Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2020

MỘT PHÁT BIỂU VỀ THƠ KIỂU "ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG"


                         MỘT PHÁT BIỂU VỀ THƠ KIỂU “ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG”


Ông Nguyễn Vũ Tiềm Trả Lời Phỏng Vấn Của Báo Giáo Dục & Thời Đại

Phóng viên (PV): Thưa nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm, trong cuốn “Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam” xuất bản năm 2000 và sau đó tái bản nhiều lần, ông có nêu tiêu chí của thơ là: -Xúc cảm khác thường -Suy nghĩ khác thường -Cách nói khác thường. Gọi tắt là X-S-C. Qua hơn mười năm, hiện nay phong trào sáng tác thơ phát triển rất đông đảo, tiêu chí “khác thường” này có còn phù hợp không?

Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm (NVT): Khi đọc cuốn sách Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam, Giáo sư Hoàng Như Mai viết bài đăng báo Văn Nghệ, Hội Nhà Văn Việt Nam, có biểu dương bài đề dẫn của tôi trong cuốn sách ấy, trong đó có tiêu chí về thơ mà bạn vừa nói đến, tất nhiên là từ “khác thường” hiểu THEO CHIỀU MỸ CẢM. Tôi nghĩ, dù thời gian trôi đi, tiêu chí ấy vẫn nguyên giá trị.

PV: Nhưng nhiều tập thơ (nhất là ở các địa phương) được in ra nhìn chung là có sao viết vậy, hình ảnh câu chữ rất “bình thường”, tiêu chí “khác thường” sao còn phù hợp nữa?

NVT: Nếu một bài thơ mà “có sao viết vậy” thì là văn vần chứ không phải thơ, nó chỉ giống như thơ mà thôi.
PV: Ông có thể cho bạn đọc biết rõ hơn về sự khác nhau giữa thơ và văn vần?

NVT: Tôi gọi văn vần là chỉ chung những bài “giống như thơ” nhưng gần với ca dao, hò vè, tấu, diễn ca hơn là thơ. (Ca dao, hò vè, tấu, diễn ca… là những thể loại văn học mà đa phần có nguồn gốc từ thời chưa có văn học viết).




Thơ Và Văn Vần

Trong văn chương có 2 thể loại chính: Văn Xuôi và Văn Vần.

1/ Văn xuôi là loại văn không có vần như các loại văn nghị luận, phê bình, truyện ngắn, truyện dài, hợp đồng thương mại, án quyết của tòa…

2/ Văn vần gồm ca dao, đồng dao, hò vè, tấu, diễn ca … và Thơ. Văn vần thì thường có vần - ngoại trừ thơ văn xuôi.

Như vậy, thơ là một thể loại của văn vần.

Đặc Tính Của Văn Xuôi

1/ Sử dụng con chữ để chuyển tải thông tin.
2/ Cảm xúc nếu có, chỉ là sản phẩm phụ. “Cái tôi riêng tư” cũng có thể xuất hiện
3/ Không vần.

Đặc Tính Của Thơ

1/ Sử dụng con chữ để diễn tả một cảm xúc, tâm trạng.
2/ Tâm, hay còn gọi là phần hồn hoặc “cái tôi riêng tư” của tác giả phải có mặt trong khung cảnh của bài thơ (và có câu thơ sinh tình). (Tâm, phần hồn, “cái tôi riêng tư” – 3 tên gọi nhưng chỉ là một thứ)
3/ Có vần - ngoại trừ Thơ Thơ Văn Xuôi

Đặc Tính Của Vè

1/ Vè là chuyện khen chê có vần; chuyện xuất hiện tức thời, mang tính thời sự, tác giả nắm bắt nhạy bén sự việc, sự kiện, ghi nhanh rồi truyền đi để gây dư luận. (Thí dụ: Vè Chàng Lía, Vè Quan Đình, Vè Tán Thuật). Người xưa cũng sáng tác vè để quảng bá một số kiến thức phổ thông cho giới bình dân (Vè Loài Vật, Vè Loài Hoa, Vè Loài Rau, Vè Loài Quả) cũng như chế diễu những thói xấu của con người. (vè nói dóc, vè đánh bạc)
2/ Ngôn ngữ vè mộc mạc, đơn giản, thường không đạt tới một hình thức trau chuốt, hoàn chỉnh.
3/ Những người đặt vè, bẻ vè, nói vè phần nhiều thuộc tầng lớp dưới trong xã hội.
4/ Người viết vè kể chuyện nhưng là kẻ bàng quan, đứng ngoài câu chuyện của bài vè.
5/ Vè tuyệt nhiên không có cảm xúc của cái tôi riêng tư.


Văn Với Thơ Có ThNhập Nhòe

Do cái nhìn về thơ đương đại ngày càng phóng khoáng nên có người nói khoảng cách giữa văn và thơ bây giờ chỉ như “sợi tơ mong manh”. Theo tôi, văn và thơ bây giờ đôi lúc không còn khoảng cách nữa mà đã nhập nhòe.

Thí dụ:

Em ơi!
Hãy nhìn lên trời xem có bao nhiêu vì sao
thì anh yêu em còn nhiều hơn thế nữa.

Đây là câu nói của một anh chàng nịnh người yêu của mình. Nó là văn xuôi nhưng do cái nhìn phóng khoáng về thơ nên cũng có thể gọi là thơ vì đã có đủ 3 đặc tính của thơ – có cảm xúc, có “cái tôi riêng tư” trong cảnh thơ, và nằm trong trường hợp “ngoại trừ” (không có vần - Thơ Tự Do).


Phân Biệt Thơ Với Vè (Và Những Thứ Không Phải Thơ)

Thơ với Văn có thế nhập nhòe nhưng Thơ với Vè (hoặc những thứ không phải thơ) thì rạch ròi tách biệt.
Cái tạo nên sự tách biệt đó là “cái tôi riêng tư”.

Người viết vè kể chuyện bằng “trí” nhưng tâm đứng ngoài câu chuyện của bài vè; do đó, vè không có “cái tôi riêng tư”.

Thi sĩ khi làm thơ phải cho tâm của mình - tức là “cái tôi riêng tư” - xuất hiện trong câu chuyện (khung cảnh) của bài thơ.

Trong bài vè, nếu có “cái tôi riêng tư” của tác giả xuất hiện trong câu chuyện, nó sẽ tự động thành thơ.

Trong “bài thơ”, nếu không có “cái tôi riêng tư” của tác giả trong khung cảnh thơ thì phải gọi nó là “cây dị chủng trong vườn thơ”; nó có thể là vè hoặc là “một chủng loại gì đó” chứ không phải thơ.


Một Số Tác Phẩm Giống Thơ Nhưng Không Phải Thơ

1/

HÌNH VUÔNG

Muốn tìm chu vi hình vuông
Lấy cạnh nhân bốn lệ thường nhớ ghi
Diện tích hình vuông khó gì
Lấy cạnh nhân cạnh sai đi đường nào.

Môt ông thầy dạy toán nào đấy đã mượn thể thơ lục bát để diễn tả một công thức toán cho học trò dễ nhớ. Nội dung của 4 câu lục bát hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không có một chút cảm xúc nào. Đây không phải là thơ.


2/

Con ơi, muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thì giữ việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.
Trai thì đọc sách, ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
(Ca dao)

3/

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
(Ca dao)

Một nhà Nho đã đem quan niệm về chữ hiếu của Khổng Tử dàn trải trong thơ lục bát để loan truyền trong dân gian. Đây chỉ là sản phẩm của lý trí, tâm chưa đối cảnh, không có cảm xúc, không thể gọi là thơ.


4/

KINH PHÁP CÚ

Không làm các việc ác
Tu tập các hạnh lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Là lời chư Phật dạy

Chỉ là lời chư Phật dạy, không cảm xúc.

5/

HÃY TIN CHÚA

Hãy tin nơi Thiên Chúa
Hồn xác dâng cho ngài
Hãy sống theo lời Chúa
Chết, sẽ về nước Trời

Đây chỉ là lời kêu gọi mọi người Hãy Tin Chúa, hoàn toàn đến từ bề mặt ý thức, là sản phẩm của lý trí, không có bóng dáng cảm xúc nên không thể gọi là thơ.

6/

HÃY MUA THUỐC SỐ 42

Ai khóc ngoài quan ải?
Ai chưa đánh đã chạy dài?
Thuốc này bôi một tý thôi
Là trèo lên ngựa vung roi cả ngày
Thuốc này, ôi thật là hay!
Thuốc này tên gọi là Xây Xập Zì (tiếng Hoa: 42)

Đây có vóc dáng là thơ nhưng chỉ là bài quảng cáo thuốc “chơi lâu” ở các tỉnh biên giới phía bắc. Nó là sản phẩm của óc thương mại, kinh doanh, không phải là những lời tâm tình, hàm chứa cảm xúc.

KHÔNG MUỐN MÀ PHẢI NÓI

Nói thêm về bác Vượng:
Nếu bác có gì sai
Thì đã có pháp luật.
Pháp luật không chừa ai.

Bác chưa hề bị bắt,
Chưa bị tù, nghĩa là
Bác là công dân tốt.
Tốt gấp vạn chúng ta.

Tốt vì bác đóng thuế,
Chắc nhiều lắm, rất nhiều.
Tạo hàng triệu công việc,
Tất nhiên cho người nghèo.

Nhờ những người như bác,
Tức kinh tế tư nhân,
Kinh tế mới phát triển,
Cuộc sống mới khá dần.

Bác muốn tăng học phí?
Quyền của bác chứ sao.
Không thích thì mời biến.
Bác không ép người nào.

Dễ thấy một chấm bẩn
Trên một tấm kính trong.
Nhưng thấy cả tấm kính,
Rất tiếc, thường là không.

Không một ai hoàn hảo.
Thị trường là thị trường.
Có sai mới có đúng.
Chuyện ấy rất bình thường.
(Thái Bá Tân)

Đây là một trong những “bài thơ” của Thái Bá Tân mà nói đến thể loại có người đặt cho cái tên rất “chua”: Vè Thời Đại. Tôi không dám vơ đũa cả nắm, nhưng có thể nói khá nhiều thơ của TBT thuộc loại này. Chúng như những bài giảng mạch lạc của một thầy giáo có kiến thức, có khả năng sư phạm và có tài “chọn chữ xếp vần”. Chúng đến từ bề mặt ý thức, là sản phẩm của lý trí nên thiếu cái điều kiện cốt yếu để được gọi là thơ.

Những tác phẩm “không phải thơ” trong mục này được trích trong Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết Của Nguyễn Đức Tùng Có Phải Là Thơ? của Phạm Đức Nhì. (1)


Mấy Điều Lầm Lẫn Của Nhà Thơ Nguyễn Vũ Tiềm

1/ Hiểu Sai Hai Chữ “Văn Vần”

Ông Nguyễn Vũ Tiềm nói:

Nếu một bài thơ mà “có sao viết vậy” thì là văn vần chứ không phải thơ, nó chỉ “giống như thơ” mà thôi.

Như đã giải thích ở trên, thơ chỉ là một thể loại của văn vần. Ông Nguyễn Vũ Tiềm dùng hai chữ “văn vần” không chính xác.

Tuy chỉ là lỗi kỹ thuật nhưng do tính văn chương “cao cấp” của nội dung cuộc phỏng vấn – nói đến cội rễ, gốc gác của thơ - nên nó là lỗi rất nặng.


2/ “Có Sao Viết Vậy” Không Phải Là Thơ?

Như đã giải thích ở phần trên, điều kiện để tặng danh hiệu Thơ cho một tác phẩm là “chữ tình” riêng tư của tác giả - chữ chuyên môn là “tâm đối cảnh”, “cái tôi riêng tư” có mặt trong cảnh thơ - chứ không phải 3 cái “Khác Thường” như ông Nguyễn Vũ Tiềm nói.

Thí dụ:

Anh thương em lắm Phấn à
Thương em anh muốn em là của anh.

Đây là hai câu tỏ tình non tay của một cậu học trò 15 tuổi. Tác giả diễn đạt kiểu “có sao nói vậy”, chẳng có gì “khác thường” nên không được văn hoa lắm. Nhưng chữ “tình” thì đã hiện rất rõ. Cậu đã gởi hồn của mình vào tác phẩm. Ai dám bảo hai câu ấy không phải thơ?

Chúng ta thử đọc câu sau đây trong diễn văn nhậm chức của Tổng Thống Mỹ John F. Kennedy:

“Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn -  
mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc.” (2)

Câu này có “suy nghĩ khác thường”, được nói một cách khác thường, đã đi vào lịch sử ở cả hai phạm trù chính trị và văn học. Nhưng vì không có cảm xúc, xuất phát từ cái đầu chứ không phải con tim nên không phải là thơ. 

Và đây là hai câu khác:

Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan
(Hồ Chí Minh)

Ý tưởng đúng đắn, xứng đáng để các em nhỏ học hỏi, ứng xử, nhưng hoàn toàn là sản phẩm của lý trí. Vì thế không thể gọi là thơ.

Còn hai câu:

Nhìn con học giỏi hiền ngoan
Lòng cha cảm thấy ngập tràn sướng vui
(PĐN)

Cha đã bước vào khung cảnh bài thơ và đã có cảm xúc. Đích thị là thơ.

Hoặc:

Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng
(Ca dao Nam Bộ)

Một người từng trải, nhiều kinh nghiệm về chuyện đa thê đã đưa ra lời khuyên đối với những anh mới học đòi Phòng Nhất, Phòng Nhì. Đó chỉ là sản phẩm của lý trí, không có cảm xúc.

Còn mấy câu:

Bà lớn ở nhà đang trông
Nhìn em “quá đã” qua không muốn về
Thôi đành mặc người cười chê
(PĐN)

Cảm xúc đã dạt dào - mê bà nhỏ đến mức quên cả lẽ công bằng của người đàn ông hai vợ (theo câu ca dao). Đã có thơ.

Tóm lại ở phần này:

Tác phẩm dù  non tay, “có sao viết vậy” mà có “tâm đối cảnh”, có “chữ tình” thì vẫn được gọi là thơ.

Tác phẩm dù có “khác thường” đến mấy mà không có “tâm đối cảnh”, không có “chữ tình” thì vẫn là “cây dị chủng”.

Phát biểu của ông Nguyễn Vũ Tiềm về cội nguồn, gốc gác của thơ là không chính xác.

(Phần trên đây được trích trong Bàn Thêm V Nhn Din Thơ của PĐN)

Cách Nhận Diện Thơ Của Ông Nguyễn Vũ Tiềm Không Đúng

Ông Nguyễn Vũ Tiềm viết:
Hai câu thơ quen thuộc và rất hay của nhà thơ Chế Lan Viên:

“Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm”

Gié lúa và cây gỗ là thứ vô tri, nó đâu biết mơ ước đến những điều cao siêu ấy, mà chính là cảm xúc, ý tưởng của nhà thơ về chúng mà thôi. Ở hai câu này nhà thơ dùng thủ pháp nghệ thuật nhân cách hóa.

Nếu làm văn vần chỉ cần viết:

“Lúa vàng hạt mẩy đồng ta
Trầm hương gỗ quý, bao la trên rừng”

Văn vần thường tả chân, phản ánh trực tiếp sự vật, phù hợp với đề tài người thật việc thật.


Hai câu thơ của Chế Lan Viên được trích trong bài Tổ Quốc Bao Giờ Đẹp Thế Này Chăng? Nếu tách riêng như ông Nguyễn Hữu Tiềm thì 2 câu:

“Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm”

không có “chữ tình” của “cái tôi riêng tư” nên không thể gọi là thơ được. (Ông NVT nói có cảm xúc là nói lấy có.)

Nhưng thơ có một điều luật tạo điều kiện dễ dàng cho thi sĩ làm thơ. Đó là:

Một bài dài cách mấy mà chỉ cần có một “câu sinh tình” là cũng đủ điều kiện để được gọi là thơ. Những câu còn lại, dù có tình hay không, cũng được ăn theo để thành thơ.
                         
Trong 68 câu còn lại có khá nhiều câu sinh tình nên Tổ Quốc Bao Giờ Đẹp Thế Này Chăng? đã xứng đáng với danh hiệu thơ. Hai câu ông NVT cắt ra làm thí dụ, nếu để riêng thì không phải thơ, nhưng nhờ ăn theo cả bài nên cũng được gọi là thơ.

Lấy 3 câu đầu trong bài thơ Ngậm Ngùi của Huy Cận làm thí dụ:

Nắng chia nửa bãi chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu
Sợi buồn con nhện giăng mau

Ba câu này chỉ là phần dọn cảnh, không có “chữ tình” của “cái tôi riêng tư” nên nếu để riêng chưa thể gọi là thơ. Nhưng đến 2 câu kế tiếp:

Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
Lòng anh mở với quạt này

thì “chữ tình” của “cái tôi riêng tư” đã có mặt, cả bài đã thành thơ; ba câu đầu, nhờ thế, cũng được “ăn theo” để thành thơ.

Việc ông Nguyễn Vũ Tiềm tách riêng 2 câu trong bài thơ 70 câu để xem 2 câu ấy có phải là thơ không là việc làm không những không hợp lý mà còn có vẻ “ngờ nghệch” nữa.

Những Cây Dị Chủng Trong Vườn Thơ Của Nguyễn Vũ Tiềm

Ngoài ra, ông Nguyễn Vũ Tiềm vì lơ là với cái gốc của thơ nên đã “làm thơ hóa ra viết vè”. Xin giới thiệu với bạn đọc 4 câu vè của ông:

1/

Ban tình yêu, việc của Trời
Giữ tình yêu, việc của người, khó thay

Nhận xét của tác giả về việc thủ đắc và gìn giữ tình yêu của con người, hoàn toàn là sản phẩm của lý trí. Ở đây không có cảnh thơ và tâm hồn tác giả vẫn còn nằm ngủ ở một chỗ bí mật nào đó, chưa xuất hiện.

2/

Giai nhân son phấn thì sang
Văn chương son phấn lại càng già nua

Nhận xét của tác giả về việc làm đẹp cho văn chương một cách giả tạo, bề ngoài. Đây cũng chỉ là sản phẩm của lý trí.

3/

Bước đi: học chỉ một năm
Bước dừng: học đến rụng răng chưa thành

Không có “tâm đối cảnh”, là sản phẩm của lý trí.

4/

Một tác phẩm chưa thể nói thành công
nếu chưa có người đòi mang ra phán xử

Rõ ràng là sản phẩm của lý trí.


Kết Luận

Mới đây (24/04/2020), trong một buổi họp tường trình về tình hình đối phó với dịch Covid19 Tổng Thống Donald Trump có gợi ý cho dân Mỹ tiêm hoặc uống thuốc sát trùng (disinfectant) để diệt Virus Corona. Lời gợi ý phản khoa học của Tổng Thống trong buổi họp được truyền hình toàn nước Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới đã làm sửng sốt giới truyền thông, y học, quan chức chính quyền và toàn dân Mỹ.

Sau đó chỉ riêng tiểu bang Maryland đã có hàng trăm người gọi đến các cơ quan y tế địa phương để hỏi cho rõ thực hư. Thế là các bác sĩ, hãng sản xuất thuốc sát trùng Lysol phải ra thông báo cải chính. Bởi nếu không, dân chúng “nghe dại” Tổng Thống, chích hoặc uống thứ đó vào thì chỉ có … đi đời.

Không hiểu sao nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm lại mạnh miệng phát biểu trên báo chí những điều sai lạc về thơ như vậy – mà lại là những cái sai về “gốc gác”, cốt tủy của thơ mới đáng tiếc. Ông là nhà giáo, lại là “Người Nổi Tiếng” nên phát biểu kiểu “điếc không sợ súng” của ông làm những người yêu thơ - đặc biệt là giới trẻ - bối rối, hoang mang, không biết đâu là hư thực.

Bài viết của tôi chỉ là một nhận xét “trái chiều”. Rất mong nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm lên tiếng làm sáng tỏ cái “màn đêm u tối” mà chính ông đã tạo ra trên Thi Đàn, thì chúng tôi, những người yêu thơ, sẽ biết ơn ông lắm lắm.

San Leon 29/04/2020

Phạm Đức Nhì


CHÚ THÍCH:

1/

2/ Ask not what your country can do for you—ask what you can do for your country.





Thứ Tư, 22 tháng 4, 2020

NHỮNG CHIẾC LÔNG VŨ CỦA EMILY DICKINSON & THƠ TRÍ TUỆ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI


Vài Nét Về Emily Dickinson

 

Nhà thơ Emily Dickinson sinh ngày 10/12/1830 tại Amherst, Massachusetts, USA. Sau khi học 7 năm ở Amherst Academy bà vào học tại chủng viện Mount Holyoke một thời gian ngắn rồi trở về nhà ở Amherst, sống đời biệt lập. Bà chưa từng lập gia đình, tự giam mình trong phòng riêng, không thích và luôn tránh né giao tiếp, gặp gỡ.  Mọi quan hệ của bà với bạn bè, người quen biết hầu như đều qua thư từ.             

 

Theo Poetry Foundation thì Emily Dickinson là một trong những thi sĩ lớn nhất và sáng tạo nhất của nước Mỹ trong mọi thời đại. Bà coi định nghĩa thơ là lãnh vực hoạt động của mình và thách thức mọi định nghĩa thơ cũng như nhiệm vụ của thi sĩ thời đó. Giống Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, and Walt Whitman, bà thử nghiệm cách diễn đạt mới để giải phóng thơ khỏi những trói buộc thường lệ. (1)

 

Trong số 1775 bài thơ bà sáng tác (2) chỉ có một lá thư và 10 bài thơ được phổ biến lúc sinh thời (3). Sau khi bà chết (15/05/1886) thì em gái bà, Lavinia, mới khám phá khối lượng thơ đồ sộ đó và “hơi thở từ những tác phẩm của bà” mới đến được với công chúng.

 

Dưới đây là 2 bài thơ trong tuyển tập “A Freight of Feathers – 50 Brief Poems by Emily Dickinson” (Một Bó Lông Vũ – 50 Bài Thơ Ngắn của Emily Dickinson) (2)

 

A Word Is Dead (4)

 

A word is dead

When it is said,

Some say.

I say it just

Begins to live

That day.

 

Dịch thoát:

 

Có người cho rằng

Một chữ khi được nói (viết) ra

Là đã chết

 

Tôi nói

Nó chỉ bắt đầu sống

Từ hôm đó

 

Tìm Gặp Tứ Thơ:

 

Nói rõ hơn, con chữ chết là con chữ còn nằm trong tự điển. Khi con chữ được nói hoặc viết ra nó sẽ thuộc về một ngữ cảnh, một văn bản nào đó, bắt đầu được lưu truyền và bắt đầu sống.  Nếu được đặt đúng chỗ (đắc địa) trong một câu hay, một bài thơ có tứ mới lạ hoặc ý tưởng cao siêu nó sẽ tạo được ấn tượng sâu đậm nơi người đọc, người nghe và sẽ sống rất lâu. Ngược lại, nó sẽ chết yểu, sẽ nhanh chóng đi vào quên lãng. Tác giả, qua bài thơ rất ngắn, nói đến sức sống của “con chữ” trong thơ (và cả trong cuộc đời).

 

Nhận Xét:

 

1/ Bài thơ rất ngắn: Có 19 chữ (20 âm tiết).

 

2/ Ngôn ngữ đơn giản (có đến 18 chữ đơn âm), tuyển lựa kỹ càng, câu cú, ý tưởng mạch lạc

 

3/ Vần: Hai cặp vần, một liên tiếp (dead, said), một gián cách (say, day), đọc lên âm vang của thơ rất vừa ngọt.

 

4/ Biện pháp tu từ: So sánh tương phản – câu sau đối chọi chan chát với câu trước làm nổi bật ý nghĩa của bài thơ.

 

5/ Tứ thơ sâu sắc – nói đến sức sống của “con chữ” trong thơ (và cả trong cuộc đời)

 

6/ Viết theo lối Kiếm Tông, chú trọng câu chữ, ý tứ, biện pháp tu từ - nói chung là cái đẹp của văn chương.

 

7/ Cảm xúc từ câu chữ, bố cục (tầng 1+2) khá mạnh.

 

8/ Bài thơ tựu trung chỉ là một phát biểu, không giải thích, mặc dù tâm đã đối cảnh nhưng lý trí hầu như hoàn toàn đạo diễn bài thơ, không có xốn xang, rung động riêng của tác giả nên không có cảm xúc tầng 3. Thiếu hẳn chữ “tình” và “chất thơ”.

 

 

An Hour is a Sea

 

An Hour is a sea

Between a few, and me

With them would Harbor be

 

Dịch sát:

 

Một tiếng đồng hồ là một đại dương

Nằm giữa một số ít người và tôi

Bến Cảng sẽ ở chỗ họ

 

Dịch thoát:

 

Một tiếng đồng hồ là thời gian để vuợt một đại dương

Nằm giữa một số ít người và tôi

Mà họ là Bến Bờ tôi hướng tới.

 

Tìm Gặp Tứ Thơ

 

Tứ thơ ở đây hơi khó “bắt” vì trên văn bản tác giả chưa cung cấp đầy đủ dữ kiện. Nhóm chữ “Một tiếng đồng hồ” (An hour) có vẻ hơi xa lạ với phần còn lại của bài thơ. 

 

Tôi đã đọc kỹ tiểu sử của tác giả thêm vài lần và nhận thấy một chi tiết hữu ích: “Bà chưa từng lập gia đình, tự giam mình trong phòng riêng, không thích và luôn tránh né giao tiếp, gặp gỡ.  Mọi quan hệ của bà với bạn bè, người quen biết hầu như đều dựa trên thư từ.”

 

Và một chi tiết quan trọng nữa: Ba câu thơ này nằm ở đoạn cuối một lá thư ngắn bà viết cho Susan (chị dâu), một trong “số rất ít” nguời thân của mình. (5)         

 

Và tôi đã có trong tay một số dữ kiện:

 

1/ Giữa tác giả và một số rất ít bạn bè là cả một đại dương xa cách.

 

2/ Không gặp gỡ mà chỉ liên lạc qua thư từ.

 

3/ Họ là Bến Cảng (Harbor) ở bên kia bờ đại dương.

 

4/ Thư từ với họ là một “hành trình vượt đại dương”

 

5/ Thời gian của “hành trình vượt đại dương” (viết thư) là khoảng một tiếng đồng hồ. Cũng có thể một tiếng đồng hồ chỉ có tính cách tượng trưng, một thời gian giả định, lúc bà nghĩ đến “một số rất ít” bạn bè và viết thư cho họ.

 

Với những dữ kiện trên đây độc giả có thể tư ghép lại để “gặp” tứ thơ không khó lắm.

 

Nhận Xét:

 

1/ Bài thơ cực ngắn: Chỉ có 15 chữ (17 âm tiết).

 

2/ Vần: Cước vận ở cả 3 câu. Vị ngọt của thơ rõ nét.

 

3/ Ngôn ngữ chắt lọc, đặc quẹo, không thể cắt xén.

 

4/ Con đường dẫn đến tứ thơ gập ghềnh (nhưng gây nhiều hứng thú) hơn bài “A Word is Dead”.

 

5/ Sức gợi: Sức gợi cực mạnh, “tầm bắn xa”, đòi hỏi nơi người đọc kiến thức rộng, trí tưởng tượng phong phú, khả năng liên tưởng mạnh mẽ, để tìm gặp, nhận biết tứ thơ.

 

6/ Cảm xúc tầng 1 (từ câu chữ) và tầng 2 (từ bố cục chặt chẽ) rất mạnh, tạo khoái cảm cao độ cho độc giả khi “bắt” được tứ thơ.

 

7/ Cảm xúc tầng 3 (từ trạng thái xao động tâm hồn của tác giả) không có. Tác giả quá tỉnh táo khi làm thơ. Thơ toàn lý trí.

 

8/ Người thưởng thức thơ đương đại đã nâng loại thơ này lên hạng “thơ trí tuệ” với ý nể trọng. Chính Emily Dickinson đã ưu ái gọi chúng là Những Chiếc Lông Vũ, có khả năng chắp cánh cho tâm hồn người đọc bay cao, bay xa. Tuy nhiên, nếu nói đến chữ “tình” và “chất thơ” – hai thành tố (tuy hai mà một) quý giá nhất của thi ca – thì “thơ trí tuệ” không có.

 

 

 

So Sánh Với Hai Bài Thơ Việt

 

1/

 

Cánh Đồng

 

 

Sau ba năm chung thủy

Với người chồng đi xa

Chị đã thất tiết một cách lạ kỳ

Với người đàn ông xấu xí

Già hơn chị rất nhiều

 

Trong một buổi chiều bão tố

Khi chúng tôi đến đó

Người đàn ông đã đi rồi

Chỉ còn lại trên đồng lúa

Vết xước của dĩa bay mà thôi (6)

(Nguyễn Đức Tùng)  

 

     a/ So với A Word is Dead: Cánh Đồng có hai điểm hơn hẳn. Một, tứ thơ “siêu” hơn, nhân bản hơn. Hai, “đường vòng nghệ thuật” dẫn đến tứ thơ là cả một câu chuyện, mặc dù bịa đặt, nhưng có tình tiết hấp dẫn khiến độc giả đọc khoái hơn, cảm xúc tầng 2 mạnh hơn nhiều.

 

     b/ So với An Hour is a Sea: Cánh Đồng hơn hẳn về tứ thơ. “Đường vòng nghệ thuật” của hai bài thơ có sức hấp dẫn ngang nhau.

 

Cả 3 bài đều là sản phẩm của lý trí, dù tâm đối cảnh nhưng không có cảm xúc tầng 3, không có chữ “tình” và “chất thơ”.

 

2/

 

Sông Lấp

 

Sông xưa rày đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai

Vẳng nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. (7)

 

(Trần Tế Xương)

 

     a/ So với A Word is Dead:

 

Một, tứ thơ tạm coi là đồng hạng. Hai, “đường vòng nghệ thuật” dẫn đến tứ thơ của Sông Lấp tươi mát, sống động hơn; từ tiếng ếch dẫn đến tiếng gọi đò, từ tiếng gọi đò gợi nhớ đến con sông xưa đã bị lấp, từ Sông Lấp nhớ đến nền Nho Học đang lụi tàn. Cảm xúc tầng 2 của Sông Lấp mạnh hơn gấp bội.

 

     b/ So với An Hour is a Sea:

 

Một, tứ thơ tạm coi là đồng hạng. Hai, “đường vòng nghệ thuật” dẫn đến tứ thơ của Sông Lấp tươi mát, sống động hơn, cảm xúc tầng 2 mạnh hơn.

 

Đặc biệt, Sông Lấp hơn hẳn hai bài thơ của Emily Dickinson về chữ “tình” và “chất thơ”. Trần Tế Xương viết Sông Lấp lúc tâm hồn xao động, nỗi nhớ thương, tiếc nuối dâng tràn, cảm xúc tầng 3 đã xuất hiện nhưng do bài thơ ngắn, chưa đủ “đất” để tạo cao trào nên chưa có hồn thơ.

 

Cũng cần nói thêm là khi chọn thơ của Emily Dickinson để giới thiệu tôi đã cố ý chọn những bài thật đơn giản (không phải là những bài hay nhất) để khi chuyển ngữ độc giả có thể tiếp cận với tứ thơ tương đối dễ dàng.

 

Hơn nữa, Trần Tế Xương và Nguyễn Đức Tùng - nhờ sinh sau đẻ muộn - được hưởng lợi thế quá lớn từ sự tiến bộ của thời đại về văn chương nói chung và thi ca nói riêng - nên thơ của hai ông có hơi nổi trội chút ít. Xin đừng dựa vào đó để phân định “tài thơ” của các thi sĩ.

 

 

Thơ Trí Tuệ Không Khéo Sẽ Thành “Cây Dị Chủng Trong Vườn Thơ”

 

Mấy tuần trước, để “thăm dò dư luận” cho bài viết này tôi đã đăng trên FB một bài (trong Một Bó Lông Vũ) của Emily Dickinson.

 

To Wait an Hour is Long

 

To wait an Hour — is long —

If Love be just beyond —

To wait Eternity — is short —

If Love reward the end —

(Emily Dickinson)

 

Chờ một giờ là dài

Nếu tình yêu ngoài tầm tay với

chờ suốt kiếp là ngắn

Nếu phần thưởng tình yêu ở cuối đường

 

Một bạn đọc thân quen, học vấn cao, yêu thích thơ và cũng làm thơ, viết một bình luận:

 

“Đơn giản như đang giỡn vậy”

 

Và tôi đã trả lời:

 

Tiếc rằng “bài thơ” của Emily Dickinson - một nhà thơ lớn của nước Mỹ - lại toàn lý trí, chẳng có chữ "tình" và "chất thơ".

 

Nếu nói rõ ngọn ngành thì trong To Wait an Hour is Long tâm của tác giả chưa đối cảnh, cái tôi riêng tư chưa xuất hiện, “tứ thơ” chỉ ở dạng “kiến thức”, nên chưa thể gọi là thơ.

 

Dưới đây là một bài khác – nói về cuộc nội chiến của Mỹ

 

The First We Knew of Him was Death

 

The first We knew of Him was Death —

The second — was — Renown —

Except the first had justified

The second had not been.

 

Đầu tiên chúng ta biết về Anh là Cái Chết

Thứ hai là Danh Thơm

Ngoại trừ điều đầu tiên đã được lý giải (đã là sự thật)

Điều thứ hai thì chưa

 

(“Anh” là người lính ở cả hai phe trong cuộc nội chiến)

 

Trong chiến tranh, người lính ở phe nào cũng được lãnh đạo phe mình tặng cho hai chữ “chính nghĩa” để hết lòng chiến đấu, sẵn sàng lao vào chỗ chết. Chết vì “chính nghĩa” sẽ để lại Danh Thơm. Theo Emily Dickinson thì chỉ có “Cái Chết” là rõ ràng, là thật, còn Danh Thơm chỉ là phù phiếm, giả tạo (được “đặt ra” để đẩy con người vào chỗ chết)

 

Ý tưởng của bài thơ rất hay (phản chiến một cách sâu sắc, ý nhị), cách diễn đạt rất văn chương và rất khéo. Tuy nhiên, nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không có “tâm đối cảnh”, không phải là thơ.

 

Vâng, Một Bó Lông Vũ - Tuyển Tập 50 Bài Thơ Ngắn Của Emily Dickinson có nhiều “bài thơ” như thế. Những bài khác, mặc dù tâm đã đối cảnh, cái tôi riêng tư đã có mặt, đã là thơ, nhưng vì tác giả quá chú trọng cái đẹp của ngôn ngữ, ý tưởng và đường vòng nghệ thuật của tứ thơ nên rất ít cảm xúc.

 

Thú thật, để viết bài này, ngoài 50 bài ngắn trong tuyển tập Một Bó Lông Vũ của Emily Dickinson tôi chỉ đọc thêm 10 bài (do Nuala O’Connor tuyển lựa) được cho là hay nhất của bà (8) và đọc (lướt) khoảng 50 bài thơ khác (trong tổng số 1775 bài). Tuy nhiên, lý trí hiện diện trong thơ của bà quá rõ nét nên tôi có thể khá tự tin khi đưa ra nhận xét như trên.

                                                                                                                             

 

Thơ Trí Tuệ Đương Đại Của Việt Nam Cũng Thế

 

Không phải làm thơ ở giữa thế kỷ 19 như Emily Dickinson mới mắc phải lỗi “làm thơ hóa ra viết vè” như trên. Một số không ít nhà thơ đương đại Việt Nam cũng sản xuất những “cây dị chủng trong vườn thơ” tương tự như vậy.

 

Trang web thivien.net có 225 bài thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm, trong đó có khá nhiều “bài thơ” chỉ có 2 câu. Tôi chọn 2 bài để giới thiệu với bạn đọc:

 

1/

 

Ban tình yêu, việc của Trời

Giữ tình yêu, việc của người, khó thay

 

Đây là nhận xét của tác giả về việc thủ đắc và gìn giữ tình yêu của con người, hoàn toàn là sản phẩm của lý trí. Ở đây không có cảnh thơ và tâm hồn tác giả vẫn còn nằm ngủ ở một chỗ bí mật nào đó, chưa xuất hiện.

 

2/

 

Giai nhân son phấn thì sang

Văn chương son phấn lại càng già nua

 

Nhận xét của tác giả về việc làm đẹp cho văn chương một cách giả tạo, bề ngoài. Đây cũng chỉ là sản phẩm của lý trí, không phải thơ.

 

https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-V%C5%A9-Ti%E1%BB%81m/author-y-8FU-bxva8gLBdrnIEqeA

 

 

Hoàng Vũ Thuật cũng có 5 “bài thơ” ngắn về cái bóng. Ở đây tôi xin trích dẫn 2 bài.

 

1/

 

Khi hai người yêu nhau

Họ chỉ còn một bóng

 

2/

 

Đừng giận dỗi

Xem chừng bóng vỡ làm đôi

 

https://www.thivien.net/Ho%C3%A0ng-V%C5%A9-Thu%E1%BA%ADt/author-iS-sj4WNv5L8YQ6cikxqEQ

 

Mỗi bài chỉ là một phát biểu, toàn lý trí, không có tâm đối cảnh nên không phải là thơ.

 

Thêm vào đó còn có Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết (Nguyễn Đức Tùng), Đồng Dao Cho Người Lớn (Nguyễn Trọng Tạo), Trò Chơi Của Ảo Giác (Nguyễn Quang Thiều) nhưng vì là những bài dài nên tôi để ở phần CHÚ THÍCH (9). Ba bài này tuy đông quân hơn, bài binh bố trận công phu hơn, nhưng chỉ toàn lý trí, tâm chưa đối cảnh, cái tôi riêng tư của tác giả chưa xuất hiện nên chưa phải là thơ.

 

 

Đặc Tính Của Thơ Trí Tuệ

 

Mang danh là thơ trí tuệ thì dù có là Một Bó Lông Vũ của Emily Dickinson hay “những đột phá mới lạ” của những nhà thơ đương đại Việt Nam cũng đều có những đặc tính sau đây:

 

1/ Đậm chất trí tuệ: Ngôn ngữ chắt lọc, ý tưởng cao sang, độc giả cần một trình độ kiến thức khá cao để có thể hiểu và “thấy” cái hay, cái đẹp của bài thơ.

 

2/ Thường có biện pháp tu từ để có “đường vòng nghệ thuật dẫn đến tứ thơ” mới lạ, độc đáo, tạo khoái cảm mạnh mẽ cho độc giả “bắt” được tứ thơ.

 

3/ Thường được đem ra tán tụng, bình phẩm trên các diễn đàn văn học, trong các buổi họp mặt quy tụ những “tao nhân mặc khách”.

 

4/ Viết không khéo dễ thành vè hoặc “cây dị chủng trong vườn thơ”

5/ Dù có tâm đối cảnh, đã là thơ nhưng là thứ thơ khô cứng, ít chất tình.

 

Kết Luận

 

Nếu cho rằng Bến Bờ Thi Ca là nơi tụ hội những bài thơ có kỹ thuật thơ vững vàng, được viết trong lúc thi sĩ “lạc thần trí” (cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí), lời thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ, thì thơ trí tuệ - do thấm đẫm lý trí – nên trong cuộc chạy đua về Bến thường ở phía sau và không thể nào đến đích.

 

04/2020

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

                                                                                                                             

 

CHÚ THÍCH:

 

1/

 

“Emily Dickinson is one of America’s greatest and most original poets of all time. She took definition as her province and challenged the existing definitions of poetry and the poet’s work. Like writers such as Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, and Walt Whitman, she experimented with expression in order to free it from conventional restraints.”

https://www.poetryfoundation.org/poets/emily-dickinson

 

2/

 

A Freight of Feathers – 50 Brief Poems by Emily Dickinson

 

(Trang 1, dòng 16)

https://briefpoems.wordpress.com/tag/emily-dickinson/

 

3/

 

Theo Wikipedia (https://en.wikipedia.org/wiki/Emily_Dickinson) thì

 "The Emily Dickinson Museum indicates only one letter and ten poems were published before her death".

Viện bảo tàng Emily Dickinson cho biết chỉ có một lá thư và 10 bài thơ được xuất bản trước khi bà chết.

 

 

4/

 

Tác giả không đặt tựa nên câu đầu tiên được lấy làm tựa cho bài thơ

 

5/

 

https://www.edickinson.org/editions/1/image_sets/236634

 

6/

 

Cánh Đồng - Một Bài Thơ Lạ, Phạm Đức Nhì

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/12/canh-ong-mot-bai-tho-la.html

 

7/

 

Sông Lấp - Một Bài Thơ Toàn Bích, Phạm Đức Nhì

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/05/song-lap-mot-bai-tho-toan-bich.html

 

8/

 

Mười bài thơ hay nhất của Emily Dickinson:

 

1.     "I taste a liquor never brewed"

2.     "Success is counted sweetest"

3.     "Wild nights - Wild nights!"

4.     "I felt a Funeral, in my Brain"

5.     "I'm Nobody! Who are you?"

6.     "'Hope' is the thing with feathers"

7.     "A Bird, came down the Walk"

8.     "Because I could not stop for Death"

9.     "My Life had stood - a Loaded Gun"

10.   "Tell all the truth but tell it slant"

https://www.publishersweekly.com/pw/by-topic/industry-news/tip-sheet/article/67591-the-10-best-emily-dickinson-poems.html

 

9/

 

EM CÒN TRẺ VÀ EM KHÔNG THỂ BIẾT

 

Em còn trẻ và em không thể biết

Người ta sống lại khi đã chết

Những người yêu nhau thường cách biệt

Những người ghét nhau ở bên nhau

Em còn trẻ và em không thể biết

Những cây cối bên đường cũng khổ đau

Khi chúng đứng một mình trong gió rét

Hay khi chúng chụm đầu chen chúc nhau

Em còn trẻ và em không thể biết

Lúc nào nên kết thúc lúc nào nên bắt đầu

 

Nguyễn Đức Tùng

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/03/em-con-tre-va-em-khong-biet-cua-nguyen.html

 

ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN

              

Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi

có con người sống mà như qua đời

có câu trả lời biến thành câu hỏi

có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới

có cha có mẹ có trẻ mồ côi

có ông trăng tròn nào phải mâm xôi

có cả đất trời mà không nhà ở

có vui nho nhỏ có buồn mênh mông

mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ

mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió

có thương có nhớ có khóc có cười

có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.

 

Nguyễn Trọng Tạo - 1992

https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/07/ve-bai-tho-ong-dao-cho-nguoi-lon.html

 

 

TRÒ CHƠI CỦA ẢO GIÁC

 

Không. Bàn tay chúng ta chuyển động. Không. Cái ly chuyển động

Không. Rượu chuyển động. Không. Đôi chân chúng ta chuyển động .Không.

Con tàu chuyển động. Không. Nhà ga chuyển động

Không. Thành phố chuyển động. Không. Con cá bơi

Không. Nước bơi. Không. Dòng sông bơi .Không.

Con chim bay. Không. Cái cây bay. Không. Bầu trời bay

 

Không. Tất cả không.Chỉ cái chết chuyển động

Và mang theo chúng ta.

(Nguyễn Quang Thiều, thivien.net)

https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Quang-Thi%E1%BB%81u/Tr%C3%B2-ch%C6%A1i-c%E1%BB%A7a-%E1%BA%A3o-gi%C3%A1c/poem-3ysgOJNDdK1omRDpL6_TRQ

 

 

THAM KHẢO:

 

https://en.wikipedia.org/wiki/Emily_Dickinson

http://academic.brooklyn.cuny.edu/english/melani/cs6/dickinson.html