Thứ Tư, 22 tháng 4, 2020

NHỮNG CHIẾC LÔNG VŨ CỦA EMILY DICKINSON & THƠ TRÍ TUỆ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI


Vài Nét Về Emily Dickinson

 

Nhà thơ Emily Dickinson sinh ngày 10/12/1830 tại Amherst, Massachusetts, USA. Sau khi học 7 năm ở Amherst Academy bà vào học tại chủng viện Mount Holyoke một thời gian ngắn rồi trở về nhà ở Amherst, sống đời biệt lập. Bà chưa từng lập gia đình, tự giam mình trong phòng riêng, không thích và luôn tránh né giao tiếp, gặp gỡ.  Mọi quan hệ của bà với bạn bè, người quen biết hầu như đều qua thư từ.             

 

Theo Poetry Foundation thì Emily Dickinson là một trong những thi sĩ lớn nhất và sáng tạo nhất của nước Mỹ trong mọi thời đại. Bà coi định nghĩa thơ là lãnh vực hoạt động của mình và thách thức mọi định nghĩa thơ cũng như nhiệm vụ của thi sĩ thời đó. Giống Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, and Walt Whitman, bà thử nghiệm cách diễn đạt mới để giải phóng thơ khỏi những trói buộc thường lệ. (1)

 

Trong số 1775 bài thơ bà sáng tác (2) chỉ có một lá thư và 10 bài thơ được phổ biến lúc sinh thời (3). Sau khi bà chết (15/05/1886) thì em gái bà, Lavinia, mới khám phá khối lượng thơ đồ sộ đó và “hơi thở từ những tác phẩm của bà” mới đến được với công chúng.

 

Dưới đây là 2 bài thơ trong tuyển tập “A Freight of Feathers – 50 Brief Poems by Emily Dickinson” (Một Bó Lông Vũ – 50 Bài Thơ Ngắn của Emily Dickinson) (2)

 

A Word Is Dead (4)

 

A word is dead

When it is said,

Some say.

I say it just

Begins to live

That day.

 

Dịch thoát:

 

Có người cho rằng

Một chữ khi được nói (viết) ra

Là đã chết

 

Tôi nói

Nó chỉ bắt đầu sống

Từ hôm đó

 

Tìm Gặp Tứ Thơ:

 

Nói rõ hơn, con chữ chết là con chữ còn nằm trong tự điển. Khi con chữ được nói hoặc viết ra nó sẽ thuộc về một ngữ cảnh, một văn bản nào đó, bắt đầu được lưu truyền và bắt đầu sống.  Nếu được đặt đúng chỗ (đắc địa) trong một câu hay, một bài thơ có tứ mới lạ hoặc ý tưởng cao siêu nó sẽ tạo được ấn tượng sâu đậm nơi người đọc, người nghe và sẽ sống rất lâu. Ngược lại, nó sẽ chết yểu, sẽ nhanh chóng đi vào quên lãng. Tác giả, qua bài thơ rất ngắn, nói đến sức sống của “con chữ” trong thơ (và cả trong cuộc đời).

 

Nhận Xét:

 

1/ Bài thơ rất ngắn: Có 19 chữ (20 âm tiết).

 

2/ Ngôn ngữ đơn giản (có đến 18 chữ đơn âm), tuyển lựa kỹ càng, câu cú, ý tưởng mạch lạc

 

3/ Vần: Hai cặp vần, một liên tiếp (dead, said), một gián cách (say, day), đọc lên âm vang của thơ rất vừa ngọt.

 

4/ Biện pháp tu từ: So sánh tương phản – câu sau đối chọi chan chát với câu trước làm nổi bật ý nghĩa của bài thơ.

 

5/ Tứ thơ sâu sắc – nói đến sức sống của “con chữ” trong thơ (và cả trong cuộc đời)

 

6/ Viết theo lối Kiếm Tông, chú trọng câu chữ, ý tứ, biện pháp tu từ - nói chung là cái đẹp của văn chương.

 

7/ Cảm xúc từ câu chữ, bố cục (tầng 1+2) khá mạnh.

 

8/ Bài thơ tựu trung chỉ là một phát biểu, không giải thích, mặc dù tâm đã đối cảnh nhưng lý trí hầu như hoàn toàn đạo diễn bài thơ, không có xốn xang, rung động riêng của tác giả nên không có cảm xúc tầng 3. Thiếu hẳn chữ “tình” và “chất thơ”.

 

 

An Hour is a Sea

 

An Hour is a sea

Between a few, and me

With them would Harbor be

 

Dịch sát:

 

Một tiếng đồng hồ là một đại dương

Nằm giữa một số ít người và tôi

Bến Cảng sẽ ở chỗ họ

 

Dịch thoát:

 

Một tiếng đồng hồ là thời gian để vuợt một đại dương

Nằm giữa một số ít người và tôi

Mà họ là Bến Bờ tôi hướng tới.

 

Tìm Gặp Tứ Thơ

 

Tứ thơ ở đây hơi khó “bắt” vì trên văn bản tác giả chưa cung cấp đầy đủ dữ kiện. Nhóm chữ “Một tiếng đồng hồ” (An hour) có vẻ hơi xa lạ với phần còn lại của bài thơ. 

 

Tôi đã đọc kỹ tiểu sử của tác giả thêm vài lần và nhận thấy một chi tiết hữu ích: “Bà chưa từng lập gia đình, tự giam mình trong phòng riêng, không thích và luôn tránh né giao tiếp, gặp gỡ.  Mọi quan hệ của bà với bạn bè, người quen biết hầu như đều dựa trên thư từ.”

 

Và một chi tiết quan trọng nữa: Ba câu thơ này nằm ở đoạn cuối một lá thư ngắn bà viết cho Susan (chị dâu), một trong “số rất ít” nguời thân của mình. (5)         

 

Và tôi đã có trong tay một số dữ kiện:

 

1/ Giữa tác giả và một số rất ít bạn bè là cả một đại dương xa cách.

 

2/ Không gặp gỡ mà chỉ liên lạc qua thư từ.

 

3/ Họ là Bến Cảng (Harbor) ở bên kia bờ đại dương.

 

4/ Thư từ với họ là một “hành trình vượt đại dương”

 

5/ Thời gian của “hành trình vượt đại dương” (viết thư) là khoảng một tiếng đồng hồ. Cũng có thể một tiếng đồng hồ chỉ có tính cách tượng trưng, một thời gian giả định, lúc bà nghĩ đến “một số rất ít” bạn bè và viết thư cho họ.

 

Với những dữ kiện trên đây độc giả có thể tư ghép lại để “gặp” tứ thơ không khó lắm.

 

Nhận Xét:

 

1/ Bài thơ cực ngắn: Chỉ có 15 chữ (17 âm tiết).

 

2/ Vần: Cước vận ở cả 3 câu. Vị ngọt của thơ rõ nét.

 

3/ Ngôn ngữ chắt lọc, đặc quẹo, không thể cắt xén.

 

4/ Con đường dẫn đến tứ thơ gập ghềnh (nhưng gây nhiều hứng thú) hơn bài “A Word is Dead”.

 

5/ Sức gợi: Sức gợi cực mạnh, “tầm bắn xa”, đòi hỏi nơi người đọc kiến thức rộng, trí tưởng tượng phong phú, khả năng liên tưởng mạnh mẽ, để tìm gặp, nhận biết tứ thơ.

 

6/ Cảm xúc tầng 1 (từ câu chữ) và tầng 2 (từ bố cục chặt chẽ) rất mạnh, tạo khoái cảm cao độ cho độc giả khi “bắt” được tứ thơ.

 

7/ Cảm xúc tầng 3 (từ trạng thái xao động tâm hồn của tác giả) không có. Tác giả quá tỉnh táo khi làm thơ. Thơ toàn lý trí.

 

8/ Người thưởng thức thơ đương đại đã nâng loại thơ này lên hạng “thơ trí tuệ” với ý nể trọng. Chính Emily Dickinson đã ưu ái gọi chúng là Những Chiếc Lông Vũ, có khả năng chắp cánh cho tâm hồn người đọc bay cao, bay xa. Tuy nhiên, nếu nói đến chữ “tình” và “chất thơ” – hai thành tố (tuy hai mà một) quý giá nhất của thi ca – thì “thơ trí tuệ” không có.

 

 

 

So Sánh Với Hai Bài Thơ Việt

 

1/

 

Cánh Đồng

 

 

Sau ba năm chung thủy

Với người chồng đi xa

Chị đã thất tiết một cách lạ kỳ

Với người đàn ông xấu xí

Già hơn chị rất nhiều

 

Trong một buổi chiều bão tố

Khi chúng tôi đến đó

Người đàn ông đã đi rồi

Chỉ còn lại trên đồng lúa

Vết xước của dĩa bay mà thôi (6)

(Nguyễn Đức Tùng)  

 

     a/ So với A Word is Dead: Cánh Đồng có hai điểm hơn hẳn. Một, tứ thơ “siêu” hơn, nhân bản hơn. Hai, “đường vòng nghệ thuật” dẫn đến tứ thơ là cả một câu chuyện, mặc dù bịa đặt, nhưng có tình tiết hấp dẫn khiến độc giả đọc khoái hơn, cảm xúc tầng 2 mạnh hơn nhiều.

 

     b/ So với An Hour is a Sea: Cánh Đồng hơn hẳn về tứ thơ. “Đường vòng nghệ thuật” của hai bài thơ có sức hấp dẫn ngang nhau.

 

Cả 3 bài đều là sản phẩm của lý trí, dù tâm đối cảnh nhưng không có cảm xúc tầng 3, không có chữ “tình” và “chất thơ”.

 

2/

 

Sông Lấp

 

Sông xưa rày đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai

Vẳng nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. (7)

 

(Trần Tế Xương)

 

     a/ So với A Word is Dead:

 

Một, tứ thơ tạm coi là đồng hạng. Hai, “đường vòng nghệ thuật” dẫn đến tứ thơ của Sông Lấp tươi mát, sống động hơn; từ tiếng ếch dẫn đến tiếng gọi đò, từ tiếng gọi đò gợi nhớ đến con sông xưa đã bị lấp, từ Sông Lấp nhớ đến nền Nho Học đang lụi tàn. Cảm xúc tầng 2 của Sông Lấp mạnh hơn gấp bội.

 

     b/ So với An Hour is a Sea:

 

Một, tứ thơ tạm coi là đồng hạng. Hai, “đường vòng nghệ thuật” dẫn đến tứ thơ của Sông Lấp tươi mát, sống động hơn, cảm xúc tầng 2 mạnh hơn.

 

Đặc biệt, Sông Lấp hơn hẳn hai bài thơ của Emily Dickinson về chữ “tình” và “chất thơ”. Trần Tế Xương viết Sông Lấp lúc tâm hồn xao động, nỗi nhớ thương, tiếc nuối dâng tràn, cảm xúc tầng 3 đã xuất hiện nhưng do bài thơ ngắn, chưa đủ “đất” để tạo cao trào nên chưa có hồn thơ.

 

Cũng cần nói thêm là khi chọn thơ của Emily Dickinson để giới thiệu tôi đã cố ý chọn những bài thật đơn giản (không phải là những bài hay nhất) để khi chuyển ngữ độc giả có thể tiếp cận với tứ thơ tương đối dễ dàng.

 

Hơn nữa, Trần Tế Xương và Nguyễn Đức Tùng - nhờ sinh sau đẻ muộn - được hưởng lợi thế quá lớn từ sự tiến bộ của thời đại về văn chương nói chung và thi ca nói riêng - nên thơ của hai ông có hơi nổi trội chút ít. Xin đừng dựa vào đó để phân định “tài thơ” của các thi sĩ.

 

 

Thơ Trí Tuệ Không Khéo Sẽ Thành “Cây Dị Chủng Trong Vườn Thơ”

 

Mấy tuần trước, để “thăm dò dư luận” cho bài viết này tôi đã đăng trên FB một bài (trong Một Bó Lông Vũ) của Emily Dickinson.

 

To Wait an Hour is Long

 

To wait an Hour — is long —

If Love be just beyond —

To wait Eternity — is short —

If Love reward the end —

(Emily Dickinson)

 

Chờ một giờ là dài

Nếu tình yêu ngoài tầm tay với

chờ suốt kiếp là ngắn

Nếu phần thưởng tình yêu ở cuối đường

 

Một bạn đọc thân quen, học vấn cao, yêu thích thơ và cũng làm thơ, viết một bình luận:

 

“Đơn giản như đang giỡn vậy”

 

Và tôi đã trả lời:

 

Tiếc rằng “bài thơ” của Emily Dickinson - một nhà thơ lớn của nước Mỹ - lại toàn lý trí, chẳng có chữ "tình" và "chất thơ".

 

Nếu nói rõ ngọn ngành thì trong To Wait an Hour is Long tâm của tác giả chưa đối cảnh, cái tôi riêng tư chưa xuất hiện, “tứ thơ” chỉ ở dạng “kiến thức”, nên chưa thể gọi là thơ.

 

Dưới đây là một bài khác – nói về cuộc nội chiến của Mỹ

 

The First We Knew of Him was Death

 

The first We knew of Him was Death —

The second — was — Renown —

Except the first had justified

The second had not been.

 

Đầu tiên chúng ta biết về Anh là Cái Chết

Thứ hai là Danh Thơm

Ngoại trừ điều đầu tiên đã được lý giải (đã là sự thật)

Điều thứ hai thì chưa

 

(“Anh” là người lính ở cả hai phe trong cuộc nội chiến)

 

Trong chiến tranh, người lính ở phe nào cũng được lãnh đạo phe mình tặng cho hai chữ “chính nghĩa” để hết lòng chiến đấu, sẵn sàng lao vào chỗ chết. Chết vì “chính nghĩa” sẽ để lại Danh Thơm. Theo Emily Dickinson thì chỉ có “Cái Chết” là rõ ràng, là thật, còn Danh Thơm chỉ là phù phiếm, giả tạo (được “đặt ra” để đẩy con người vào chỗ chết)

 

Ý tưởng của bài thơ rất hay (phản chiến một cách sâu sắc, ý nhị), cách diễn đạt rất văn chương và rất khéo. Tuy nhiên, nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không có “tâm đối cảnh”, không phải là thơ.

 

Vâng, Một Bó Lông Vũ - Tuyển Tập 50 Bài Thơ Ngắn Của Emily Dickinson có nhiều “bài thơ” như thế. Những bài khác, mặc dù tâm đã đối cảnh, cái tôi riêng tư đã có mặt, đã là thơ, nhưng vì tác giả quá chú trọng cái đẹp của ngôn ngữ, ý tưởng và đường vòng nghệ thuật của tứ thơ nên rất ít cảm xúc.

 

Thú thật, để viết bài này, ngoài 50 bài ngắn trong tuyển tập Một Bó Lông Vũ của Emily Dickinson tôi chỉ đọc thêm 10 bài (do Nuala O’Connor tuyển lựa) được cho là hay nhất của bà (8) và đọc (lướt) khoảng 50 bài thơ khác (trong tổng số 1775 bài). Tuy nhiên, lý trí hiện diện trong thơ của bà quá rõ nét nên tôi có thể khá tự tin khi đưa ra nhận xét như trên.

                                                                                                                             

 

Thơ Trí Tuệ Đương Đại Của Việt Nam Cũng Thế

 

Không phải làm thơ ở giữa thế kỷ 19 như Emily Dickinson mới mắc phải lỗi “làm thơ hóa ra viết vè” như trên. Một số không ít nhà thơ đương đại Việt Nam cũng sản xuất những “cây dị chủng trong vườn thơ” tương tự như vậy.

 

Trang web thivien.net có 225 bài thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm, trong đó có khá nhiều “bài thơ” chỉ có 2 câu. Tôi chọn 2 bài để giới thiệu với bạn đọc:

 

1/

 

Ban tình yêu, việc của Trời

Giữ tình yêu, việc của người, khó thay

 

Đây là nhận xét của tác giả về việc thủ đắc và gìn giữ tình yêu của con người, hoàn toàn là sản phẩm của lý trí. Ở đây không có cảnh thơ và tâm hồn tác giả vẫn còn nằm ngủ ở một chỗ bí mật nào đó, chưa xuất hiện.

 

2/

 

Giai nhân son phấn thì sang

Văn chương son phấn lại càng già nua

 

Nhận xét của tác giả về việc làm đẹp cho văn chương một cách giả tạo, bề ngoài. Đây cũng chỉ là sản phẩm của lý trí, không phải thơ.

 

https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-V%C5%A9-Ti%E1%BB%81m/author-y-8FU-bxva8gLBdrnIEqeA

 

 

Hoàng Vũ Thuật cũng có 5 “bài thơ” ngắn về cái bóng. Ở đây tôi xin trích dẫn 2 bài.

 

1/

 

Khi hai người yêu nhau

Họ chỉ còn một bóng

 

2/

 

Đừng giận dỗi

Xem chừng bóng vỡ làm đôi

 

https://www.thivien.net/Ho%C3%A0ng-V%C5%A9-Thu%E1%BA%ADt/author-iS-sj4WNv5L8YQ6cikxqEQ

 

Mỗi bài chỉ là một phát biểu, toàn lý trí, không có tâm đối cảnh nên không phải là thơ.

 

Thêm vào đó còn có Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết (Nguyễn Đức Tùng), Đồng Dao Cho Người Lớn (Nguyễn Trọng Tạo), Trò Chơi Của Ảo Giác (Nguyễn Quang Thiều) nhưng vì là những bài dài nên tôi để ở phần CHÚ THÍCH (9). Ba bài này tuy đông quân hơn, bài binh bố trận công phu hơn, nhưng chỉ toàn lý trí, tâm chưa đối cảnh, cái tôi riêng tư của tác giả chưa xuất hiện nên chưa phải là thơ.

 

 

Đặc Tính Của Thơ Trí Tuệ

 

Mang danh là thơ trí tuệ thì dù có là Một Bó Lông Vũ của Emily Dickinson hay “những đột phá mới lạ” của những nhà thơ đương đại Việt Nam cũng đều có những đặc tính sau đây:

 

1/ Đậm chất trí tuệ: Ngôn ngữ chắt lọc, ý tưởng cao sang, độc giả cần một trình độ kiến thức khá cao để có thể hiểu và “thấy” cái hay, cái đẹp của bài thơ.

 

2/ Thường có biện pháp tu từ để có “đường vòng nghệ thuật dẫn đến tứ thơ” mới lạ, độc đáo, tạo khoái cảm mạnh mẽ cho độc giả “bắt” được tứ thơ.

 

3/ Thường được đem ra tán tụng, bình phẩm trên các diễn đàn văn học, trong các buổi họp mặt quy tụ những “tao nhân mặc khách”.

 

4/ Viết không khéo dễ thành vè hoặc “cây dị chủng trong vườn thơ”

5/ Dù có tâm đối cảnh, đã là thơ nhưng là thứ thơ khô cứng, ít chất tình.

 

Kết Luận

 

Nếu cho rằng Bến Bờ Thi Ca là nơi tụ hội những bài thơ có kỹ thuật thơ vững vàng, được viết trong lúc thi sĩ “lạc thần trí” (cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí), lời thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ, thì thơ trí tuệ - do thấm đẫm lý trí – nên trong cuộc chạy đua về Bến thường ở phía sau và không thể nào đến đích.

 

04/2020

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

                                                                                                                             

 

CHÚ THÍCH:

 

1/

 

“Emily Dickinson is one of America’s greatest and most original poets of all time. She took definition as her province and challenged the existing definitions of poetry and the poet’s work. Like writers such as Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, and Walt Whitman, she experimented with expression in order to free it from conventional restraints.”

https://www.poetryfoundation.org/poets/emily-dickinson

 

2/

 

A Freight of Feathers – 50 Brief Poems by Emily Dickinson

 

(Trang 1, dòng 16)

https://briefpoems.wordpress.com/tag/emily-dickinson/

 

3/

 

Theo Wikipedia (https://en.wikipedia.org/wiki/Emily_Dickinson) thì

 "The Emily Dickinson Museum indicates only one letter and ten poems were published before her death".

Viện bảo tàng Emily Dickinson cho biết chỉ có một lá thư và 10 bài thơ được xuất bản trước khi bà chết.

 

 

4/

 

Tác giả không đặt tựa nên câu đầu tiên được lấy làm tựa cho bài thơ

 

5/

 

https://www.edickinson.org/editions/1/image_sets/236634

 

6/

 

Cánh Đồng - Một Bài Thơ Lạ, Phạm Đức Nhì

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/12/canh-ong-mot-bai-tho-la.html

 

7/

 

Sông Lấp - Một Bài Thơ Toàn Bích, Phạm Đức Nhì

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/05/song-lap-mot-bai-tho-toan-bich.html

 

8/

 

Mười bài thơ hay nhất của Emily Dickinson:

 

1.     "I taste a liquor never brewed"

2.     "Success is counted sweetest"

3.     "Wild nights - Wild nights!"

4.     "I felt a Funeral, in my Brain"

5.     "I'm Nobody! Who are you?"

6.     "'Hope' is the thing with feathers"

7.     "A Bird, came down the Walk"

8.     "Because I could not stop for Death"

9.     "My Life had stood - a Loaded Gun"

10.   "Tell all the truth but tell it slant"

https://www.publishersweekly.com/pw/by-topic/industry-news/tip-sheet/article/67591-the-10-best-emily-dickinson-poems.html

 

9/

 

EM CÒN TRẺ VÀ EM KHÔNG THỂ BIẾT

 

Em còn trẻ và em không thể biết

Người ta sống lại khi đã chết

Những người yêu nhau thường cách biệt

Những người ghét nhau ở bên nhau

Em còn trẻ và em không thể biết

Những cây cối bên đường cũng khổ đau

Khi chúng đứng một mình trong gió rét

Hay khi chúng chụm đầu chen chúc nhau

Em còn trẻ và em không thể biết

Lúc nào nên kết thúc lúc nào nên bắt đầu

 

Nguyễn Đức Tùng

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/03/em-con-tre-va-em-khong-biet-cua-nguyen.html

 

ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN

              

Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi

có con người sống mà như qua đời

có câu trả lời biến thành câu hỏi

có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới

có cha có mẹ có trẻ mồ côi

có ông trăng tròn nào phải mâm xôi

có cả đất trời mà không nhà ở

có vui nho nhỏ có buồn mênh mông

mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ

mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió

có thương có nhớ có khóc có cười

có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.

 

Nguyễn Trọng Tạo - 1992

https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/07/ve-bai-tho-ong-dao-cho-nguoi-lon.html

 

 

TRÒ CHƠI CỦA ẢO GIÁC

 

Không. Bàn tay chúng ta chuyển động. Không. Cái ly chuyển động

Không. Rượu chuyển động. Không. Đôi chân chúng ta chuyển động .Không.

Con tàu chuyển động. Không. Nhà ga chuyển động

Không. Thành phố chuyển động. Không. Con cá bơi

Không. Nước bơi. Không. Dòng sông bơi .Không.

Con chim bay. Không. Cái cây bay. Không. Bầu trời bay

 

Không. Tất cả không.Chỉ cái chết chuyển động

Và mang theo chúng ta.

(Nguyễn Quang Thiều, thivien.net)

https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Quang-Thi%E1%BB%81u/Tr%C3%B2-ch%C6%A1i-c%E1%BB%A7a-%E1%BA%A3o-gi%C3%A1c/poem-3ysgOJNDdK1omRDpL6_TRQ

 

 

THAM KHẢO:

 

https://en.wikipedia.org/wiki/Emily_Dickinson

http://academic.brooklyn.cuny.edu/english/melani/cs6/dickinson.html


Thứ Năm, 27 tháng 2, 2020

“I AM NOT YOURS” - DẤU HIỆU CỦA MỘT CUỘC TÌNH TAN VỠ


             “I AM NOT YOURS” - DẤU HIỆU CỦA MỘT CUỘC TÌNH TAN VỠ   
          

Lời Nói Đầu

Vào 2 thập niên đầu của thế kỷ 20, trong khi phụ nữ Việt Nam đang phải đeo trên cổ cái gông “tam tòng tứ đức” của đạo Khổng, phải chấp nhận sống cảnh “chồng chúa vợ tôi”, thì ở Mỹ Sara Teasdale cũng đã phải đau đớn thốt lên với người đàn ông mình yêu: “Em không phải là vật sở hữu của anh” (I Am Not Yours).

Dĩ nhiên, nếu không nhờ tài thơ của tác giả thì dù ý tưởng có hay, có cấp tiến đến đâu chăng nữa I AM NOT YOURS cũng không thể “sống lâu lên lão làng” và còn được người yêu thơ ở Mỹ (và cả trên thế giới) yêu mến và trọng vọng đến ngày hôm nay.

Xin chia sẻ đến những người yêu thơ Việt Nam, đặc biệt là chị em phụ nữ, tâm tình của một nữ sĩ người Mỹ đầy cá tính.


I AM NOT YOURS

I am not yours, not lost in you
Not lost, although I long to be
Lost as a candle lit at noon
Lost as a snowflake in the sea

You love me, and I find you still
A spirit beautiful and bright
Yet I am I, who long to be
Lost as a light is lost in light

Oh plunge me deep in love – put out
My senses, leave me deaf and blind
Swept by the tempest of your love
A taper in a rushing wind

Sara Trevor Teasdale (1884-1933)


EM KHÔNG PHẢI LÀ (VẬT SỞ HỮU) CỦA ANH


Em không (vật sở hữu) của anh, không mất trong anh
Không mất, mặc dù em ao ước được
Mất như ngọn nến cháy lúc giữa trưa
Mất như bông tuyết trong biển cả

Anh yêu em, và em nhận thấy anh vẫn còn
Một tâm hồn đẹp và trong sáng
Nhưng emem, người khao khát được
Mất như một tia sáng bị mất trong ánh sáng

Ôi! Hãy nhận em chìm sâu trong tình yêu - lấy đi
Các giác quan, để em thành điếc và mù
Được cuốn theo cơn bão của tình anh
Như cây nến mảnh mai (1) giữa cơn gió mạnh
(Tự dịch)


Vài Nét Về Tác Giả Tác Phẩm

Sara Teasdale sinh ngày 08/08/1884 tại St. Louis, Missouri, USA, là con út trong một gia đình trung lưu. Do thể chất yếu đuối, bệnh hoạn nên từ nhỏ cho đến trưởng thành mọi việc sinh hoạt thường nhật cũng như học hành đều phải có người ở sát bên chăm sóc giúp đỡ.

Mọi người trong gia đình xem bà như một “đứa bé suốt đời” (everlasting child), không phải động móng tay để tự chăm sóc chính mình chứ đừng nói đến phụ giúp việc vặt trong nhà hoặc lăn lóc mưu sinh. Mãi đến 10 tuổi mới được đi học ở một ngôi trường gần nhà; tốt nghiệp bậc trung học ở Hosmer Hall năm 19 tuổi (1903).

Năm 30 tuổi (1914) nghĩ đến việc lập gia đình thì Sara Teasdale có 2 lựa chọn. Một là Vachel Lindsay, không giầu có nhưng cũng là thi sĩ và yêu bà say đắm; hai là Ernst Filsinger, một người ngưỡng mộ thơ bà và có cơ sở kinh doanh vững chắc, tài chánh dồi dào. 

Muốn có một cuộc sống ổn định về tinh thần, tài chánh, hơn nữa, còn được sự tán đồng của cha nên bà đã chọn Ernst Filsinger. Hai người tổ chức đám cưới vào ngày 19/12/1914 (2).  Để vợ khỏi “động chân, động tay” Ernst Filsinger đã dọn đến một “residential hotel” – khách sạn được thiết kế đặc biệt để khách có thể ở (lâu dài) như nhà riêng của mình.

Họ sống với nhau không được suôn sẻ lắm. Chỉ trong nửa đầu năm 1918 bà đã bỏ nhà đi 5 lần (3). Những năm sau đó, do đòi hỏi của công việc Ernst Filsinger thường phải đi xa dài ngày, bỏ bà ở nhà cô đơn với chứng bệnh trầm cảm.

 Năm 1929 hai người ly dị. Năm 1931 người tình cũ Vachel Lindsay của bà tự tử; năm 1933 bà cũng tìm cái chết bằng thuốc ngủ, thọ 48 tuổi.

Bà làm thơ và được người đọc công nhận, khen ngợi thi tài từ lúc còn trẻ. I AM NOT YOURS được đưa vào tuyển tập Rivers To The Sea (Sông Ra Biển) xuất bản năm 1915.  Đó là tập thơ bán rất chạy, được tái bản nhiều lần.  Năm 1917 bài thơ được tuyển chọn in trong tập Love Songs (Thơ Tình - phổ thành ca khúc) và năm 1918 tập thơ này đã giúp bà đoạt giải Pulitzer (về thơ), một giải Văn Học Nghệ Thuật cao quý nhất nước Mỹ. Sinh thời, kể cả Sông Ra Biển và Thơ Tình, bà đã xuất bản tổng cộng 7 tập thơ.

Mới đây (27/03/2017) Hillary J. Ridgley đã bảo vệ thành công luận án Tiến Sĩ tại Khoa Âm Nhạc, Đại Học Tiểu Bang Florida (4). Trong luận án đó tác giả phân tích có chú giải về cấu trúc nhạc hợp xướng từ 71 bài thơ của Sara Teasdale.

Bài I AM NOT YOURS của bà được ít nhất 5 nhà soạn nhạc (composer) soạn thành nhạc hợp xướng (5) và được nhiều dàn nhạc hợp xướng nổi tiếng trình diễn.

Nói thế để thấy rằng thơ của Sara Teasdale nói chung và bài IAM NOT YOURS nói riêng, ở thời điểm này vẫn được cả giới hàn lâm lẫn công chúng Mỹ yêu chuộng và ca ngợi.


Qua Giọng Điệu Cảm Nhận Tứ Thơ

Ngay ở câu đầu của bài thơ tác giả đã biểu lộ tâm trạng bất mãn, pha chút cay đắng và buồn bực của mình.

Em không (vật sở hữu) của anh, không mất trong anh
Không mất, mặc dù em ao ước được
Mất như ngọn nến cháy lúc giữa trưa
Mất như bông tuyết trong biển cả

và ở đoạn thơ thứ 2:

Anh yêu em, và em nhận thấy anh vẫn còn
Một tâm hồn đẹp và trong sáng
Nhưng em là em, người ao ước được
Mất như một tia sáng bị mất trong ánh sáng

Bà không muốn bị đối xử như một món đồ, một vật sở hữu của người khác, không muốn vì hôn nhân mà phải đánh mất chính mình (không mất trong anh). Bà sẵn sàng chịu mờ khuất như ngọn nến cháy lúc giữa trưa, như một tia sáng “bị mất” trong “vùng ánh sáng khác” (một “tia đèn pin nhỏ” lẫn trong vùng ánh sáng của đèn pha chẳng hạn). 

Nếu ánh nắng mặt trời bị che khuất, “vùng ánh sáng khác” bị dời đi thì ngọn nến vẫn có sức nóng và độ sáng của riêng mình, tia sáng (của đèn pin) vẫn có khả năng tỏa sáng – Sara Teasdale vẫn giữ được bản sắc, cá tính riêng. Đây là thông điệp của bài thơ.

Nhưng tại sao bà lại bất mãn và buồn bực?

Vào tháng 8/1914 bà đã lên tiếng chấp nhận tình yêu của Ernst Filsinger và sau đó viết bài thơ JOY (VUI MỪNG) (6) để bày tỏ niềm vui được yêu và cũng để đẹp lòng chàng. Dĩ nhiên sau đó phải có những cuộc trao đổi, bàn luận về cuộc sống chung vợ chồng giữa một “đứa bé suốt đời” và một thương gia giầu có. Lúc ấy, không phải “ga lăng” để lấy lòng bạn gái như trong thời gian tán tỉnh, chàng Ernst, với quyền lực của đồng tiền trong tay, thế nào chẳng ít nhiều lên giọng “chủ cả”.

Là một phụ nữ nhạy cảm, Sara Teasdale thấy được điều đó nhưng đã lỡ. Không đến nỗi như ”ván đã đóng thuyền” nhưng trong bối cảnh xã hội bảo thủ của Mỹ lúc bấy giờ vùng vẫy để thoát ra những ràng buộc mà bà đã dính líu cũng không phải dễ dàng.

Chính vì thế mà ngày 04/12/1914, 2 tuần lễ trước đám cưới, bà đã viết I AM NOT YOURS để giải tỏa nỗi bứt rứt, buồn bực và trình bày quan niệm của mình về vai trò của người phụ nữ trong tình yêu và hôn nhân. Thông tin về thời điểm sáng tác bài thơ (được Hilary J. Ridgley tra cứu kỹ lưỡng cho luận án của mình) sẽ giúp xác định rõ một điều: Bài thơ viết cho Ernst Filsinger - người chồng sắp cưới - chứ không phải cho anh chàng Vachel Lindsay – vì nghèo nên đành chịu thua trong cuộc chạy đua chinh phục người yêu.

 Bà cũng rất khéo léo dùng đoạn cuối như một thủ thuật ngoại giao kêu gọi chàng hãy yêu mình cuồng nhiệt và say đắm.

Ôi! Hãy nhận em chìm sâu trong tình yêu - lấy đi
Các giác quan, để em thành điếc và mù
Được cuốn theo cơn bão của tình anh
Như cây nến mảnh mai giữa cơn gió mạnh

Trước là để dịu lòng chàng qua 2 đoạn thơ “sẵng giọng”, không nể mặt.  Sau là bằng biện pháp tu từ ví von (simile) hỗ trợ cho 2 đoạn đầu, tăng thêm sức thuyết phục cho thông điệp của tứ thơ.

“Dù có được cơn bão tình của chàng cuốn đi bà cũng như thân cây nến mảnh mai - vẫn còn đó, nếu đốt lên vẫn có thể tỏa nhiệt, tỏa sáng cho cuộc đời”.

Khoảng Cách Tình Cảm Giữa “Anh, Tôi” Và “Anh, Em”

Trong tiếng Anh, đại từ để xưng hô giữa mình với “ngôi thứ hai” - người đang đối thoại với mình, bất kể ông bà cha mẹ, chú bác, cô dì, già trẻ, lớn bé, xa lạ hay thân quen… tất tật, đều xưng “I” và gọi người kia là “YOU”. 

Với tiếng Việt, khi chọn đại từ để xưng hô là đã kín đáo bày tỏ sự tôn trọng hay coi thường, thân mật, gần gũi hay xã giao, xa cách. Vì thế trong bài thơ này, trên văn bản tôi đều dịch là “em, anh” để phù hợp với ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, nhưng dựa vào cảm xúc trong giọng điệu, tôi đã hiểu là “tôi, anh” ở đoạn đầu,  “em, anh” ở phần đầu đoạn 2 và đoạn cuối. Riêng nhóm chữ “Yet I am I” ở câu 3 đoạn 2, theo tôi, hiểu là “Nhưng tôi là tôi” (sẵng giọng) thì hợp cảnh, hợp tình hơn.


Thể Thơ

Bài thơ gồm 12 câu, không nhất khí liền mạch, được chia làm 3 đoạn, mỗi đoạn 4 câu – là một ý nhỏ riêng biệt, độc lập về mặt cấu trúc (structure). Tiếng Anh thuộc loại đa âm nên xét về âm tiết thì, mặc dù số chữ khác nhau, mỗi câu đều có 8 âm tiết, đọc lên nghe giống “Thơ Mới” trường thiên, mỗi câu 8 chữ của Việt Nam. Độc giả có thể nghe đọc diễn cảm bài thơ theo link sau đây: https://www.youtube.com/watch?v=znKv62NgGUw

Độc giả cũng có thể nghe I AM NOT YOUR được phổ thành nhạc hợp xướng theo links dưới đây:
https://www.youtube.com/watch?v=9d4chzQOLa0 (David And Childs/Ypsilanti Community Choir)
https://www.youtube.com/watch?v=i5YXjzA9KKY (Z.Randall Stroope, The NUSChoir)

Vần

 Trong hai đoạn đầu, câu 2 vần với câu 4, đoạn 3 không gieo vần. Cả bài 96 âm tiết (syllables) chỉ có hai cặp vần (be, sea – bright, light). Không có vần nối kết hai đoạn liên tiếp. Như vậy, xét về âm điệu thì vần -  theo cách nhìn của người thưởng thức thơ Việt Nam – hơi bị nhạt. Đặc biệt khi đọc xong đoạn cuối (không vần), sự trở về chủ âm của giai kết hoàn toàn trong tính nhạc không được “êm” lắm.

Ngôn Ngữ Thơ

Ngôn ngữ thơ đơn giản, tượng hình, dễ hiểu, khéo léo đặt đúng chỗ nên ý nghĩa sâu sắc.

Biện Pháp Tu Từ

Bài thơ sử dụng 4 phép so sánh (simile), trong đó tác giả - một phụ nữ sắp bước vào hôn nhân – đã ví mình như:

1/ Ngọn nến thắp giữa trưa.
2/ Bông tuyết (tan) trong biển cả
3/ Tia sáng trong (một vùng) ánh sáng.
4/ Thân cây nến mảnh mai được “cơn bão tình” của người yêu cuốn đi.

Phép so sánh thứ 2 - ví mình như “bông tuyết trong biển cả” - sẽ bàn đến ở phần khuyết điểm. Còn 3 phép so sánh kia có thể nói là tuyệt vời vì rất tương hợp, ý nhị, sâu sắc và độc đáo. Đó là những bông hoa tươi đẹp giúp chiếc áo hình thức của bài thơ đẹp lộng lẫy. 


Cảm Xúc

Cảm xúc tầng 1 (khoái cảm mang đến cho độc giả bằng khả năng sử dụng câu chữ và các biện pháp tu từ): Tác giả đã rất thành công, đặc biệt là những câu ví von đã đưa cái đẹp của thơ ca lên đến đỉnh cao. Cảm xúc tầng 1 rất mạnh.

Cảm xúc tầng 2 (khoái cảm từ thế trận chữ nghĩa): Bố cục của bài thơ tương đối hợp lý. Cảm xúc tầng 2 khá mạnh.

Cảm xúc tầng 3 (cảm xúc đưa vào bài thơ nhờ sự rung động mạnh mẽ của tác giả trong lúc làm thơ): Sara Teasdale viết I AM NOT YOURS lúc tâm trạng bất mãn, bứt rứt, buồn bực dâng cao. Khối cảm xúc mạnh mẽ ấy cứ bám chặt lấy bà trong suốt thời gian viết bài thơ.

Ba đoạn thơ có hình tượng ví von khác nhau nhưng tuy ba mà một, đều bóng gió nói đến bản sắc, cá tính của người phụ nữ mà bà không muốn đánh mất trong hôn nhân. Đặc biệt hơn nữa, đây là bài thơ toàn bộc lộ, không chỗ nào kể lể giải thích, cả 96 chữ, chữ này nối tiếp chữ kia, đều nhắm vào chàng Ernst Filsinger mà xông tới. Nhờ thế cảm xúc cứ lững lờ trôi theo dòng ý tưởng của tứ thơ, chậm nhưng không đứt đoạn.

Khối cảm xúc “cao cấp” ấy tỏa hơi nóng không phải từ câu chữ mà từ đâu đó giữa những hàng kẻ, chỉ có thể nhận biết bằng sự nhạy cảm của tâm hồn. Đây là cảm xúc làm độc giả khoái nhất, sướng nhất. Do cấu trúc của thể thơ, cảm xúc tầng 3 khá mạnh nhưng vì không có cao trào nên chưa lên đến đỉnh điểm, chưa có hồn thơ. Nói đúng hơn là hồn thơ mới mon men xuất hiện nhưng chưa rõ nét.

Câu Thơ “Tréo Cẳng Ngỗng”

Khuyết điểm chính của bài thơ là câu:

“Lost as a snowflake in the sea”
(Mất như bông tuyết trong biển cả)

Bông tuyết khi rơi xuống mặt nước biển, chỉ một lúc sau sẽ tan thành nước. Nước từ bông tuyết có thể là loại nước ngọt chứ không mặn như nước biển, nhưng với một lượng quá nhỏ bé hòa lẫn với khối nước biển mênh mông cái chất ngọt ấy sẽ trở thành con số không và biến mất.

(Với tiếng Việt nếu dịch là “Mất như bông tuyết trên mặt biển” thì “dễ nghe” hơn, nhưng ở đây tôi dịch sát nghĩa để chữ “Mất” “rõ ràng” hơn theo đúng ý của tác giả).

Với bài thơ mang thông điệp “Đừng xem tôi như vật sở hữu của anh; hãy tôn trọng tôi, bởi tôi có bản sắc, cá tính riêng” mà đưa vào câu thơ “Mất như bông tuyết trong nước biển” – tôi hoàn toàn tan mất trong anh - thì đúng là “ông nói gà, bà nói vịt”. Đây là lỗi kỹ thuật rất nặng, làm giảm giá trị của bài thơ rất nhiều. 

Có điều hơi lạ là đọc khá nhiều bài “phân tích” I AM NOT YOURS trên mạng, tôi chưa thấy ai nhắc đến điều này. Ngay cả KellyrFineman, người bình thơ trong trang kellyrfineman,livejournal.com cũng viết:

I especially love her lines about wanting to be lost:
(Tôi đặc biệt yêu thích những câu thơ của bà về “muốn bị mất”) (tôi dịch là câu thơ - chứ không là “dòng” - để gần với văn Việt hơn)
. . . I long to be
Lost as a candle lit at noon,
Lost as a snowflake in the sea.

………..

Man, haven't we all been there at one point in time, so wrapped up in the emotion that we are lost? (Or didn't we at least want to be?) (7)
(Bạn ơi, chúng ta ai chẳng từng một lần như thế, để cảm xúc phủ mờ lý trí? Hay ít nhất chúng ta cũng đã muốn như thế?)

Tôi tự hỏi “Ông ấy yêu thích câu thơ ‘Lost as a snowflake in the sea’ nhưng không biết ông ấy có thấy nó ‘tréo cẳng ngỗng’ với tứ thơ hay không?” Bởi hình ảnh bông tuyết tan mất trong nước biển có thể sẽ rất sinh động, rất hay với một ý thơ khác, nhưng trong ngữ cảnh của I AM NOT YOURS thì lại không hợp, mà có thể nói là sai rất nặng.


Tóm lại, I AM NOT YOURS là một bài thơ xuất sắc. Ngoài lỗi kỹ thuật ở trên bài thơ đã thành công về nhiều mặt:
1/ Tứ thơ nhân bản, kêu gọi tôn trọng nữ quyền trong tình yêu và hôn nhân.
2/ Cách ví von tương hợp, ý nhị, sâu sắc và độc đáo.
3/ Ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu, cấu trúc thơ mạch lạc, hợp lý.
4/ Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 mạnh.
5/ Toàn bộc lộ, không kể nên cảm xúc khá đậm ở tầng 3. Hồn thơ đã mon men xuất hiện.

Kết Luận

Nếu đọc kỹ giữa hai hàng kẻ, I AM NOT YOURS đã bộc lộ 4 điểm (không có trên văn bản):

1/ Ernst Filsinger, trong thời gian (4 tháng) chuẩn bị đám cưới và cuộc sống tương lai của 2 người, đã lên mặt “chủ cả”.
2/ Sara Teasdale bất mãn và buồn bực về điều này.
3/ Ernst yêu Sara nhưng chưa đến mức nàng mong muốn.
4/ Nàng cũng chưa yêu Ernst hết lòng.

Dựa vào 4 điểm trên, tôi nghĩ mình sẽ không lầm khi cho rằng I AM NOT YOURS xuất hiện như dấu hiệu của một cuộc tình tan vỡ.

PHẠM ĐỨC NHÌ
nhidpham@gmail.com


CHÚ THÍCH:

1/ A taper (slender candle – cây nến mảnh mai): Ở đây tác giả muốn nói đến “thân cây nến” chứ không phải “ánh sáng của cây nến”. Một số người dịch là “ngọn nến nhỏ nhoi” hay “cây nến nhỏ bập bùng”, thì theo tôi, không hợp với bài này.

2/ “An Annotated Analysis of the Choral Settings of Sara Teasdale's Literary 'Songs'
(Phân Tích Có Chú Giải Về Cấu Trúc Nhạc Hợp Xướng Phổ Từ Thơ Của Sara Teasdale)
(Hilary J. Ridgley, Trang 70, dòng 14)

3/ Hilary J. Ridgley, sách đã dẫn, trang 19 dòng 13)

4/An Annotated Analysis of the Choral Settings of Sara Teasdale's Literary 'Songs' Hillary J. Ridgley

5/

           Tựa /         Nhà Soạn Nhạc /             Ban Hợp Xướng

I Am Not Yours      Chatman, Stephen  /    SATB, SSAA, TTBB ECS Publishing
I Am Not Yours      Childs, David N.      /     SATB, SSAA SBMP
I Am Not Yours       Dickau, David C.   /      SSAATTBB Walton Music
I Am Not Yours       Johnson, Victor C.  /    SSA Choristers Guild
I Am Not Yours      Stroope, Z. Randall  /   SSATBB Walton Music

(Hilary J. Ridgley, sách đã dẫn, trang 251, dòng 35-39)

6/

Một đoạn của Joy:

JOY
I am wild, I will sing to the trees,
I will sing to the stars in the sky,
I love, I am loved, he is mine,
Now at last I can die!

Dịch sát nghĩa:

Tôi như hoang dại, sẽ hát cho cây cỏ nghe
Sẽ hát cho sao trên trời
Tôi yêu, tôi được yêu, anh ấy là của tôi
Bây giờ cuối cùng tôi có thể chết được rồi

 (Hilary J. Ridgley, sách đã dẫn, trang 79, dòng 1-5)

7/ (Kellyrfineman, I am Not Yours by Sara Teasdale, Livejournal) (https://kellyrfineman.livejournal.com/592051.html)



THAM KHẢO:

Sara Teasdale – Poetry Foundation (Hội Thơ Và Thi Sĩ)

An Annotated Analysis of the Choral Settings of Sara Teasdale's Literary 'Songs'
(Phân Tích Có Chú Giải Về Cấu Trúc Nhạc Hợp Xướng Phổ Từ Thơ Của Sara Teasdale)
(Hilary J. Ridgley)


Sara Teasdale - Wikkipedia Tiếng Việt (https://vi.wikipedia.org/wiki/Sara_Teasdale)


Academy of American Poets (Hội Thi Sĩ Mỹ)

Poem Analysis (phân tích, bình thơ)

I AM NOT YOURS – thivien.net

Trang Thơ Hoàng Nguyên Chương