Lời Nói Đầu
Nhận xét về vần luật trong Truyện Kiều dễ dẫn đến tranh luận. Mà đề tài tranh luận ngoài chuyện đúng sai có tính học thuật cũng thường khi liên quan đến độ khả tín của văn bản cũng như uy tín của người khảo dị và hiệu đính. Bài viết này dựa vào 2 bản nôm Truyện Kiều Liễu Văn Đường (Kiều 1866 và Kiều 1871) được ông Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị. Ông Nguyễn Quảng Tuân cũng kết hợp với 3 bản nôm khác - Kiều 1870, Kiều 1872 và Kiều 1902 - để cho độc giả một “dụng cụ” tra cúu rất tiện lợi, có thể so sánh từng câu giữa 5 bản Kiều”.
Ngoài ra ông cũng có trong tay bản Kiều 1874 do Đàm Quang Hưng sưu tầm nhưng chưa kết hợp với 5 bản Kiều trên.
Sau đây là danh sách 6 bản nôm Truyện Kiều được làm tư liệu.
(http://www.nomfoundation.org/nom-project/tale-of-kieu/tale-of-kieu-version-1866?uiLang=vn)
Kiều 1866
Bản Liễu Văn Ðường—Nghệ An
Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học
(2004)
Kiều 1870
Bản Kinh đời Tự Ðức
Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học
(2003)
Kiều 1871
Bản Liễu Văn Ðường
Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học
(2002)
Kiều 1872
Tư liệu Truyện Kiều: Bản Duy Minh Thị
Nguyễn Tài Cẩn (Moskva)
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2002)
Kiều 1874
Tăng Hữu Ứng chép tay: Tự Ðức Giáp Tuất
Ðàm Quang Hưng sưu tầm, Huế
Bs Nguyễn Huy Hùng—Texas, Mỹ (2002)
Kiều 1902
Bản Kiều Oánh Mậu
Sưu tầm, khảo chú & chế bản Nôm: Nguyễn Thế
& Phan Anh Dũng
Hiệu đính chữ Nôm: Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đình Thảng.
Nxb Thuận Hoá — Huế 2004
Tóm Tắt Luật Bằng
Trắc Của Lục Bát Chính Thống
Mời độc giả đọc đoạn thơ lục bát dưới đây:
Hôm qua chồng em về nhà
Dòm lui dòm tới rồi ra ngoài đường
Dáng đứng thểu não đáng thương
Muốn gọi, chợt nghĩ đến chàng lại thôi
Cặp lục bát đầu có 3 chữ đen in đậm (chữ thứ 6 câu lục,
chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát) vần bằng và chữ đỏ in đậm (chữ thứ 4 câu bát) vần
trắc. Mười chữ còn lại đều
là vần bằng.
Cặp lục bát thứ hai cũng có 3 chữ đen in đậm (chữ thứ 6 câu
lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát) vần bằng và chữ đỏ in đậm (chữ thứ 4 câu bát)
vần trắc. Mười chữ còn lại đều
là vần trắc.
Chữ thứ 6 câu bát (ra) thanh ngang thì chữ thứ 8 câu bát (đường) thanh huyền.
Chữ thứ 6 câu bát (chàng) thanh huyền thì chữ thứ 8 câu bát (thôi) thanh ngang
Chúng ta có thể rút ra kết luận ngắn gọn rằng: Để làm thơ lục bát đúng luật chỉ cần:
1/ Chữ thứ 6 câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát vần bằng; chữ thứ 4 câu bát vần trắc. Mười chữ còn lại bằng trắc tự do.
2/ Chữ thứ 6 câu bát thanh ngang thì chữ thứ 8 thanh bằng và ngược lại.
Luật Bằng Trắc Trong Truyện Kiều.
Sau khi đã đọc kỹ từng câu trong 3254 câu của Truyện Kiều tôi nhận thấy tác phẩm được viết theo thể lục bát chính thống:
1/ Chữ thứ 4 của 1627 câu bát đều vần trắc.
2/ Chữ thứ 6 của 1627 câu lục đều vần bằng.
3/ Chữ thứ 6 và chữ thứ 8 của 1627 câu bát đều vần bằng.
4/ Trong cả 1627 câu bát, nếu chữ thứ 6 thanh ngang thì chữ thứ 8 thanh bằng và ngược lại.
Nên có thể nói chắc rằng: Truyện Kiều tuân thủ luật bằng trắc rất nghiêm chỉnh.
Nhưng với vần thì lại là chyện khác. Trong thơ lục bát có 4 điểm cần lưu ý khi nhận xét về vần là lạc vận, vần nguyên chữ, “vần ngang câu bát” và vần quẩn (trở lại vần cũ chỉ sau một lần chuyển vận). Lạc vận được giới phê bình và thưởng thức thơ cho là lỗi – mà là lỗi nặng về kỹ thuật thơ. Còn vần nguyên chữ, “vần ngang câu bát” và vần quẩn chỉ được xem là sự “không khéo” của tác giả.
Trong bài này tôi chỉ bàn về lạc vận và vần nguyên chữ. “Vần ngang câu bát” và vần quẩn sẽ đề cập đến ở bài sau.
Truyện Kiều Có Câu Nào Lạc Vận Không?
Lạc vận là một lỗi nặng trong thơ lục bát. Với thơ
lục bát đương đại, một câu lạc vận là cả bài thơ “xấu mặt”. Đọc đi đọc
lại Truyện Kiều tôi thấy có một câu lạc vận và một nhóm 3 câu đặt ra một dấu chấm
hỏi khá lớn.
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài
bông lau
(Câu 97 – 98)
“Tà” và “vài” lạc vận.
Nhận định này của tôi (trong một bài viết khác) – do nguồn trích dẫn
từ một văn bản chữ Việt - đã gặp sự phê phán của bác Vũ Nho (chủ trang web Vũ
Nho Ninh Bình). Trong bài viết này tôi đã “mượn” dụng cụ của ông Nguyễn Quảng
Tuân - so sánh từng dòng giữa các bản Kiều (chữ Nôm):
Câu |
Bản |
Bản
Văn |
98 |
Kiều
1866 |
囂囂𠺙没𢽼𦰟𦰤 |
98 |
Kiều
1870 |
𩙍囂囂𠺙𬏓𦰟𦰤 |
98 |
Kiều
1871 |
囂囂𠺙没𢽼𦰟𦰤 |
98 |
Kiều
1872 |
𩙌囂囂𠺙𠬠𬏓𦰟𦰤 |
98 |
Kiều
1902 |
𫗄休休𠺙𢽼芃𦰤 |
Trong bản Kiều 1902 hàng chữ Nôm viết là 𢽼 (vài) nhưng hàng chữ “quốc
ngữ” ở dưới viết (lầm?) là “và”
Trong 5 bản Nôm của Truyện Kiều có đến 3 bản viết là “vài” - trong đó có bản cổ nhất 1986
(1). Thêm vào đó, đa số bản tiếng Việt trên Net cũng viết như vậy nên dù có ý
kiến trái chiều, tôi vẫn nghiêng về phía chữ “vài” – nghĩa là cho rằng đây là 2 câu lạc vận.
Hơn nữa, đây đó trong Truyện Kiều có một số câu - ý tương tự - cũng
viết là “vài”:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Câu 41-42)
Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài
nén hương.
(Câu 91-92)
Thú quê thuần hức bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài
lá ngô.
(Câu 1593- 1594)
Lời quê chắp nhặt dông
dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.
(Câu 3253-3254)
Ngoài ra, nói đến lạc vận, còn có 3 câu khác cũng khiến tôi băn
khoăn:
Lệnh quan lại bắt ép
duyên thổ tù.
Nàng đà gieo ngọc trầm
châu
Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan
(Câu 2962 đến 2964)
1/
“Châu” và “mồ” có lạc vận không?
Âu – âu: Chính vận
Âu – au: Thông vận gần
Âu – ao: Thông vận
Âu – êu: Thông vận
Âu – eo: Thông vận xa
Âu – yêu: Thông vận xa
Âu – iu: Cưỡng vận
Âu – ô: Lạc vận
Âu – u: Lạc vận (sửa lại là thông vận xa)
Dựa vào bảng “vần gần, vần xa” do chính mình tự lập để “đo” độ ngọt
của vần tôi cho rằng “châu” và “mồ” lạc vận.
2/
Còn “châu” và “tù” thì sao?
Theo bảng xếp hạng (dựa vào mặt chữ) thì “châu” và “tù” lạc vận nhưng
nó làm tôi nhớ tới mấy câu thơ trong Tiết Phụ Ngâm của Trương Tịch
Quân tri thiếp hữu phu
Tặng thiếp song minh châu
Cảm quân triền miên ý
Hệ tại hồng la nhu
Một thầy giáo dạy Việt Văn cho biết là trong chữ Hán chữ “châu” cũng
có thể được phát âm là “chu” nên ở đoạn thơ trên câu “Tặng thiếp song minh châu”
không bị lạc vận. Nhưng Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm nên tôi nghĩ việc phát âm
“châu” thành “chu” chắc là không có. Tuy nhiên, khi phát âm vần “âu” (“â” ghép
với “u”) âm vang của chữ “u” (trong “âu”) vẫn có dù rất nhẹ.
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
Nàng đà gieo ngọc trầm châu
Ngoài ra còn có một cặp lục bát khác:
Sượng sùng đánh dạn ra chào
Lạy thôi, nàng mới rỉ tai
ân cần
trong đó “chào” với “tai” lạc vận rõ ràng, không phải bàn cãi. Có
đến 4 bản Kiều tiếng Việt (2) viết là “tai”
nên tôi đã mạnh dạn lấy làm thí dụ (về lạc vận) trong một bài viết khác.
Sau này đối chiếu với 5 bản Kiều chữ Nôm tôi mới thấy là mình sai; không phải
sai về lập luận mà sai về nguồn trích dẫn có độ khả tín quá thấp.
Đối chiếu với 5 bản Kiều chữ Nôm:
Như vậy đúng ra phải viết là:
Sượng sùng đánh dạn ra chào
Lạy thôi, nàng mới rỉ trao
ân cần
(Câu 1095-1096)
Đây không phải là 2 câu lạc vận.
Riêng điểm này tôi phải công nhận bác Vũ Nho đúng, tôi sai. Xin cám
ơn bác Vũ Nho đã chỉ điểm.
Tóm lại, trong 3254 câu của Truyện Kiều có 2 cặp lạc vận.
Nhận Xét Về Vần Nguyên Chữ Trong “Truyện Kiều”
Chúng ta thử đọc đoạn thơ dưới đây:
KHÔNG LÀ GIẤC MƠ
……………………..
Yêu nhau thì phải nồng say
Trọn đời suốt kiếp không thay đổi lòng
Cũng không một dạ hai lòng
Đồng cam cộng khổ vợ chồng bên nhau
……………………
Nguyễn Thanh Phong, FB Lục Bát Việt Nam)
Thi sĩ Nguyễn Thanh Phong đã gieo vần “nguyên chữ” (lòng lòng) – hai chữ giống nhau như đúc. Gieo vần như vậy không sai luật nhưng nghe có “cái gì đó” không thuận tai.
Tôi tưởng nhận xét như vậy là do cách thưởng thức thơ khó tính của mình, nhưng đọc chú thích của ông Nguyễn Quảng Tuân (phần dưới) thì thấy rằng các cụ xưa cũng dị ứng với vần nguyên chữ như tôi.
So sánh hai câu 3089 và 3090 giữa các bản Kiều:
Câu |
Bản |
Bản
Văn |
3089 |
Kiều
1866 |
緣箕固負之情 |
3089 |
Kiều
1870 |
緣箕固負之命 |
3089 |
Kiều
1871 |
緣箕固負之情 |
3089 |
Kiều
1872 |
緣箕固負之𠇮 |
3089 |
Kiều
1902 |
緣箕固負之命 |
Câu |
Bản |
Bản
Văn |
3090 |
Kiều
1866 |
麻算支挭鍾情爫𠄩 |
3090 |
Kiều
1870 |
𦓡筭技梗鍾情爫𠄩 |
3090 |
Kiều
1871 |
麻算支挭鍾情爫𠄩 |
3090 |
Kiều
1872 |
麻筭支梗鍾情爫𠄩 |
3090 |
Kiều
1902 |
麻算𢫟挭鍾情爫𠄩 |
Thí dụ như câu “Duyên kia có phụ chi tình” (Liễu Vân Đường) thì
ông Nguyễn Quảng Tuân chú thích như sau:
Hai bản Liễu
Vân Đường (1866 & 1871) và Quan Văn Đường (1874) (bản 1874 không nằm trong
5 bản đối chiếu) đều khắc là “tình”. Sở dĩ có sự sửa chữa chữ “tình” ra chữ “mình” là để tránh trùng vần với câu dưới cũng có chữ “tình”. Nhưng chữ “mình” đây có thể hiểu
là “chúng mình” và câu thơ cũng rõ nghĩa.
Vì thế, sau khi tra cứu kỹ, tôi đã không đưa
2 câu 3089 và 3090 vào danh sách các câu thơ “vần nguyên chữ” mà ông Nguyễn Quảng
Tuân gọi là “trùng vần”. (2)
Sử dụng phương cách này tôi đã bỏ bớt
mấy cặp có độ khả tín thấp khác trong một số bản chữ Việt trên Internet.
Như vậy, cả các cụ xưa và những người
thưởng thức thơ đương đại (trong đó có tôi) phần đông cho rằng tạo vần nguyên
chữ trong thơ lục bát là “không khéo”, là vụng - ngoại trừ trường hợp thật đặc
biệt.
Theo sự sàng lọc của tôi (đối chiếu 5 bản Kiều chữ Nôm) Truyện Kiều
có 8 cặp lục bát vần nguyên chữ, xin được liệt kê dưới đây. (Thay vì một cặp tôi
trích cả 4 câu, mở rộng ngữ cảnh của đoạn thơ cho độc giả có chỗ dựa để nhận định
xem cái hay về ý tứ và nghệ thuật của đoạn thơ có bù được cái vụng của cặp vần
nguyên chữ hay không?)
1/
Vân rằng: Chị cũng nực cười
Khéo dư nước mắt khóc
người đời xưa.
Rằng: Hồng nhan tự
thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
(105 đến 108)
2/
Lượng xuân dù quyết hẹp hòi
Công
đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru?
Lặng
nghe lời nói như ru
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng
(345 đến 348)
3/
Nước trôi hoa rụng đã yên
Hay đâu địa ngục ở
miền nhân gian
Khuyển ưng đã đắt mưu gian
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền
(1705 đến 1708)
4/
Thấy nàng mặt phấn tươi son,
Mừng thầm được mối bán
buôn có lời
Hư không đặt để nên lời
Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen
(2089 đến 2092)
5/
Tin vào gởi trước trung quân
Từ
công riêng hãy mười phân hồ đồ
Một
tay gây dựng cơ đồ
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
(2461 đến 2464)
6/
Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
Lân la tìm thú bên
sông Tiền Đường
Đánh tranh chụm nóc
thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi
(2695 đến 2698)
7/
Thẩn thờ lúc tỉnh
lúc mê
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao
Xuân huyên lo sợ biết bao
Quá ra khi đến
thế nào mà hay
(2835 đến
2838)
8/
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế hay
mình Đỗ Quyên?
Trong sao châu nhỏ
duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông!
(3201 đến 3204)
(Duềnh quyên: Vũng nước trong sáng đẹp hoặc có
ánh răng soi.)
Trước khi tìm hiểu trong 8 cặp vần nguyên chữ của Truyện Kiều thì những cặp nào là vụng, không khéo và những cặp nào là “phá lệ” của cụ Nguyễn để thực hiện một chức năng thẩm mỹ, tôi viết vài hàng làm chỗ dựa để lý giải.
Chỗ Dựa Để Lý Giải
Một chữ, một nhóm chữ, một câu hay một đoạn trong bài thơ đều có ít nhất một chức năng: Chức năng truyền thông. Chúng kết hợp với nhau cung cấp thông tin cần thiết để độc giả có thể “bắt” được, hiểu được những suy nghĩ, tâm tình mà thi sĩ muốn chia sẻ.
Nếu thi sĩ chọn một thể thơ nào đó – trong bài này thi sĩ chọn thể thơ lục bát – thì ngoài những nguyên tắc văn phạm, mỗi chữ, nhóm chữ, câu, đoạn còn phải tuân thủ những quy định về luật (bằng trắc) và vần của thể thơ này.
Thêm vào đó còn có những điều chưa thành luật, chưa thành quy định, nhưng nếu thi sĩ “không khéo” mắc phải sẽ tạo thành hội chứng nhàm chán vần, giảm giá trị của bài thơ. Tôi muốn nói đến “vần nguyên chữ”, “vần ngang câu bát” và “vần quẩn”.
Một chức năng khác thường được nói đến trong thơ là chức năng thẩm mỹ. Mỗi chữ, nhóm chữ, câu, đoạn được tác giả giúp tự trang điểm hoặc cùng với các chữ, nhóm chữ, câu hay đoạn khác (trong cùng bài thơ) phối hợp với nhau “làm đẹp” – để độc giả ngoài cái “sướng” “bắt” được, hiểu được suy nghĩ, tâm tình của tác giả còn được thưởng thức nét đẹp văn chương của bài thơ.
Nếu tác giả không phải vô tình (hoặc “kẹt”) mà tự ý phá luật, bỏ vần hoặc chấp nhận vướng vào một chỗ “không khéo” nào đó thì thường là muốn bộc lộ một cái gì đó lạ, hay hoặc độc đáo hơn.
Trong 8 cặp vần nguyên chữ của Truyện Kiều thì cặp đầu tiên
Vân rằng: Chị cũng nực cười
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
(105 đến 108)
Thúy Kiều nhắc lại chữ “xưa” để Thúy Vân thấy câu trả lời của mình (Kiều) “đúng điểm”, xác đáng. “Lý do thật đặc biệt” ở đây là: Chữ “xưa” ấy “bất khả thay thế” và làm tăng giá trị nghệ thuật của đoạn thơ.
Cái hay ở đây không những bù được cái vụng mà còn có lời nữa.
Còn 7 cặp vần nguyên chữ khác từ số 2 đến số 8 (ru ru, gian gian, lời lời, đồ đồ, Đường đường, bao bao, Quyên quyên) chỉ cung cấp thông tin để độc giả hiểu ý, không có chức năng thẩm mỹ đặc biệt. Cụ Nguyễn Du, trong 7 cặp lục bát này, đã vướng vào chỗ “không khéo”, chịu thiệt về mặt kỹ thuật thơ mà chẳng kiếm chác được tí gì ở phần chức năng thẩm mỹ.
Thật đáng tiếc!
Hết Phần I
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
CHÚ THÍCH:
1/
https://sites.google.com/site/khonggianketnoidqt/truyen-kieu-tron-bo
https://download.vn/truyen-kieu-44606
https://thinhphapam.com/truyen-kieu-nguyen-du/5/
https://hoavouu.com/images/file/DsgIQGAx0QgQALg_/tuyenkieu.pdf
2/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét