Thứ Hai, 5 tháng 7, 2021

BA CHIÊU THỨC MỞ ĐƯỜNG CHO THƠ ĐI TỚI BẾN

 

 

                 BA CHIÊU THỨC MỞ ĐƯỜNG CHO THƠ ĐI TỚI BẾN

 

           

Lời Nói Đầu

 

Vào cuối thập niên 30 của thế kỷ 20, khi phong trào Thơ Mới đang nở rộ, một thi sĩ trẻ tài năng vì hoàn cảnh trớ trêu, đã phải dai dẳng chất chứa trong lòng một nỗi tủi nhục buồn sầu sâu nặng. Nhưng chính nhờ cái tâm sự tủi nhục buồn sầu đó ông đã sáng tác 2 bài thơ trong đó có một bài được đánh giá rất cao về giá trị nghệ thuật. Đó chính là thi sĩ Vũ Hoàng Chương và hai bài thơ được đề cập đến là Phương Xa và Say Đi Em.

 

Thành Sầu Của Vũ Hoàng Chương

 

Vũ Hoàng Chương sinh năm 1916, lúc Nho học đang lụi tàn. Khoa thi Hương cuối cùng là khoa Mậu Ngọ (1918), tổ chức tại trường Thừa Thiên. Sau khoa thi Hương này, ngày 28/12/1918, vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ khoa cử ở Việt Nam. Khoa thi Hội và thi Đình cuối cùng được tổ chức năm 1919. Những người thi đỗ có bằng nhưng không được bổ nhiệm chức vụ gì. (1)

 

 Cha mẹ Vũ Hoàng Chương, cũng như rất nhiều bậc cha mẹ thuộc hàng quan lại, khá giả thời bấy giờ, ở vào thế tấn thối lưỡng nan. Một là, giữ lấy chút tiết tháo, thà để con lông bông chịu dốt chứ không thèm hợp tác với ngoại bang. Hai là, cho con theo Tây học để mở mang kiến thức, có cơ hội thăng tiến trong xã hội mới. Họ, hầu hết, đã chọn con đường thứ hai. Vũ Hoàng Chương nhờ thế, đỗ Tú Tài Pháp ban toán năm 21 tuổi (1937).

 

Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm thì bỏ, đi làm Phó Kiểm Soát Sở Hỏa Xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh – Na Sầm. (2)

 

Vào năm 1935, Hà Nội tuy sống dưới chế độ bảo hộ của thực dân Pháp nhưng có một bộ mặt rất thanh bình, vui vẻ, trẻ trung. Nhà cầm quyền đang cố tình dung túng các cuộc ăn chơi phóng túng để người ta quên đi biến cố đàn áp tàn bạo vừa qua (Năm 1930, Nguyễn Thái Học và mười hai liệt sĩ VN Quốc Dân Đảng khác phải lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, sau đó là chiến dịch lùng sục bắt bớ ở nhiều nơi), đồng thời để ru ngủ thanh niên nên các trà đình, tửu điếm, các tiệm nhẩy đầm, các nhà hát ả đào (còn gọi là hát cô đầu) và các tiệm hút thuốc phiện mọc lên nhan nhản. Người ta đua nhau ăn diện, nhiều cậu công tử Hà Thành diện đúng mốt Paris, tay sách can đi bên cạnh các cô gái tân thời, phấp phới áo dài Lemur Nguyễn Cát Tường. 

 

Vũ Hoàng Chương ngoài việc bắt buộc phải theo Tây học để tiến thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ” của người Pháp. Ông cũng lao vào những thú vui trác táng - rượu, thuốc phiện, nhảy đầm và cả gái nữa. Về điểm này, Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một đoạn khá đầy đủ:

 

Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn "hơn" cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. (2)

 

Như vậy, “thành sầu” của Vũ Hoàng Chương là nỗi sầu đất nước bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm tha hóa, băng hoại bằng đủ mọi âm mưu thâm độc. Trớ trêu thay, chính ông lại góp tay, giúp sức phục vụ bộ máy cai trị ấy. Và chính ông lại lậm vào những cuộc chơi trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn làm gương xấu cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc. Ông cảm thấy tội lỗi, tủi nhục, uất ức và chất ngất buồn sầu.

 

(Đoạn này có vài chỗ được trích hoặc mượn ý từ những bài viết trước của Phạm Đức Nhì)

 

Hai Bài Thơ

 

Để giải tỏa nỗi buồn sầu cao ngất đó, ông đã nghĩ ra 2 giải pháp:

 

1/ Bỏ đi thật xa: Lênh đênh trên biển cả hoặc ghé vào một bến bờ hoang sơ nào đó để tránh những đôi mắt coi thường, khinh bỉ của người đời.

 

2/ Tìm quên trong khói thuốc phiện, men rượu, tiếng nhạc du dương dưới ánh đèn màu, vòng tay vũ nữ.

 

Giải pháp 1, theo tôi, chắc chỉ là trong tâm tưởng và sau đó bộc lộ trên trang giấy bằng bài thơ Phương Xa

 

Giải pháp 2 được ông thực hiện nhiều lần và kết quả là – trong một lúc xuất thần “say không còn biết chi đời” - đã để lại cho vườn thơ nhân loại tuyệt phẩm Say Đi Em.

 

Cả hai bài đều nằm trong tập Thơ Say của Vũ Hoàng Chương xuất bản năm 1940.

 

 

PHƯƠNG XA

 

1/

 

Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng

Xô về Đông hay giạt tới phương Đoài

Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng

Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi

 

2/

 

 Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa

Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh

Bể vô tận sá gì phương hướng nữa

Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh.

 

3/

 

Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ

Một đôi người u uất nỗi trơ vơ

Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị

Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.

 

4/

 

Men đã ngấm bọn ta chờ nắng tắt,
Treo buồm cao cùng cao tiếng hò khoan.
Gió đã nổi nhịp trăng chiều hiu hắt,

Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy cho ngoan.

 

 

 

SAY ĐI EM

 

1/

 

Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương...

Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?
Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ

 

2/


Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt

Đê mê hồn gửi cánh tay hờ

 

Âm ba gờn gợn nhỏ
Ánh sáng phai phai dần...
Bốn tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta


Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
Tay mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
Còn chưa say hồn khát vẫn thèm men


Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt!
Rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết!
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi...
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời

 

3/


Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!

(Vũ Hoàng Chương)

 

 

Đây là hai bài thơ cùng một tâm trạng, được  viết bởi cùng một thi sĩ tài hoa – ngôn ngữ, hình tượng chắt lọc, đẹp đẽ, cao sang, câu cú gọn gàng trong sáng - 

nhưng có khác biệt khá lớn về mấy điểm trong kỹ thuật thơ – tạm gọi là “3 chiêu thức căn bản”. Tôi muốn nói đến thể thơ, cách gieo vần và phân bổ số chữ trong câu.

 

 

1/ Thể Thơ Và Cách Dàn Trải Tứ Thơ.  

 

     a/ Phương Xa viết theo thể Thơ Mới Trường Thiên, phân mảnh đứt đoạn cả về ý lẫn về vần. Bài thơ được chia làm 4 đoạn, mỗi đoạn 4 câu - diễn tả một ý, một mảnh tâm sự riêng. Nhìn toàn cảnh thì tứ thơ được dàn trải thành 4 “vũng thơ” riêng biệt, không có dòng chảy.

 

Dàn trải tứ thơ kiểu này có lợi trước mắt là có thể dồn tâm trí vào một ý nhỏ, một mảnh tâm sự - xong ý này thì bước sang ý khác - chứ không cần lúc nào cũng phải bận rộn với toàn cảnh của bài thơ.  

 

Nhưng có một bất lợi rất lớn là bài thơ bị đứt mạch cảm xúc - cảm xúc không có “sóng sau dồn sóng trước” nên không thể lớn mạnh được. Thi sĩ dù kỹ thuật thơ có điêu luyện đến cỡ nào, khi làm thơ có cao hứng đến đâu, những lúc ngừng nghỉ để chuyển đoạn, lý trí sẽ xuất hiện - điều chỉnh chỗ này, uốn nắn chỗ kia. Và cơn cao hứng sẽ hạ xuống, cảm xúc sẽ như bong bóng bị xì hơi, không đủ mạnh để tạo hồn thơ.

 

Tệ hại hơn, khi có mặt của lý trí chữ “xạo” sẽ có cơ hội tung hoành. Câu 3 của đoạn 3 là một thí dụ rõ ràng.

 

“Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị”

 

Tâm hồn Vũ Hoàng Chương lúc ấy đầy ắp tủi nhục và mặc cảm tội lỗi chứ đâu có “giản dị” như ông tự nhận với văn chương để đỡ ngượng. Và mắt người đời có chút rẻ rúng, coi thường ông cũng là lẽ tự nhiên chứ đâu có gì là “kiêu bạc”. Chính lý trí đã đứng sau lưng đẩy “cái tôi văn hoá” của ông ra trước mặt thiên hạ viện lẽ chống chế chứ nếu là “cái tôi đích thực” thì chữ “xạo” đâu có đất dụng võ.

 

 

 

     b/ Say Đi Em là Thơ Mới nhất khí liền mạch. Trong Say Đi Em tâm sự của tác giả được dàn trải liền lạc một mạch, từ đầu đến cuối bài thơ. Nhờ số chữ trong câu thay đổi với biên độ rộng, cách gieo vần tài hoa nên dòng chảy của tứ thơ thông thoáng, đặc biệt 2 đoạn sau dòng chảy rất mạnh.

 

Hơn nữa, tác giả viết trong cơn say đến mức lạc thần trí nên cảm xúc dâng tràn, hồn thơ lai láng. Lời thơ là tiếng lòng Chân Thật (viết hoa) của “cái tôi đích thực” chứ không có bóng dáng của chữ “xạo” như trong bài thơ Phương Xa.

 

Đoạn thơ:

 

Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!

 

đã chúng minh điều đó. Ông không chống chế, tránh né như trong bài Phương Xa mà cúi đầu chấp nhận. Nỗi tủi nhục buồn sầu ấy là có thật, to lớn như một bức tường thành lúc nào cũng sừng sững trước mắt ông.

 

 

2/ Vần

             

     a/ Phương Xa: Vần gián cách cả 1/3 lẫn 2/4. Bài thơ 16 câu có 8 cặp vần trong đó 5 cặp chính vận (đứa nữa, kỷ dị, vơ sơ, tắt hắt, khoan ngoan) và 3 cặp thông vận gần (sóng rộng, Đoài vơi, khinh đênh). Thơ Mới Trường Thiên - mỗi câu 8 chữ đều đều, tẻ nhạt - gieo vần như thế là quá nhiều, hội chứng nhàm chán vần rất rõ nét.

 

     b/ Say Đi Em: Vần trong Say Đi Em không theo một quy luật nào, thường là vần liên tiếp nhưng cũng có mấy đoạn vần gián cách xen vào để làm mới lạ âm điệu:

 

Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng

Hàng chân lả lướt

Đê mê hồn gửi cánh tay hờ

 

 

Chân rã rời
Quay cuồng chi được
nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén
lửa
Say không còn biết chi đời

 

Ngoài ra, thuận theo dòng chảy của âm thanh, thi sĩ cũng chẳng ngại ngùng đưa vào 2 câu lục bát cho thêm phần du dương.

 

Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ.

 

Đặc biệt hơn cả là một đoạn thơ dài điệp vận vần bằng (rồi trôi môi rời ơi) được xen kẽ bằng 3 câu vần trắc (vững nữa lửa)

 

Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi...
Gian phòng không đứng
vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được
nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén
lửa
Say không còn biết chi đời

.

đọc không ngán mà hiệu quả cảm xúc rất cao. Thêm nữa, hai nhóm chữ “em ơi” ở câu đầu và câu sau cùng của đoạn cuối hòa cùng nhóm vần “rồi trôi môi rời ơi” của đoạn điệp vận tạo thành một giai kết hoàn toàn với âm vang tuyệt vời kết thúc dòng nhạc của bài thơ.

 

Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ,
em ơi!

 

Theo tôi, cách gieo vần khác lạ của Say Đi Em không chỉ đến từ kỹ thuật thơ điêu luyện của thi sĩ mà chính cảm xúc mạnh mẽ trong cơn say “say không còn biết chi đời” đã góp phần lèo lái, tạo nên “giàn vần” độc đáo, tuyệt vời của bài thơ.

 

3/ Phân Bổ Số Chữ Trong Câu

 

     a/ Phương Xa: Mỗi câu 8 chữ đều đặn từ đầu đến cuối. Nhịp điệu tẻ nhạt.

 

     b/ Say Đi Em: Số chữ trong câu không cứng ngắc mà thay đổi tùy hứng, với biên độ rất rộng, không theo một quy luật nào. Câu ngắn nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ (Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?). Đặc biệt có mấy đoạn nhiều câu ngắn xen giữa những đoạn câu dài nên nhịp điệu của bài thơ lúc khoan, lúc nhặt, chứ không đều đều, nhàm chán.

 

Nhìn trên bề mặt chữ nghĩa thì Say Đi Em vần dầy đặc, có khi còn hơn cả Phương Xa nữa, nhưng số chữ trong câu thay đổi với biên độ rất rộng đã hóa giải hội chứng nhàm chán vần.

 

Ngoài ra, 3 chiêu thức căn bản trên còn ảnh hưởng dây chuyền đến:

 

Dòng Chảy Của Tứ Thơ

 

     a/ Phương Xa: Chỉ là 4 “vũng thơ”,  không có dòng chảy.

 

     b/ Say Đi Em: Tứ thơ chảy thành dòng từ câu đầu đến câu cuối; bắt đầu từ đoạn 2 dòng chảy rất mạnh. Bài thơ có 3 dòng chảy quyện vào nhau: Dòng chảy của tứ thơ, dòng chảy của âm thanh và dòng chảy của cảm xúc.

 

Cao Trào

 

     a/ Phương Xa không có cao trào.

 

     b/ Say Đi Em: Cao trào - với độ cao chót vót - nằm ở 2 câu:

 

“Trong men cháy giác quan đều bén lửa

Say không còn biết chi đời”.

 

Cảm Xúc

 

     a/ Phương Xa:

 

Cảm xúc tầng 1 mạnh nhờ ngôn ngữ, hình tượng đẹp, câu cú trong sáng

 

Cảm xúc tầng 2 khá mạnh nhờ bố cục dễ hiểu: Ý chính nằm ở 2 đoạn giữa, đoạn đầu thuyền nhổ neo rời bến, đoạn cuối thuyền “theo gió” tiếp tục lênh đênh. Tuy nhiên, phân bổ lực lượng như vậy không hợp lý - đoạn đầu và đoạn cuối quân đông (mỗi đoạn 32 chữ) mà nhiệm vụ lại quá nhẹ - sinh ra nhiều chữ thừa và hiện tượng “thừa giấy vẽ voi”.

 

Cảm xúc tầng 3: Do lý trí đứng ra đạo diễn bài thơ nên cảm xúc tầng 3 không có.

 

     b/ Say Đi Em

 

Cảm xúc tầng 1 cũng mạnh do ngôn ngữ, hình tượng đẹp, câu cú trong sáng.

 

Cảm xúc tầng 2: Trong Say Đi Em thi sĩ họ Vũ không dàn ý trước (như trong Phương Xa) mà cho cảm xúc cực mạnh của mình thúc đẩy “cái tôi đích thực” “bật” ra những con chữ và để chúng mặc tình tuôn chảy bất cần bố cục, phương hướng.

 

Với tư cách một người đọc, tôi xin mạn phép chia bài thơ làm 3 đoạn.

 

Đoạn 1: Phần dẫn nhập, giới thiệu khung cảnh vũ trường và cô ca ve bạn nhảy.

 

Đoạn 2 : Đắm hồn trong tiếng nhạc, bước nhảy, men rượu – trên đường tới điểm đến của tứ thơ (KHÔNG CHỦ Ý)

 

Đoạn 3: Gặp tứ thơ một cách bất ngờ - nỗi tủi nhục buồn sầu mà “cái tôi văn hóa” luôn che giấu.  

 

Lẽ ra cảm xúc tầng 2 chỉ là khoái cảm của người đọc khi nhận biết cách dàn quân khéo léo, hợp lý của bài thơ. Nhưng ở đây chính vì tác giả tước bỏ quyền hành của lý trí ngay từ trong việc định hướng tứ thơ nên bài thơ thấm đẫm chất tình. Ngay bố cục của bài thơ cũng đã tặng cho người đọc cái “luồng hơi nóng”, cái “sướng” của cảm xúc tầng 3.

 

Cảm xúc tầng 3:

 

Sau đoạn đầu với âm điệu nhẹ nhàng, nhịp điệu chậm rãi, có nhiệm vụ dẫn nhập và giới thiệu, phần còn lại của bài thơ gồm 34 câu, 214 chữ - do thi sĩ đang trong cơn say, cao hứng đến lạc thần trí -  câu nào, chữ nào cũng thấm đẫm cảm xúc. Ba dòng chảy - vừa nhanh, vừa mạnh - quyện vào nhau, chỉ trong khoảnh khắc đã tạo nên hồn thơ lai láng, thôi thúc độc giả đọc một mạch đến hết bài mà không chán.

 

Nguyên Nhân Sự Thành Công Của “Say đi Em”

 

Thành công to lớn về phương diện nghệ thuật của Say Đi Em trước hết, là nhờ tác giả đã chọn 3 chiêu thức căn bản (trong kỹ thuật thơ) hoàn toàn trái ngược với Phương Xa:

 

1/ Thể thơ nhất khí liền mạch tạo dòng chảy cho tứ thơ (không độc đáo nhưng là điều kiện cần thiết – không có dòng chảy thì không có “sóng sau dồn sóng trước”, cảm xúc không thể lớn mạnh và chắc chắn không thể có hồn thơ).

 

2/ Số chữ trong câu thay đổi tùy tiện với biên độ lớn khiến dòng nhạc trong thơ lúc khoan, lúc nhặt, không đều đều tẻ nhạt.

 

3/ Vần liên tiếp là chính nhưng cũng có xen kẽ vần gián cách. Nhìn thoáng qua thì vần đậm đặc nhưng sự biến đổi của số chữ trong câu đã hóa giải hội chứng nhàm chán vần.

 

Say Đi Em ngoài 3 chiêu thức trên còn có thêm 2 điểm đặc biệt nổi trội:

 

1/ Nhờ cảm xúc cực mạnh trong cơn say bí tỉ, điệp vận dầy đặc và đúng lúc nên dòng chảy của các con chữ bắt đầu từ đoạn 2 rất xiết, bài thơ lên đến cao trào ở 2 câu:

 

Trong men cháy giác quan đều bén lửa

Say không còn biết chi đời.

 

2/ Đọc Say Đi Em từ đầu đến gần hết bài thơ cũng chưa thấy bóng dáng của tứ thơ. Chỉ thấy tác giả kể lại một đêm đắm mình trong men rượu, tiếng nhạc và vòng tay gái nhảy ở vũ trường. Mãi đến hết đoạn 2, khi dòng chảy của các con chữ, dòng nhạc và dòng cảm xúc đã lên đến đỉnh điểm, tạo thành cao trào, tứ thơ mới lộ diện:

 

Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!

 

Đó là nỗi tủi nhục buồn sầu, không biết từ lúc nào, đang đứng sừng sững như một bức tường thành trước mắt tác giả.

 

Chữ “chưa” chứng tỏ nó đã lởn vởn trong tâm hồn ông từ lâu lắm. Một lúc sau chữ “không” xuất hiện, cho biết nó to lớn quá, mọi nỗ lực trốn tránh, xua đuổi, tìm quên đều thất bại.

 

Lúc ấy tác gjả đã lạc thần trí, các con chữ hoàn toàn từ cảm xúc tuôn ra làm hồn thơ lai láng. Không có sự can thiệp của lý trí, đó chính là tiếng lòng chân thật của thi sĩ.

 

Tầm Quan Trọng Của 3 Chiêu Thức Căn Bản

 

Phương Xa và Say Đi Em là hai bài thơ của cùng một tác giả, diễn tả cùng một tâm trạng. Chỉ khác nhau ở 3 chiêu thức căn bản trong kỹ thuật thơ - thể thơ, cách gieo vần và phân bổ số chữ trong câu - mà giá trị nghệ thuật cách nhau rất xa. Phương Xa chỉ ở trên mức “thường thường bậc trung” chút ít. Còn Say Đi Em đã lên đến đỉnh điểm, đạt được mục đích tối thượng của người làm thơ – giao tiếp với đồng loại bằng Tiếng Người Chân Thật, đưa thi sĩ và tác phẩm của ông bước vào và ung dung ngồi ở vị trí trang trọng trong Bến Bờ Thi Ca.

 

Đồng ý Say Đi Em lên đến đỉnh là nhờ ở “2 điểm đặc biệt nổi trội” được đề cập ở phần trên. Nhưng nếu không có 3 chiêu thức căn bản làm nền thì “2 điểm đặc biệt nổi trội” đó không thể chen vào bài thơ được.

 

Bất cứ thi sĩ nào, nếu sử dụng 3 chiêu thức trên, bài thơ của ngài tuy không bảo đảm là sẽ thành công như Say Đi Em nhưng ít nhất hội chứng nhàm chán vần sẽ được giảm thiểu tối đa hoặc loại bỏ, nhịp điệu đều đều, tẻ nhạt sẽ biến mất, tứ thơ, nhạc điệu, cảm xúc sẽ nhập chung thành một dòng thênh thang chảy về phía trước. Nếu làm thơ trong lúc có hứng cảm xúc tầng 3 ít nhiều cũng sẽ xuất hiện.

 

Trong trường hợp thi sĩ “nổi điên” đến mức lạc thần trí, 3 dòng chảy nhập một đó sẽ rất xiết, bài thơ sẽ ngập tràn cảm xúc, hồn thơ lênh láng (3).

 

Tôi Không Ác Cảm Với Thơ Mới Trường Thiên

 

Như đã nói ở phần trên, Thơ Mới Trường Thiên cũng có chỗ hữu dụng của nó. Vì lý trí thường tái xuất hiện khi chuyển đoạn nên ý tứ của mỗi đoạn – có sự quan tâm của lý trí - thường tươm tất hơn, sâu sắc hơn, nét đẹp văn chương của mỗi đoạn hoàn chỉnh hơn.

 

Nhưng cảm xúc bị nghẽn mạch nên không thể lớn mạnh được. Cơn cao hứng của thi sĩ cứ mỗi lúc ngừng nghỉ lại xì hơi, xẹp xuống, rất khó tạo được cảm xúc tầng 3 chứ đừng nói chi đến hồn thơ.

 

Khá đông thi sĩ trẻ nhiều triển vọng hiện đang sử dụng thể Thơ Mới Trường Thiên trong phần lớn những tác phẩm của họ. Thậm chí đại đa số thơ của một thi sĩ lão thành trong một trang web văn học uy tín, đều được viết theo thể này. Có nghĩa là - nếu không thay đổi kỹ thuật thơ – thì dù có cao hứng cỡ nào, cố gắng cách mấy, thơ của ông, cho đến hết đời, cũng chỉ “dậm chân tại chỗ”, không thể nào đến gần Bến Bờ Thi Ca được.

 

Kết Luận

 

Làm thơ, ai cũng muốn đứa con tinh thần của mình được nhiều người mến chuộng, yêu thích.  Người có tài, mộng lớn hơn - muốn thơ của mình bay lên tận đỉnh cao hoặc bước vào khu vườn tươi đẹp của Bến Bờ Thi Ca.

 

Xin các nhà thơ có cao vọng hãy nghĩ đến việc thao dợt để sử dụng nhuần nhuyễn 3 chiêu thức kỹ thuật nói trên rồi chờ đợi. Bất chợt một hoàn cảnh, một tứ thơ nào đó khuấy động tâm hồn đến mức “nổi điên” – vâng, đúng lúc đó nếu phóng bút, cơ hội có được bài thơ để đời sẽ rất cao.

 

PHẠM ĐỨC NHÌ

nhidpham@gmail.com

phamnhibinhtho.blogspot.com

 

 

CHÚ THÍCH:

 

1/ Chi Tiết Thú Vị Về Khoa Thi Nho Học Cuối Cùng, Chí Đức

(https://kienthuc.net.vn/tham-cung/chi-tiet-thu-vi-ve-khoa-thi-nho-hoc-cuoi-cung-405397.html)

 

2/ (Vũ Hoàng Chương, Wikipedia.org)

(https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Ho%C3%A0ng_Ch%C6%B0%C6%A1ng)

 

3/ Để diễn tả loại cảm xúc không phải đến từ câu chữ, thế trận của bài thơ một số tác giả sử dụng những nhóm chữ như: Bài thơ có hồn, hồn thơ man mác, hồn thơ khá mạnh, hồn thơ nhè nhẹ, hồn thơ lai láng

 

Để tránh nhập nhằng lẫn lộn cảm xúc từ câu chữ, thế trận với cảm xúc từ cơn cao hứng của tác giả, tôi chia cảm xúc thành 3 tầng:

     a/ Cảm xúc tầng 1: Khoái cảm người đọc có được khi gặp ngôn ngữ, hình tượng đẹp, câu cú có cấu trúc mới lạ, trong sáng.

     b/ Cảm xúc tầng 2: Khoái cảm người đọc có được khi tiếp xúc với bố cục, thế trận  hợp lý của bài thơ.

     c/ Cảm xúc tầng 3: Khoái cảm không phải từ câu chữ, thế trận mà hình như từ đâu đó “giữa 2 hàng kẻ” do cơn cao hứng của thi sĩ truyền vào bài thơ. Đó là thứ khoái cảm cao cấp, luồng hơi nóng tạo cảm giác “sướng” đặc biệt.

 

Khi thi sĩ lạc thần trí, nổi điên, 3 dòng (tứ thơ, nhạc, cảm xúc) quyện vào nhau, chảy rất mạnh, tạo thành cao trào. Lúc đó ta có hồn thơ. Lời thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ.

 

Theo cách dùng chữ của tôi chỉ có “hồn thơ lai láng” mới được xếp vào loại “hồn thơ”. Còn những nhóm chữ như  “bài thơ có hồn”, “hồn thơ man mác”, “hồn thơ khá mạnh”, “hồn thơ nhè nhẹ”, đều được gọi là cảm xúc tầng 3. Thí dụ: Cảm xúc tầng 3 có nhưng không đáng kể, cảm xúc tầng 3 nhè nhẹ, cảm xúc tầng 3 khá mạnh, cảm xúc tầng 3 rất mạnh …

 

 

Thứ Bảy, 29 tháng 5, 2021

TÌNH CÀNG SÂU ĐẬM CÀNG NHIỀU ĐAU THƯƠNG

 

 

                         TÌNH CÀNG SÂU ĐẬM CÀNG NHIỀU ĐAU THƯƠNG

 

Vào trang Facebook của Vân Anh, một bạn thơ quen thuộc, tôi tình cờ đọc được bài thơ Lòng Thật Bình Yên Mà Sao Buồn Thế. Cái tâm sự buồn não nuột của một cô giáo gặp cảnh tình ngang trái đã chạm vào “chỗ hiểm” nào đó trong trái tim đa cảm nên tôi đã dừng lại khá lâu. Thêm vào đó, phần thi pháp của bài thơ cũng có vài điểm đáng nói, đáng bàn nên tôi đã “xăn tay áo” viết mấy lời bình phẩm.

 

 

Lòng Thật Bình Yên Mà Sao Buồn Thế

 

Em kê dọn, xếp lại những nhớ nhung

Thuở tóc xanh mình đã cùng ước nguyện

Ngăn bên này, ngổn ngang bao lưu luyến

Kệ bên kia, ẩn hiện nỗi vui buồn

 

Đang giữa đông, trời cứ đổ mưa tuôn

Chẳng trôi hết giùm muôn vàn mỏi mệt

Giá ngày xưa người đi mang theo hết

Thì hôm nay em chẳng có cớ sầu

 

Nắng bây giờ hạnh phúc ở nơi nao

Hay dâu bể cũng nghẹn ngào lên mắt

Ngôi sao cuối trời xa chầm chậm tắt

Chữ nhoà rồi, lạc mất cả âm vần....

 

Vân Anh

 

P/S: Chiều chủ nhật đầu tiên 2021

 

Tứ Thơ

 

Không có ẩn dụ toàn bài nên Tứ cũng là Ý: Tác giả nhớ lại cuộc tình tan vỡ mà tê tái lòng.

 

Đau lòng, xé ruột vì tình tan vỡ là “chuyện thường ngày ở huyện”, xưa như trái đất. Có thể nói tứ thơ (What: Viết cái gì) không có gì đặc biệt, mới lạ. Cái nổi trội của bài thơ là ở (How: Viết thế nào) - ngôn ngữ, hình tượng, cách gieo vần, thế trận và cảm xúc.

 

Dàn Trải Tứ Thơ

 

Bài thơ có 12 câu, chia làm 3 đoạn:

 

1/

 

Em kê dọn, xếp lại những nhớ nhung

Thuở tóc xanh mình đã cùng ước nguyện

Ngăn bên này, ngổn ngang bao lưu luyến

Kệ bên kia, ẩn hiện nỗi vui buồn

 

Qua đoạn thơ đầu tiên thi sĩ kể lại những tháng ngày tình còn mặn nồng. Không giống những nhà thơ khác, chị cẩn thận “kê dọn, xếp lại những nhớ nhung”, những kỷ niệm của cuộc tình.

 

Hình tượng của hai nhóm chữ “Ngăn bên này”, “Kệ bên kia” rất rõ nét, dễ “bắt”, dễ cảm. Chúng còn làm nổi bật sự sâu đậm của mối tình mà chị trân trọng đến mức – dù đã chia xa - vẫn bỏ thời gian, công sức, chi li, tỉ mỉ sắp xếp thành ngăn, thành kệ những nhớ nhung, vui buồn lưu luyến trong tâm hồn mình.

 

2/

 

Đang giữa đông, trời cứ đổ mưa tuôn

Chẳng trôi hết giùm muôn vàn mỏi mệt

Giá ngày xưa người đi mang theo hết

Thì hôm nay em chẳng có cớ sầu

 

Đây là đoạn thơ than trách.

 

Trước hết thi sĩ trách “trời” “đổ mưa tuôn” mà “Chẳng trôi hết giùm muôn vàn mỏi mệt”. Kế đến, trách “người” ra đi mà không “mang theo hết” kỷ niệm của cuộc tình.

 

Thật ra, chị đã trách oan “trời” và “người ra đi”. Đúng ra chị phải trách chính mình không quên được những dấu yêu xưa.

 

Những lời than trách này cho thấy “nỗi đau buồn vì tình lỡ” đã thấm rất sâu vào tâm hồn, đã khiến thể xác cũng “mỏi mệt” đến mức gần như bệnh hoạn.

 

Rốt cuộc, nói như nhà thơ Nguyễn Bính, tất cả chỉ là:

 

“Thế nghĩa là yêu quá mất rồi” (1)

 

Mà trong quy luật tình yêu:

 

“Tình càng sâu đậm càng nhiều đau thương”

 

3/

 

Nắng bây giờ hạnh phúc ở nơi nao

Hay dâu bể cũng nghẹn ngào lên mắt

Ngôi sao cuối trời xa chầm chậm tắt

Chữ nhòa rồi, lạc mất cả âm vần....

 

Đọc đoạn thơ này mới thấy thi sĩ của chúng ta rất mềm mỏng và hòa nhã. Nhân vật “đầu dây mối nhợ” của cuộc tình tan vỡ không bị gán cho những cái tên không đẹp như “kẻ bạc tình”, “tên phản bội” mà đời vẫn thường gọi. Thay vào đó, ở đoạn 2 chị gọi chàng là “người” và vẫn xưng “em” rất lễ phép, ngọt ngào; ở đoạn 3 thì chị bay bướm hơn, gọi chàng là “Nắng” và “Ngôi sao cuối trời xa”.

 

Chính sự mềm mỏng và hòa nhã đó đã nâng nét đẹp văn chương của bài thơ thêm một bậc.

 

“Nắng bây giờ hạnh phúc ở nơi nao

Hay dâu bể cũng nghẹn ngào lên mắt”

 

Không biết người xưa bây giờ ngập tràn hạnh phúc hay cũng đang nghẹn ngào khổ đau. Ngay cái lúc nghĩ đến “người” rồi nhìn lại hoàn cảnh của mình, nhìn lại tâm trạng của mình, cảm xúc dâng trào, chị tủi thân bật khóc.

 

Nước mắt hoen mi nên thấy “Ngôi sao cuối trời xa” (không phải ngoài trời mà trong tâm tưởng) đang “chầm chậm tắt” và nhìn lên màn hình điện thoại (hoặc máy tính) thấy “Chữ nhòa rồi, lạc mất cả âm vần”. Vừa lô-gic, vừa thấm đẫm chất tình.

 

 

Thể Thơ

 

Thơ Mới 8 chữ đều đặn, giờ đã không còn mới nữa.

 

Vần

 

Vần liên tiếp, 12 câu thơ, 5 cặp vần cứ đến hẹn lại lên; trong 5 cặp vần chỉ có một cặp là thông vận (sầu nao), 4 cặp còn lại (nguyện luyến, buồn tuôn, mệt hết, mắt tắt) là chính vận; ngoài ra còn thêm 5 cặp vần lưng (nhung cùng, luyến hiện, tuôn giùm, nao ngào, tắt mất).

 

Nhin qua về số lượng thì vần quá nhiều.

 

Quá nhiều vần, vị ngọt đậm, nhưng nhờ bài thơ ngắn (12 câu), tâm tình chân thật, nhiều hình tượng đẹp, dễ bắt, dễ cảm, nhiều cảm xúc nên vị ngọt đậm mà chưa đến mức ngán. Khuyết điểm bỗng trở thành ưu điểm – các câu thơ gắn kết chặt chẽ hơn, các ý nhỏ, các mảnh tâm trạng liền lạc hơn.

 

Dòng Chảy Của Tứ Thơ

 

Nhờ vần liên tiếp, vị ngọt đậm nên - về mặt thanh âm, nhạc điệu - dòng chảy của tứ thơ, tuy không xiết, nhưng rõ nét hơn.

 

Đoạn Kết Hay

 

“Ngôi sao cuối trời xa chầm chậm tắt

Chữ nhòa rồi, lạc mất cả âm vần

 

Nghĩa thì như đã giải thích ở trên - vừa lô-gic, vừa thấm đẫm chất tình. Ở đây tôi chỉ ghi thêm một điểm nhỏ. Nhỏ nhưng nếu không nhắc đến sẽ là một thiếu sót lớn.

 

Theo tôi, bài thơ kết ở chữ “vần” thật “siêu”. Trở về thanh huyền (vần bằng dấu huyền) làm câu thơ chùng xuống, nỗi buồn càng sâu lắng hơn.

 

Như vậy, hai câu thơ vừa sâu sắc về mặt ý nghĩa vừa “siêu” về mặt âm vận, tạo thành đoạn kết tuyệt vời.

 

Thế Trận

 

Tâm trạng được bộc lộ từ từ, chậm rãi. Đoạn đầu còn kể lể chuyện ngày xưa. Đến đoạn thứ hai, ngày xưa đã chuyển sang hiện tại. Và ở đoạn cuối thì những nhóm chữ chỉ hiện tại “Đang giữa đông”, “hôm nay” - hàm chứa một khoảng thời gian đáng kể - đã chuyển sang “bây giờ” - chỉ là một giây, một cái chớp mắt ngắn ngủi.

 

Nỗi đau buồn không còn trải dài theo thời gian mà thời gian bỗng hình như dừng lại để ở ngay giây phút dừng lại ấy tất cả nỗi buồn đau đổ ập xuống tâm hồn thi sĩ. Giây phút ấy chính là giây phút mà:

 

“Ngôi sao cuối trời xa chầm chậm tắt

Chữ nhòa rồi, lạc mất cả âm vần”

 

Bài thơ kết thúc ở cao trào với thế trận hợp lý.

 

 

Cảm Xúc

 

1/ Cảm Xúc Tầng 1: Ngôn ngữ đẹp, hình tượng độc đáo, câu thơ dễ bắt nên cảm xúc tầng 1 mạnh

 

2/ Cảm Xúc tầng 2: Thế trận liền lạc, gọn gàng, đoạn kết hay nên cảm xúc tầng 2 cũng mạnh.

 

3/ Cảm Xúc Tầng 3: Bắt đầu từ đoạn hai cảm xúc tầng 3 đã nhẹ nhàng xuất hiện. Người đọc như tôi đã cảm thấy một luồng hơi ấm đang len lỏi trong người. Nhưng do dòng chảy của tứ thơ chưa đủ xiết, dù bài thơ kết thúc ở cao trào, luồng hơi ấm đó chưa đủ nóng, đủ mạnh để tạo hồn thơ.

 

Khuyết Điểm

 

Số Chữ Trong Câu: Tác giả tôn trọng luật thơ cứng ngắc quá. Câu nào cũng đúng 8 chữ. Bài thơ âm điệu du dương nhưng nhịp điệu tẻ nhạt. (2)

 

Tựa Đề Có Phải Là Khuyết Điểm?

 

Tựa đề của bài thơ là Lòng Thật Bình Yên Mà Sao Buồn Thế. Mới đọc qua tôi đã đưa vào phần khuyết điểm với nhận xét như sau:

 

Tựa Đề: Cái tựa của bài thơ hơi tréo ngoe. Nỗi buồn đau sâu sắc đến thế mà viết là “Lòng Thật Bình Yên” thì quả là hơi bị liều.

 

Chê như vậy thoạt nhìn không thấy sai. Nhưng ngẫm lại thì có cái gì đó không ổn.

Vân Anh đặt cái tựa Lòng Thật Bình Yên Mà Sao Buồn Thế tưởng là tréo ngoe nhưng nghĩ kỹ thì cũng có lý.

 

Tâm hồn chị lúc đó đang ngập tràn nỗi đau tình tan vỡ, không còn chỗ để chứa những thứ khác. “Bình Yên” ở đây được hiểu là không còn bị khuấy động bởi những vướng bận tạp nhạp của cuộc sống thường ngày. Thi sĩ cứ lặng lẽ, thoải mái, từ từ tận hưởng “thú đau thương”.

 

Chính vì thế tôi đã loại nó khỏi mục khuyết điểm, nhưng không xem là ưu điểm, vì cảm giác tréo ngoe vẫn còn lởn vởn.

 

 

Tóm Tắt Giá Trị Của Bài Thơ

 

Lòng Thật Bình Yên Mà Sao Buồn Thế của Vân Anh là một bài thơ hay mặc dù tứ thơ bình thường, không đặc biệt hoặc mới lạ. Cái hay của bài thơ nằm ở ngôn ngữ, hình tượng, cách nói bóng gió, “Show, Don’t Tell”, cấu tứ (bố cục, thế trận của bài thơ) và đặc biệt là cảm xúc. Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 đều mạnh. Cảm xúc tầng 3, thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ, đã xuất hiện nhưng rất tiếc, chưa đủ mạnh để có hồn thơ.

 

Khuyết điểm của bài thơ là nhịp điệu tẻ nhạt.

 

KẾT LUẬN

 

 

Chỉ với hình hài như vậy, Lòng Thật Bình Yên Mà Sao Buồn Thế đã có “chỗ đứng” khá trang trọng trong Vườn Thơ. Nhưng tôi vẫn thấy tiếc. Tác giả sở hữu một số kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn, cảm xúc trong lúc cao hứng dâng trào. Chỉ cần số chữ trong câu uyển chuyển thay đổi, tránh được cảm giác tẻ nhạt và bài thơ dài thêm vài đoạn nữa để dòng chảy của tứ thơ có sóng sau dồn sóng trước, cảm xúc tầng 3 sẽ đủ mạnh để tạo hồn thơ. Bài thơ sẽ ung dung bước vào Bến Bờ Thơ Ca.

 

Nhưng Vân Anh vẫn còn rất trẻ. Những người yêu thơ, trong đó có tôi, sẽ kiên nhẫn đón chờ bài thơ để đời của chị.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

phamnhibinhtho.blogspot.com

 

 

 

CHÚ THÍCH:

 

1/ Ghen, Nguyễn Bính, thinien.net

 

https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-B%C3%ADnh/Ghen/poem-LRFnC3C9FSUau9X5dvShgw  

 

2/ Trong bài thơ NHÂN TÌNH CỦA NHỮNG ÁNG VĂN XANH Vân Anh đã có mấy đoạn có số chữ trong câu thay đổi một cách thoải mái, phóng khoáng:

 

Anh trải rộng

những cánh đồng mướt xanh

em ngửa mặt hít hà hương lúa mới

anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi

thuyền em trôi thênh thang

…………………………….

 

Câu chữ vấn vương

âm vần lưu luyến

và từ giờ em nguyện

làm nhân tình của những áng văn xanh.

 

Cách viết này, nếu vần liên tiếp, tứ thơ vẫn có dòng chảy - và dù bài thơ hơi dài một chút -  cũng vẫn tránh được 2 khuyết điểm: a/ hội chứng nhàm chán vần và b/ nhịp điệu tẻ nhạt (monotone)

 

Không hiểu sao khi viết Lòng Thật Bình Yên Mà Sao Buồn Thế chị lại quên không sử dụng “chiêu thức” này.