Thứ Hai, 24 tháng 12, 2018

CÁCH SỬ DỤNG "I" VÀ "Y" VÀ NGUYÊN TẮC ĐÁNH DẤU TRONG TIẾNG VIỆT



Khải Chính Phạm Kim Thư



Nhiều bạn trẻ ta thán rằng khi viết văn, một số người có khuynh hướng đổi "y" thành "i" trong các trường hợp như "Bắc Mỹ" thành ra "Bắc Mĩ," "Quý Mùi" thành ra "Quí Mùi," và "thế kỷ" thành ra "thế kỉ,"v.v. Họ yêu cầu tôi viết bài để giúp họ hiểu rõ tại sao lại có những trường hợp như thế. Chính vì thế, chúng tôi mới có động lực để viết bài "Cách Sử Dụng 'i' và 'y' trong Tiếng Việt." Muốn hiểu rõ về cách ghép vần với nguyên âm "i" hay "y" và phương pháp đánh dấu trong tiếng Việt, trước hết chúng ta cần ôn lại về các chữ cái (tự mẫu) cũng như các nguyên âm và phụ âm.


I. Nguyên âm và Phụ âm trong Tiếng Việt


Chữ " i " là chữ cái (tự mẫu) thứ 9 trong 23 chữ cái của tiếngViệt và "y" là chữ cái cuối cùng trong 23 chữ cái của tiếng Việt. 

23 chữ cái của tiếng Việt gồm có: a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n, o, p, q, r, s, t, u, v, x, y. Trong 23 chữ cái này, có 6 nguyên âm chính (a, e, i, o, u, y) và 17 phụ âm đơn (b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x). Bốn nguyên âm "a, e, o, u" trong số 6 nguyên âm chính "a,e, i, o, u, y" này còn có thêm các dấu nữa (ă, â, ê, ô, ơ, ư) nên 4 nguyên âm này trở thành 10 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, u, ư. Chính vì lý do này mà tiếng Việt có tất cả 12 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y. Ngoài 17 phụ âm đơn, tiếng Việt còn có các phụ âm kép. Các phụ âm kép do hai hay ba phụ âm đơn làm thành (ch, gh, kh, ng, ngh, nh, ph, th, tr) hoặc do một phụ âm đơn và một nguyên âm chính (i hay u) làm thành (gi, qu). Chính vì thế, tiếng Việt có tất cả 28 phụ âm: b, c, ch, d, đ, g, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ng, ngh, nh, p, ph, q, qu, r, s, t, th, tr, v, x, và 12 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y. 

II. Cách Sử Dụng Nguyên Âm "I" và "Y" 


Tùy theo mỗi vần và theo nghĩa của mỗi chữ, có những trường hợp ta chỉ được dùng "y" hay "i" để viết, chứ không thể dùng "i" để thay thế cho "y" hay dùng "y" để thay thế cho "i" được. Ở một số trường hợp khác, trong cùng một chữ, có người viết bằng "i" có người viết bằng "y" như trong trường hợp "quí" hay "quý" chẳng hạn. Tuy nhiên, theo phong tục tập quán, hầu hết các nhà văn thường viết các chữ với nguyên âm "y" hơn là"i" khi các chữ này có cùng một nghĩa và phát âm giống nhau. Lý do chính là vì các chữ có nguyên âm "y" trông có vẻ lịch sự, kính trọng, quý mến, trang nhã, mỹ thuật, và đầy tình cảm hơn những chữ viết bằng nguyên âm "i," chẳng hạn như trong trường hợp của nhóm chữ "quý văn hữu," "quý ông quý bà," "quý quan khách," "quý bạn," "quý vị," "quý chiến hữu," hay "quý cụ,"v.v. 


A. Những Trường Hợp Có Thể Dùng "I" hay "Y" Cũng Được 


Tùy theo tập quán hay thói quen, có người dùng "i" hay "y" để viết cùng một chữ. Dù là được viết dưới dạng bằng nguyên âm "i" hay "y," nhưng khi được đọc lên thì chữ này vẫn có cùng một âm thanh và cùng một nghĩa. 

Thí dụ: 

- Ì ạch, ỳ ạch; ì ra, ỳ ra; i như, y như; v.v.

- Hi hữu, hy hữu; du hí, du hý; hí đài, hý đài; hí hởn, hý hởn; hí hửng, hý hửng; hí họa, hý họa; hí kịch, hý kịch; hí viện, hý viện; hí trường, hý trường; báo hỉ, báo hỷ; hoan hỉ, hoan hỷ; hỷ tín, hỉ tín; v.v.

- Kí cóp, ký cóp; kì cạch, kỳ cạch; kì cọ, kỳ cọ; một li, một ly (millimeter), v.v. 

- Mỹ lệ, mĩ lệ; mỹ cảm, mĩ cảm; mỹ mãn, mĩ mãn; mỹ miều, mĩ miều; mỹ nữ, mĩ nữ; mỹ nghệ, mĩ nghệ; mỹ nhân, mĩ nhân; mị dân, mỵ dân; v.v. 

- Ti tiện, ty tiện; ty tiểu, ti tiểu; tự ty mặc cảm, tự ti mặc cảm; ty trưởng, ti trưởng; năm tý, năm tí; tỳ bà, tì bà; tỳ nữ, tì nữ; tỳ tướng, tì tướng; thị tỳ, thị tì; tỳ thiếp, tì thiếp; tỳ vết, tì vết; tỳ vị, tì vị; tỉ dụ, tỷ dụ; một tỉ đồng, một tỷ đồng; tỉ lệ, tỷ lệ; tỉ mỉ, tỷ mỉ; tỷ muội, tỉ muội; tỉ như, tỷ như; tỉ số, tỷ số; tỉ thí, tỷ thí; tỉ trọng, tỷ trọng; năm tỵ, năm tị; tỵ nạn, tị nạn; tị nạnh, tỵ nạnh; v.v.

- Qui, quy (con rùa); nội qui, nội quy; chính qui, chính quy; vu qui, vu quy; qui chế, quy chế; qui củ, quy củ; qui định, quy định; qui hàng, quy hàng; qui hồi, quy hồi; qui luật, quy luật; qui mô, quy mô; qui nạp, quy nạp; qui phục, quy phục; qui tắc, quy tắc; qui thuận, quy thuận; qui tiên, quy tiên; qui tội, quy tội; qui tụ, quy tụ; qui ước, quy ước; qui y, quy y; quí báu, quý báu; quí danh, quý danh; quí hóa, quý hóa; quí hồ, quý hồ; quí hữu, quý hữu; quí khách, quý khách; Quí Mùi, Quý Mùi; quí nhân, quý nhân; quí nữ, quý nữ; quí ông, quý ông; quí phái, quý phái; quí phi, quý phi; quí quốc, quý quốc; quí san, quý san; quí tòa, quý tòa; quí tộc, quý tộc; quí trọng, quý trọng; quí tử, quý tử; quí vật, quý vật; quí vị, quý vị; quì gối, quỳ gối; quì lạy, quỳ lạy; quỉ kế, quỷ kế; quỉ quái, quỷ quái; quỉ quyệt, quỷ quyệt; quỉ sứ, quỷ sứ; quỉ thần, quỷ thần; thủ quĩ , thủ quỹ; ngân quĩ, ngân quỹ; ký quĩ, ký quỹ; quĩ đạo, quỹ đạo; quị lụy, quỵ lụy...

Ghi Chú: 

* Khi viết văn, nhiều người chỉ ghép phụ âm kép "qu" với nguyên âm "y." Tuy nhiên, trong vài quyển Việt Nam Tự Điển, tác giả chỉ đề cập trường hợp của các chữ do phụ âm kép "qu" ghép với nguyên âm "i" mà thôi. Còn về phụ âm kép "qu" ghép vời nguyên âm "y" thì các tác giả chỉ ghi: "quy, xt qui; quý, xt quí; quy,ø xt quì; quỷ, xt quỉ; quy,õ xt quĩ; quỵ, xt quị" (chữ "xt" là dạng viết tắt của "xem từ"). Có quyển tự điển lại ghi "quy (qui)," "quý (quiù)," "quỳ (quiø)," "quỷ (quỉ)," "quỹ (quiõ)," và "quỵ (quị)." Điều này có nghĩa là ta dùng "y" hay "i" để viết chữ có cùng một nghĩa cũng được.

* Trong trường hợp danh từ riêng như tên thành phố, tên nước, hay tên người, v.v., nếu các chữ đã được viết bằng "i" hay "y" thì ta không được quyền tự ý thay đổi như trong trường hợp của tên thành phố hay tên người sau đây: Thị xã Qui Nhơn, Mỹ Quốc, Mỹ Châu, tỉnh Mỹ Tho, Mị Châu (con gái vua Thục An Dương Vương lấy Trọng Thủy, con của Triệu Đà), Mị Nương (con gái vua Hùng Vương), GS. Doãn Quốc Sỹ, và CH Trần Thy Vân, v.v. 

* Khi đánh các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, và nặng lên chữ "quy" hay "qui," chúng ta phải đánh dấu lên trên nguyên âm "y" hay "i" vì chữ "u" trong chữ phụ âm kép "qu" đã cùng vơiù "q" để biến thành phụ âm kép chứ không còn là một nguyên âm nữa. Trong trường hợp phụ âm kép "th" ghép với vần "ui" hay "uy" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ nhất "úi" (thúi) và "úy" (thúy). Nếu nguyên âm thứ 2 có dấu sẵn như "uê" hay "uơ" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ 2 này "uế" (thuế) và "uở" (thuở). Xin xem tiếp phần "III" nói về Nguyên Tắc Đánh Dấu Trong Tiếng Việt ở dưới đây. 


B. Những Chữ Chỉ Được Viết với Nguyên Âm I" 


1. Những Chữ Có Các Vần Sau Đây Chỉ Được Viết với Nguyên Âm "I": ai, ia, ich, iêc, iêm, iên, iêng, iêp, iết, iêu, im, in, inh, ip, it, iu, oai, oi, ôi, ơi, ui, uôi, ưi, ươi, v.v.

-Ai: Ai oán, thất bại, cải dạng, chài lưới, dai dẳng, khán đài, gái tơ, âm giai, hài lòng, khai giảng, tương lai, mái nhà, van nài, ngái ngủ, lải nhải, lẽ phải, quái kiệt, rải rác, sai bảo, tai vạ, thái độ, từng trải, vai trò, tiêu xài, v.v. 

- Ia: Ỉa đái, bia miệng, địa chỉ, đôi hia, trông kìa, khía cạnh, lia lịa, mỉa mai, cái nĩa, nghĩa cử, tứ phía, chầu rìa, sỉa xuống, tia sáng, cái thìa, tría lịa, hú vía, xỉa răng, v.v. 

- Ich: Ích lợi, bích chương, chích thuốc, xê dịch, mục đích, hích nhau, đả kích, khiêu khích, lý lịch, tĩnh mịch, chật ních, nghịch ngợm, nhúc nhích, phình phịch, cũ rích, sình sịch, diện tích, sở thích, chỉ trích, xích đạo, v.v. 

- Iêc: Xanh biếc, chiếc thuyền, cá diếc, điếc tai, liếc mắt, mắng nhiếc, thương tiếc, ấm thiếc, công việc, xem xiếc, v.v. 

- Iêm: Châm biếm; chiêm ngưỡng, bao diêm, điềm lành, hiếm hoi, kiếm hiệp, liêm sỉ, niêm luật, truyền nhiễm, chuyện phiếm, siểm nịnh, tiêm thuốc, thiêm thiếp, viêm lương, Xiêm La, v.v.

- Iên: Biên bản, chiến tranh, diễn thuyết, điên đảo, hiên ngang, kiên cố, xui khiến, liên bang, miền xuôi, nghiên cứu, tất nhiên, luân phiên, trước tiên, thiên vị, triền miên, viên mãn, xiên xẹo, v.v.

- Iêng: Biếng nhác, chiêng trống, chết điếng, tháng giêng, hiêng hiếng, kiêng khem, khiêng vác, liểng xiểng, súc miệng, nghiêng ngửa, riêng biệt, siêng học, hòm siểng, mang tiếng, linh thiêng, xiềng xích, v.v,

- Iêp: Ngọc diệp, trùng điệp, hiếp đáp, duyên kiếp, khiếp sợ, tầy liếp, cơ nghiệp, nhiếp ảnh, trực tiếp, thiệp mời, v.v.

- Iêt: Biết điều, chiết cây, diệt vong, giết giặc, kiệt lực, tinh khiết, quyết liệt, miệt mài, ác nghiệt, nhiệt huyết, quân phiệt, chạy riết, siết chặt, trinh tiết, kiến thiết, triết lý, viết văn, Việt Nam, xiết chặt, v.v.

- Iêu: Phát biểu, chiếu cố, cái diều, điêu luyện, hiếu đễ, kiêu ngạo, cô liêu, văn miếu, nồi niêu, phì nhiêu, phiêu bạt, bún riêu, siêu nhân, tiêu chuẩn, thiếu phụ, thủy triều, xiêu vẹo, v.v.

- Im: Im lặng; bím tóc, con chim, dìm thuyền, him híp, kim chỉ, lim dim, mỉm cười, con nhím (dím), chiếu phim, rim cá, trái sim, tìm tòi, chú thím, v.v.

- In: In sách, bịn rịn, chín chắn, gìn giữ, kín đáo, mịn màng, nín hơi, nghìn đời, nhịn nhục, đèn pin, phin cà phê, nước rịn ra (nhỏ ra, rỉ ra), tin cậy, năm thìn, vịn cớ, xin lỗi, v.v. 

- Inh: Inh ỏi, binh lính, chính giữa, dinh dưỡng, đỉnh chung, hình ảnh, kinh đô, khinh bỉ, linh thiêng, minh bạch, an ninh, nghinh chiến, nhinh nhỉnh, má phính, rình mò, sinh khí, tinh khiết, thính giả, vĩnh biệt, xinh đẹp, v.v. 

- Ip: Lừa bịp, chíp chíp, dịp may, híp mắt, kịp thì, nhịp điệu, v.v.

- It: Ít ỏi, bịt miệng, chi chít, đá đít, hít hơi, đen kịt, khít khao, lít nước, mịt mờ, con nít, đông nghịt, quịt nợ, ríu rít, đen sịt, xa tít, thin thít, con vịt, xịt thuốc, v.v.

- Iu: Ỉu xịu, bận bịu, chịu khó, dịu dàng, hiu hắt, kĩu kịt, líu nhíu, níu lại, nhíu mắt, phụng phịu, ríu rít, tiu nghỉu, thiu thối, trìu mến, víu vào, bé xíu, v.v.

- Oai: Oai hùng, choai choái, đoái hoài, khoái chí, loài vật, năm ngoái, ngoại cảm, mệt nhoài, soái phủ, toại nguyện, thoải mái, xoai xoải, v.v.

- Oi: Oi bức, thầy bói, cõi Phật, chọi gà, theo dõi, đòi nợ, gọi dạ bảo vâng, giỏi giang, hói đầu, khỏi bệnh, lòi tói, mỏi mệt, nòi giống, ngòi bút, nhoi nhói, rọi đèn, soi gương, củ tỏi, thói đời, trói buộc, vòi nước, xoi bói, v.v.

- Ôi: Ôi chao! Bối rối, cỗi rễ, chồi cây, dồi dào, đôi khi, gội đầu, giồi phấn, hối cải, khôi phục, lôi thôi, mối tình, nối dõi, ngồi xuống, nhồi thịt, phối hợp, rối loạn, sôi nổi, tối cao, thôi thúc, trôi chảy, vội vã, xối xả, v.v. 

- Ơi: Ới trời ơi! Bơi lội, dời đổi, đời người, giới thiệu, hơi thở, khởi hành, lợi hại, mới tinh, nơi chốn, ngợi khen, phơi phới, rời khỏi, sợi dây, tơi bời, thời sự, trời biển, vời vợi, xới đất,v.v.

- Ui: Ủi quần áo, búi tóc, cúi đầu, chùi tay, dùi trống, đui mù, giúi tiền, húi tóc, khui thùng gạo, lui lủi, mui xe, nùi lửa, ngùi ngùi, nhủi vào lỗ, phủi bụi, rủi ro, sui gia, túi bụi, thui thủi, trụi lủi, vui vẻ, xui khiến, v.v. 

- Ưi: Khung cửi, chửi mắng, gửi thư, ngửi hơi,v.v.

- Uôi: Buổi sáng, cuối cùng, chuỗi hạt, duỗi chân, đuôi ngựa, muối mặt, nuôi dưỡng, nguôi giận, ruổi theo, suối vàng, tuổi tác, xuôi lòng, v.v.

- Ươi: Quả bưởi, cưới hỏi, dưới nước, lười biếng, mười mươi, người ta, rười rượi, lò sưởi, tươi cười,v.v. 

2. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "I" Bằng Cách Ghép Phụ Âm Đơn với Nguyên Âm "I."

-"B-i": Bi ai, hòn bi, bí ba bí bô, bí mật, quả bí, vận bí, say bí tỉ, li bì, so bì, phong bì, bì bạch, bì phu, bỉ sắc tư phong, bỉ thử, bỉ mặt, bĩ cực, bị tù, bị động, phòng bị, bị gậy, bị té, v.v. 

- "D-i": Di cư, Di Đà, di tích, man di, tru di, di ngôn, di hài, di họa, di truyền, di vật, dí vào, bẹp dí, dì ghẻ, dỉ tai, bất đắc dĩ, khả dĩ, dĩ nhiên, dĩ vãng, kỳ dị, dị đoan, dị nghị, v.v.

- "Đ-i": Đi bộ, đi đời, đi cầu, đi đứt, đi thi, đi tu, đi vắng, đi đò, lờ đi, bỏ đi, lẹ đi, đi lẹ, làm đi, đì đẹt đì đùng, đĩ điếm, v.v.

- "G-i": Gí mũi vào, can gì, có gì đâu, v.v.

- "H-i": Khóc hi hi, cười hi hỉ, ngựa hí, hí hởn, hí hoáy, hí hởn, hí hửng, hì hà hì hục, cười hì hì, hỉ mũi, hỉ hả, v.v.

- "K-i": Ki lô mét, một kí, kì kèo, kị (cụ), v.v. 

- "L-i": Li bì, nhỏ li ti, lí la lí lô, lí nhí, lì lợm, lì xì, v.v.

- "M-i": Mi (mày), mi (nốt đàn), lông mi, mí mắt, bánh mì, Mị Châu, mị dân, Mị Nương, v.v.

- "N-i": Chỗ ni chỗ nớ (chỗ này chỗi kia), ni cô, nỉ non, nỉ (dạ, len), v.v.

- "R-i": Khóc như ri, làm ri (làm thế này), nước chảy ri rỉ, nhỏ rí, xanh rì, rì rầm (thì thầm), chậm rì rì, mưa rì rào, mưa rỉ rả, rỉ từng giọt, rỉ tai, rỉ hơi, v.v.

- "S-i": Cây si, si tình, ngu si, gắn si, đen sì, bán sỉ, liêm sỉ, sỉ nhục, sỉ vả, văn sĩ, kẻ sĩ, sĩ tử, sĩ hoạn, sĩ phu, nghệ sĩ, sĩ quan, binh sĩ, sĩ diện, sĩ khí, v.v. 

- "T-i": Tôn ti trật tự, kẻ tôn người ti, ti hí, ti ma (để tang 3 tháng), ti toe, ti trúc, ti hí, ti tỉ tì ti, tí hon, một tí, tí nhau, tí teo, tí tẹo, tí xíu, tí ti, tí tị, tí nữa, tí chút, tí tách, tí toe tí toét, cậu bé Tí, tí xíu, tì tích, tì hưu, tì tì, tì tay xuống, ngọc tỉ, tỉ tê, lòi tĩ, ganh tị, ghen tị, tị tẹo, v.v.

- "V-i": Vi cá (vây cá), vi trùng, vi hành, chu vi, hiển vi, huyền vi, hành vi, vi hiến, vi âm, vi vu, vi vút, cái ví, ví von, ví bằng, ví dụ, ví như, trị vì, tại vì, nể vì, vì đâu, vì rằng, bởi vì, làm vì, thay vì, vì thế, vì vèo, vỉ đập ruồi, thủ vĩ, vĩ tuyến, vĩ đại, vĩ đạo, vĩ đại, vĩ nhân, vĩ tuyến, ngôi vị, vô vị, quý vị, bài vị, tự vị, vị chi, tì vị, vị lai, vị tha, vị chi, mùi vị, gia vị, vị giác, vị hôn thê, vị kỷ, vị lai, vị lợi, vị nể, vị tất, vị thành niên, vị trí, vị vong nhân, v.v.

- "X-i": Xi đái, gắn xi, xi măng, chuồng xí, xí gạt, xí nghiệp, cờ xí, xí chỗ, xí phần, xí xóa, xí xa xí xô, xì hơi, xì xào, xì dầu, xì gà, xì xằng, xì xụt, xì xụp, xì xồ, bạch xỉ, xỉ mũi, xa xỉ, xỉ vả, xị mặt ra, v.v.

3. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "I" Bằng Cách Ghép Phụ âm Kép với Nguyên Âm "I." 

"Ch-i": Làm chi vậy, tứ chi, hình chữ chi, thập nhị chi, chi thu, chi nhánh, chí khí, chi lan, tạp chí, chí hiếu, chí cuối, con chí, hạ chí, bút chì, chỉ chỏ, chỉ biết, sợi chỉ, tôn chỉ, chứng chỉ, cấm chỉ, Giao Chỉ, điểm chỉ, chỉ bảo, chỉ số, chỉ trích, chị em, v.v. 

"Gh-i": Ghi chép, ghi nhớ, ôm ghì, v.v.

"Kh-i": Khi xưa, khinh khi, khi không, khi quân, khi đi, không khí, khí cụ, khí cốt, tức khí, tinh khí, khí cầu, khí hậu, khí phách, khí quản, khí tiết, khí tượng, khí huyết, khí khái, khí sắc, khí vật, đồ khí gió, cười khì, ngủ khì, con khỉ, khỉ khô, v.v.

"Ngh-i": Nghi hoặc, nghi lễ, tiện nghi, nghi gia, nghi ngút, nghí ngoáy, vô nghì, nghỉ ngơi, nghĩ ngợi, lo nghĩ, hữu nghị, quyết nghị, nghị lực, nghị luận, v.v. 

"Nh-i": Nhi đồng, nhí nhảnh, hạng nhì, nhì nhằng, to nhỉ, đẹp quá nhỉ! Nhĩ mục(tai mắt), mộc nhĩ, nhị đào, đệ nhị, nhị tì, Nhị Độ Mai, Nhị Hà, v.v.

"Ph-i": Chánh phi, phi mỡ, phi cơ, phi tang, phi mã, phi chiến, phi đạn, Phi Châu, Phi Luật Tân, phi tần, phi phàm, phi lý, phí phạm, phát phì, phì cười, phì nhiêu, phì phà phì phèo, thở phì phì, phỉ lòng, thổ phỉ, phỉ báng, phỉ chí, phỉ sức, phỉ nhổ, phỉ vào mặt, phị mặt ra, v.v.

"Th-i": Thi cử, thi sĩ, Kinh Thi, con nhà thi lễ, dòng dõi thi thư, thi hài, cỏ thi, thi ân, thí sinh, thí nghiệm, bố thí, thí mạng, thí phát, thí dụ, đói thì ăn, thì giờ, dậy thì, cây thì là, thì ra, thì thầm, thì thọt, thì thùng, hồ thỉ, quả thị, dấu hoa thị, thị vệ, thị giác, thị thực, thị uy, kỳ thị, thị hiếu, yết thị, thị dục, Phạm Thị Thu, miệt thị, thị phi, đích thị, thị vệ, thị nữ, thị xã, v.v.

"Tr-i" Bạn tri âm, bố trí, tri giác, trí mạng, tri phủ, trí sĩ, trí tuệ, thông tri, trí thức, trí trá, bảo trì, duy trì, đan trì, trì giới, trì hoãn, phù trì, thành trì, trì trọng, trụ trì, ấu trĩ, bệnh trĩ, chim trĩ, bình trị, cai trị, giá trị, trị liệu, trị tội, trị thủy, v.v. 


C. Những Chữ Chỉ Được Viết với Nguyên âm "Y"


1. Những Chữ Có Các Vần Sau Đây Chỉ Được Viết với Nguyên Âm "Y": ay, ây, oay, uây, uy, uya, uych, uyên, uyêt, uynh, uyt, uyu, yên, yêt, và ynh.

- Ay: Áy náy, tụi bay, cay cú, ăn chay, day dứt, dạy bảo, đáy nồi, gay gắt, giày dép, hay chữ, khay nước, lay động, may mắn, nảy mầm, ngay thật, nhay nháy, dao phay, quay mình, ray rứt, say mê, tay chân, thay đổi, trảy (hái) quả mơ, vay nợ, xảy ra, v.v. 

- Ây: Cái ấy, bây giờ, cây cảnh, cây đàn, chầy cối, dây thép, đây này, gây gổ, giây phút, hây hây, lầy nhầy, mấy quyển sách, nẩy mầm, ngây ngất, nhầy nhụa, phây phây, quây quần, rầy rà, sẩy đàn, tầy trời, thầy mẹ, trẩy hội, vây cánh, xây nhà,v.v. 

* Trường hợp sau đây là ngoại lệ vì chữ viết và đọc khác nhau nhưng có cùng một nghĩa: quải gánh, quảy gánh, hay quẩy gánh (đều có cùng một nghĩa là gánh trên vai).

- Oay: Cái khoáy, loay hoay, nghí ngoáy, xoay vần, v.v.

- Uây: Khuây khỏa, ngoe nguẩy, v.v.

- Uy: Uy danh, cung thương giốc chủy vũ, duy ngã, huy hiệu, khuy áo, lũy tre, nguy cấp, suy nhược, tuy nhiên, thủy chung, truy tố, cổ xúy, v.v. 

- Uya: Thức khuya, v.v. 

- Uych: Ngã uỵch, huých nhau, huỳnh huỵch, v.v.

- Uyên: Uyên bác, chuyên cần, duyên dáng, huyên náo, khuyên bảo, luyến ái, nguyên chất, nhuyễn thể, bệnh suyễn, tuyên dương, thuyên chuyển, truyền thống, xuyên tạc, v.v. 

- Uyêt: Chuyết kiến (ý kiến thô thiển của tôi), duyệt binh, huyết mạch, khuyết điểm, nguyệt liễm, tuyệt diệu, thuyết phục, điểm xuyết, v.v.

- Uynh: Huynh đệ, khuynh hướng, luýnh quýnh, v.v. 

- Uyt: Huýt sáo, lườm nguýt, xuýt chết, v.v.

- Uyu: Khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, v.v.

- Yên (qu + yên): Quyên sinh, quyến thuộc, quyền lợi, chính quyền, lưỡng quyền, quyền quý, quyển sách, ống quyển, v.v.

- Yêt (qu + yêt): Cương quyết, bí quyết, hành quyết, quyết nghị, xảo quyệt, v.v. 

- Ynh (qu + ynh): Mừng quýnh, cây quỳnh, quỳnh bôi, quỳnh tương, v.v.


2. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "Y" Đứng Một Mình hay Đứng Đầu Mỗi Chữ: 


- Nguyên Âm "Y" Đứng Một Mình: 

Y đến rồi, y án, vàng y, qui y, chuẩn y hay y chuẩn, y hẹn; y hi, y sĩ, qui y, y theo, ý chí, ý định, ý nhị, ý kiến, ý nghĩa, ý thích, ý tứ, ý vị, ỷ mình, ỷ lại, ỷ lại, ỷ quyền, béo ỵ, v.v. 

- Nguyên Âm "Y" Đứng Đầu Mỗi Chữ: 

Yêm hoạn (hoạn quan), yếm thế, yểm bùa, cái yếm, yểm trợ, v.v.; Yên Đổ (Nguyễn Khuyến), Bình yên, yên hà, yên xe, yên đổ (tửu sắc yên đổ), yên trí, yến tiệc, yến oanh, yến sào, v.v.; con yểng; yết hầu, yết kiến, niêm yết, yết thị, yết hậu (lối thơ mà câu cuối cùng chỉ có một chữ), v.v.; yêu cầu, yêu chuộng, yêu đạo, yêu quái, yêu vận, phái yếu, yếu điểm, yếu tố, chết yểu, yểu điệu, yểu tướng, v.v.


3. Những Chữ Sau Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "Y" Bằng Cách Ghép Phụ Âm Đơn với Nguyên Âm "y."


-"H-y": Hy Lạp, hy vọng, hy sinh, hy hãn, hý lộng, hý ngôn, hỷ lạc, hỷ nộ, hỷ sự, v.v. 

-"K-y": Ký âm, bi ký, chữ ký, ký danh, ký giả, ký hiệu, ký lục, nhật ký, ký quỹ, ký sinh trùng, ký sự, ký tên, ký túc xá, ký thác, thư ky,ù ký ức, Bắc Kỳ, cầm kỳ thi hoạ, kỳ cục, kỳ cùng, cực kỳ, kỳ cựu, kỳ diệu, kỳ duyên, kỳ đà, kỳ đài, đến kỳ, kỳ đồng, kỳ được, kỳ ghê, kỳ hạn, kỳ hào, hiếu kỳ, học kỳ, kỳ khôi, kỳ khu, kinh kỳ, kỳ lạ, kỳ lão, kỳ lân, kỳ lưng, kỳ mục, Nam Kỳ, kỳ ngộ, phân kỳ, kỳ phùng địch thủ, kỳ quặc, kỳ quái, kỳ quan, quốc kỳ, kỳ thị, kỳ thú, kỳ thực, Trung Kỳ, kỳ vọng, kỷ cương, ghế trường kỷ, ích kỷ, kỷ luật, kỷ lục, kỷ niệm, kỷ nguyên, tự kỷ, thế kỷ, kỷ yếu; kỹ càng, kỹ nghệ, làm kỹ, kỹ nữ, ngủ kỹ, kỹ nhé, kỹ sư, kỹ thuật, nhà có kỵ (ngày giỗ), đố kỵ, kỵ binh, kỵ gió, kỵ mã, kỵ nhau, kỵ sĩ, v.v. 

- "L-y": cái ly, ly biệt, quẻ ly, hồ ly, ly bôi (chén rượu uống lúc chia tay), ly dị, ly gián, ly hương, ly khai, ly kỳ, ly tán, giáo lý, lý ngư, cố lý, hành lý, đào lý, lý lẽ, lý hóa, lý lịch, lý sự, lý tài, lý thuyết, lý trí, lý tưởng, lý trưởng, mạ lỵ, bệnh kiết lỵ, v.v.

- "M-y": Bắc Mỹ, Mỹ Châu, Mỹ Quốc, Mỹ kim, hoa mỹ, mỹ sắc, thẩm mỹ, Mỹ Tho, mỹ thuật, mỹ tục, mỹ từ pháp, mỹ tửu, mỹ xảo, mỹ vị, mỹ viện, mỹ ý, v.v. 

- "T-y": Ty mật thám, công ty, tỳ tạng, tỳ kheo, tỳ vị, tỷ đối, tỵ hiềm, v.v. 

III. Nguyên Tắc Đánh Dấu trong Tiếng Việt: 


- Nếu một chữ có phụ âm đơn hay phụ âm kép ghép với một nguyên âm, thì các dấu phải đánh vào nguyên âm đó: bé, tá, phò mã, khỉ, xạ thủ, v.v. 

- Nguyên âm "u" và "i" trong phụ âm kép "qu" và "gi" đã cùng với phụ âm "q" và "g" để biến thành phụ âm kép chứ không còn là một nguyên âm nữa. Chính vì thế mà hai phụ âm kép này ghép với 1 hay 2 nguyên âm thì các dấu phải đánh vào nguyên âm ở ngay sau phụ âm kép này: quý, quí, quá, quà, quả, quỹ quạ, già, giá, giữa, giác, giải, giả, v.v.

- Nếu trước 2 nguyên âm mà có phụ âm đơn hay kép và sau 2 nguyên âm này lại không có phụ âm nào thì các dấu phải đánh vào nguyên âm thứ nhất như: chùa, chúa, thúy, thùy, thúi, lũy, gào, góa, bùa, của, bùi, chúa, khói, khảo, khóa, lìa, trào tráo, khéo, khỏe, khóe, chúi, thủy, và trụy, v.v. 

- Trong một chữ có 2 hay 3 nguyên âm mà1 nguyên âm đã có dấu sẵn như: ă, â, ê, ô, ơ, ư, v.v. thì các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, và nặng phải đánh vào nguyên âm đó: thuế, thuấn, thuyền, thuở, uyển chuyển, chữa, suyễn, diễm, truyện, diệu, v.v. Nếu 2 nguyên đều có dấu cả như "ư và ơ" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ hai: tướng lãnh, thường lệ, thưởng phạt, dưỡng khí, thượng lộ, v.v. 

- Nếu trong một chữ chỉ có 2 nguyên âm mà trước và sau 2 nguyên âm này đều có phụ âm đơn hay kép thì các dấu phải đánh vào nguyên âm thứ hai: đoán, khoáng, khoát, khoét, toàn, khoảng, loãng, loạng choạng, v.v.

- Khi một chữ tận cùng bằng 3 nguyên âm, thì các dấu phải đánh lên nguyên âm ở giữa như: thoái thác, ngoéo cổ, cười, bải hoải, khúc khuỷu, choãi chân, hải ngoại, v.v.


IV. Tổng Kết


Những điều chúng tôi trình bày trên đây là có ý định giúp các bạn trẻ có tài liệu học hỏi về cách ghép vần với nguyên âm "i" và "y" cùng với cách đánh dấu tiếng Việt. Việc ghép vần và đánh dấu tiếng Việt hết sức là quan trọng. Chúng ta cần phải học hỏi và nghiên cứu mới thấu đáo được. Có thấu đáo được cách ghép vần và đánh dấu tiếng Việt thì mới giỏi tiếng Việt. Có giỏi tiếng Việt ta mới xứng đáng là người Việt. 



Tôi xin phép tác giả được cắt bỏ vài dòng để bài viết hoàn toàn mang tính văn học, có thể phổ biến rộng rãi.

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2018

"SỐNG" VÀ "ĐÀN ÔNG" CÓ PHẢI LÀ THƠ?


                               
Có những bài thơ phần đầu chỉ là những câu dọn cảnh, cái tôi riêng tư của tác giả còn ở đâu đó, chưa thấy bóng dáng trong cảnh thơ. Nhưng rồi thật bất ngờ, đến tận cuối bài, cái tôi riêng tư đột nhiên xuất hiện, và ngay cùng lúc đó, cảm xúc cũng tuôn trào. 

Tôi “sáng tác” bài Đàn Bà dưới đây để “xem chim” hai “bài thơ” (Đàn Ông và Sống) của Nguyễn Đức Tùng. Dĩ nhiên ở đây kỹ thuật thơ được coi trọng – cho tác phẩm đủ điều kiện để có danh hiệu Thơ. Còn những tiêu chí khác mong bạn đọc bỏ qua nếu “dở”


ĐÀN BÀ 

Có hai loại đàn bà 
loại chính chuyên chung thủy với chồng 

Loại không lấy chồng
suốt đời đến với đàn ông 
chỉ để thỏa mãn nhu cầu xác thịt 
tìm vui trong chốc lát.

Sáu câu trên chỉ là cách nhìn của tác giả về đàn bà, đến từ bề mặt ý thức, chưa phải là thơ. Nhưng chỉ cần thêm câu sau đây:

Tôi thích loại đàn bà thứ hai 

thì đã có cảm xúc, tình đã xuất hiện, cả bài đã trở thành thơ. Câu “Tôi thích loại đàn bà thứ hai” vừa có nhiệm vụ đưa cái tôi riêng tư của tác giả vào cảnh thơ vừa có nhiệm vụ sinh tình. 

ĐÀN ÔNG

Một số người luôn đến đúng giờ
Một số người thường xuyên lỡ hẹn
Một số người mở vết thương ra
Một số người khâu nó lại
Một số người thả chùm cỏ dại
Một số người đặt viên kim cương
Một số người không làm gì cả
Khi em đi qua
Lần thứ ba khẽ chạm vào tay

Nguyễn Đức Tùng

Đối với bài Đàn Ông thì 6 câu đầu là 6 loại người đàn ông mà tác giả đã moi từ trong đầu ra để giới thiệu với độc giả. Ngôn ngữ dễ hiểu vì đơn giản đến độ khô cứng, không đem đến một chút cảm xúc nào. Chúng, rất rõ ràng, là sản phẩm của lý trí. 

Độc giả, chắc cũng giống tôi, hy vọng anh sẽ dành cảm xúc của mình dồn hết vào 3 câu cuối. Nhà thơ của chúng ta hay làm như vậy để tạo bất ngờ và ấn tượng mạnh mẽ cho những bài thơ của mình. Và trong một số trường hợp, anh đã thành công.

Tuy nhiên, đọc kỹ 3 câu cuối:

“Một số người không làm gì cả
Khi em đi qua
Lần thứ ba khẽ chạm vào tay”

thì thấy ý quả có cái gì đó lạ lạ. Sao lại có những người (đàn ông) mà “đến ba lần em đi qua chạm khẽ vào tay mà họ vẫn lặng yên, không làm gì cả?” Nhưng bên cạnh cái “ý lạ lạ” ấy tôi còn thấy một điểm lạ nữa. Tác giả đã tạo ra khung cảnh dị thường của “bài thơ” nhưng tâm của ông (cái tôi riêng tư) vẫn không xuất hiện, không bước vào khung cảnh đó để có cảm xúc mà sinh tình. Thật ra, 3 câu cuối chỉ là loại đàn ông thứ 7.

Tóm lại, cả bài 9 câu ông cho lý trí đạo diễn hoàn toàn, tuyệt nhiên không có một tý ti cảm xúc. Nếu so sánh với Đàn Bà thì Đàn Ông của Nguyễn Đức Tùng vẫn thiếu câu thơ sinh tình nên không phải là thơ.



               SỐNG

Sống là yêu một người đàn bà
Trong tay đàn ông khác
Kẻ giữ nàng rất lâu
Như đứa bé hồng hào kháu khỉnh
Lúc nàng cựa mình thoát ra
Thì anh đã già

Sống là trở lại căn nhà
Mẹ cha mọi người đi vắng
Anh gõ cửa hàng xóm chiều mưa
Xin chút lửa
Đem về nhà
Làm quen với người chồng thứ ba của người yêu cũ
(Nguyễn Đức Tùng)

“Sống” có thể được chia làm 2 đoạn, mỗi đoạn 6 câu, là một cách nhìn rất khác thường của tác giả đối với động từ “sống” của người đời.   
Trong mỗi đoạn NĐT vẽ ra một cảnh đời rất “trái khoáy”. Có điều anh vẽ ra cảnh đời ấy bằng lý trí, còn tâm hồn anh vẫn trốn đâu đó ở một góc rất kín trong đầu, không lộ diện.

Mười hai câu trong bài Sống của NĐT giống 6 câu đầu trong Đàn Bà. Đàn Bà có câu thơ sinh tình nên là thơ; Sống không có câu thơ sinh tình nên chỉ là sản phẩm của lý trí – không phải là thơ.

Nguyễn Đức Tùng còn vài bài nữa đi lạc khỏi vườn thơ nhưng Sống và Đàn Ông dễ giải thích nhất nên tôi chọn để phân tích nguyên nhân đi lạc. Hy vọng anh Tùng và bạn đọc nhận ra để tìm cách cho thơ đi đúng đường.




Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2018

THUYỀN VÀ BIỂN VÀ MỘT ĐỀ NGHỊ SỬA THƠ

 

Một Đề Nghị Sửa Thơ Của Độc Giả

 

Sau khi bài viết Thuyền Và Biển: Ngọt Bùi Cay Đắng Của Tình Yêu lên đường được mấy ngày tôi nhận được vài thư góp ý trong đó thư của anh Phan Hồng Ngọc từ Sài Gòn đã gây cho tôi sự chú tâm đặc biệt. Nội dung thư như sau:

 

Thưa ông Phạm Đức Nhì,

 

Trong bài Thuyền Và Biển: Ngọt Bùi Cay Đắng Của Tình Yêu ông viết:

 

Phép ẩn dụ của bài thơ, nếu tinh ý, người đọc có thể nhận ra sau khi đọc 2 đoạn đầu. Còn nếu “chậm tiêu” một tý thì từ từ rồi cũng thấy, cũng hiểu. Thuyền là chàng, biển là nàng, bài thơ là chuyện tình yêu của chàng với nàng, nàng là tác giả, là nhân vật chính trong bài thơ. Trong đoạn thơ:

 

Những đêm trăng hiền từ

Biển như cô gái nhỏ

Thầm thì gởi tâm tư

Bên mạn thuyền sóng vỗ

 

thì biển là cô gái (ẩn dụ) cho nên câu “Biển như cô gái nhỏ” không những đã trở nên thừa, gây cảm giác “không thoải mái” cho người đọc mà lại còn làm lộ phép ẩn dụ nữa. Nếu tác giả chọn được cách nói khác, không nhắc gì đến cô gái mà vẫn diễn tả được cái ý ấy thì hay hơn.

 

Tương tự như vậy, trong đoạn thơ:

 

Cũng có khi vô cớ

Biển ào ạt xô thuyền

(Vì tình yêu muôn thuở

Có bao giờ đứng yên!)

 

Tác giả quên rằng mình đang đóng vai Biển với thân hình và bộ mặt (đã hóa trang) của Biển. Ngôn ngữ rất riêng, rất lạ của Biển và Thuyền đang thu hút sự chú ý của độc giả. Tự nhiên buột miệng nói ra “tiếng người” khiến vai diễn của vở kịch trở thành bất nhất. Hai câu sau nếu tránh được từ “tình yêu” mà vẫn giữ được ý ấy thì quá hay.

 

Theo gợi ý của ông tôi đã lò mò mấy ngày mới nghĩ ra được cách tránh mấy từ mà ông đã cẩn thận cho in chữ đậm ở 2 đoạn thơ trên. Và đây là 2 đoạn thơ có bàn tay sửa chữa của tôi:

 

Những đêm trăng hiền từ

Biển thầm thì to nhỏ

Những điều rất riêng tư

Bên mạn thuyền sóng vỗ.

 

Cũng có khi vô cớ

Biển ào ạt xô thuyền

Nên thuyền trên mặt biển

Có bao giờ được yên!

 

Xin ông - dưới con mắt của một người bình thơ – cho biết ý kiến. Chân thành cảm ơn ông trước.

 

Ký tên Phan Hồng Ngọc.

 

Độc giả nếu muốn có thể đọc bài thơ Thuyền Và Biển và lời bình theo link sau đây:

 

http://www.saimonthidan.com/index.php?c=article&p=12602

 

Thư qua thư lại vài lần, được sự đồng ý của anh Ngọc, tôi viết bài này trước là trả lời anh Ngọc, sau là bổ khuyết cho bài bình thơ của tôi.

 

Việc làm đầu tiên của tôi khi nhận thư là yêu cầu anh thay chữ “được”.

 

Lý do: viết như thế là gieo tiếng “ác” cho phụ nữ, ám chỉ các nàng luôn hành hạ các đấng nam nhi (cả trong nghĩa chăn gối yêu đương lẫn không khí xào xáo trong gia đình), lúc gần nhau, chẳng bao giờ cho phép họ được yên.

 

Anh PHN cũng đề nghị chữ “chịu” nhưng theo tôi thì nếu bảo:

 

Nên thuyền trên mặt biển

Có bao giờ chịu yên

 

trước hết,  nghịch ý với 2 câu “Cũng có khi vô cớ/ Biển ào ạt xô thuyền; theo Xuân Quỳnh thì Biển là tác nhân đối với tình trạng không yên của thuyền, nghĩa là thuyền ở thế thụ động nên không có quyền quyết định “chịu” hay không “chịu”. Hơn nữa, nói như thế là gieo tiếng “quậy” rất bất công cho phía nam giới.

 

Cuối cùng chúng tôi đồng ý giữ nguyên từ “đứng yên” của tác giả vì nó trung tính. Thuyền trên mặt biển không đứng yên là do lẽ tự nhiên của trời đất, “không phải tại anh cũng không phải tại em” mà do “gặp thời thế thế thời phải thế”.

 

Và bây giờ xin bàn đến kết quả sửa thơ của anh PHN.

 

 Đoạn thứ 3 của bài thơ được sửa lại thành:

 

 Những đêm trăng hiền từ

 Biển thầm thì to nhỏ

 Những điều rất riêng tư

 Bên mạn thuyền sóng vỗ.

 

Cô gái không được nhắc tới nhưng vẫn hiện diện trong đoạn thơ (dưới cái tên Biển); trong khi đó cả tứ lẫn ý cũng như âm điệu của bài thơ vẫn được giữ nguyên theo đúng ý của tác giả. Ở đoạn thứ 3 này công việc sửa thơ của anh PHN đã đạt được mục đích của mình, đã thành công mỹ mãn.

 

 Đoạn thứ 4 của bài thơ được sửa lại thành:

 

 Cũng có khi vô cớ

 biển ào ạt xô thuyền

 nên thuyền trên mặt biển

 có bao giờ đứng yên!

 

Đúng như anh Phan Hồng Ngọc dự tính, cách nói, suy nghĩ của “con người” đã biến mất. Thay vào đó là một thứ ngôn ngữ rất “Thuyền Và Biển”, rất hay và rất lạ. Âm điệu của bài thơ không thay đổi và ý của tác giả vẫn được giữ nguyên. Hay hơn nữa là 2 câu:

 

          Nên thuyền trên mặt biển

          Có bao giờ đứng yên.

 

lại rất khêu gợi, rất “tình”, đã bóng gió diễn tả cái cảnh “yêu nhau” của đôi trai gái. Ở đây việc sửa thơ của anh PHN không những đã chữa được chứng bệnh “lộn xộn trong phép ẩn dụ” mà còn làm cho đoạn thơ càng đáng yêu hơn nữa.

 

Như vậy, xin được trả lời anh Phan Hồng Ngọc: Dưới con mắt của một người bình thơ, việc sửa thơ của anh rất tuyệt. Cám ơn anh đã gởi thư góp ý.

 

Khi Bình Thơ Có Nên Sửa Thơ Của Tác Giả Không?

 

Riêng về bình thơ, nếu gặp bài thơ có nhiều dị bản, hãy chọn bản có nguồn gốc đáng tin cậy nhất rồi cứ theo đó mà bình, mà tán. Nếu thấy chữ, câu, đoạn, ý nào không hay cứ tự do chỉ ra, vạch ra rồi giải thích, chứng minh vì sao nó không hay; không nên tùy tiện nhúng tay vào việc sửa thơ của tác giả.

 

Tôi đã gặp một bài bình thơ trong đó nhà phê bình đã ra tài “sửa chữa nâng cao”, viết lại cả bài thơ 24 câu, cộng thêm cái tựa của tác giả. Bình thơ kiểu ấy quá thô bạo và lố bịch.

 

Trong trường hợp vô cùng đặc biệt, người bình thơ có lý do để hoàn toàn tự tin, thấy chữ hoặc câu thơ mình sửa chắc đúng 100%, thì theo tôi, có thể Đề Nghị Sửa Chữa, Thay Thế nhưng phải tuân thủ Tất Cả những điều kiện sau đây:

 

     1/ Không làm sai lệch tứ, ý của tác giả

     2/ Không thay đổi âm điệu của đoạn thơ

     3/ Không ảnh hưởng đến dòng chảy của tứ thơ.

     4/ Sửa thơ để tăng giá trị nghệ thuật của bài thơ, không vì mục đích đen tối nào khác.

     5/ Công việc sửa chữa phải tối thiểu, lợi ích của việc sửa chữ phải to lớn, dễ nhận ra, có sức thuyết phục cao, không cần tranh cãi.

     6/ Chỉ là “đề nghị”, không được xem đó là kết luận chung cuộc.

     7/ Trường hợp nhạc sĩ đem thơ phổ nhạc thì có nhiều tự do hơn, nhưng nếu không khéo, không cân nhắc kỹ lưỡng, cũng sẽ lãnh đủ “búa rìu dư luận”.

 

Kết Luận

 

Sửa thơ, dù tác giả muốn hay không, đồng ý hay không, cũng  là “chuyện thường ngày ở huyện”, xảy ra hầu như ở mọi lúc, mọi nơi. Có người ra vẻ ta đây, phóng bút sửa thơ một cách vô ý thức, vô trách nhiệm trong khi sự hiểu biết thơ ca của mình còn non kém, khả năng thẩm định thơ ca còn “chưa tới”.

 

Có người sửa thơ không phải vì giá trị nghệ thuật của bài thơ mà vì mục đích riêng tư khác. Chính tôi cũng có mấy lần, thấy bài thơ mới trình làng của mình, thoắt một cái, đã xuất hiện trên diễn đàn này, trang web nọ với dung nhan đã qua “viện thẩm mỹ miệt vườn”.

 

Nhưng may mắn thay, cũng có những tài thơ ẩn mình trong đám đông thầm lặng, sửa thơ vì tấm lòng với thơ, vì yêu cái hay, cái đẹp của thơ, sửa thơ một cách lịch sự và tôn trọng tác giả. Quan trong hơn cả là việc sửa thơ của họ thường nâng giá trị nghệ thuật của bài thơ lên rất cao. Với tôi, anh Phan Hồng Ngọc là một trong những người yêu thơ đáng quý đó.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com


Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018

ANH BẰNG SỬA THƠ YÊN THAO



Tôi đứng bên này sông 

 Bên kia vùng giặc đóng

 là 2 câu mở đầu trong bài thơ Nhà Tôi của Yên Thao.
Khi phổ nhạc bài thơ nhạc sĩ Anh Bằng sửa lại:

Tôi đứng bên này sông

Bên kia vùng lửa khói

 Nhà Tôi là tâm trạng hồi hộp, lo âu của một người lính trước giờ nổ súng mà mục tiêu của trận đánh lại chính là ngôi làng bên kia sông, có căn nhà nơi những người thân yêu nhất của mình, bà mẹ già và cô vợ trẻ, đang cư trú. Trước hết, đưa nhóm chữ “vùng lửa khói” vào không ăn khớp với thực tế trận địa; chưa nổ súng thì làm gì có “lửa khói!” 

Hơn nữa, chi tiết làng tôi là “vùng giặc đóng” khiến việc đánh bật trại giặc để chiếm lĩnh mục tiêu trong một trận đánh có cả pháo binh sẽ rất nguy hiểm cho căn nhà và những người sống trong đó. Điều này làm nỗi lo của người lính thật hơn, khơi dậy nơi người đọc cảm xúc mạnh hơn. Anh Bằng đã làm tứ thơ dở đi rất nhiều khi thay nhóm chữ trên.

CHỌN THƠ ĐỂ BÌNH


Người bình thơ phải tự trả lời 3 câu hỏi:

     1/ Bài thơ có đủ hay, đủ tiếng tăm, đủ hấp dẫn để có thể “mời gọi” độc giả đến với bài bình thơ của mình hay không?
     2/ Bài bình thơ của mình – phân tích, giải thích cái hay, cái dở (nếu có) của bài thơ dựa vào những Tiêu Chí thẩm định giá trị nghệ thuật thơ ca - có đem lại điều gì mới, bổ ích (về thơ) cho độc giả hay không? Lập luận của mình có đủ sức thuyết phục những độc giả hiểu biết, khó tính và cả giới phê bình không?

      3/ Nếu đã có những bài bình trước rồi thì liệu bài bình của mình có đem lại điều gì mới hơn những bài bình đó hay không?
Thơ được chọn bình hầu hết là thơ hay (theo nhận định của người bình) hoặc ít nhất cũng có một điểm gì đó nổi bật như tứ thơ, ý thơ mới lạ, khả năng diễn đạt ý tưởng của tác giả điêu luyện, ngôn từ trong sáng, sang cả, hình ảnh đẹp, được đặt đúng chỗ, đúng lúc làm tăng sức hấp dẫn của bài thơ. 

Bên cạnh đó có thể còn có sự xuất hiện của những “cầu thủ siêu sao” – những câu, đoạn thơ độc đáo – cách kết thúc đầy ấn tượng, phép ẩn dụ ý nhị, thủ pháp Show, Don't Tell khéo léo, cảm xúc dạt dào. Đây là chỗ mà người yêu thơ đọc đi, đọc lại để thưởng thức, còn người bình thơ giải thích, phân tích để chia sẻ cái đẹp ấy với mọi người.

Đã bình thơ là phải có khen chê. Dĩ nhiên, cũng có (nhưng rất ít) những bài thơ toàn bích, còn thì đại đa số thơ được lưu hành thế nào tác giả cũng có một chút “không khéo” ở chỗ này, chỗ khác; người bình thơ cũng phải chỉ ra để độc giả (trong đó có rất nhiều thi sĩ khác) rút kinh nghiệm khi viết những bài thơ sau. 

Thấy khuyết điểm mà lờ đi vì những lý do không liên quan đến thơ thì, theo tôi, là hành vi “thiếu lương thiện trong văn chương”. Hơn nữa, bình thơ mà bài nào cũng khen tuốt luột từ đầu đến chân thì, nói như nhà văn Châu Thạch, là “nịnh thơ” chứ không phải bình thơ.

Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com

TÔ ĐÔNG PHA SỬA THƠ VƯƠNG AN THẠCH




Vương An Thạch trong lúc du học ở đảo Hải Nam đã làm một bài thơ trong đó có hai câu rất lạ:
Minh 
Nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng 
Khuyển ngọa hoa tâm

Dịch nghĩa:
Trăng sáng hót đầu núi
Chó vàng nằm (trong) lòng hoa

Thi hào Tô Ðông Pha 
tình cờ đọc được, thấy “sai” (trăng sáng làm sao hót trên đầu núi và chó vàng làm sao nằm trong lòng hoa được) nên đã sửa lại hai chữ cuối cho đúng nghĩa hơn.

Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm

Dịch nghĩa:
Trăng sáng rọi đầu núi
Chó vàng nằm (dưới) bóng hoa

Chuyện sửa thơ đến tai Vương An Thạch 
(lúc ấy đang là Tể Tướng) nên họ Vương đã bổ nhiệm Tô thi hào một chức quan ở Hải Nam. Sau đó Tô Ðông Pha mới khám phá ra ở địa phương này có loại chim tên là Minh Nguyệt, hay hót trên đầu núi, và có một loại sâu tên là Hoàng Khuyển, chỉ thích nằm trong lòng hoa! Và người kể chuyện kết luận “Lúc ấy Tô Ðông Pha mới biết là mình xớn xác, bồng bột và thấy được cái thâm trầm của Vương An Thạch.


Theo tôi, việc Tô Đông Pha sửa thơ không có gì là “xớn xác, bồng bột” hết. Người đọc thơ, bình thơ – trong thế giới thơ rộng lớn - không thể biết và không có bổn phận phải biết những chi tiết, sự việc chỉ có, chỉ xảy ra ở một địa phương nhỏ bé. Chính thi sĩ - để hoàn thành chức năng truyền thông của bài thơ - phải chú thích để người đọc biết, hiểu những chi tiết, sự việc có tính chất địa phương ấy. Lỗi và trách nhiệm ở đây nằm trên hai vai Vương An Thạch chứ không phải Tô Đông Pha.

Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com