách tiếp cận đề tài, tạo được khung cảnh thích hợp, bài thơ sẽ có tứ hay. Riêng về Ý, dù biết là cực khó để đạt được điểm 10 nhưng cũng đừng để phải ăn một con số không (0) to tướng.

 

League City 02/19/2016

Phạm Đức Nhì


Rất mong đón nhận phê bình chỉ điểm của người yêu thơ.

 

CHÚ THÍCH:

1/ Ở Mỹ, một nước thiên về kỹ nghệ và kinh doanh, thi sĩ rất tự hào xem mình là “động vật quý hiếm”

2/ Đằng Vương Các Tự (http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=109)


 

4/ Chăn Trâu Đốt Lửa – Sâu Sắc Một Triết Lý Nhân Sinh, Đức Thọ (http://lucbat.com/news.php?id=3470)

5/ Tác giả mượn ý lời bình của chính mình cho mấy bài thơ xuất hiện trong bài viết.

6/ Tuyển tập “36 Bài Thơ” của Nguyễn Duy trong có bài NTXTQ, do nhà xuất bản Lao Động ấn hành năm 2007.



 

 

 

 

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2016

VĂN CHƯƠNG ĐÂU PHẢI LÀ ĐƠN THUỐC

 

(Viết sau khi đọc Câu Chuyện Văn Chương của Lê Mai Lĩnh)

Để bạn đọc dễ theo dõi tôi đưa bài của ông Lê Mai Lĩnh lên trước và bài trả lời của tôi (Phạm Đức Nhì) lui về phía sau.

 

Lê Mai Lĩnh: Câu Chuyện Văn Chương –Tống Biệt Hành

Vừa qua, trên trang web T.Vấn & Bạn Hữu có bài tranh luận giữa hai tác giả CHÂU THẠCH và PHẠM ĐỨC NHÌ về bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH của thi sĩ THÂM TÂM, đã làm tôi NGỨA NGÁY TAY CHÂN, nên tôi muốn có đôi điều góp ý.Bài viết trong tinh thần CHUYỆN NHƯ ĐÙA, mong HAI ANH và ĐỘC GIẢ xem cho vui, trong lúc chờ đợi chứng kiến MỸ và TRUNG CỘNG bắn đạn DỞM và NỔ PHÁO TỊT NGÒI vào nhau.

 

Nhà thơ THÂM TÂM, một KHUÔN MẶT THƠ mà người nào yêu thơ cũng yêu mến.

 

Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH là KINH NHẬT TỤNG TÌNH YÊU cho một thời trai tơ, trai trẻ, trai dậy thì. Kể cả mấy gái chưa chồng hay chết chồng.

 

Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH là một KHỐI KIM CƯƠNG NGUYÊN VẸN, chẳng một ai dám đục, đẽo, đạp, đá hay thụi, xéo hay nậy.

 

Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH, khi vui, đọc cho buồn.

Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH, khi buồn, đọc cho vui

 

Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH, khi đói, nó là gạo nấu cơm là nếp nấu xôi.

 

Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH là nước khi khát, là cứu tinh cho người vượt qua sa mạc khô cháy

 

Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH  là rượu cho những bợm nhậu, là thuốc lào cho những người tù khổ sai Cộng Sản.

 

75 năm nay nó là như thế và sẽ là như thế, khi trái đất này còn người YÊU THƠ.

 

Thế nhưng vừa qua, người anh em tôi, nhà thơ PHẠM ĐỨC NHÌ đã chọn một cách rất “không bình thường” để phân tích, mổ xẻ TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH:

 

Ông đã đem BÚA TẠ, KỀM KINGSIZE, ĐỤC KINGSIZE, XÀ BENG KINGSIZE, THUỐC NỔ QUEEN, BAO TAY PRINCESS ,,,,,

 

Ông TRỤC, KÉO, LÔI PHO TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH ra khỏi TRÁI TIM NHỮNG NGƯỜI YÊU của THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH

Với những lý do của Ông:

 

Bài thơ Tống Biệt Hành:

 

1/ Không những bình thường mà con SẾN.

 

2/ Nói chuyện chiều hôm trước mà dùng trạng từ chỉ thời gian “BÂY Giờ” là không chính xác.

 

(Theo tôi biết, trong văn phạm tiếng Anh và các thứ ngôn ngữ khác, vẫn có CÁC THÌ: HIỆN TẠI TRONG QUÁ KHỨ hay QUÁ KHỨ TRONG TƯƠNG LAI.)

 

3/ Chữ “dòng” trong cụm từ “dòng lệ sót” giảm giá trị của chữ “sót”.

 

4/ “Giời chưa mùa thu tươi lắm thay” là một câu thơ “vô tích sự” bởi nó lạc lõng, thừa thãi, không ăn nhập gì với cả đoạn thơ.

 

5/ So sánh” sen nở nốt” với ” dòng lệ sót” rất khập khễnh.

 

6/ Đọc hai câu:

 

” Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay “

 

Hình ảnh KHÔ, CỨNG, vừa CẢI LƯƠNG, lại vừa không thật, ngây thơ đôi mắt biểc như em nhỏ thì biết gì mà thương với tiếc.

 

7/ Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH nói về một sự ra đi vu vơ, không mục đích rõ ràng.

 

8/ Câu:” Đưa người ta chỉ đưa người ấy”  có vẻ ngây ngô, và đóng góp rất ít cho bài thơ.

 

9/ Lời khuyên :  ” Làm thơ nên viết ở ngôi thứ nhất” đã bị vi phạm mà không có lý đó chính đáng.

 

(PHẠM ĐỨC NHÌ không cho chúng ta biết LỜI KHUYÊN NÀY CỦA AI. Phải chẳng có một ông TỔ SƯ BỒ ĐỀ THƠ khuyên và chỉ có anh PĐN biết.)

 

10/ Rượu trong bữa tiệc thơ TỐNG BIỆT HÀNH là rượu giả, rượu toàn nước lã pha cồn

 

Rồi ông kết luận về TỐNG BIỆT HÀNH :

Dù vậy, TỐNG BIỆT HÀNH VẪN LÀ MỘT BÀI THƠ HAY.

 

CHỈ VỚI 4 CÂU ĐẦU TÁC GIẢ ĐÃ KHẮC HỌA MỘT CÁCH TÀI TÌNH TÂM TRẠNG CỦA NGƯỜI ĐƯA TIỄN Và VỚI KHẢ NĂNG TINH TẾ ĐÃ BẮT ĐƯỢC NỖI BUỒN CỦA NGƯỜI RA ĐI:

 

“Đưa người ta không đưa sang sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng

Ráng chiều không thắm không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”

 

Để tả cảnh chia ly, 4 câu thơ này có thể hiên ngang đọ sức với bất cứ câu thơ hay nào của bất cứ tác giả nào trong phòng trào THƠ MỚI.

 

Thưa anh nhà thơ PHẠM ĐỨC NHÌ:

 

1/Anh nói: TÔI DÀNH SỰ PHÁN XÉT SAU CÙNG CHO ĐỘC GIẢ

Vậy tôi đề nghị anh NÊN NÓI LỜI XIN LỖI VỚI ANH CHÂU THẠCH. Bài của nhà phê bình CHÂU THẠCH rất HÀN LÂM, NGƯỜI LỚN.

 

2/ Mặc dù anh đã HÀN GẮN NHỮNG VẾT ĐỤC ĐẼO lên PHO TƯỢNG TỐNG BIỆT HÀNH, nhưng sự MẤT MÁT VẪN CÒN, NIỀM ĐAU CŨNG CÒN,

 

vậy anh nên viết bài TẠ LỖI với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã chạm vào tình cảm YÊU THƠ của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM.

 

Như đã nói trên bài viết, ĐÂY LÀ CHUYỆN ĐUÀ CUỐI TUẦN, xin mọi người hoan hỉ thứ tha.

 

AMEN

 

Lê Mai Lĩnh

 

 Bài Trả Lời Của Phạm Đức Nhì

 

                    VĂN CHƯƠNG ĐÂU PHẢI LÀ ĐƠN THUỐC

 

Nhận được cái link từ một bạn văn trong nước với lời nhắn “Nhận thấy có liên quan đến bài viết của anh và anh Châu Thạch bàn về TỐNG BIỆT HÀNH của THÂM TÂM... nên chép lại đường link để anh xem và có phản hồi với bài viết (nếu có). Chúc vui.”

 

 http://huongnguyenhoang.blogspot.com/2015/11/cau-chuyen-van-chuong-l-e-mai-linh-nha.html#more  

 

Sau đó 2 ngày tôi cũng nhận được mail của anh Trương Vấn thông báo về bài Câu Chuyện Văn Chương trên trang TVấn& BH.

 

Đọc CCVC tôi mường tượng tác giả của nó là một người yêu thơ cuồng nhiệt theo cách riêng của mình, và … rất tự tin. Lẽ ra trong tranh luận văn chương phải chú trọng đến đối tượng tranh luận - ở đây là giá trị nghệ thuật của Tống Biệt Hành - thì ông Lê Mai Lĩnh chỉ nói phớt qua vài điểm ông không đồng ý (không dẫn chứng), rồi tự động coi mình là “bên thắng cuộc”, đề nghị hình phạt cho “bên thua cuộc”.

 

Dù vậy, trong bài này tôi chỉ chú trọng việc làm rõ những điểm liên quan đến văn chương mà ông đề cập, không phải để phân định thắng thua mà tìm sự thông cảm không những của riêng ông mà còn của cả những độc giả khác quan tâm đến cuộc tranh luận.

 

1/ Nói chuyện chiều hôm trước mà dùng trạng từ chỉ thời gian “BÂY Giờ” là không chính xác.

 

Theo tôi (LML) biết, trong văn phạm tiếng Anh và các thứ ngôn ngữ khác, vẫn có CÁC THÌ:  HIỆN TẠI TRONG QUÁ KHỨ hay QUÁ KHỨ TRONG TƯƠNG LAI.

 

Ở đây tôi không bàn đến văn phạm tiếng Anh và các thứ ngôn ngữ khác mà chỉ xin đưa ra một thí dụ bằng tiếng Việt để chứng minh “Bây giờ” trong TBH là không chính xác.

 

Thứ Hai tuần trước tôi gặp anh ta ở chùa Vĩnh Nghiêm.

Lúc ấy hoa sen nở đẹp quá.

 

Nếu thay “Lúc ấy” bằng “Bây giờ” thì sai. Điều này chắc độc giả ai cũng có thể chấp nhận.

 

Trở lại TBH: Tôi xin phép đổi mấy chữ (để làm rõ ý của mình)

 

Ta biết người buồn chiều hôm trước

Đang vào cuối hạ sen nở nốt 

 

Nhóm chữ trạng từ chỉ thời gian (đang vào cuối hạ) có thể bao phủ một khoảng thời gian từ “chiều hôm trước” cho đến lúc người đưa tiễn đang “tâm tình” ngày hôm sau (và có thể thêm một thời gian ngắn nữa trong tương lai). Đưa “Bây giờ mùa hạ” vào thì sai – ít nhất cũng là lỗi kỹ thuật - vì “độ phủ sóng” của “Bây giờ” hẹp hơn, chỉ là một khoảnh nhỏ của hiện tại, không thể vươn ngược về “chiều hôm trước”.

 

2/ Bài thơ TỐNG BIỆT HÀNH nói về một sự ra đi vu vơ, không mục đích rõ ràng.

 

Ông LML đã thiếu cẩn trọng, không đọc kỹ nên đã gán câu văn trên - của anh Châu Thạch - cho tôi. Tuy nhiên, đó là sự lầm lẫn nhỏ nhặt, không đáng kể. Hơn nữa, chính tôi cũng đồng ý với nhận xét rất tinh tế ấy của anh Châu Thạch.

 

3/ Lời khuyên: “Làm thơ nên viết ở ngôi thứ nhất” đã bị vi phạm mà không có lý đó chính đáng.

 

(PHẠM ĐỨC NHÌ không cho chúng ta biết LỜI KHUYÊN NÀY CỦA AI. Phải chẳng có một ông TỔ SƯ BỒ ĐỀ THƠ khuyên và chỉ có anh PĐN biết.)

 

Trước hết, tôi đã bỏ ra 2 buổi để đọc 69 bài thơ của ông LML trên TVấn& BH (đúng ra là 70 nhưng có một bài đăng 2 lần) và nhận thấy rằng tất cả 69 bài thơ ấy (vâng! 100%) đều được viết ở ngôi thứ nhất. (1)

 

Sau đây là một đoạn trích trong Mấy Ý Nghĩ Về Thơ của Nguyễn Đình Thi:

 

Những hình ảnh còn tươi nguyên, mà nhà thơ tìm thấy, bao giờ cũng mới mẻ, đột ngột lạ lùng. Vì nhà thơ nhìn bằng con mắt của người đầu tiên. Đó là những hình ảnh mới tinh, chưa có vết nhòa của thói quen, không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước. Mượn câu nói của một nhà văn Pháp, nhà thơ bao giờ cũng là ngôi thứ nhất.

 

Tôi tạm dùng hình tượng rượu thật, rượu giả để giải thích ý này. Cảm xúc hay tâm sự do chính tác giả (hay chính nhân vật trong bài thơ) nói ra là rượu thật, còn do người khác suy đoán rồi nói hộ là rượu giả. Có loại rượu giả cao cấp và loại rượu giả xoàng.

Trong TBH có 2 bình rượu thật:

 

     a/ Đưa người ta không đưa qua sông

         Sao có tiếng sóng ở trong lòng

 

Không đưa người qua sông nhưng sao lòng nôn nao như sóng vỗ. Đây là 2 câu thơ tuyệt vời nói lên tâm trạng của người đưa tiễn.

 

     b/ Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ

         Chí lớn không về bàn tay không

         Thì không bao giờ nói trở lại

         Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

 

Đây là những câu thơ người ra đi thì thầm với chính mình – nói như Châu Thạch - lời thơ như hịch xuất quân, như lời thề non nước.

 

Còn lại là 4 bình rượu giả:

 

    a/ Bóng chiều không thắm, không vàng vọt

        Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

 

Ta cảm được nỗi buồn của người khi thấy mắt người như chứa cả bóng hoàng hôn. Mắt là cửa sổ linh hồn; nhìn đôi mắt có thể đoán khá chính xác một người đang vui hay buồn. Do tác giả chọn được hình rất đẹp, rất thơ nên 2 câu thơ tuy là rượu giả nhưng là loại rượu giả cao cấp, chỉ người sành rượu mới phân biệt được. Hai câu này kết hợp với 2 câu đầu thành một đoạn thơ rất hay, thường được đọc, ngâm nga trong các buổi nhậu, tiệc trà bù khú chuyện văn chương.

 

    b/ Ta biết người buồn chiều hôm trước

        Bây giờ mùa hạ sen nở nốt

        Một chị, hai chị cũng như sen

        Khuyên nốt em trai dòng lệ sót

 

    c/ Ta biết người buồn sáng hôm nay:

        Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay

        Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

        Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…

 

Hai đoạn b và c cũng là 2 bình rượu giả. Ngôn ngữ và khung cảnh thơ sến, cải lương nên có thể xếp vào loại rượu giả xoàng, nhấp môi là nhận được ngay.

 

    d/ Người đi! Ừ nhỉ! Người đi thật

         Mẹ thà coi như chiếc lá bay

        Chị thà coi như là hạt bụi

        Em thà coi như hơi rượu cay

 

Người đưa tiễn cứ như có bùa phép, thấy được cả những chi tiết nhỏ nhặt trong đầu người ra đi. Thử hỏi độc giả liệu có tin được “chân tình” của tác giả không? Ba câu cuối rõ ràng là rượu giả, được nhà hàng nghênh ngang pha ngay trước mặt thực khách.

 

Trước khi tôi viết về TBH, trong lúc uống cà phê bình thơ, thấy tôi chĩa mũi dùi vào chi tiết “nói hộ tâm sự của người khác” trong thơ, một người bạn lên tiếng:

 

Người đưa tiễn, người ra đi, rồi mẹ, chị và em, tất tật đều là “con đẻ” của Thâm Tâm; dĩ nhiên ông ta biết suy nghĩ trong đầu của họ.

 

Đồng ý là như vậy. Nhưng khi đã phân công, phân nhiệm thì vai nào phải ra vai đó để phù hợp với vở kịch của cuộc đời. Người trần mắt thịt mà cứ như là Tiên, Thánh, đọc suy nghĩ, cảm xúc của người khác như đọc trang giấy trước mặt mình thì coi sao được.

 

4/ Anh nói: TÔI DÀNH SỰ PHÁN XÉT SAU CÙNG CHO ĐỘC GIẢ

Vậy tôi đề nghị anh NÊN NÓI LỜI XIN LỖI VỚI ANH CHÂU THẠCH. Bài của nhà phê bình CHÂU THẠCH rất HÀN LÂM, NGƯỜI LỚN.

 

Qua bài viết của anh Châu Thạch, thú thật, chất hàn lâm thì tôi không dám nói chứ về phong cách thì tôi đồng ý với ông LML là anh có một phong cách rất người lớn: cẩn trọng, đứng đắn và hòa nhã. Sau mấy bài viết tranh luận về TBH và Nhớ Rừng chúng tôi đã thư qua, thư lại, trò chuyện trên điện thoại và thấy có một số điểm tương đồng trong tranh luận văn chương.

 

Anh đã thẳng thắn nói rằng trong việc thẩm định giá trị nghệ thuật của một bài thơ việc có ý kiến khác nhau là thường tình; đó là quyền tự do của mỗi người. Chúng tôi đã kết bạn văn chương và đã trao đổi với nhau một số điều riêng tư lý thú.

 

5/ Vậy anh nên viết bài TẠ LỖI với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã chạm vào tình cảm YÊU THƠ của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM.

 

Trong số độc giả thường đọc, thưởng thức rồi yêu thơ có rất nhiều người mê thích một bài thơ vì một hay nhiều lý do rất riêng tư, có khi chẳng ăn nhập gì đến kỹ thuật thơ, cảm xúc thơ … nói chung là giá trị nghệ thuật của bài thơ.

 

Nếu bài thơ nhắc đến hoặc gợi lại những kỷ niệm về khung trời quê hương, mối tình đầu, “những năm tháng không thể nào quên”, hào khí của thanh niên … thì độc giả sẽ ngây ngất như say rượu, cảm xúc dạt dào, hào khí dâng cao … và họ sẽ vung tay cho điểm bài thơ rất rộng rãi.

 

TBH cũng ở trong trường hợp đó. Dĩ nhiên, nó không phải là bài thơ dở, nhưng vì những lý do rất “ngoài thơ” người ta đã quên nhắc đến những khuyết điểm của nó, đã ca tụng nó, cho điểm nó cao hơn giá trị thực sự của nó rất nhiều.

 

Nhiệm vụ của người bình thơ ngoài việc chỉ ra ưu, khuyết điểm của bài thơ còn phải tháo những giá chống, gỡ những bàn tay nâng đỡ, tước bỏ những ưu ái riêng tư của mình để bài thơ tự đứng trên đôi chân của nó, tỏa sáng bằng chính giá trị nghệ thuật tự thân của nó.

 

Tôi bình TBH (và những bài thơ khác) cũng với tinh thần đó, cố gắng thuyết phục để độc giả cùng tôi đối xử công bằng với bài thơ, khen chê đúng mực.

 

Trường hợp của ông Lê Mai Lĩnh thì đặc biệt hơn. Đọc đoạn ông viết về TBH tôi biết ngay là ông mắc chứng bệnh “cuồng ái” với bài thơ. Đem cái “tình yêu thơ” kiểu ấy mà bước vào chỗ bình thơ tranh luận với tôi thì chắc chắn tôi sẽ “từ chết đến bị thương”. Cuối cùng chỉ bị ông hỏi khó mấy câu và bắt xin lỗi, tạ lỗi với không biết bao nhiêu là người. Thôi thì như thế cũng là may mắn.

 

Bệnh của ông LML thì hơi khó chữa, nhưng đối với bạn đọc của TVấn&BH và tất cả những người yêu thơ khác, tôi hy vọng là qua mấy bài tranh luận về TBH quý vị cũng vẫn yêu mến bài thơ nhưng sẽ đối xử với nó công bằng hơn.

 

Riêng về việc ông LML yêu cầu tôi xin lỗi anh Châu Thạch và TẠ LỖI với bạn đọc của trang TVấn& BH tôi xin được cho qua vì nó ngây ngô, trịch thượng và … quá vô duyên.

 

6/ Ông đã đem BÚA TẠ, KỀM KINGSIZE, ĐỤC KINGSIZE, XÀ BENG KINGSIZE , THUỐC NỔ QUEEN, BAO TAY PRINCESS,,,,

 

Ông TRỤC, KÉO, LÔI PHO TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH ra khỏi TRÁI TIM NHỮNG NGƯỜI YÊU của THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH

Theo ngôn ngữ của ông LML thì mỗi người yêu thơ đều có một tượng đài trong tim cho mỗi bài thơ mình yêu thích. Tùy cách hiểu và đánh giá của mỗi người tượng đài ấy lớn nhỏ khác nhau.

 

Có người đọc thơ để thưởng thức, có người đọc để phê bình. Tôi thuộc loại người thứ hai nên những điều ông LML trách tôi cũng có phần đúng. Tôi đã dùng đủ loại dụng cụ ông nói ở trên để đục đẽo hầu có được một tượng đài – mà theo tôi - đúng với kích cỡ của TBH. Tôi không có khả năng trục tượng đài ra khỏi trái tim của người yêu thơ để đưa vào chỗ ấy một tượng đài khác. Tôi chỉ ước mong những bài viết của mình đủ thuyết phục để có được một vài người yêu thơ tự làm công việc thay thế đó trong tim họ.

 

KẾT LUẬN

 

Ở phần đầu ông Lê Mai Lĩnh xác định: “Bài viết trong tinh thần Chuyện Như Đùa” và ở phần cuối ông nhắc lại: “Đây là Chuyện Đùa Cuối Tuần, xin mọi người hoan hỉ thứ tha.”

 

Đồng ý trong “chuyện văn chương” có những vùng đất dành riêng cho óc khôi hài (sense of humor) và ngay cả những bài viết chính luận nghiêm túc vẫn có thể có câu, đoạn ẩn chứa những nụ cười ý nhị. Ngồi vào bàn bình thơ, người viết không nhất thiết phải bỏ lại bên ngoài óc hài hước hay cách hành văn dí dỏm của mình.    

 

Có điều chắc chắn là bình thơ không phải chuyện đùa. Người bình thơ, ngoài kiến thức, tài năng còn phải có “tâm” với thi ca và nhất là phải có thái độ của người lớn: đứng đắn, nghiêm túc, có trách nhiệm với lời khen chê của mình. Khen chê một câu thơ, một bài thơ là do nhận định chủ quan của người viết phê bình – không phải lúc nào cũng đúng nên dĩ nhiên, chưa phải là kết luận chung cuộc. Sự khen chê ấy còn được cân nhắc, lượng giá (có khi soi mói) của nhiều cặp mắt phê bình khác.

 

Không phải cứ ngứa ngáy tay chân là nhảy xổ vào cuộc tranh luận thơ ca của người khác, nói vung tít mẹt rồi chắp tay xin hai chữ đại xá. Hơn một trăm năm trước Trần Tế Xương đã viết hai câu thơ về bác Cử Nhu:

 

Văn chương đâu phải là đơn thuốc

Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu.

 

Với những người Bình Thơ hoặc đang tranh luận về giá trị nghệ thuật của thơ, hai câu đó bây giờ vẫn đúng.

 

Texas 11/2015

 

Phạm Đức Nhì

 

nhidpham@gmail.com

 

 

CHÚ THÍCH:

 

1/ Hôm nay (11/14/2015) đọc bài thơ mới của ông LML (Những Ngày Tôi Muốn Chết) trên TVấn& BH, tôi thấy nó cũng được viết ở ngôi thứ nhất.

 

PHỤ LỤC 1:

 

Có trường hợp bài thơ là một cuộc đối thoại giữa nhân vật chính và người em của mình; bài thơ chấm dứt bằng câu trả lời của người em. Có người bạn hỏi rằng “Phải chăng tác giả đã viết bằng ngôi thứ hai?”

 

Này lặng em ơi, lặng lặng nhìn

Phải chăng mình ngựa sắc hồng in

Nhẹ nhàng em sẽ buông rèm xuống

Chị sợ bên sông bóng ngựa chìm.

 

Ngựa hồng đã đến bên hiên

Chị ơi, trên ngựa chiếc yên ... vắng người.

 

(Mòn Mỏi, Thanh Tịnh)

 

Theo tôi, cảm xúc của người chị (ngôi thứ nhất) vẫn là chính. Độc giả theo dòng cảm xúc từ đầu bài thơ đã hiểu được tâm trạng mòn mỏi đợi chờ tình quân của chị cho nên khi đọc 2 câu trả lời của người em - chỉ làm nhiệm vụ cung cấp thông tin - đã đồng cảm với sự tuyệt vọng và nỗi buồn đau vô bờ bến của người phụ nữ đáng thương này. Thủ pháp Show, Don't Tell của Thanh Tịnh rất tài tình và đã đạt hiệu qủa tối đa.

 

 

 

 

 

(Năm năm sau cuộc tranh luận về bài thơ Tống Biệt Hành ông Lê Mai Lĩnh và tôi có một cuộc đối thoại ngắn dưới một bài bình thơ trên Facebook như sau:

 

Le Mai Linh Nhi Pham

 

Tôi còn nợ anh món nợ TỐNG BIỆT HÀNH, nghĩa là sau nầy nghĩ lại, tôi thiển cận, nghĩa là anh ĐÚNG tôi SAI .

Hì hì

 

Nhi Pham

 

Thôi, vụ Tống Biệt Hành, chúng ta “bắt tay” cho vui vẻ.

Tôi cũng thích lối phản biện văn chương của anh – rõ ràng, mạnh mẽ và “độc”.

 

Le Mai Linh Nhi Pham

 

OK. Bắt tay. Cảm ơn anh.

Lâu nay tôi vẫn lấn cấn đó

 

Sau 5 năm mới có cuộc đối thoại ngắn ngủi đó kể cũng hơi lâu. Nhưng đây là những lời chân tình của một bậc đàn anh trong giới văn chương như anh Lê Mai Lĩnh thì thời gian chờ đợi kể cũng đáng.

 

Nói là nói vui vậy thôi chứ chả ai cứ sau mỗi lần tranh luận lại ngồi … chờ đợi. Cái vui ở đây là được thấy cách hành xử cao thượng của một nhà thơ, nhà văn kỳ cựu, có máu mặt.

 

Phạm Đức Nhì xin được bày tỏ lòng ngưỡng mộ và cảm phục.

 

 

          

AI YÊU AI SAY ĐẮM?


                                       AI YÊU AI  SAY ĐẮM?

                                       (Trả Lời Châu Thạch)

 

Qua bài Lạm Bàn Thêm Về Tranh Luận Việc Bình Thơ của Châu Thạch viết để tham dự cuộc bàn cãi vui xung quanh bài thơ Trăng Lên của Lưu Trọng Lư tôi thấy anh với tôi đồng ý với nhau ở nhiều chỗ nhưng có một khác biệt khá quan trọng trong việc hiểu ý nghĩa của bài thơ. Nhận định của anh như sau:

Nếu “Trăng lên” là lời của cô gái thì nhất định là cô ta đã công nhận chàng lọt vào mắt xanh của mình như Phạm Đức Nhì đã nói. Ngược lại, “Trăng lên” là lời của người nam thỉ rõ ràng người nam chỉ muốn bày tỏ “sự say đắm si mê của chàng” như Nguyễn Khôi đã viết, vì chuyện người nam chỉ nhìn vào mắt cô gái mà khẳng định cô ta đã yêu mình say đắm thì thật ra quá hấp tấp …

Khi viết những dòng chữ này anh Châu Thạch đã dựa vào một “nguyên tắc” mà nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã có lần phát biểu:

… Vì nhà thơ nhìn bằng con mắt của người đầu tiên. Đó là những hình ảnh mới tinh, chưa có vết nhòa của thói quen, không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước. Mượn câu nói của một nhà văn Pháp, nhà thơ bao giờ cũng là ngôi thứ nhất.

Bởi vậy, nếu từ 2 câu thơ:

Mắt em là một dòng sông

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.

mà hiểu là “nàng đã yêu ta đắm say” (như PĐN) thì theo Châu Thạch, coi chừng bị … sai. Lý lẽ của anh xem chừng quá vững; độ chính xác ít nhất cũng phải 99,9%.

Nguyên tắc “nhà thơ bao giờ cũng là ngôi thứ nhất” có mục đích kêu gọi thi sĩ bày tỏ chân thật cảm xúc của chính mình, không dùng thơ để thương vay khóc mướn, nói hoặc đoán mò tâm trạng của người khác. Nhưng nguyên tắc này lại có ngoại lệ. Một trong những ngoại lệ được một vài thi sĩ áp dụng liên quan đến đội mắt. “Mắt là cửa sổ linh hồn”. Đặc biệt khi cảm xúc dâng cao, tâm trạng con người càng thể hiện rõ nét qua khung cửa sổ ấy. “Nhìn đôi mắt, đặt tâm trạng” (dĩ nhiên là tâm trạng của người khác), trong thơ vẫn có thể chấp nhận được. Mà đâu cần phải “bốn mắt nhìn nhau, nhìn thật lâu” mới cảm được tâm trạng; chỉ cần một cái liếc thoáng qua là cũng có thể “thấy” được khá chính xác.

Chúng ta thử đọc 2 câu thơ của Thâm Tâm trong Tống Biệt Hành:

Bóng chiều không thắm không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.

Ta biết người buồn lắm vì nhìn mắt người như chứa cả bóng hoàng hôn. Đây là lời nói của người đưa tiễn nhưng lại là tâm trạng của người ra đi. Thâm Tâm đã không chịu nghe lời khuyên của nhà văn Pháp nào đó - làm thơ ở ngôi thứ nhất - nhưng câu thơ của ông vẫn được xếp vào những câu thơ hay nhất trong khung cảnh tiễn biệt. Đó là vì ông đã cho người đưa tiễn “nhìn đôi mắt, đặt tâm trạng” của người ra đi. Người ra đi thì buồn như thế, còn người đưa tiễn có buồn không? Chắc chắn là có buồn, nhưng độ sâu đậm của nỗi buồn ra sao thì 2 câu thơ trên không nói đến vì đó không phải là chủ đích của tác giả mà chỉ là “phản ứng phụ tất yếu” của tứ thơ. Chính vì thế trước đó tác giả vì cũng muốn nói đến tâm trạng của người đưa tiễn đã phải viết riêng 2 câu thơ khác, ở ngôi thứ nhất:

Đưa người ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Và đây cũng là 2 câu thơ trác tuyệt.

Bây giờ trở lại 2 câu thơ của Lưu Trọng Lư:

Mắt em là một dòng sông

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.

Chàng có cần nhìn vào mắt nàng thật kỹ, thật lâu mới có thể biết được nàng đang nhìn mình say đắm? Cũng giống như Tống Biệt Hành, câu trả lời là không. Chỉ cần một thoáng nhìn, có khi chỉ  nửa giây, chiếc máy ảnh của thi sĩ có thể khắc họa được, chụp được tấm hình có đầy đủ chi tiết của bài thơ: vầng trăng, mái tóc, cảnh thu vắng lặng, mắt em … đủ cả.

Tấm hình sẽ được lưu trữ trong bộ nhớ. Những vần thơ sẽ không tuôn ra ngay lúc ấy mà thường phải một lúc sau, vài tiếng sau, vài ngày sau, có khi nhiều năm sau khi có hoàn cảnh gợi hứng tấm hình mới hiện ra để thi sĩ làm thơ.

Cách hiểu như anh Châu Thạch “Lời của người nào thì là tâm trạng của người đó” trong thơ ca sẽ đúng với tuyệt đại đa số trường hợp.  Nhưng, giống như 2 câu “bóng chiều … mắt trong” của Tống Biệt Hành, đây là ngoại lệ “nhìn đôi mắt, đặt tâm trạng”. Theo câu cuối của bài thơ thì cô gái đang thu hút cả bóng hình chàng trai vào đôi mắt - như một dòng sông - của mình, “cho phép” chàng được bơi lặng trong dòng sông ấy, nghĩa là nàng đang nhìn chàng say đắm. (1)  Nếu theo đúng mạch suy luận – thì trong khung cảnh nên thơ đó - độc giả sẽ nhận ra là “nàng đã yêu chàng”. Theo tôi, suy luận để đi đến kết luận như thế là rất hợp lý, không có gì là hấp tấp cả. Còn nếu có người đặt câu hỏi “Thế chàng có yêu nàng không?” thì câu trả lời sẽ là “Dĩ nhiên! Ít nhiều gì cũng có. Nhưng đó không phải là chủ đích của tác giả mà chỉ là ‘phản ứng phụ tất yếu’ của tứ thơ”. Bằng chứng là chàng đâu có đặt hết tâm hồn vào “đối tượng” như nàng mà còn để ý đến nhiều thứ khác, nào là vầng trăng, mái tóc, cảnh thu vắng lặng, hương thu thơm nồng rồi mới đến mắt em. Nếu tác giả cũng muốn nói đến tình cảm của mình với cô gái thì – cũng giống như trong Tống Biệt Hành – ông sẽ viết riêng mấy câu khác.

Dẫu sao cũng cám ơn anh Châu Thạch. Trên sân chơi thi ca, đặc biệt là bình thơ, khác biệt ý kiến là chuyện bình thường. Điều đáng nói, đáng nhớ là phong cách của người bước vào cuộc chơi. Nhắc đến Châu Thạch, Nguyễn Khôi, ngoài những bài thơ đậm tình người, những bài bình luận sắc sảo, người đọc chắc sẽ không quên thái độ lịch thiệp, hòa nhã của hai vị trong đối thoại văn chương. Được thỉnh thoảng “bàn ra tán vào” với hai vị, Phạm Đức Nhì tôi thấy thơ ca thật đáng yêu và đời cũng thật đáng sống.

04/2016

Phạm Đức Nhì


Chú thích:

1/ Thuyền Ta Bơi Lặng Trong Dòng Mắt Em, Phạm Đúc Nhì, t-van.net

 

SO SÁNH CHẠM VÀ NGỌN CỎ


                                SO SÁNH

                       CHẠM và NGỌN CỎ

 

CHẠM

Vùi vào tóc anh
Chạm
rong rêu đại dương , ẩm mục rừng già
ngai ngái phù sa cánh đồng rơm rạ
Chạm sợi đa đoan
nhuộm màu dâu bể
Chạm sợi muộn phiền
ẩn mình lặng lẽ

Vùi vào môi anh
Chạm thềm mê man, chạm bờ mộng mị
Chạm lời chối bỏ trong lời thầm thì
Dâng bời bời nhớ
Chạm bời bời quên

Vùi vào tay anh
Chạm đường vân quen mịt mùng lạc lối
Chạm vết thương sâu dấu chai cằn cỗi
Hôn ngón yêu thương
Chạm ngón lạnh lùng

Vùi sâu vào anh
Vùi vào giấc mơ
Vào đêm
Không anh.

(Đậu Thị Thương)

 

                      Ngọn Cỏ

 

tiếng nước đái

nhỏ giọt

trong bồn cầu tí tách

thứ nước ấm sóng sánh vàng

hổ phách

trong người tôi tuôn ra

phải rồi

tôi là đàn bà

hạng đàn bà đái không qua ngọn cỏ

bây giờ

được ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệ

tương lai không chừng tôi sẽ

to con mập phệ

tí tách như mưa

ngọn cỏ gió đùa.

 

(Nguyễn Thị Hoàng Bắc)

 

1/ Hình Thức

     Chạm: Hình thức khá mới, vượt qua thơ truyền thống, cố gắng, bằng cách xuống dòng, tạo một diện mạo mới cho bài thơ,  nhưng khi đọc lên vẫn còn âm hưởng Thơ Mới. Thái độ của ĐTT với số chữ trong câu còn chưa thực sự tự do.

     Ngọn Cỏ: Tự do phóng khoáng hơn, câu chữ không theo một quy luật bó buộc nào, vượt qua thơ truyền thống và Thơ Mới. Thái độ của NTHB đối với số chữ trong câu hoàn toàn phóng khoáng.

    Bình: Ngọn Cỏ thắng

2/ Vần

    Chạm: vần chỗ có chỗ không, thoang thoảng mà tự nhiên, tạo được nhịp điệu . Nói chung, thái độ của ĐTT đối với vần tự do, không cố tình loại bỏ vần nhưng hoàn toàn không bị lệ thuộc.

    Ngọn Cỏ: thái độ của NTHB đối với vần còn “cứng”, vẫn tự buộc mình vào những quy luật của vần. Nhờ số chữ trong câu dài ngắn không chừng nên cái giọng ầu ơ đã giảm đi khá nhiều nhưng vị ngọt thơ ca còn khá đậm, có chỗ dư thừa.

   Bình: Chạm thắng

3/ Ngôn Ngữ, Hình Ảnh Thơ

     Chạm: Ngôn ngữ “hiền”, khao khát, nồng nàn, đằm thắm. Hình ảnh mờ ảo và gợi cảm, gợi dục nhưng “thanh”.

     Ngọn Cỏ: Ngôn ngữ mạnh dạn, ngổ ngáo, bậm trợn. Hình ảnh thực, sống động nhưng dễ bị những người bảo thủ “chê”.

    Bình: Chạm thắng

4/ Ý Tưởng

     Chạm: thể hiện quyền bày tỏ trung thực, không tránh né, úp mở về một trong những nhu cầu nhân bản của phụ nữ.

      Ngọn Cỏ: Đòi nam nữ bình quyền, diện tích phủ sóng rộng lớn hơn.

      Bình: ĐTT cắn miếng vừa miệng nên nhai nuốt ngon lành. NTHB cắn miếng quá to, vương vãi tùm lum. Chạm thắng

5/ Lỗi Kỹ Thuật

    Chạm: không

    Ngọn Cỏ: ngoài việc dùng chữ thiếu chính xác (nhỏ giọt), vần quá đậm đà, NTHB còn có hai lỗi kỹ thuật khác là ẩn dụ không kín kẽ và câu kết “trật bàn đạp”

    Bình: Chạm thắng

6/ Tính Cách của Tác Giả và Hồn Thơ

      ĐTT: hết mình với cuộc chơi ân ái nhưng vẫn còn nét e lệ, hiền thục của phụ nữ. Sự dè dặt, mực thước của một cô giáo chinh phục được tình thương mến của người đọc. Cái giá phải trả là Hồn Thơ - cảm xúc ở tầng 3 - yếu.

     NTHB: ngổ ngáo, bạt mạng, bất cần thiên hạ. Người đọc bình thường nhìn NTHB bằng con mắt để ý, dè chừng, nhưng những người Thơ thấy chị bước vào Ngọn Cỏ khi đang cao hứng, lên cơn. Ngọn Cỏ nhờ thế, có Hồn hơn, cảm xúc ở tầng 3 nhiều hơn.

     Bình: Ngọn Cỏ thắng

KẾT  LUẬN

Tôi thích thái độ của NTHB khi bước vào khung cảnh bài thơ. Bất cần thiên hạ. Chỉ biết có thơ. Lỗi ở phép ẩn dụ thì vô phương sửa chữa vì nó là cái Tứ chủ đạo của bài thơ. Còn những lỗi kỹ thuật khác, nếu chị đọc kỹ lại trước khi phổ biến thì có thể sửa chữa được, và dĩ nhiên, giá trị nghệ thuật của bài thơ sẽ được nâng cao hơn nhiều.

Trong khi đó, Chạm là bài thơ có duyên ngầm, được viết cẩn trọng, không sơ suất. Thế trận chữ nghĩa khá chặt chẽ. Tác giả khéo léo tạo được sự ngạc nhiên thích thú ở cuối bài nên cảm xúc ở tầng 2 khá mạnh.

Dựa vào những phân tích trên, bạn đọc có thể đã tự chọn được Bài Thơ Thắng Cuộc.

Riêng tôi, đã nghiêng về bài thơ Chạm của Đậu Thị Thương.

Phạm Đức Nhì


Bạn đọc nào không đồng ý với phân tích, nhận định của tôi, xin cho biết để trao đổi thêm.