Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2018

TRẢ LỜI CHÂU THẠCH VỀ "BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP"


TRẢ LỜI CHÂU THẠCH VỀ "BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP"


Nhận được bài Phản Biện Bài “Bình Thơ Không Thi Pháp” Của Phạm Đức Nhì – Bài viết của Châu Thạch - từ Đặng Xuân Xuyến, Phú Đoàn sau khi đã đọc được bài này từ rất sớm trên Facebook. Bài phản biện nhiều ý nên tôi sẽ trả lời từng ý một, từ trên xuống dưới. Ngay dưới đây tôi đưa vào 2 cái links của 2 bài viết liên quan để độc giả tiện theo dõi.

Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp: 

http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/03/binh-tho-khong-ban-thi-phap.html

Phản Biện Bài “Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp” Của Phạm Đức Nhì

http://dangxuanxuyen.blogspot.com/2018/04/phan-bien-bai-binh-tho-khong-ban-thi.html

 

1/

 

Châu Thạch Nhập Đề Và “Đá Giò Lái”

 

Vừa qua nhà thơ Phạm Đức Nhì có viết một bài “Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp” trong đó ông kết tội Châu Thạch, Nguyễn Bàng và Bùi Đồng là đã bình thơ không bàn thi pháp, theo lời ông là làm cho “thơ hay thơ dở đánh lộn sòng”.

 

Nhiều thi hữu điện thoại với tôi, nói rằng anh Nhì muốn huậy để cho mình nổi danh thôi. Họ yêu cầu tôi cứ nín lặng vì ai đúng ai trật thì đã có công luận phê phán. Việc anh Nhì huậy cho nổi danh thì tôi không tin lắm vì anh đã có danh nhiều rồi, đem cái danh ấy mà tranh chấp với tôi, thứ con dế dưới cỏ, thì chỉ tự hạ mình xuống chớ nổi con khỉ gì.

 

Tôi đã đồng ý nín câm luôn. Thế nhưng nghĩ đi nghĩ lại anh Nhì muốn chém tôi mà không chịu chém thẳng, lại đem một thi sĩ thật hiền hòa ở Tây Ninh ra chém mới thật là oan cho anh ấy. Thi sĩ Hà Nhữ Uyên, một người tôi chưa từng quen biết, có thơ hay được thi hữu miền Nam mến mộ, lại bị anh Nhì đặt vào cái cẩu đầu trảm chỉ vì cái tội là tôi đồng cảm với thơ anh ấy và viết lời bình cho bài thơ “Thềm Xưa Em Đợi Người về”. Bởi vậy tôi xin có đôi lời phản biện để không phải bênh tôi mà biện hộ cho Hà Nhữ Uyên, người đã vì tôi mà lên đoạn đầu đài.

 

Phạm Đức Nhì trả lời:

 

Anh Châu thạch không đi thẳng vào đề tài tranh luận mà vòng qua, vòng lại rồi “đá giò lái” người đối luận với mình. Nói thật, tôi không chấp cái trò trẻ con ấy. Riêng chuyện anh Hà Nhữ Uyên anh cũng nói đến ở đoạn kết, đến đó tôi sẽ trả lời.

 

 

2/

 

Châu Thạch Phản Biện:

 

Anh Phạm Đức Nhì nói Châu Thạch, Nguyễn Bàng, Bùi Đồng “chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp”. Vậy cái ý tứ đó có phải là “xử dụng vần, nhịp điệu, nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp, cảm xúc” không nhỉ? Chẳng có nhà thơ nào mà không xử dụng những cái ấy để đưa ý tứ của mình vào. Cho nên một nhà bình thơ “bình tán ý tứ” của bài, chính là nhận xét cái tài “xử dụng vần, nhịp điêu, con chữ” của họ hay đến đâu hoặc dỡ đến đâu. 

 

Anh Nhì nói chúng tôi “bình tán ý tứ không bàn thi pháp” là chính anh đã “đánh lộn sòng con chữ” chớ không phải chúng tôi. Một bài thơ mà không có ý, tứ và không biết xử sụng ý tứ đó cho hài hoà, độc đáo thì là bỏ. Khi chúng tôi khen một bài thơ hay là chúng tôi khen tác giả có tài thi pháp, có ý tứ hay của thơ và có cả ý tứ trong sáng tác để kết cấu bài thơ gây cảm xúc cho người.

 

Phạm Đức Nhì Trả Lời:

 

Anh Châu Thạch ơi! Rõ ràng là anh không bàn thi pháp. Thì cứ nói thẳng ra là mình thấy nó vô bổ, vô ích (hoặc cũng có thể anh không biết) nên không nói tới. Hà cớ gì lại nói quanh, nói co rồi nhận xằng là mình bàn ý tứ tức cũng là bàn thi pháp? Anh nói vậy anh không hiểu gì về “bàn thi pháp” rồi.

 

Bàn thi pháp là giải thích mối liên hệ nhân quả giữa một bên là những “phương tiện thẩm mỹ” được sử dụng trong bài thơ và bên kia là giá trị nghệ thuật của bài thơ. Nói rõ hơn là việc sử dụng mỗi “phương tiện thẩm mỹ” làm bài thơ hay hơn hoặc dở đi cỡ nào.

 

Thí dụ:

 

Sử dụng vần dầy đặc như trong bài thơ Thềm Xưa Em Đợi Người Về khiến bài thơ có Hội Chứng Nhàm Chán Vần đọc lên rất “ầu ơ, ví dầu”, nghe chán lắm, làm giảm giá trị bài thơ đi rất nhiều.

 

Hoặc là:

 

Trong “Quê Nghèo” Đặng Xuân Xuyến đã có thể - bằng kỹ thuật gieo vần và thay đổi số chữ trong câu - khiến tứ thơ chảy thành dòng và cảm xúc cũng nương theo đó tuôn chảy và phát triển “sóng sau dồn sóng trước”. Ngược lại, TXEĐNV của Hà Nhữ Uyên chỉ là 6 “hố thơ” riêng biệt.

 

Bây giờ anh Châu Thạch đọc lại bài bình thơ của mình lần nữa xem anh có bàn thi pháp không? Không bàn thi pháp thì cứ nhận là không bàn thi pháp. Việc gì phài nói đông, nói tây, cãi chầy cãi cối cho rách việc.

Anh làm luật sư biện hộ mà giả bộ ngu ngơ kiểu đó thì chỉ vài lần là mất bằng luật sư.

 

Theo tôi, anh Hà Nhữ Uyên nắm rất vững luật thơ nhưng anh áp dụng việc gieo vần và đặt số chữ trong câu một cách quá chặt chẽ - thật ra còn quá mức yêu cầu của luật thơ - nên hội chứng nhàm chán vần và sự đều đặn của nhịp điệu làm bài thơ tụt hẳn điểm giá trị nghệ thuật. Nhưng anh Châu Thạch không biết điều đó, đem lối bình thơ “chỉ khen, không chê” vào múa may quay cuồng thêm nữa nên bài thơ được nâng lên một tầm cao đến chóng mặt, vượt xa giá trị thực sự của nó.

 

Trong khi Đặng Xuân Xuyến, cũng nắm vững luật thơ nhưng đã áp dụng chúng một cách uyển chuyển nên dòng thơ của anh nhẹ nhàng, thanh thoát hơn, dễ thấm vào hồn người hơn. Nhưng ông Nguyễn Bàng bình thơ của anh lại không bàn thi pháp nên “kỹ thuật thơ”, “tài thơ” của anh bị lờ đi, có cũng như không.


3/

 

Châu Thạch Phản Biện:

 

Phạm Đức Nhì chê:

 

Nhịp điệu: Mỗi câu 8 chữ, mỗi đoạn 4 câu, đọc lên nhịp điệu đều đặn tẻ nhạt. Tác giả tự trói buộc mình trong quy luật của thơ mới nên tâm thế, phong thái không được tự do. 

 

Châu Thạch biện hộ:

 

Xin hãy đọc đoạn thơ trong bài Ave Mari của Hàn Mạc Tử:

 

Như song lộc triều nguyên ơn phước cả

Dâng cao dâng thần nhạc sánh hơn trăng

Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đường

Huyền diệu bến thành muôn linh trọng thể

 

Toàn bộ bài của Hàn Mạc Tử đều mỗi đoạn 4 câu và mỗi câu 8 chữ. Bài thơ nầy đã trở thành bất hủ.

 

Phạm Đức Nhì Trả Lời:  

 

Bài Ave Maria (không phải Mari) của Hàn Mặc Tử có 62 câu mỗi câu 8 chữ nhưng vì gieo vần liên tiếp nên là loại thơ nhất khí liền mạch, ý này nối với ý kia liên tục cho phép tứ thơ và cảm xúc chảy thành dòng. Đây không phải là loại thơ Trường Thiên mỗi đoạn 4 câu. Anh Châu Thạch không quen để ý đến thi pháp nên đã nhận diện thể thơ “hơi bị sai”. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Quan trọng là dù nhất khí liền mạch Ave Maria cũng mắc một chứng bệnh khá nặng: Hội Chứng Nhàm Chán Vần, đọc lên rất ngán, rất buồn ngủ. Độc giả có thể đọc cả bài thơ Ave Maria theo link dưới đây:

http://vanhoc.xitrum.net/thoca/hiendai/4930.html

 

 

4/

 

Châu Thạch Phản Biện:

 

Phạm Đức Nhì chê:

 

 Vần: Vần gieo cả 1/3 lẫn 2/4 kỹ lưỡng (6 đoạn 12 cặp vần, không bỏ sót cặp nào), có nhiều cặp gieo chính vận nên hội chứng nhàm chán vần rất nặng, đọc 2 đoạn đã thấy giọng “ầu ơ”. Thêm vào đó, tác giả lại còn chơi cả yêu vận (vần lưng)

 

-Châu Thạch biện hộ:

 

Mời đọc bài thơ “Trên Đường Về” trong tập thơ Điêu Tàn của Chế lan Viên có 7 đoạn và 14 cặp vần gieo 1/3 lẫn 2/4 không bỏ sót cặp nào.

Xin đơn cử một đoạn thôi:

 

Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi

Những đền xưa đổ nát giữa thời gian

Những sông vắng lê mình trong bóng tối

Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than

 

Bài thơ nầy cũng cũng đã trở nên biểu tượng của thơ.

 

Phạm Đức Nhì Trả Lời:

 

Trên Đường Về của Chế Lan Viên có 8 đoạn mỗi đoạn 4 câu (bị thời đó kiểm duyệt 2 câu sau của đoạn đầu) nên 7 đoạn sau có 14 cặp vần đúng như anh Châu Thạch nói. Với cách gieo vần đó thì dù của Chế Lan Viên hay của “thi thần”, thi bá nào đi nữa, hội chứng nhàm chán vần cũng làm người đọc ngán ngẩm, ngáp dài. Đọc bài phản biện của Châu Thạch, bạn thơ một thời của anh là Nguyên Lạc, muốn bình luận nhưng đã bị anh “chặn” nên có gởi cho tôi 2 đoạn nhận xét. Đây là đoạn đầu:

 

“Ha ha! Cái ông thần Châu Thạch này! Tưởng rằng ông là nhà phê bình đầy hiểu biết, ai dè lại phải đem những ông nhà thơ có tiếng trước ra để bảo vệ ý kiến mình.  Chắc gì các ngài ấy đã hoàn toàn đúng. Đúng sai cũng tùy thời, tùy lúc. Đâu phải cái gì của người đi trước là không được phê phán, là cấm kị. Đừng lợi dụng tiền nhân cho cái dục nhỏ hẹp của bản thân mình. Và cũng đừng đem tiền nhân ra HÙ, làm VŨ MÔN chặn CÁ CHÉP trẻ hoá RỒNG (1)

 

Độc giả có thể đọc cả bài thơ Trên Đường Về theo link sau đây: http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=6932

 

Chế Lan Viên viết Trên Đường Về năm 1937. Bài thơ lúc ấy được chú ý vì nó là đứa con tinh thần của một thiếu niên mới 17 tuổi trong lúc Phong Trào Thơ Mới còn rất non trẻ. Tính đến nay (2018) đã 81 năm. Ôi! Gần một thế kỷ trôi qua, bộ mặt của thơ đã đổi thay rất nhiều, trong đó thi pháp cũng đã tiến triển vượt bực. Vậy mà nhà bình thơ Châu Thạch - ở thời điểm này - vẫn lấy bài thơ của 81 năm trước làm biểu tượng, làm mẫu mực để ca tụng TXEĐNV, một bài thơ có vóc dáng giống hệt như được đúc từ một cái khuôn. Nhìn cách lập luận của Châu Thạch để biện hộ cho việc đánh giá quá cao bài thơ TXEĐNV mà thấy buồn, thấy tủi hổ cho giới bình thơ, cho Thi Ca Việt Nam.

 

4/

 

Châu Thạch Phản Biện:

 

Phạm Đức Nhì viết:

 

Dòng chảy của tứ thơ: Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy.

 

Châu Thạch biện hộ:


Đọc bài thơ Tràng Giang của Huy Cân:

 

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

 

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

 

Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

 

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

 

Đọc bài thơ Tràng Giang của Huy cận ta thấy có 4 đoạn, mỗi đoạn diễn tả không những một ý riêng biệt mà còn một cảnh riêng biệt. nhưng tất cả cũng chỉ mục đích là miêu tả Trường Giang. Từ khổ thơ trước qua khổ thơ sau cũng không hề bắt vận. Ở đây bài thơ “Thềm xưa em đợi người về” mỗi đoạn tỏ bày một tâm tư của em, và tất cả cũng để nói lên nỗi lòng của người ngồi bên “Thềm xưa em đợi anh về”. Thiết tưởng liên kết của các ý thơ còn sít sao và trôi chảy hơn Tràng Giang nữa.

 

5/

 

Châu Thạch Phản Biện:

 

Phạm Đức Nhì viết:

 

Cảm xúc: Cảm xúc tạo được ở đoạn nào nằm tại đoạn đó, không chảy thành dòng để có sự tiếp nối “sóng sau dồn sóng trước” tạo cao trào, hình thành hồn thơ. Cảm xúc phần lớn ở tầng 1 (câu, chữ hay), rất ít ở tầng 2 (thế trận), hoàn toàn không có cảm xúc ở tầng 3 (cao hứng, nổi điên). Với vóc dáng này TXEĐNV chắc chắn không thể có hồn thơ.

 

Châu Thạch biện hộ:

 

Khổ 1: Em đợi chàng với sự nóng lòng hiện lên trên cử chỉ
Khổ 2: Em khắc khoải mong chờ và giật mình mỗi khi tưởng có tin anh
Khổ3: Măt ngấn lệ, em gọi tên anh những đến trăng khuya cũng tắt.
Khổ 4: Em cố nhủ lòng thôi đừng phiền đừng khóc nhưng muộn phiền vẫn chẳng nguôi khuây.
Khổ 5: Anh gieo vào lòng em nỗi sầu như hoa Thạch Thảo bên tường mưa ướt, như con chim hóa bụa hót rưng rưng.
Khổ 6: Em khờ khạo nên để mối đùn trăm nối nhớ. Ngược lại anh thì cam tâm hờ hững tự bao giờ.

 

Bài thơ có một nối kết rõ ràng từ khổ 1 cho đến khổ 6. Cảm xúc “sóng sau dồn sóng trước’ và mỗi lúc một cao độ hơn. Cuối cùng tác giả dùng hình ảnh tổ mối đùn lên để nói về nỗi nhớ thật là sống động đến độ tuyệt vời.

 

Phạm Đức Nhì Trả Lời 4+5:

 

Thể thơ, vần điệu và những phương tiện thẩm mỹ khác của thi pháp chính là Con Kênh để cho tứ thơ lưu chuyển. Nhưng hai bài Tràng Giang của Huy Cận và TXEĐNV của Hà Nhữ Uyên do chọn thể thơ Trường Thiên (nhiều đoạn, mỗi đoạn 4 câu) nên không có Con Kênh mà chỉ có những “hố” riêng biệt nằm cạnh nhau. Nước hố này không thể tiếp cận nước hố kia thì làm sao có dòng chảy? Không có dòng chảy thì làm sao có “sóng sau dồn sóng trước”? Làm sao có cao trào? Làm sao có hồn thơ?

 

Viết theo thể thơ ấy, nói theo ngôn ngữ bóng đá, khán giả không thấy được thế trận, đấu pháp toàn đội lưu chuyển một cách sống động mà chỉ có những lần chơi bóng chết, những cú đá phạt. Hết cú đá phạt này lại chuyển qua cú đá phạt khác, cũng lại bóng chết. Đá phạt dù có siêu như Messi, từ xa hơn 30m bóng bay vào đúng góc trống của khung thành (có khi đúng ngay mắt lưới mà người sút nhắm tới) thì cũng chỉ là phần kỹ thuật. Cái đưa bóng đá lên hàng nghệ thuật làm khán giả say mê là khả năng đi bóng, chuyền bóng, lên công về thủ theo một đấu pháp hợp lý, sáng tạo và hiệu quả cộng với sự hưng phấn cao độ cùng ý chí quyết đấu quyết thắng của cầu thủ.

 

Những thứ ấy những bài viết theo thể thơ Trường Thiên như Trên Đường Về, Tràng Giang hay TXEĐNV không thể nào có được. (2)

 

 

6/

 

Châu Thạch:

 

Tóm lại theo tôi, đây là một bài thơ hay. Mà dẫu tôi có bình sai, anh Phạm Đức nhì thấy không hay thì cũng chẳng nên đem búa ra để đập bài thơ của một tác giả ra như thế, mà lại phê phán quá bất công với nhà thơ ấy. Tôi thấy anh Nhì còn lấy những tiêu chuẩn thơ của chính anh tự đặt như một vị thầy để chê thơ anh Phạm Đức Tùng không phải là thơ nữa.

 

Phạm Đức Nhì Trả Lời:

 

Tôi chỉ có ý kiến với cách bình thơ của 3 nhà phê bình Châu Thạch, Nguyễn Bàng, Bùi Đồng và các nhà bình thơ không bàn thi pháp khác. Tôi đã bỏ công viết 2 đoạn khá dài để “tâm sự” với 2 tác giả của 2 bài thơ liên quan. Tôi chọn cách bình thơ nói thẳng, nói thật, không nể nang, hay thì khen, dở thì chê nên cũng thường làm nhiều người phật ý.

 

Khi tác giả đem bài thơ ra trình làng, nó như cô gái giữa chợ để ông đi qua, bà đi lại nhìn ngắm khen chê. Có người khen nịnh, có người có điểm khen, có chỗ chê một cách công bằng trung thực. Và dĩ nhiên, có người bươi móc, dè bỉu một cách ác ý. Tác giả bài thơ có quyền phản biện. Độc giả bất bình cũng có quyền nhảy vào tranh luận. Tôi đụng chạm tới 2 bài thơ được bình là bất khả kháng. Nhưng đó là quyền của tôi.

 

Một nhà bình thơ như Châu Thạch mà lại buồn bực, chê trách tôi đụng tới bài thơ TXEĐNV của Hà Nhữ Uyên thì thật là chả hiểu gì về quan hệ giữa sáng tác và phê bình hết. Rồi lại còn dám mở miệng “chỉ xin anh nên xin lỗi nhà thơ Hà Hữu Uyên vậy” thì đúng là câu nói vô cùng bậy bạ của một người không biết chuyện, thiếu suy nghĩ.

 

Còn việc tôi cho rằng bài Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết của Nguyễn Đức Tùng (không phải Phạm Đức Tùng) không phải là thơ thì tôi đã viết hẳn một bài chứng minh đầy đủ. Chính anh Nguyễn Đức Tùng cũng không có ý kiến gì và đã chia sẻ bài của tôi về trang FB của anh ấy. Tôi kính phục anh NĐT về thái độ dũng cảm chấp nhận sai sót của mình. Câu nói của Châu Thạch:

 

Tôi thấy anh Nhì còn lấy những tiêu chuẩn thơ của chính anh tự đặt như một vị thầy để chê thơ anh Phạm Đức Tùng không phải là thơ nữa”

 

có ý cho rằng tôi cả gan nói liều và nói sai. Nếu Châu Thạch không đồng ý thì đưa chứng cứ ra, dùng lập luận phê phán; tôi sẵn sàng thù tiếp. Anh phát biểu khơi khơi, không dẫn chứng kiểu đó là một hình thức “chửi đổng”, không phải là thái độ của nhà phê bình đứng đắn.

 

Còn nữa, Châu Thạch nói tôi “chê thơ anh Phạm Đức Tùng không phải là thơ nữa” là bao gộp một cách cẩu thả, có thể gây ngộ nhận. Tôi chỉ cho rằng bài ECTVEMKTB của NĐT không phải là thơ, chứ không đá động đến những bài thơ khác của anh ấy.

 

 

Anh Nguyễn Đức Tùng sau đó có gởi cho tôi một email như sau:

 

Cám ơn anh Phạm Đức Nhì rất nhiều – đã chú ý đọc và còn chịu khó diễn giải và bình luận. Tôi nghĩ những bài viết của anh rất có ích cho độc giả và tác giả, dù bao giờ cũng có khác biệt và tranh cãi. Nhưng như vậy mới là nghệ thuật, mới vui, còn cái gì cũng đồng ý cả thì không có tiến bộ, phải không anh? Tôi dự định trong vài năm tới sẽ xuất bản một tập thơ với những lời bình luận đặc sắc của bạn bè. Mong sẽ có tiếng nói quan trọng của nhà phê bình Phạm Đức Nhì trong đó. 

NGUYỄN ĐỨC TÙNG: Nhà thơ, nhà văn.




 

7/

 

Châu Thạch:

 

Tôi nhớ trước đây trong “Câu Chuyện Văn Chương” nhà thơ lớn Lê Mai Lĩnh có nói như sau:

“Thưa anh nhà thơ PHẠM ĐỨC NHÌ:
Anh nói : TÔI DÀNH SỰ PHÁN XÉT SAU CÙNG CHO ĐỘC GIẢ
Vậy tôi đề nghị anh NÊN NÓI LỜI XIN LỖI VỚI ANH CHÂU THẠCH. Bài của nhà phê bình CHÂU THẠCH rất HÀN LÂM, NGƯỜI LỚN.
 Mặc dù anh đã HÀN GẮN NHỮNG VẾT ĐỤC ĐẼO lên PHO TƯỢNG TỐNG BIỆT HÀNH, những sự MẤT MÁT VẪN CÒN, NIỀM ĐAU CŨNG CÒN.
Vậy anh nên viết bài tạ lỗi với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã chạm vào tình cảm YÊU THƠ của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM.”

Hôm nay Châu Thạch tôi cũng xin dùng câu đó để nói lại với anh Phạm Đức Nhì nhưng không phải biểu anh xin lỗi tôi hay xin lỗi anh Nguyến Bàng, Anh Bùi Đồng mà chỉ khuyên anh nên xin lỗi nhà thơ Hà Nhữ Uyên vậy.

 

Phạm Đức Nhì:

 

Ông Lê Mai Lĩnh đã có lần cao hứng viết một bài liên quan đến tôi có một số điểm không đúng. Tôi đã phản biện và ông đã không trả lời. Chúng tôi đã hiểu ngầm coi đó là “chuyện đã qua”. Chính Nguyên Lạc, bạn của LML và có một dạo là bạn văn chương của anh cũng nói:

 

"Châu Thạch chơi trò ‘bỏ bóng đá người’ mới đem Nguyễn Đức Tùng (CT viết Phạm Đức Tùng) và LML vào bài viết. Tôi có đọc về vụ LML. Ông này gia trưởng, nghĩ rằng mình là người đi trước, đàn anh là có toàn quyền muốn nói gì là nói. Tôi thấy trong vụ tranh biện, ông LML đã im lặng khi bị anh phản biện.

Anh phê bình cách bình thơ của Châu Thạch rất chính xác." (1)

 

Giờ nhắc lại chuyện xưa anh chỉ đưa ra đoạn “nói sai” (mà anh tưởng là đúng?) của ông LML mà ém đi đoạn trả lời của tôi. Đó là kiểu lươn lẹo, “ma giáo” cần thiết để tranh lợi, tranh thắng trong những môi trường khác, không hợp với chỗ tranh luận văn chương. Có một bài viết mà phải mấy lần “kéo áo” anh về thái độ lịch sự, lương thiện trong tranh luận văn chương. Thật chán.

 

(Muốn hiểu rõ đầu đuôi độc giả có thể đọc bài Văn Chương Đâu Phải Là Đơn Thuốc theo link sau đây: http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/van-chuong-au-phai-la-on-thuoc.html 

 

Sau này anh Lê Mai Lĩnh đã có một mẩu đối thoại ngắn với tôi trên Facebook:

 

(Sau cuộc tranh luận về bài thơ Tống Biệt Hành)

 

Le Mai Linh Nhi Pham

 

Tôi còn nợ anh món nợ TỐNG BIỆT HÀNH, nghĩa là sau nầy nghĩ lại, tôi thiển cận, nghĩa là anh ĐÚNG tôi SAI .
Hì hì

 

Nhi Pham Còn vụ Tống Biệt Hành, chúng ta “bắt tay” cho vui vẻ.

Tôi cũng thích lối phản biện văn chương của anh – rõ ràng, mạnh mẽ và “độc”.

 

Le Mai Linh Nhi Pham


OK. Bắt tay. Cảm ơn anh.
Lâu nay tôi vẫn lấn cấn đó 

 

Tóm lại, bình thơ không bàn thi pháp thường mắc những sai phạm sau đây:

 

1/ Đối xử với bài thơ như một đoạn văn, không hơn, không kém. Chỉ bình tán ý tứ mà quên Kỹ Thuật Thơ. Chỉ trả lời câu hỏi “Viết cái gì?” (What?) mà quên 2 câu hỏi quan trọng khác “Viết thế nào?” (How?) và “Viết trong tâm thế nào?” (In what state of mind?)

 

2/ Bất công.

 

     a/ Những bài thơ yếu kém về mặt thi pháp thì những điểm yếu kém không bị nhắc tới, làm giá trị bài thơ tự nhiên như được một bàn tay vô hình nâng lên một cách bất công. Tệ hại hơn nữa là nhà phê bình đã thổi vào hồn tác giả một niềm tự hào thiếu căn cứ để nảy sinh tâm lý tự mãn; thi sĩ quanh đi quẩn lại, bì bõm trong vũng sình lầy lội mà cứ ưỡn ngực như đang đi trên đại lộ thẳng hướng Bến Bờ Thi Ca. 

 

 

     b/ Những bài thơ vững vàng, tiến bộ về mặt thi pháp thì những bước chân khai phá ấy cũng bị lờ đi, ảnh hưởng đến việc nhìn nhận giá trị của bài thơ. Người nỗ lực học hỏi và may mắn có được những bước chân khai phá đi đúng hướng bến bờ thi ca như thế thì vì không có người biết chuyện chia sẻ, thông cảm, khuyến khích nên tâm trạng nửa tin, nửa ngờ, chân ngập ngừng, vừa bước vừa run; nếu bất ngờ đụng phải một trở ngại nhỏ cũng dễ dàng bỏ cuộc.

 

Kết Luận

 

Đọc Châu Thạch, rất nhiều độc giả (có cả tôi) công nhận anh là người đam mê, có lòng với văn chương và viết rất khỏe. Những bài bình thơ của anh, như từ một gia đình mắn con, cứ lũ lượt ra đời. Anh đem kinh nghiệm sống dầy dặn của mình vào những lời bình tán rất có duyên. Anh có cái “tật” là bình thơ chỉ khen, không chê. Trong trao đổi riêng, và cả trong tranh luận, tôi thỉnh thoảng cũng nhắc khéo anh điều này. Có lần anh nói với tôi nửa đùa nửa thật “Anh mới là bình thơ, còn tôi chỉ là nịnh thơ thôi”.

 

Riêng thi pháp, nói thì đao to búa lớn, về mặt thực dụng, thật ra là hình thức thơ, kỹ thuật thơ hoặc cách thi sĩ áp dụng (hay không áp dụng) “luật tắc” trong bài thơ của mình. Giữa mỗi “phương tiện thẩm mỹ” trong thi pháp đều có mối liên hệ nhân quả với cái hay, cái đẹp của cách diễn đạt ý tứ, nói khác đi, là giá trị nghệ thuật của bài thơ. Châu Thạch và một số những người bình thơ không bàn thi pháp khác đã chỉ tán cái “quả” mà quên cái “nhân”, quên trả lời câu hỏi “Tại sao lại có cái quả đẹp (hay xấu) như vậy?”

 

Bình thơ kiểu ấy là giết chết “tính thơ” của bài thơ. Nghĩa là giết chết thơ.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

CHÚ THÍCH:

 

1/ Cám ơn anh Nguyên Lạc đã cho phép tôi được đưa 2 đoạn nhận xét của anh vào bài viết này.

 

2/ Có những bài tứ thơ được dàn trải theo thứ tự thời gian. Lúc ấy dòng chảy của tứ thơ cũng là dòng thời gian. Nhưng cảm xúc cũng vẫn bị phân tán, không thể tạo cao trào, không thể có hồn thơ. Ông Đồ của Vũ Đình Liên là một thí dụ.

 

 

    

 

 


Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2018

BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP







                                   BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP

                               


Thi Pháp Là Gì?


Sau đây là vài định nghĩa Thi Pháp đáng chú ý:

1/

Định nghĩa theo kiểu chiết tự của người Việt (Tự điển Việt – Việt):

         Phương pháp, quy tắc làm thơ.


2/

         The art of writing poetry.
         The study of linguistic techniques in poetry or literature.

tạm dịch:

        Nghê thuật, phương cách sáng tác thơ.
        Ngành nghiên cứu về kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ trong thơ hoặc văn chương.


 3/

        Literary criticism treating of the nature and laws of poetry.

        Ngành phê bình văn học chuyên về bản chất và luật thơ.


4/

       Poetics is the theory of literary forms and literary discourse. It may refer specifically to the theory of poetry, although some speakers use the term so broadly as to denote the concept of "theory" itself. 

      Thi Pháp là lý thuyết về các hình thức văn chương và nghị luận văn học. Nó có thể đề cập cụ thể đến lý thuyết thơ, mặc dù một số người dùng thuật ngữ này với nghĩa rộng để diễn đạt chính ý niệm về lý thuyết.


Thi pháp nếu hiểu theo nghĩa hẹp (“thi” là thi ca chứ không phải văn học) là phương pháp, quy tắc làm thơ; cũng có thể hiểu là luật thơ.

Bàn đến thi pháp là bàn đến hình thức của bài thơ - cách sắp xếp con chữ, sử dụng vần điệu và ảnh hưởng của nó đối với giá trị nghệ thuật của bài thơ.

Đối với thơ, theo tôi, thi pháp có thể định nghĩa như sau:

5/

Thi pháp (poetics) là phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả.

Các phương tiện thẩm mỹ thường thấy trong thơ là vần, nhịp điệu, số chữ trong câu, số câu trong bài, các biện pháp tu từ …

Ngoài ra, trong ebook Toàn Cảnh Thi Pháp Học của GS/TS Trần Đình Sử có hai định nghĩa thi pháp học đáng chú ý:

 1/ V. Girmunski : “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi ca (tức là văn học) như là một nghệ thuật.”

Định nghĩa này quá rộng nhắm vào nhiệm vụ của thi pháp học. (1) 

2/ Viacheslav Ivanov: “Thi pháp học là khoa học về cấu tạo của tác phẩm văn học và hệ thống các phương tiện thẩm mỹ được sử dụng trong đó. (1)

Định nghĩa của Viacheslav Ivanov tuy có cụ thể hơn một tý nhưng cũng nói đến “tác phẩm văn học” nghĩa là vùng phủ sóng cũng vượt quá phạm vi của bài viết này.




Ảnh Hưởng Của Thi Pháp Đối Với Giá Trị Nghệ Thuật Của Bài Thơ


1/ Số Chữ Trong Câu: 

Ảnh hưởng đến nhịp điệu của bài thơ.

Số chữ trong câu cố định sẽ dẫn đến nhịp điệu đều đặn, nhàm chán.

Số chữ trong câu thay đổi sẽ tạo nhịp điệu khác lạ, giảm bớt cảm giác nhàm chán khi đọc thơ, nhất là bài thơ dài. Biên độ thay đổi càng rộng nhịp điệu càng khác lạ, đọc thơ càng có cảm giác thích thú, khoan khoái. Hơn nữa, việc thay đổi số chữ trong câu chứng tỏ tác giả đã phần nào thoát khỏi những ràng buộc của thể thơ, biểu lộ phong thái ung dung, thoải mái - rất cần thiết để nhen nhúm hồn thơ.

2/ Số Câu Trong Bài: 

Thoải mái, tùy tiện nhưng đừng quá ngắn.

Xin trích lời một anh bạn trong buổi nhậu (đã thay đổi chút ít cho phù hợp với khung cảnh bài viết):

Bài thơ ngắn quá (4 câu hoặc ít hơn) không đủ để tác giả bày tỏ tâm trạng của mình, không đủ để cảm xúc lớn mạnh tạo thành cao trào. Nếu thành công, nó như một nụ hôn phớt trên má, tạo ra chút xao động trong lòng người đọc nhạy cảm. Nếu thất bại, nó cho cảm giác bực mình như làm tình với anh chàng ‘sậu tinh’, chưa đi đến chợ đã hết tiền, mệt người mà chẳng nên cơm cháo gì”.

2/ Vần:

Với thi sĩ, vần giúp nối kết những ý tưởng, sự kiện, những mảnh tâm tình thành một xâu chuỗi khiến bài thơ liền mạch, nhất khí. Trong bài thơ có vần (ngoại trừ thể thơ mới trường thiên từng đoạn 4 câu) tứ thơ và cảm xúc chảy thành dòng, lớn mạnh nhanh chóng nhờ sóng sau dồn sóng trước. Khi thi sĩ đang cao hứng, “lên cơn”, dòng cảm xúc liền mạch, trôi nhanh đó giúp tứ thơ tuôn trào, không có “thời gian chết” để lý trí xuất hiện, tạo cơ hội cho hồn thơ hình thành.

Với độc giả, vần là thuốc dẫn, là thứ “dầu bôi trơn” giúp thông điệp của bài thơ theo dòng cảm xúc trôi nhanh vào hồn. Nhờ thứ “dầu bôi trơn” ấy độc giả “cảm” được tâm tình của thi sĩ một cách dễ dàng hơn, (có thể) không phải trải qua tiến trình suy nghĩ, tránh được (hoặc giảm thiểu) sự chen vào can thiệp của lý trí để cuối cùng có thể bắt gặp hồn thơ (nếu có). (2)

Nhưng vần là con dao hai lưỡi:

     a/ Quá ngọt: Sẽ có hội chứng nhàm chán vần, đọc nghe rất ngán - nhất là khi tứ thơ không thẳng hướng tới đích mà cứ cà kê dê ngỗng chạy lòng vòng.
     b/ Quá nhạt hoặc không vần: Trúc trắc, khó đọc, dòng chảy của tứ thơ không trơn, những khoảng ngắn ngừng nghỉ sẽ là cơ hội để lý trí xuất hiện.

3/ Dòng Chảy Của Tứ Thơ

     a/ Đứt đoạn, phân mảnh: Tứ thơ phân tán, mỗi đọan là một ý nhỏ, cảm xúc chưa kịp tích tụ đã tan, cực khó có hồn thơ
     b/ Nhất khí liền mạch: Tứ thơ chảy thành dòng, ý này nối kết với ý kia cho đến hết bài. Nếu thi sĩ cao hứng và thế trận bài thơ hợp lý sẽ có cơ hội có cảm xúc tầng 3, có cơ hội tạo được cao trào, có cơ hội có hồn thơ.
     c/ Tốc độ của dòng chảy càng nhanh, hơi thơ càng mạnh, cảm xúc càng dạt dào.

4/ Cảm Xúc: 

Mức độ cảm xúc có được là kết quả của sự phối hợp các phương tiện thẩm mỹ của bài thơ mà giới phê bình gọi là thi pháp.

     a/ Cảm xúc tầng 1: Cảm giác khoan khoái, sung sướng khi gặp được một chữ “đắt”, một cụm từ sang, đẹp, một biện pháp tu từ độc đáo hoặc một câu thơ hay. (Kỹ thuật cá nhân của cầu thủ)

     b/ Cảm xúc tầng 2: Cảm giác sung sướng khi thấy sự kết nối các câu, các ý, các đoạn thành một thế trận liền lạc, hợp lý, hiệu quả để đưa tứ thơ đến “bến đỗ”. (Đấu pháp toàn đội)

     c/ Cảm xúc tầng 3: Cảm giác ngây ngất khi “bắt” được cái hơi nóng cảm xúc, không phải từ các con chữ của bài thơ mà từ đâu đó giữa những hàng kẻ. Cái hơi nóng cảm xúc đó được “thổi” vào bài thơ do tâm thái cao hứng, nổi điên, lạc thần trí của tác giả. Đây là loại cảm xúc cho độc giả cái cảm giác sảng khoái nhất, “đã” nhất.

Nếu cảm xúc tầng 3 mạnh đến mức chảy thành dòng, sóng sau dồn sóng trước lên đến đỉnh điểm, bài thơ có cao trào, hồn thơ xuất hiện. (Trận đấu có hồn) Lúc đó “cái tôi văn hóa” của tác giả đã trốn mất để “cái tôi đích thực” lộ diện, lời thơ là những tiếng lòng chân thật từ một Con Người (viết hoa). Bài thơ đã đạt được phần thưởng cao quý nhất - bước vào “Bến Bờ Thi Ca”.


Khuyết Điểm Về Mặt Thi Pháp Của “Thềm Xưa Em Đợi Người Về”

THỀM XƯA EM ĐỢI NGƯỜI VỀ

Em đợi người bên Thềm Xưa trầm lắng
nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn
ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng
nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan.

Em khắc khoải đợi một dòng tin nhắn
thèm giật mình khi nghe tiếng chuông reo
chiếc điện thoại cũng tảng lờ im ắng
ném niềm vui như chiếc lá bay vèo.

Mắt ngân ngấn “Người ơi” - em khẽ gọi
đợi tiếng người trầm ấm phía bên kia
mà: “… rất tiếc, số này không kết nối”
ngỡ trời tình ai thổi tắt trăng khuya.

Buồn vây ráp đêm dài thêm sợi tóc
tựa vào đâu ấm áp một bờ vai?
em cố dặn: thôi đừng mau mắt khóc
dẫu muộn phiền có thể chẳng nguôi khuây.

Người gieo lại nửa hồn nghe ngơ ngẩn
nửa trên tay em bồng nắng về rừng
như thạch thảo bên tường mưa ướt cánh
nghe con chim góa bụa hót rưng rưng.

Em khờ khạo xới lên miền cổ tích
như mối đùn trăm nỗi nhớ về nhau
khi yêu dấu môi hôn chưa nhàm nhạt
ai cam tâm hờ hững tự khi nào?

HÀ NHỮ UYÊN

(Bài này Châu Thạch đã viết lời bình với tựa “Cảm Nhận ‘Thềm Xưa Em Đợi Người Về’ – Thơ Hà Nhữ Uyên” nhưng anh đã chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp. Độc giả có thể đọc bài bình của Châu Thạch theo link sau đây: http://www.bongtram.com/2016/03/cam-nhan-them-xua-em-oi-nguoi-ve-tho-ha.html

1/ Nhịp Điệu: 

Mỗi câu 8 chữ, mỗi đoạn 4 câu, đọc lên nhịp điệu đều đặn tẻ nhạt. Tác giả tự trói buộc mình trong quy luật của thơ mới nên tâm thế, phong thái không được tự do.

2/ Vần: 

Vần gieo cả 1/3 lẫn 2/4 kỹ lưỡng (6 đoạn 12 cặp vần, không bỏ sót cặp nào), có nhiều cặp gieo chính vận nên hội chứng nhàm chán vần rất nặng, đọc 2 đoạn đã thấy giọng “ầu ơ”. Thêm vào đó, tác giả lại còn chơi cả yêu vận (vần lưng):

Chữ “nắng” (câu 2 đoạn 1) vần với “lắng” (câu 1 đoạn 1)
Chữ “nối” (câu 3 đoạn 3) vần với “thổi” (câu 4 đoạn 3)
Chữ “tóc” (câu 1 đoạn 4) vần với “áp” (câu 2 đoạn 4)
Chữ “ngẩn” (câu 1 đoạn 5) vần với “nắng” (câu 2 đoạn 5)

Và điệp vận (vần “ắng”) không cần thiết: Câu 1, câu 3 đoạn 1 và câu 1, câu 3 đoạn 2

Nhìn cách gieo vần của bài thơ mà thấy “thương” cho thái độ phục tùng của tác giả đối với quy luật gieo vần. Một lần nữa lại biểu hiện phong thái e dè lệ thuộc.

3/ Dòng Chảy Của Tứ Thơ: 

Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy.

4/ Cảm Xúc: 

Cảm xúc tạo được ở đoạn nào nằm tại đoạn đó, không chảy thành dòng để có sự tiếp nối “sóng sau dồn sóng trước” tạo cao trào, hình thành hồn thơ. Cảm xúc phần lớn ở tầng 1 (câu, chữ hay), rất ít ở tầng 2 (thế trận), hoàn toàn không có cảm xúc ở tầng 3 (cao hứng, nổi điên). Với vóc dáng này TXEĐNV chắc chắn không thể có hồn thơ.

Bình thơ mà không bàn đến thi pháp nên Châu Thạch đã bỏ qua nhiều khuyết điểm và đã nâng giá trị của bài thơ lên một cách bất công. Tệ hại hơn, anh đã ngợi khen quá lố một bài thơ có những điểm yếu cơ bản, thổi vào hồn tác giả một niềm tự hào thiếu căn cứ để nảy sinh tâm lý tự mãn.

Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Thềm Xưa Em Đợi Người Về”

Tôi hoàn toàn không quen biết anh Hà Nhữ Uyên và bài thơ Thềm Xưa Em Đợi Người Về tôi chỉ mới “gặp” lần đầu khi viết bài này. Bài thơ của anh những nét đẹp về ngôn ngữ, hình tượng, ý tứ thì nhà phê bình Châu Thạch đã phân tích đầy đủ, có phần ưu ái. Tôi chỉ bàn đến những cái “sót” của anh Châu Thạch khi anh bình thơ mà phớt lờ thi pháp – “cách sắp xếp con chữ, sử dụng vần điệu và ảnh hưởng của nó đối với giá trị nghệ thật của bài thơ”.

Mỗi nhà phê bình đều có “ý đồ” riêng trong bài viết của mình. Trước tiên, bài thơ của anh Hà Nhữ Uyên rất tình cờ lọt vào tầm ngắm của tôi. Đọc kỹ, thấy nó là một thí dụ minh họa rất hợp với mục tiêu của bài viết. Tôi biết bị một cặp mắt nhìn soi mói vào khuyết điểm bài thơ của mình tác giả nào cũng có cảm giác khó chịu, nhưng xin anh Hà Nhữ Uyên hiểu và thông cảm cho. Tôi chọn bài của anh vì tiện đường đi tìm cái đẹp của Thi Ca chứ không vì ác cảm cá nhân. 

Thuở còn ở Trung Học, khi được hỏi “Làm thơ nên chọn thể thơ nào?”, thầy giáo dậy Việt Văn có lần nói với tôi 


“Cái đó tùy tạng, tùy sở thích của mỗi người; trên trang thơ của mình thi sĩ được toàn quyền tự do chọn lựa.” Sau nhiều năm tìm vui với thơ, tôi lại được các bạn trẻ hỏi cái câu hỏi tôi đã hỏi thầy giáo tôi ngày xưa. Và vì dòng đời thay đổi, cách nhìn nhận thi ca cũng đổi thay; câu trả lời của tôi cũng khác câu trả lời của ông thầy mà tôi hết lòng yêu mến.

 “Hãy chọn thể thơ thông thoáng, không bị trói buộc bởi luật lệ khắt khe, không phân mảnh đứt đoạn, để tứ thơ và cảm xúc của mình có thể chảy thành dòng, sóng sau dồn sóng trước, có cơ hội tạo cao trào để hồn thơ xuất hiện.”

Rất mong anh Hà Nhữ Uyên coi câu trả lời ấy như một đề nghị chân tình.

Ưu Điểm Về Mặt Thi Pháp Của “Quê Nghèo”:

QUÊ NGHÈO

Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.
.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
*.
Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Bài này nhà phê bình Nguyễn Bàng đã viết lời bình với tựa Quê Nghèo – Nghèo Đến Xót Xa Cõi Lòng. Còn ông Bùi Đồng cũng bình bài thơ nhưng chọn cái tựa khác hơn một tý: Quê Nghèo – Xót Xa Những Tiếng Lòng. Giống như Châu Thạch, hai ông cũng chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp. Độc giả có thể đọc cả hai bài bình thơ theo hai cái links sau đây:


1/ Nhịp Điệu: 

Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.  

2/ Vần: 

Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.

Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

Và:

Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh

Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.

3/ Dòng Chảy Của Tứ Thơ: 

Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.

4/ Cảm Xúc: 

Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ – nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.


Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Quê Nghèo”

Tôi đã để ý đến “cách làm thơ” của Đặng Xuân Xuyến từ khá lâu mặc dù đã có lần “đụng chạm” với anh rất nặng. Về mặt thi pháp, anh (và vài nhà thơ khác) đã đi trước rất nhiều người trong cái cộng đồng yêu thơ quy tụ quanh trang web của anh và một số trang web lân cận. Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca” nhưng hình như “không có duyên”; tôi thường đi sau thiên hạ một bước. 

Hôm nay nhân dịp viết loạt bài về hồn thơ tôi để ý đến bài Quê Nghèo của anh. Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn. Nhưng rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng. 

Mặc dầu bài thơ đã có (ít nhất) hai người bình nhưng cả hai (Nguyễn Bàng và Bùi Đồng) đều không bàn thi pháp nên kỹ thuật thơ của anh, cái “tài thơ” của anh bị lãng quên.

Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của mình. So với Ngọc Mai - người tôi nói đến ở bài 2 – anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). 

Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “xì” ra không được, lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.

Thơ Đến Từ Đâu?

Khi làm thơ thi sĩ sẽ ở 1 trong 3 tâm thế (trạng thái của tâm) sau đây:

1/ Muốn phân tích phải trái, nói lý lẽ với độc giả (Reason With Them)

Với tâm thế ấy thi sĩ sẽ viết ra bài vè như khá nhiều những “bài thơ” của Thái Bá Tân. Ý tưởng mạch lạc, có vần điệu nhưng chỉ là sản phẩm của lý trí, hoàn toàn vắng bóng cảm xúc.

2/ Tâm sự, chia sẻ cảm xúc với độc giả (Share feelings with them)

Đại đa số thơ chúng ta thường đọc thuộc loại này. Thơ có cảm xúc nhưng cũng có sự kiểm soát của lý trí.

3/ Xả, trút cái khối yêu thương, thù hận, uẩn ức … chất chứa trong lòng. (Get it off your chest)

Lúc ấy thi sĩ đã nổi cơn điên, lạc thần trí; ngài đã vứt bỏ chiếc áo “cái tôi văn hóa” để trở về với “cái tôi đích thực” của mình. Trước mắt ngài sẽ chẳng có độc giả; ngài sẽ chẳng viết cho ai cả; ngài chỉ muốn nói ra, viết ra cho nhẹ lòng, nhẹ bụng. Nếu kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn đến một mức nào đó, bài thơ viết ra sẽ rất nhiều cơ hội có hồn.

Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp - Đầu Mối Của Bất Công.

Bình thơ không bàn thi pháp chắc chắn sẽ dẫn đến bất công. Người bình chỉ chú ý đến ý tứ, còn kỹ thuật thơ thì “ngoảnh mặt làm ngơ”. Tác giả bài thơ đã có “tay nghề” cao hay vẫn còn lẹt đẹt ở phía sau cũng đều được đánh giá giống nhau, cá mè một lứa. 

Người may mắn có được những bước chân khai phá đi đúng hướng bến bờ thi ca thì vì mang tâm trạng nửa tin, nửa ngờ, không có người biết chuyện chia sẻ, thông cảm, khuyến khích nên vẫn cứ ngập ngừng, vừa bước vừa run; nếu bất ngờ đụng phải một trở ngại nhỏ cũng dễ dàng bỏ cuộc. Người vẫn còn lẹt đẹt - nhưng lại không biết mình ở phía sau - vẫn cứ tiếp tục đi, lắm lúc còn ưỡn ngực tự hào dù thực sự đang quanh đi quẩn lại, bì bõm trong vũng sình lầy lội.   

Với thơ, cảm xúc gần như là tất cả, thông điệp chỉ là thứ yếu. Dĩ nhiên, tứ thơ hay cũng góp phần nâng giá trị của bài thơ nhưng chính cảm xúc mới có thể đưa bài thơ lên “đài danh vọng”, mới giúp bài thơ chiếm một vị trí trang trọng trong lòng độc giả, mới tạo nên sự cách biệt giữa một tuyệt tác thi ca với những bài thơ làng nhàng.

Muốn “đo” khối lượng cảm xúc của một bài thơ nhà phê bình trước hết phải “cảm đoán” xem thi sĩ viết bài thơ với tâm thế nào. Nếu ngài “trút bầu tâm sự” lên trang giấy thì bài thơ dễ có nhiều cảm xúc và có cơ hội đạt danh hiệu cao quý: “Bài Thơ Có Hồn”. Đến đây nhà phê bình phải dùng chiêu thi pháp để tìm kết quả. Vần, nhịp điệu và các phương tiên thẩm mỹ khác sẽ được đưa lên bàn mổ để xem có nối kết các con chữ thành một thế trận hoàn hảo và có tạo được cao trào không?

Bởi vậy nếu không bàn thi pháp thì sẽ rất khó nhận biết cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp đến từ trạng thái cao hứng của thi sĩ – và đỉnh điểm của nó là hồn thơ. Không làm được điều đó, theo tôi, bài bình thơ thất bại.

Kết Luận

Thưa các nhà bình thơ Châu Thạch, Nguyễn Bàng và Bùi Đồng,
Thưa tất cả những nhà phê bình thuộc trường phái Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp,

Với lối bình thơ ấy quý vị đã đối xử với bài thơ như một đoạn văn không hơn, không kém. Tâm của quý vị có thể chính trực nhưng lời bình của quý vị lại thiên vị, bất công, thơ hay thơ dở đánh lộn sòng.

Bao nhiêu những tố chất để làm nên “tính thơ” quý vị đều phớt lờ. Quý vị đã cầm dao đâm chết bài thơ trước khi viết lời bình. Những phân tích, bàn tán hoa mỹ của quý vị chỉ là những cánh hoa phủ lên một “cái xác không hồn”, một bài thơ không có “tính thơ”.

Xin những người yêu thơ hãy lên tiếng để cứu thơ. Nếu không, một ngày nào đó thơ – cái thứ thơ mà chúng ta trân trọng yêu quý - sẽ không còn nữa.

Phạm Đức Nhì


2/ Một Cách Nhìn Khác Về Vai Trò Của Vần Trong Thơ, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/02/mot-cach-nhin-khac-ve-vai-tro-cua-van.html





Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2018

" EM CÒN TRẺ VÀ EM KHÔNG THỂ BIẾT" CỦA NGUYỄN ĐỨC TÙNG CÓ PHẢI LÀ THƠ?

Từ Bài Thơ Của Ông Nguyễn Khoa Điềm Và Lời Bình Của Đỗ Trung Quân

 

BỨC CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH GIÀ

 

 (Có bức chân dung nhưng máy tôi không tải được)

 

Những giọt nước mắt

Thật buồn

Thật lặng lẽ

Trước bức chân dung

Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi

Của một người tù.

 

Trận chiến Lịch Sử

Đã phá tung mọi xiềng xích?

Người họa sĩ trẻ

Từ sau song sắt

Vẫn bình tâm

Dành lòng biết ơn

Không dứt

Cho một người lính già.

 

19.9.2011

Nguyễn Khoa Điềm

 

Đỗ Trung Quân bình:

 

Bức chân dung của đại tướng Võ Nguyễn Giáp được vẽ bởi một tay thực sự chuyên nghiệp. Anh Cù Huy Hà Vũ. Anh rất có tài!

 

Bài thơ của ông Nguyễn Khoa Điềm, rất tiếc phải nói thật lòng, xin ông đừng giận. Đấy chỉ là những dòng “cảm tưởng có vần”, thường thấy ghi trong những sổ cảm nghĩ đám ma hay đám cưới.

 

Thưa ông!

Nó không phải là thơ ạ!

 

Tôi không biết thi sĩ Đỗ Trung Quân dựa vào đâu để phán Bức Chân Dung Của Người Lính Già không phải là thơ.

 

Theo tôi thì ngắm bức chân dung của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp tác giả tâm đã đối cảnh và biểu lộ cảm xúc của mình trước tấm tình của họa sĩ (Cù Huy Hà Vũ) đối với Đại Tướng.

 

Những giọt nước mắt

Thật buồn

Thật lặng lẽ

Trước bức chân dung

Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi

 

Với những chi tiết ấy Bức Chân Dung Của Người Lính Già đã xứng đáng được gọi là thơ. Bài thơ ấy hay hoặc dở lại là chuyện khác, cần đến sự phân tích và bình phẩm kỹ lưỡng hơn.

 

Đến “Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết” Của Nguyễn Đức Tùng

 

Hơn một tuần qua trang Facebook Tung Nguyen lại rôm rả với bài “thơ tình thứ bảy” số 37 của anh.

 

 

EM CÒN TRẺ VÀ EM KHÔNG THỂ BIẾT

 

Em còn trẻ và em không thể biết

Người ta sống lại khi đã chết

Những người yêu nhau thường cách biệt

Những người ghét nhau ở bên nhau

Em còn trẻ và em không thể biết

Những cây cối bên đường cũng khổ đau

Khi chúng đứng một mình trong gió rét

Hay khi chúng chụm đầu chen chúc nhau

Em còn trẻ và em không thể biết

Lúc nào nên kết thúc lúc nào nên bắt đầu

 

NGUYỄN ĐỨC TÙNG

 

Bài này đăng trên Facebook ngày 03/03/2018. Cho đến khi tôi viết những dòng chữ này đã có 150 likes, 7 lượt chia sẻ, khá nhiều bình luận trong đó có 2 lời khen đắt giá từ 2 nhà lý luận phê bình nổi tiếng.

 

Văn Giá Ngô: Một bài thơ kiệm lời mà mở ra nhiều miền nghĩa...

 

Mai Văn Phấn: Hay lắm, bạn hiền Tung Nguyen

 

PGS/TS Ngô Văn Giá đã công khai công nhận đó là “một bài thơ”; ông Mai Văn Phấn tuy chỉ nói “Hay lắm bạn hiền Tùng Nguyễn” nhưng cũng ngầm công nhận đó là “một bài thơ” (hay). Còn lại tất cả những lời bình và likes khác - hoặc công khai hoặc ngấm ngầm – cũng đã công nhận đó là “một bài thơ”.

 

Riêng tôi, hôm nay được rảnh, tự nhiên hứng chí cho rằng “Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết của Nguyễn Đức Tùng không phải là thơ”.

 

Nói ngược ý với cả trăm người, quả thật, cũng hơi “ngán”. Nếu lỡ lọt về phía “sai lầm” thì né bên nào cũng dính đòn. Không biết phần chứng minh dưới đây có đủ sức thuyết phục để khỏi bị lãnh đòn không?

 

Nhưng lãnh đòn ở chốn văn chương cũng đâu có gì đáng sợ. Lại có cơ hội được mở mang kiến thức. Và lời tuyên bố ngược đời ấy biết đâu lại tạo nên một cuộc trao đổi về thơ lý thú.

 

Những “Bài Thơ” Không Phải Là THƠ

 

Có hai đặc tính để nhận ra một “Bài Thơ” không phải là Thơ:

 

1/ Nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, đến từ bề mặt của ý thức; tâm của tác giả chưa có cơ hội đối diện với, hoặc bước vào, khung cảnh của bài thơ.

 

hoặc là:

 

2/ Tác giả đã bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” nhưng chưa có những câu Sinh Tình.

 

Sau đây là một số thí dụ trong các bài viết cũ của tôi, nay tuyển chọn, sắp xếp lại để phù hợp với bài viết này.

 

1/

 

HÌNH VUÔNG

 

Muốn tìm chu vi hình vuông

Lấy cạnh nhân bốn lệ thường nhớ ghi

Diện tích hình vuông khó gì

Lấy cạnh nhân cạnh sai đi đường nào.

 

Môt ông thầy dạy toán nào đấy đã mượn thể thơ lục bát để diễn tả một công thức toán cho học trò dễ nhớ. Nội dung của 4 câu lục bát hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không có một chút cảm xúc nào. Đây không phải là thơ.

 

 

2/

 

Con ơi, muốn nên thân người,

Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.

Gái thì giữ việc trong nhà,

Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.

Trai thì đọc sách, ngâm thơ,

Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.

Mai sau nối được nghiệp nhà,

Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.

(Ca dao)

 

3/

 

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

(Ca dao)

 

Một nhà nho đã đem quan niệm về chữ hiếu của Khổng Tử dàn trải trong thơ lục bát để loan truyền trong dân gian. Đây chỉ là sản phẩm của lý trí, tâm chưa đối cảnh, không có cảm xúc, không thể gọi là thơ.

 

 

4/

 

KINH PHÁP CÚ

 

Không làm các việc ác

Tu tập các hạnh lành

Giữ tâm ý thanh tịnh

Là lời chư Phật dạy

 

Chỉ là lời chư Phật dạy, không cảm xúc.

 

5/

 

HÃY TIN CHÚA

 

Hãy tin nơi Thiên Chúa

Hồn xác dâng cho ngài

Hãy sống theo lời Chúa

Chết, sẽ về nước Trời

 

Đây chỉ là lời kêu gọi mọi người Hãy Tin Chúa, hoàn toàn đến từ bề mặt ý thức, là sản phẩm của lý trí, không có bóng dáng cảm xúc nên không thể gọi là thơ.

 

6/

 

HÃY MUA THUỐC SỐ 42

 

Ai khóc ngoài quan ải?

Ai chưa đánh đã chạy dài?

Thuốc này bôi một tý thôi

Là trèo lên ngựa vung roi cả ngày

Thuốc này, ôi thật là hay!

Thuốc này tên gọi là Xây Xập Zì (tiếng Hoa: 42)

 

Đây có vóc dáng là thơ nhưng chỉ là bài quảng cáo thuốc “chơi lâu” ở các tỉnh biên giới phía bắc. Nó là sản phẩm của óc thương mại, kinh doanh, không phải là những lời tâm tình, hàm chứa cảm xúc.

 

Trở Lại Với “Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết” Của Nguyễn Đức Tùng

 

Nguyễn Đức Tùng giải thích cho nhân vật “em” hiểu “vì còn trẻ nên có một số điều không thể biết”. Và sau đó anh liệt kê những điều đó với “em”. Có thể nói trong ECTVEKTB Nguyễn Đức Tùng chỉ dùng kiến thức của mình “nói lý lẽ” với nhân vật “em”. Tâm của anh còn chưa có cơ hội “đối cảnh” chứ đừng nói đến “sinh tình”.  

 

Bài ECTVEKTB của NĐT vì chỉ là sản phẩm của lý trí nên dù “mở ra nhiều miền nghĩa” và được nhiều người thích và khen ngợi,  vẫn không đạt được danh hiệu thơ mà phải xếp vào “thể loại khác”.

 

Kết Luận

 

Mức độ hiện diện của lý trí đóng vai trò quan trọng trong việc thẩm định giá trị nghệ thuật của một bài thơ. Càng ít lý trí, cảm xúc càng nhiều, bài thơ càng hay. Khi lý trí mất hẳn, cái tôi đích thực của thi sĩ được hồi sinh; những gì viết ra là tâm tình Chân Thật của một Con Người (viết hoa). Nếu kỹ thuật thơ đạt đến một trình độ nào đó, bài thơ sẽ có hồn.

 

Ngược lại, bài thơ càng nhiều lý trí thì càng “khô cứng”, càng dở. Nếu đến mức để lý trí độc quyền điều khiển ngôn ngữ, thế trận của “bài thơ” thì “bài thơ” đó sẽ không được gọi là thơ mà sẽ được xếp vào một “thể loại khác”. Đây là trường hợp của Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết của Nguyễn Đức Tùng.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com