TRAO ĐỔI VỀ “BÀI THƠ” ĐỒNG
DAO CHO NGƯỜI LỚN
(Phần 2)
Sau đó trên trang Vũ Nho Ninh Bình TS Vũ Nho
viết mấy lời giới thiệu rồi gom những trao đổi giữa ông và tôi thành một bài mới
với cái tựa Thảo Luận Bài ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN Của Nguyễn Trọng Tạo. Dưới đây
là lời giới thiệu:
vunhonb.blospot.com Sau khi chúng tôi đưa
lên trang bài của tác giả Phạm Đức Nhì về bài " Đồng dao cho người lớn"
của Nguyễn Trọng Tạo, (ngày 14 tháng Bảy năm 2018) kèm nhận xét ở phần cuối;
tác giả Phạm Đức Nhì đã có phản hồi trao đổi lại. Tôi nghĩ đây là vấn đề lí thú
nên đưa lên đây như là một chủ đề, mời mọi người cùng đọc và trao đổi.
Và TS Vũ Nho viết bình luận tiếp theo:
Cám ơn anh Phạm Đức Nhì đã hồi âm về nhận xét của tôi!
Việc tranh luận học thuật là bổ ích. Tôi và anh
không nhằm mục đích THẮNG/THUA. Chúng ta tranh luận là để nhận thức đúng hơn,
sâu hơn về vấn đề được quan tâm. Ai cũng tin vào nhận thức của mình và quan điểm
mình bảo vệ. Đó là điều bình thường.
Xin vắn tắt một chút về THƠ và VÈ. Anh so sánh Y tá lành nghề với Bác
sĩ. Kết luận đó là 2 đẳng cấp cũng như Vè và Thơ là 2 đẳng cấp. Chỗ này anh có
một ngộ nhận lớn.
Y tá và Bác sĩ là 2 chức danh cùng ngành y. Y tá đào tạo ngắn
hạn. Bác sĩ đào tạo dài hạn. Nhưng Thơ và Vè không phải như vậy. Vè là thể loại,
Ca dao (thơ dân gian) là một thể loại khác. Không thể ví như Y tá với Bác sĩ.
Hai thể đó bình đẳng với nhau, không có cao hay thấp.
Anh có biết rằng trong
sách giáo khoa Ngữ văn, Vè được trích học ngang hàng với ca dao, với thơ (những
bài hay nhất). Bài "Vè con dao", "Vè rau" thuộc loại những
viên ngọc của thơ ca dân gian (Bác Vũ Nho có học vị PGS, Tiến Sĩ). Việc chê Thơ
dở như Vè là cách chê nôm na, dân dã có tính chất khẩu ngữ. Không thể dựa vào
đó để bình giá chất lượng một bài Vè đặc sắc hay bài Thơ đặc sắc được.
Tôi đã khẳng định một bài VÈ hay quý hơn một bài THƠ dở. Vì vậy anh cố
công chứng minh bài "Đồng dao cho người lớn" là một bài Vè sẽ không ảnh
hưởng mấy đến chất lượng của nó. Cốt là bạn đọc thấy ĐDCNL hay!
Trả Lời Của Phạm
Đức Nhì
Giữa vè và thơ
có thêm 2 khác biệt nữa:
1/ Trong vè ý tưởng bừa bộn, như trong đồng
dao “không thành chương khúc”. Trong thơ có thế trận chữ nghĩa, “đấu pháp toàn
đội” mà dân phê bình thường gọi là cấu tứ.
Hồi tiểu học
tôi mê túc cầu. Mẹ mua cho trái banh, thường rủ mấy đứa cùng trang lứa ra khu đất
trống chia làm 2 phe “chiến đấu”. Cũng cởi áo ra làm mốc khung thành đàng hoàng
nhưng khi banh lăn thì mạnh ai nấy đá, “hồn ai nấy giữ”. Có banh trong chân là
cứ một mình thẳng tiến khung thành đối phương.
Lớn lên mới biết
chơi như thế không hiệu quả. Đội banh phải biết phối hợp công thủ, tiếp ứng để
vừa không cho đối phương chọc thủng lưới mình vừa tạo cơ hội cho hàng tiền đạo
chọc thủng lưới đối phương.
Có “đấu pháp
toàn đội” thơ hơn hẳn vè ở mặt tổ chức.
2/
Vè không có cảm xúc, trong khi với thơ, cảm xúc không thể thiếu; cảm xúc đóng
vai trò quan trọng đối với sự thành bại của bài thơ. Đến với vè, hiểu được ý của
tác giả rồi … thôi. Đến với thơ, “bắt” được tứ thơ còn vương vấn chữ … tình.
TS Vũ Nho:
Chỗ này anh Nhì lại nói không có căn cứ rồi. Tại
sao trong VÈ ý tưởng lại "bừa bộn"? Anh căn cứ vào tài liệu nào mà quả
quyết như vậy? Vè chỉ khác thơ dân gian (ca dao) ở chỗ về giàu yếu tố tự sự ( kể
chuyện). Vẻ chàng Lía, Vè thất thủ kinh đô... kể chuyện chàng Lía, chuyện kinh
đô thất thủ... Tác phẩm Vè hay vẫn cần mạch lạc, nhất quán.
Làm gì có chuyện
"ý tưởng bừa bộn"? Anh đọc lại bài vè Rau và và vè CON DAO xem chỗ
nào thể hiện "ý tưởng bừa bộn"? Anh nói "vè không có cảm
xúc" lại là nói lấy được! Bất cứ một tác phẩm văn chương nào, dù thể loại
gì, cũng được tạo ra trong cảm xúc của người sáng tạo.
Có điều có loại cảm xúc
"lặn vào trong", có loại cảm xúc "bong ra ngoài"; có loại cảm
xúc mãnh liệt, có loại cảm xúc vừa phải; có cảm xúc trào tuôn, có cảm xúc kìm
nén. Sao lại bảo chỉ đến với THƠ mới vương vấn chữ TÌNH, còn với VÈ, (hoặc các
thể loại khác) thì...thôi? Tôi cảm thấy anh Phạm Đức Nhì vẫn sai lầm khi coi
THƠ cao hơn VÈ, chỉ có THƠ là có "đấu pháp toàn đội", còn VÈ thì
không. Nhưng bài thơ dở thì tìm đâu ra "đấu pháp toàn đội"?
Phạm Đức Nhì Trả Lời:
Một Vài Tra Cứu Về Đặc Tính Của Vè
Để nói có sách, mach có chứng, tôi đã vào một
số trang Web Văn Học và ghi lại mấy nhận xét về đặc tính của vè như sau đây:
1/ Theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, vè là chuyện
khen chê có ca vần.
2/ Những người
đặt vè, bẻ vè, nói vè phần nhiều thuộc tầng lớp dưới trong xã hội.
3/ Vè mang tính
thời sự, các sự kiện trong quá khứ ít được vè quan tâm. Vè xuất hiện tức thời,
nắm bắt nhạy bén sự việc, sự kiện, ghi nhanh, rồi truyền đi để gây dư luận.
4/ Vè
xuất hiện nhằm đáp ứng sự phản ánh tức thời một sự việc, sự kiện, ngôn ngữ vè mộc
mạc, đơn giản, không trau chuốt, gọt dũa, phần lớn các bài vè lại có vận mệnh
ngắn ngủi.
5/ Phần lớn các bài vè lại có vận
mệnh ngắn ngủi, thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức hoàn chỉnh, trau
chuốt ít có được.
Kết hợp lại cho dễ hiểu, những
người nghiên cứu về vè, viết về vè có những nhận xét sau đây:
1/ Những người đặt vè, bẻ vè,
nói vè phần nhiều thuộc tầng lớp dưới trong xã hội.
Vì là tầng lớp dưới của xã hội
nên tác giả của vè về kiến thức và “tay nghề” văn chương thường non nớt nếu so
sánh với các thi sĩ làm thơ. Ở cái thời vè phát sinh và sau đó là phát triển,
thi sĩ làm thơ phần nhiều thuộc giới khoa bảng, thành đạt trên đường học vấn.
Hoặc nếu lận đận bước đường thi cử thì cũng là những Ông Đồ làu thông kinh sử,
nắm vững quy luật sáng tác các thể loại kinh nghĩa, chiếu, biểu, phú, văn sách
… và đặc biệt là các loại thơ.
2/ Vè là chuyện khen chê có ca vần;
chuyện xuất hiện tức thời, mang tính thời sự, tác giả nắm bắt nhạy bén sự việc,
sự kiện, ghi nhanh rồi truyền đi để gây dư luận.
Mục đích của vè là truyền sự việc,
sự kiện thật nhanh cho “kịp thời vụ”; giá trị nghệ thuật là thứ yếu, có thì tốt,
không có cũng không sao. Viết vè là kể chuyện bằng văn vần nên thường kể hết
chuyện thì thôi, không có đoạn kết. Nếu có thì cũng nhạt phèo, không gây ấn tượng.
Thí dụ 1: Vè Rau. “Nghe vẻ nghe
ve – Nghe vè các rau”, cứ thế kể đến loại rau cuối “Giục ngựa buông cương – Là
rau mã đề” thì hết.
Thí dụ 2: Vè Chàng Lía
Bài vè rất dài (134 câu), âm điệu
lục bát, à ơi nghe rất chán. Đoạn kết thì nhạt nhẽo, “có cũng như không”
Chuyện Lía nay kể như y
Giúp vui cô bác một khi việc rồi
Đầu đuôi có thế mà thôi
Xin chào chư vị, quê tôi tôi về.
3/ Ngôn ngữ vè mộc mạc, đơn giản,
không có đủ thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức trau chuốt, hoàn chỉnh.
“Đội bóng vè”, vì thời gian gấp
rút, tiếp nhận cầu thủ một cách vội vàng, thiếu huấn luyện, thao dợt nên dàn cầu
thủ thô ráp, xô bồ, trong khi “đội bóng thơ”, không bị áp lực thời gian, tuyển
lựa cầu thủ kỹ càng hơn, được huấn luyện, thao dợt chung để có sự ăn ý với đồng
đội, sau đó còn tuyển đi chọn lại trước khi ra sân thi đấu. Nói rõ hơn, “đội
bóng vè” là đội thành lập vá víu để đá “chầu”, đá theo “phong trào”, “đội bóng
thơ” là đội tuyển, đã có tính chuyên nghiệp.
Thêm vào đó, những thủ pháp nghệ
thuật của thơ (ẩn dụ toàn bài, “Gợi, Không Kể”), những đấu pháp toàn đội (cấu tứ)
đặc biệt để tạo bất ngờ, tăng sức hấp dẫn cho “lối đá” của các “đội bóng thơ” –
do không đủ thời gian và trình độ của “huấn luyện viên” chưa “tới” – nên các “đội
bóng vè” đành cho qua.
4/ Kết quả là phần lớn các bài
vè có vận mệnh ngắn ngủi.
Tính thời sự là cốt tủy của bài
vè. Rất nhiều bài vè, do mất tính thời sự, không còn “hợp thời”, rủ nhau đi vào
quên lãng. Dĩ nhiên, cũng có những bài vè còn sống sót. Nhưng lý do để được sống
sót phần lớn là nhờ tính lịch sử của những sự kiện, sự việc được lưu truyền (Vè
Chàng Lía), cực hiếm có trường hợp do giá trị nghệ thuật của bài vè. Ngoài ra,
một số vè còn đang được lưu truyền, cất giữ là để làm tư liệu, tài liệu trong
giáo dục văn học, đặc biệt trong những tác phẩm nghiên cứu Văn Học Sử lớn, bao
gồm những giai đoạn lịch sử mà vè được phát sinh và phát triển.
Trích Dẫn Mấy Bài Vè
VÈ RAU
Ve
vẻ vè ve
Nghe vè các rau
Thứ ở hỗn hào
Là rau ngành ngạnh
Trong lòng không chánh
Vốn thiệt tâm lang
Đất rộng bò ngang
Là rau muống biển
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Có mẹ không cha
Rau má mọc bờ
Thò tay sợ dơ
Nó là rau nhớt
Ăn cay như ớt
Vốn thiệt rau răm
Sống trước ngàn năm
Là rau vạn thọ
Tánh hay sợ vợ
Vốn thiệt rau co
Làng hiếp chẳng cho
Đó là rau húng
Lên chùa thờ cúng
Thiệt dạ hành hương
Giục ngựa buông cương
Là rau mã đề
VÈ BÌNH DÂN HỌC VỤ
Lẳng lặng mà nghe
Cài vè học vụ
Đồng bào mù chữ
Ở khắp mọi nơi
Chiếm chín phần mười
Toàn dân đất Việt
Muôn bề chịu thiệt
Chịu đui, chịu điếc
Đời sống vùi dập
Trong vòng nô lệ
Hơi đâu mà kể
Những sự đã qua
Chính phủ Cộng hòa
Ngày nay khác hẳn
Đêm ngày lo lắng
Đến việc học hành
Mấy triệu dân lành
Còn đương tăm tối
Bị đời hất hủi
Khổ nhục đáng thương
Ngơ ngác trên đường
Như mù không thấy
Những điều như vậy
Không thể bỏ qua
VÈ THỊT CHUỘT
Nghe vẻ
nghe ve
Nghe vè thịt chuột
Đứa nào ở đó
Bắt nước cạo lông
Đứa nào ở không
Đi mua đồ nấu
Đứa nào xấu xấu
Xắt sả nạo dừa
Đứa nào không ưa
Thì đi chỗ khác
Kiên tâm một lát
Là có món ăn
Đừng làm lăng xăng
Người ta đàm tiếu
" Con chuột nhỏ xíu
Sáu bảy người ăn"
Cảm Xúc Trong Văn, Thơ, Và Vè
Do thi sĩ ngày càng ít câu nệ về
mặt hình thức nên khoảng cách giữa thơ và văn xuôi, có thể nói, ngày càng giống
như sợi tơ mong manh, không rạch ròi như xưa. Nhưng có một sự khác biệt rất rõ
nét – không thể nhập nhòe - là cảm xúc.
Nhiệm vụ chính của văn xuôi là
chuyển tải thông điệp. Cảm xúc cũng có thể có đấy, nhưng chỉ là sản phẩm phụ,
không có cũng không sao. Hợp đồng thương mại, án quyết của tòa là những thí dụ.
Còn với thơ, cảm xúc là cốt tủy.
Thông điệp của thơ nhiều khi chỉ là cái cớ, là phương tiện để nhà thơ bày tỏ
tâm trạng, cảm xúc của mình. Thiếu cảm xúc - thứ cảm xúc của cái tôi riêng tư -
thơ sẽ trở thành một chủng loại khác chứ không còn là thơ nữa.
Riêng với vè, nó là văn vần
nhưng khác văn xuôi thêm một điểm là tuyệt nhiên không có cảm xúc của cái tôi
riêng tư. Người viết vè kể chuyện nhưng là kẻ bàng quan, đứng ngoài câu chuyện
của bài vè.
Ba Trạng Thái Tâm Lúc Làm Thơ
1/
Tranh cãi, tranh luận, phản biện, nói lý lẽ:
Với tâm thái này nếu tác giả biết đưa cái tôi
riêng tư vào khung cảnh của cuộc tranh cãi thì tác phẩm, dù có hơi khô khan, vẫn
có chút ít cảm xúc, nên vẫn là thơ. Ngược lại, nếu không khéo, cứ sa đà vào lý,
để cái tôi riêng tư đứng ngoài làm kẻ bàng quan, thì tác phẩm sẽ là “cái gì đó”
chứ không phải là thơ.
Xin cử 2 bài của Thái Bá Tân để làm thí dụ.
MẮNG CON
Mày láo, dám khuyên bố
Mai không đi biểu tình.
Chuyện ấy có nhà nước,
Không liên quan đến mình.
Mày nói y như đảng.
Không liên quan thế nào?
Nước là của tất cả,
Của mày và của tao.
Biểu tình chống xâm lược,
Chứ có lật ai đâu.
Không lẽ mày không biết
Cái dã tâm thằng Tàu?
Mày bảo có nhà nước.
Nhà nước hèn thì sao?
Mà ai cho nhà nước
Quyết việc này thay tao?
Xưa đánh quân Mông Cổ,
Vua còn hỏi ý dân.
Sao không thấy nhà nước
Xấu hổ với vua Trần?
Đành rằng thế mình yếu,
Phải thế nọ, thế này.
Nhưng ở đời, con ạ,
Mềm nắn, rắn buông ngay.
Bố biết con thương bố,
Lo cho bố, cảm ơn.
Con “biết sống”, có thể.
Xưa bố còn “biết” hơn.
Chính vì khôn, “biết sống”,
Tức ngậm miệng, vờ ngây,
Mà thế hệ của bố
Để đất nước thế này.
Ừ, bố già, lẩn thẩn,
Nhưng vẫn còn là người.
Mà người thì biết nhục,
Biết xấu hổ với đời.
Mai biểu tình, thế đấy.
Bố không bắt con đi,
Nhưng cũng đừng cản bố.
Cản cũng chẳng ích gì.
Rõ ràng ở đây có giọng tranh luận,
nói lý lẽ, giọng bố “dạy” con. Nhờ đóng vai bố, Thái Bá Tân đã đưa được cái tôi
riêng tư vào khung cảnh của bài Mắng Con. Bên cạnh lý, có tinh nên Mắng con
đích thị là thơ.
HÔM NAY XỬ WILL NGUYỄN, KHÓ ĐẤY
Kể cũng khó cho đảng.
Biết xử thế nào đây
Chàng Việt kiều Will Nguyễn?
Vấn đề là thế này:
Nếu tha, đuổi về nước
Thì sẽ vướng đồng bào.
Rất nhiều người bị bắt.
Nhà nước định tính sao?
Vì không thể có chuyện
Cùng một “tội” như nhau,
Người thì được tha bổng,
Người bị giam tù lâu.
Rồi các bác sẽ thấy,
Will Nguyễn sẽ được tha.
Không tha Mỹ nó oánh.
Cho nên ở nước ta
Thực sự đếch có luật.
Cứ mềm nắn rắn buông.
Thích gì cứ làm ấy.
Nôm na là diễn tuồng.
Cũng may mà da mặt
Của chính quyền khá dày,
Nên sẽ không xấu hổ.
Thì vẫn thế xưa nay./-
Thái Bá Tân
(Mới lưu truyền trên mạng)
Ở bài này ông cũng phân bua, cũng nói lý lẽ,
nhưng cái tôi riêng tư lại đứng ngoài khung cảnh của câu chuyện. Những điều ông
trình bày phát xuất từ “trí” chứ không phải “tâm” nên Hôm Nay Xử Will Nguyễn,
Khó Đấy không có chất tình, không phải là thơ. Theo tôi, nó cũng không phải là
vè. Là “cái gì đó” thì tùy độc giả chọn tên.
Như vậy gọi thơ của Thái Bá Tân là “vè thời đại”
có đúng không? Theo tôi, gọi thế là không đúng. “Thơ” Thái Bá Tân có hai loại:
Loại đúng là thơ như: Mắng Con, Lời Nhắn Của
Ông Thiệu, Thương Dân Hà Nội Gốc … thì phải gọi là thơ.
Loại “không phải thơ” như: Nói Thẳng, Trí Thức,
Khẩu Hiệu, Gửi Bác Trọng, Cách Chức, Không Muốn Mà Phải Nói, Phạm Nhật Vượng,
Không Lấy Chồng Việt Nam, Đừng Dây Với Việt Nam … thì miễn đừng gọi nó là thơ,
còn gọi là “cái gì đó” thì tùy mỗi người.
2/
Chia sẻ cảm xúc, tâm trạng:
Đây là tâm thái mà thi sĩ đã viết ra đại đa số
những bài thơ ta thường gặp. Tùy “tay nghề”, tùy trình độ kỹ thuật thơ, tùy mức
độ cao hứng, lượng cảm xúc trong bài thơ nhiều ít khác nhau.
3/
Nổi điên lên, xả hết dồn nén, uất ức, chất chứa trong lòng (Get it off your
chest):
Đây là loại tâm thái mà người bình thơ mỏi mắt
trông chờ. Ở vào trạng thái tâm này thi sĩ nói vung tít mẹt không còn giữ ý, giữ
tứ, không còn e ngại, sợ sệt. Cái tôi văn hóa bị lùa đi chỗ khác chơi để cái
tôi đích thực trọn quyền đạo diễn bài thơ.
Nếu kỹ thuật thơ đạt tới một trình độ
nào đó, bài thơ sẽ có hồn, lời thơ sẽ là tiếng lòng chân thật. Độc giả nếu may
mắn đọc bài thơ sẽ được vinh dự giao tiếp với tác giả bằng thứ Tiếng Người (viết
hoa) mà vì mải mê tự điều chỉnh mình để phù hợp với cuộc sống của xã hội văn
minh, ông (bà) đã quên mất từ lâu. Bài thơ như thế đã đạt được phần thưởng cao
quý - được bước vào Bến Bờ Thơ Ca.
Chỉ có một số rất ít bài thơ loại này như: Hồ
Trường (Nguyễn Bá Trác), Say Đi Em (Vũ Hoàng Chương), Trái Tim Rao Bán (Đinh Thị
Thu Vân), Tạ Lỗi Trường Sơn (Đỗ Trung Quân), Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc (Nguyễn Duy) …
Vè Thì Khác
Người viết vè không tranh biện và cũng không xả
bầu tâm sự. Họ vận dụng vốn kiến thức và khả năng chọn chữ xếp vần giới hạn của
mình nắm bắt nhạy bén sự việc, sự
kiện, ghi nhanh rồi truyền đi để gây dư luận.
Kết Luận
Tôi không có
ý phân định thắng thua với bác Vũ Nho nên chỉ trình bày một số góc cạnh của vấn
đề để độc giả tự rút ra kết luận.
Cũng cần phải
công nhận tôi đã sai khi viết “Trong vè ý tưởng bừa bộn”. Lỡ bấm vào chỗ “xuất
bản” rồi nên khi đọc kỹ lại thấy sai cũng không sửa chữa được. Nhưng dù có sai
vì lý do gì đi nữa thì cũng là sai. Bác Vũ Nho sửa lưng tôi là đúng.
Tuy nhiên, dù
trong vè ý tưởng không bừa bộn đi nữa, về “thế trận chữ nghĩa”, đấu pháp toàn đội,
vè vẫn không thể sánh với thơ. Tôi xin phép độc giả được lập lại lần nữa đoạn
viết về sự khác biệt ấy.
“Đội bóng vè”, vì thời gian gấp rút, tiếp
nhận cầu thủ một cách vội vàng, thiếu huấn luyện, thao dợt nên dàn cầu thủ thô
ráp, xô bồ, trong khi “đội bóng thơ”, không bị áp lực thời gian, tuyển lựa cầu
thủ kỹ càng hơn, được huấn luyện, thao dợt để có sự ăn ý với đồng đội, sau đó
còn tuyển đi chọn lại trước khi ra sân thi đấu. Nói rõ hơn, “đội bóng vè” là đội
thành lập vá víu để đá “chầu”, đá theo “phong trào”, “đội bóng thơ” là đội tuyển,
đã có tính chuyên nghiệp..
Thêm vào đó, những thủ pháp nghệ thuật của
thơ (ẩn dụ toàn bài, “Gợi, Không Kể”), những đấu pháp toàn đội (cấu tứ) đặc biệt
để tạo bất ngờ, tăng sức hấp dẫn cho “lối đá” của các “đội bóng thơ” – do không
đủ thời gian và trình độ của “huấn luyện viên” chưa “tới” – nên các “đội bóng
vè” đành cho qua.
Trở lại Đồng Dao Cho Người Lớn, theo Đỗ Trọng
Khơi, nó là bài đồng dao, một loại vè. Nói như thế không sai nhưng cũng chưa
hoàn toàn chính xác. Sau khi xem xét, soi mói, từng chữ, từng câu cũng không
tìm thấy tý cảm xúc nào từ cái tôi riêng tư của tác giả nên tôi có thể vững bụng
nói rằng nó là thứ cây dị chủng trong vườn thơ. Còn muốn đặt cho nó cái tên chủng
loại gì đó thì tùy mỗi người.
Một lần nữa, cám ơn bác Vũ Nho đã cho tôi có
cơ hội trao đổi với bác về một để tài lý thú.
TRAO ĐỔI VỀ “BÀI THƠ” ĐỒNG DAO
CHO NGƯỜI LỚN
(Tiếp
theo và hết)
TS Vũ Nho
Anh Phạm Đức
Nhì đã công phu tra cứu về thể loại VÈ. Nhưng công phu quá, anh lại bỏ quên bài
"Đồng dao cho người lớn" của Nguyễn Trọng Tạo. Tôi không quá câu nệ
vào những gì mà người ta đã viết thành sách này, sách kia. Nếu vè nghiêng về tự
sự (kể chuyện), thì ĐDCNL có chuyện gì?
Nếu người đặt vè là trình độ văn hóa thấp
(nói thế cũng là nói lấy được, vì khối ông quan, ông cử, ông tú về sống giữa
dân chúng, họ vừa là tác giả THƠ, cũng lại là tác giả VÈ). Và tôi đố anh Nhì
dám bảo tác giả Nguyễn Trọng Tạo là "văn hóa thấp".
Nếu bảo tác giả
vè không thạo "đấu pháp toàn đội" của THƠ, thì cũng không đúng với
Nguyễn trọng Tạo, vì bản thân anh Tạo là nhà thơ có thành tựu. Nói tóm lại, anh
Nhì có thể không thích bài ĐDCNL, đấy là quyền của anh. Nhưng cố chứng minh
ĐDCNL là VÈ để chê bai thì không thuyết phục!
Phạm Đức Nhì
Vè Truyền Thống
1/ Những người đặt vè, bẻ vè, nói vè phần nhiều
thuộc tầng lớp dưới trong xã hội. Vẫn có một số “ông này, ông kia” nhưng rất
ít.
2/ Vè là chuyện khen chê có ca vần; chuyện xuất
hiện tức thời, mang tính thời sự, tác giả nắm bắt nhạy bén sự việc, sự kiện,
ghi nhanh rồi truyền đi để gây dư luận.
3/ Ngôn ngữ vè mộc mạc, đơn giản, không có đủ
thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức trau chuốt, hoàn chỉnh.
4/ Kết quả là phần lớn các bài vè có vận mệnh
ngắn ngủi.
Tôi xin phép được gọi những bài vè mang đặc
tính này là vè truyền thống.
Đồng Dao Cho Người Lớn
1/
Nếu cắt mỗi câu làm hai thì ĐDCNL sẽ có nhịp bốn chữ. Đỗ Trọng Khơi viết “Đồng Dao
của Nguyễn Trọng Tạo viết ở nhịp 8 chữ nhưng soi chẻ rạch ròi vẫn thấy cái dư
khí của hồn bốn chữ dân gian” là
có ý đó. Như vậy, ĐDCNL có hình thức là bài đồng dao.
2/ Đồng dao là một loại vè nên nếu bảo ĐDCNL
có hình thức giống một bài vè cũng có thể đúng.
3/ ĐDCNL không có cái tôi riêng tư của tác giả
(một đặc điểm của vè truyền thống) nên chắc chắn không phải là thơ. Lập luận
cho rằng Nguyễn Trọng Tạo mượn hình thức đồng dao để làm thơ cũng không có chỗ
đứng.
4/ Nhưng ĐDCNL cũng không phải vè truyền thống
vì 3 lẽ:
a/
Nội dung không mang tính thời sự mà chỉ là một tập hợp “hổ lốn” những câu nói
mang tính triết lý về cuộc đời.
b/
Tác giả không phải tầng lớp thấp trong xã hội
c/
Ngôn ngữ không thô ráp, mộc mạc mà tương đối trau chuốt, đẹp một cách sang trọng.
Như vậy, ĐDCNL không phải là thơ, có hình thức
vè nhưng không phải là vè truyền thống, cũng không phải là “vè thời đại” như có
người gọi “thơ” Thái Bá Tân.
Dựa vào hình thức của “bài thơ” và đặc điểm
không có cái tôi riêng tư của tác giả để gọi ĐDCNL là vè (như tôi trong bài viết
Về “Bài Thơ” Đồng Dao Cho Người Lớn) là có phần gượng ép vì không hoàn toàn
chính xác.
Ở đây tôi chỉ nhấn mạnh ĐDCNL không phải là
thơ. Còn gọi nó là gì thì tùy cao kiến của độc giả.
Một Bài Khác Nữa
Tôi đọc khá nhiều “thơ” Thái Bá Tân thì thấy số
lượng những bài “không phải thơ” lại nhiều hơn thơ đích thực. Tôi vào
thivien.net để đọc thêm một số thơ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, với hy vọng có
thể kết luận ĐDCNL chỉ là trường hợp cá biệt. Trong số 438 bài thơ của ông ở
trang web này tôi mới đọc đến bài thứ 35 thì “gặp” một bài “không phải thơ” nữa.
Xin copy xuống dưới đây để trình làng.
CHÚ MÈO ĐI HỌC
Mèo
mẻo mèo meo
Chú mèo đi học
Áo quần trắng muốt
Đôi giày xanh xanh
Chân chú bước nhanh
Bên dòng mương nhỏ.
Gặp bông hoa đỏ
Mèo mải ngắm nhìn
Gặp chú chuồn kim
Chơi trò đuổi bắt
Gặp chim sắt sặt
Gây chuyện cãi nhau
Trèo tít cành cao
Chim vù bay mất...
Chú mèo bực tức
Lao mình đuổi theo
Sẩy chân té nhào
Mực giây bẩn áo...
Mèo ta mếu máo
Chạy vội tới trường
Vừa buổi học tan
Bạn bè rảo bước...
Tất cả cùng thuộc
Bài hát rất hay
Chú mèo mải chơi
Muốn hoà giọng hát
Nhưng chú chỉ biết
Meo mẻo
Mèo meo...
Tác giả quan sát chú mèo trắng dạo chơi và đem
trí tưởng tượng phong phú của mình vẽ thêm hoa hòe hoa sói để giúp vui cho các
cháu thiếu nhi. Chú Mèo Đi Học – dù là sự biểu lộ một tấm lòng đáng quý đối với
tuổi thơ - chỉ là sản phẩm của lý trí, không có một mảy may cảm xúc của cái tôi
riêng tư. Nó cũng “không phải thơ” mà là một thứ cây dị chủng trong vườn thơ.
Thi sĩ làm thơ mà không để ý rất dễ mắc lỗi
này. Thay vì chia sẻ với độc giả cảm xúc, rung động của mình đối với cảnh thơ,
ngài lại cho lý trí độc quyền đạo diễn. Phần lớn “thơ” của Thái Bá Tân và một
vài bài của Nguyễn Đức Tùng là những thí dụ điển hình. (1)
Tôi viết loạt bài về phân biệt thơ hay “không
phải thơ” như một lời cảnh báo. Tôi không muốn phải thấy những tài thơ, còn non
trẻ hay đã chin mùi, bỏ tâm huyết, công sức vào một tứ thơ độc đáo, mà vì một lỗi
lầm (có thể tránh được) biến đứa con tinh thần của mình, lẽ ra sẽ là một bài
thơ hay lại trở thành một thứ cây dị chủng trong vườn thơ. Như thế uổng phí lắm.
Bác Vũ Nho nói
“… bản thân anh Tạo là nhà thơ có thành tựu”.
Tôi hoàn toàn không phủ nhận điều đó.
Ngay cả khi đang viết những dòng chữ này, lòng kính trọng và sự nể phục
của tôi đối với thanh tựu (về thơ) của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng không hề
thay đổi.
Bình thơ, tôi không chủ ý “nâng” hay “hạ” thi
sĩ mà chỉ dốc lòng tìm công lý cho thơ.
TS Vũ Nho
Cám ơn tác giả
Phạm Đức Nhì đã trao đổi thẳng thắn.
Nói tóm lại, việc cảm nhận bài thơ "Đồng
dao cho người lớn" gây ra sự tranh luận vì anh Nhì đã coi bài thơ của Nguyễn
Trọng Tạo là một bài VÈ. Và ra sức chê bai vè. Nhưng Vè là thể loại văn học dân
gian, có chức năng riêng. Không thể đem thơ dở gán cho vè để chê. Một thể loại
văn học dân gian khác xa với một bài thơ có tác giả, dù là mượn hình thức
"đồng dao".
Bởi thế nên anh Nhì đã thấy được sự không chính xác của
mình trong kết luận "Ở đây tôi chỉ nhấn mạnh ĐDCNL không phải là thơ. Còn
gọi nó là gì thì tùy cao kiến của độc giả". Bài đồng dao đó có phải là THƠ
không, đó là tùy quan niệm của mỗi người. Nó hay hoặc dở, cũng tùy vào độc giả!
Vậy là có thể khép lại cuộc thảo luận này. Một lần nữa trân trọng cám ơn anh Phạm
Đức Nhì!
Phạm Đức Nhì
Cám ơn bác Vũ Nho đã trao đổi với
tôi về một đề tài lý thú. Nhờ thế tôi đã "thấy ra" vài điều bổ ích.
Chúc bác vui khỏe.
CHÚ THÍCH:
1/ Ngoài bài thơ Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết
tôi còn thấy có 2 bài nữa là Sống và Đàn Ông