Thứ Sáu, 16 tháng 6, 2017

LẠI BÀN VỀ KỊCH BẢN XẠO TRONG THƠ

                              

Bài viết Một Kịch Bản Thơ “Xạo” mới xuất xưởng được hơn nửa ngày thì tôi nhận được tin nhắn qua Messenger của cô giáo Diên Hồng Dương:

Anh Nhi Pham kết bạn em đi rồi đọc bài phản hồi ạ. Cảm ơn anh. Có gì đừng buồn nha.”

Chưa biết bài phản hồi mạnh bạo đến cỡ nào, nhưng đọc tin nhắn lịch sự dễ thương như thế tôi đã có cảm tình. Sau khi đọc bài Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ ‘Xạo’” của cô giáo, tôi càng có cảm tình hơn vì thái độ hiền dịu, lời lẽ nhẹ nhàng, nhã nhặn, và đặc biệt, một tấm lòng yêu mến văn chương tha thiết.
Vì thế tôi viết bài này không để tranh biện thắng thua mà chỉ để làm rõ một số khác biệt trong cách nhận xét, đánh giá thơ ca giữa cô giáo và tôi. Và dĩ nhiên kết luận sau cùng sẽ là của độc giả.

Sự Xuất Hiện Của Kịch Bản

Đã làm thơ, khi chữ nghĩa cùng với cảm xúc tuôn ra, chúng phải “chảy” về một hướng nào đó, bằng một “con kênh” nào đó. Con kênh có thể có trước, cũng có thể xuất hiện cùng thời điểm lúc chữ nghĩa và cảm xúc tuôn ra. (Trường hợp sau thì thơ dễ có hồn hơn). Trong thực tế, ít ai từ lúc cầm bút viết những chữ đầu tiên của bài thơ cho đến khi buông bút là có “đứa con tinh thần” chào đời. Có khi ngày hôm sau, tuần sau, nhiều trường hợp còn lâu hơn nữa, phải quay trở lại tiếp tục công việc đang bỏ dở. Lúc ấy, đoạn sau phải viết sao cho ăn khớp với đoạn trước và phải phù hợp với bức tranh toàn cảnh của bài thơ.

Có điều chắc chắn rằng khi bài thơ hoàn tất, cả thi sĩ và người đọc sẽ nhận ra – có thể độ hiển thị khác nhau - hình ảnh của con kênh đó. Đó chính là bố cục mà riêng tôi có khi gọi là thế trận chữ nghĩa, hoặc kịch bản của bài thơ.

Để bạn đọc mới tiện theo dõi, tôi xin lập lại một đoạn trong bài viết trước:

Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện. Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. 

Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là một người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy. Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được.
Nhưng đôi khi có những kịch bản bị xê dịch quá nhiều, đi đến chỗ không hợp tình, hợp lý. Độc giả sẽ cho rằng thi sĩ “xạo”, và bài thơ thất bại.

Một Số Trường Hợp Xạo Gần Giống Kịch Bản “Tình Yêu Không Lời”

 Bài Học Đầu Cho Con
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu?
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông

Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè

Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương có ai không nhớ...
(Đỗ Trung Quân)

Ngay ở đoạn đầu tác giả cho đứa bé hỏi mẹ 2 câu hỏi với giọng rất ngây thơ về một ý niệm khá trừu tượng: quê hương.

Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu?

và:

Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

Người đọc có thể nhận ra ngay là nhà trường đã cố nhồi nhét quá sớm cái ý niệm “khó hiểu, khó cảm” ấy vào đầu óc ngây thơ của đứa bé mà không thành công. Vì thế đứa bé về nhà hỏi mẹ và người mẹ đã được tác giả nhờ cậy giải thích ý niệm về Quê Hương cho đứa bé. Và bà đã giải thích rất hay, rất tuyệt. Dựa vào ngôn ngữ từ 2 câu hỏi tôi đoán đứa bé đang học một lớp nào đó ở bậc tiểu học. 

Như vậy lời giải thích của bà mẹ - rất hay, rất tuyệt ấy – có vẻ hơi cao, hơi xa so với tầm hiểu biết của đứa bé. Nhưng nhìn lại cái tựa bài thơ thì tôi giật nẩy mình. “Bài Học Đầu Cho Con” - có nghĩa là đứa bé mới học bài học đầu tiên, mới vào lớp vỡ lòng, còn thấp hơn mẫu giáo một bậc.

Ở tuổi ấy làm sao có thể đặt một câu hỏi “nặng ký” như thế được. Rõ ràng câu hỏi của đứa bé đã được tác giả ngụy tạo một cách khá vụng về, và câu trả lời - tuy bà mẹ có thể đang nhìn thẳng vào mắt con để nói - đâu phải để giải thích cho đứa bé ngây thơ máu thịt của mình mà tâm hồn của bà đang nghĩ đến, nhắm đến những đối tượng khác, với mục đích khác.

Thơ là tiếng lòng, tiếng thổn thức của con tim mà ngay từ những giây phút ban đầu, từ cái tựa của bài thơ thi sĩ đã cho lý trí  bước vào đạo diễn một kịch bản “ba xạo” thì thật là “không tâm lý” chút nào. Chắc người đọc có thể thấy ngay là cái tựa không thật đó đã kéo độ khả tín của bài thơ xuống gần mức Zero.  (Lời Bình Ngắn, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com) 

Chú thích:

Tôi xin phép được lên tiếng “ca” cố nhạc sĩ Giáp Văn Thạch một câu. Khi phổ nhạc ông đã sáng suốt và tài tình bỏ cái tựa Bài Học Đầu Cho Con và bỏ luôn đoạn thơ có 2 câu hỏi của một “cụ non” nào đó mà thi sĩ Đỗ Trung Quân đã nặn ra để lấy cớ đưa vào bài thơ những bức tranh quê tuyệt đẹp. Bản nhạc phổ thơ của ông - với cái tựa Quê Hương – nghe “đã” hơn bài thơ gốc nhiều. Tiếc rằng đoạn cuối “bị biên tập” nên có cái giọng xấc xược, bố láo làm bực mình rất đông người Việt hải ngoại.

Thư Cho Vợ Hiền

Nhạc sĩ Song Ngọc (trước năm 75) có sáng tác bản nhạc Thư Cho Vợ Hiền nói về tâm tình của một người lính VNCH – qua lá thư - gởi về người vợ ở một vùng quê xa xôi hẻo lánh. Nỗi nhớ thương rất thật của người chồng, người cha khiến nhiều khán thính giả thời đó mủi lòng thương cảm. Nhưng trong lúc “điều chỉnh” nội dung câu chuyện của bản nhạc, nhạc sĩ đã đi quá lố khi ông viết:

“Còn nhớ con mình ngày đó tháng chưa tròn anh đặt tên chúng mình. Giờ con biết đọc hay chưa? Hay nhắc tên ba hoài để em nhớ thương thêm.”

Ở miền Nam lúc ấy ngoài địa phương quân, nghĩa quân – trú đóng ở địa phương, gần nhà, việc về phép thăm gia đình khá dễ dàng – còn có những đơn vị chủ lực – vùng hoạt động rộng lớn hơn, phép tắc cho binh sĩ hạn chế hơn (vì xa xôi, đi lại khó khăn). Nhưng mỗi người lính, theo quy định, mỗi năm đều có phép thường niên – 7 ngày phép, 2 ngày đường. Ngoài ra, còn có phép thưởng, phép đặc biệt vào những dịp ốm đau, hiếu hỉ, tang chế trong gia đình. Cũng có khi vì chiến trận, hành quân, việc đi phép bị trì hoãn, nhưng sau đợt hành quân quyền lợi phép tắc của người lính lại được thực hiên.

Nhạc sĩ muốn kéo dài thời gian xa cách để nỗi nhớ thương thêm sâu nặng, bản nhạc thêm phần tha thiết. Nhưng từ lúc “tháng chưa tròn” cho đến khi “bìết đọc hay chưa?” dài khoảng 6, 7 năm – quá xa cách với thực tế. Ông đã mắc lỗi “xạo với khán thính giả” 

Nghe đến đoạn này một người bạn cùng đơn vị (với tôi) buột miệng nói đùa “Cũng may lão chỉ nói ‘biết đọc’ chứ nếu cũng vần ấy mà dùng chữ khác thì ‘bỏ mẹ’. Đúng là lão này muốn nâng bi chế độ mà nâng không khéo nên thành bóp dế.’”

(Lời Bình Ngắn, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com)

Cô DHD thấy đấy! Ngay cả những thi sĩ, nhạc sĩ nổi danh, nếu không cẩn thận, cũng mắc phải cái lỗi Xạo như nhà thơ Phạm Trung Dũng của chúng ta.

Về Bài Viết Của Diên Hồng Dương

Trở lại bài viết “Có Cái Gì Đó Sai Sai …” DHD, thể hiện chức năng cô giáo - chỉ ra rất nhiều điểm liên quan đến “kỹ thuật thơ” - đặc biệt trường hợp thi sĩ nói “khoa trương (thậm xưng)” không phải vì xạo mà vì thể hiện một biện pháp tu từ, một thủ pháp nghệ thuật nào đó.

khi sáng tạo nghệ thuật, người ta dùng các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, khoa trương ( thậm xưng), nói giảm, ước lệ, tượng trưng... để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật.

Sau đó DHD đặt câu hỏi:

 “Hà cớ gì anh Nhi lại xâm phạm quyền tự do sắp xếp bố cục cho bài thơ anh Phạm Trung Dũng rồi bình là thời gian và tình tiết không hợp lý, nói nặng hơn là xạo ? Anh có chủ quan quá không vậy?”

Và đưa ra nhận xét:

“trong mắt tôi thì anh có vẻ ác cảm với bài thơ của Phạm Trung Dũng và nhận xét có gì sai sai..về cách viết của nhà thơ lẫn cô giáo phê bình cho bài thơ”.

Trả Lời Câu Hỏi

Nhà thơ Phạm Trung Dũng, khi sáng tác Tình Yêu Không Lời, có toàn quyền sắp xếp bố cục bài thơ. Không ai, vì bất cứ lý do gì, có thể xía vào, xâm phạm cái quyền tự do ấy của anh. Nhưng khi bài thơ, bằng cách này hay cách khác, được ra mắt người đọc thì nó như một cô gái giữa chợ. Ông đi qua, bà đi lại đều có quyền ngắm nghía, buông lời bình phẩm. 

Cô giáo Diên Hồng Dương thích bài thơ và đã viết một bài bình với những lời khen đầy ưu ái. Đó là quyền của cô giáo. Đến lượt tôi đọc bài thơ thấy ý chính của kịch bản thơ không hợp tình hợp lý - đến mức có thể nói là xạo – viết mấy lời nhận xét thì đó cũng là quyền của tôi.

Nhưng nhận xét của tôi đâu đã phải là kết luận chung cuộc. Tác giả hoặc những người đọc khác, nếu không đồng ý, có thể thoải mái nhảy ra lên tiếng. Cô giáo DHD chất vấn tôi, cho là tôi “chủ quan quá” khi “xâm phạm quyền tự do sắp xếp bố cục của bài thơ” là cô đã hơi bị sai – không, phải nói là sai rất lớn – vì đã không nắm vững điểm sơ đẳng nhất nhưng là then chốt trong mối tương quan giữa Sáng Tác và Phê Bình.

Có Thủ Pháp Ẩn Dụ, Thậm Xưng, Ước Lệ, Tượng Trưng Trong Bài Thơ TYKL?

Theo cô giáo DHD thì trong khá nhiều trường hợp, nói quá lố, nói xạo trong thơ không những không thể bị chê trách mà còn đáng được tuyên dương vì đã sử dụng một biện pháp tu từ nào đó “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật.” Tôi hoàn toàn đồng ý với cô giáo về điểm này. Nhưng hình như cô giáo đã quên chỉ ra cái biện pháp tu từ nào đó được sử dụng trong bài thơ Tình Yêu Không Lời để chứng minh luận điểm của mình. Báo hại tôi đã phải đọc lại bài thơ một cách chậm rãi hai lần nữa đễ tìm giùm cô giáo. Nhưng đáng buồn là tôi đã phí công vô ích.

Tôi hoàn toàn không thấy bóng dáng của ẩn dụ, thậm xưng, ước lệ, tượng trưng … trong bài thơ. Tôi chỉ thấy đây là một bài thơ tự sự. Tác giả đã kể lại lớp lang mối tình lãng mạn của mình (đại danh từ Tôi) với cô gái câm điếc. Có điều khi tứ thơ đang tuôn chảy chàng đã vô tình để kịch bản của bài thơ xô lệch đến chỗ bất hợp tình hợp lý. 

Cũng như cô giáo, tôi ngưỡng mộ cái lãng mạn, dễ thương của tứ thơ trong Tình Yêu Không Lời. Nhưng khác với cô giáo, kịch bản thơ xạo, với tôi, là một lỗi rất nặng của thi sĩ, làm giảm giá trị của bài thơ rất nhiều – và trong trường hợp này, bài thơ không những thất bại thảm hại mà lại còn ít nhiều có tính xúc phạm vì đã xạo một cách trắng trợn, xem thường người đọc.

Với Bài Học Đầu Cho Con, chỉ cần thay cái tựa (như nhạc sĩ Giáp Văn Thạch đã làm khi phổ nhạc bài thơ) là bóng dáng của chữ Xạo biến mất và bài thơ trở thành những bức tranh thơ tuyệt đẹp. Với Thư Cho Vợ Hiền, chỉ cần thay chữ “đọc” bằng chữ “bò” hoặc quá lắm là chữ “chạy” thì chúng ta sẽ có một bản nhạc tình đằm thắm thiết tha.

Nhưng trường hợp Tình Yêu Không Lời thì khác. Nhà thơ Phạm Trung Dũng đã sử dụng gần như toàn bộ bài thơ (24 trên tổng số 26 câu) để tạo nên cái kịch bản xạo đó. Nó đã trở thành cái giá chống của bài thơ. Đụng đến cái giá chống đó bài thơ sẽ sụp đổ hoàn toàn.                                                               


 Về Nhận Xét Của Cô Giáo

Cô giáo viết:

trong mắt tôi thì anh có vẻ ác cảm với bài thơ của Phạm Trung Dũng và nhận xét có gì sai sai..về cách viết của nhà thơ lẫn cô giáo phê bình cho bài thơ”.

Tôi không biết nhà thơ Phạm Trung Dũng là ai và bài thơ Tình Yêu Không Lời tôi chỉ được đọc mới đây qua bài viết của cô giáo. Sau khi đọc bài thơ, nhận ra cái kịch bản xạo trắng trợn của nó, tôi không có chút ấn tượng và nghĩ sớm muộn gì nó sẽ đi vào quên lãng. Nhưng đọc lời bình rồi lại xem qua tiểu sử, học vấn và nghề nghiệp của cô giáo, tôi bắt đầu thấy … sợ. 

Một người có kiến thức rộng, được làm việc đúng chuyên môn lại hết lòng yêu thích văn chương như cô giáo mà lại lẫn lộn giữa sự giả trá bình thường và cách nói thậm xưng (khoa trương) đầy nghệ thuật, rồi đem “vòng nguyệt quế” trao cho Tinh Yêu Không Lời thì nguy hiểm quá. Càng nguy hiểm hơn nữa là cô giáo đã dùng khả năng diễn đạt và nhiệt tình của mình – qua bài bình - truyền cái sự lầm lẫn ấy cho lớp trẻ.

Đọc Một Kịch Bản Thơ “Xạo” của tôi trên FB, bạn Le Tran đã viết một bình luận như sau:

Đúng là một kịch bản thơ vụng về. Tác giả bài thơ cố ý gây 'bất ngờ" trong thi phẩm "cô gái câm" này nhưng hoàn toàn thất bại khi người đọc đã soi đôi mắt "chiếu yêu" vào câu chuyện tình. Cám ơn chú Nhi Pham đã vạch rõ chân tướng kỹ xảo 'đà đao' vô lối của bài thơ mà rất ít người đọc để ý.

Kết Luận

Khi cô giáo Diên Hồng Dương - người đã học ngữ văn tại Đại Học Sư Phạm TPHCM và giảng dạy tại CĐSP Tây Ninh – viết “Vậy nên tôi vẫn khẳng định Tình Yêu Không Lời là một bài thơ hay” tôi hiểu ngay đó không phải là lời phát biểu hời hợt, thiếu chín chắn. Cô đã có lý do, có chỗ dựa vững chắc nào đó, để tin như thế. Bởi vậy tôi xin dùng phần kết luận – cũng là mục đích của bài viết này - để nhắn với các bạn trẻ yêu thơ mấy lời tâm huyết.

 Tôi có đứa cháu họ lấy phải thằng chồng “nói dối như cuội” lại có tính trăng hoa, có lần dan díu với người đàn bà khác bị vợ bắt gặp. Nó tâm sự: Cháu chán lắm, muốn bỏ ngay lập tức nhưng lại sợ khổ lây đến con cái. Rồi còn tài sản, công việc làm ăn đang thuận lợi …, chia tay là đổ xuống sông, xuống biển hết.

Bỏ rơi một bài thơ dở không nhiêu khê và đau đớn như cắt đứt một cuộc tình. Nếu bạn có đủ kiến thức để nhận biết bài thơ mình đã một thời hết lòng yêu mến là bài thơ dở, hãy mạnh dạn “nghỉ chơi” với nó. Hãy dành chỗ trống trong tâm hồn – thường là có giới hạn - để chứa những bài thơ hay hơn, đẹp hơn, độc đáo hơn đang chờ bạn ở phía trước. Trình độ thưởng thức thơ của bạn qua mỗi lần “nghỉ chơi” như vậy sẽ được tăng tiến và tâm hồn bạn, nhờ thế, sẽ tự bay lên một tầm cao mới.

Phạm Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com


Phụ Lục


CÓ GÌ ĐÓ SAI SAI...TRONG BÀI PHÊ BÌNH " MỘT KỊCH BẢN THƠ " XẠO"
 _______________________________________
Hôm nay là sinh nhật con gái tôi. Đang post ảnh, tình cờ lướt qua face book đọc được một bài bình khá thú vị của nhà phê bình Phạm Nhi. Vấn đề là bàn đến bài thơ của nhà thơ Phạm Trung Dũng và có liên quan đến một phần bài bình thơ của tôi cho tác phẩm rất hay: " Tình yêu không lời". Tôi xin phép anh Phạm Nhi cho tôi góp vài lời nhận xét. Nếu có chi không hài lòng mong anh bỏ qua. Chúng ta cùng nhau xác định: góp ý là để tiến bộ cho việc cảm nhận văn chương trong sáng cả hai phía nhé! 

Thứ nhất, tôi rất thích cách nói thẳng suy nghĩ của anh thể hiện ở tựa đề: " Một kịch bản thơ xạo". Tựa đề rất hút độc giả nha. Nếu ai đi qua mà không dừng lại thì đúng là vô cảm. Nó buộc người đọc phải tò mò đi vào bài viết và phải đọc đến hết bài xem kịch bản nào xạo? Tại sao xạo ? Và xạo như vậy có hại ai không? Nhân nói chữ Xạo thì tôi cũng chợt nhớ Vũ Bằng. Ông có viết một quyển sách nói về nghề Văn và người viết Văn qua kinh nghiệm của mình: " Bốn mươi năm nói láo", không biết anh Phạm Nhi đã đọc quyển này chưa? Nếu nhìn chữ láo, hay xạo theo quan điểm của Vũ Bằng thì cũng không có gì quá đáng, bởi lẽ Vũ Bằng xem việc hư cấu trong nghệ thuật xét cho cùng là không giống y chang cuộc đời. Thường một tác phẩm nghê thuật có giá trị cao bao giờ nó cũng gợi cho bạn đọc suy nghĩ, liên tưởng và có một cái nhìn đẹp và mở rộng về cuộc sống. Cuộc sống vốn dĩ mang lại cho người ta sự đơn điệu về vòng quay của thời gian 24h, hết ngày này qua ngày khác, hay đơn điệu về không gian theo kiểu đùa" Vân Tiên cõng mẹ trở ra... rồi cõng mẹ trở vô...", quanh quẩn đến chóng mặt... nên khi sáng tạo nghệ thuật, người ta dùng các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, khoa trương ( thậm xưng), nói giảm, ước lệ, tượng trưng... để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết về nỗi nhớ có câu: 

" Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê" 

Ba thu làm sao dọn lại trong một ngày? Thời gian này là thời gian phi lý tính, thời gian của tâm trạng, lấy ý từ một câu trong Kinh Thi: " Nhất nhật bất kiến như tam thu hề". Hổng lẽ đọc Truyện Kiều đến đây, phán cho Nguyễn Du một câu là miêu tả xạo? Thơ vốn dĩ cô đọng, đâu cần phải nói chi tiết đến từng mi li mét để làm rõ tại sao tác giả viết thế này mà không viết thế kia cho logic. Câu chuyện trong thơ cũng vậy, đâu phải nhất nhất phải theo kịch bản thực tế. Câu chuyện là cái cớ để bộc lộ tâm tình. Nó có thể hợp lý, có thể phi lý và lãng mạn đến bất thường vẫn chấp nhận được vì nó là nghệ thuật chứ không phải đời thực. Xem tranh cách điệu hổng lẽ phán cho một câu: " Họa sĩ vẽ thiếu nét?"Xem một vở diễn trên sân khấu thấy diễn viên cầm cái roi mà bảo con ngựa không lẽ cho diễn viên bị tâm thần? Mọi sự quy ước nằm trong ý tưởng của nghệ thuật nhằm diễn tả một hiện thực cách điệu mang tính nhân văn đi kèm sắc thái biểu cảm có giá trị thẩm mỹ cao. 

Quay trở lại " Tình yêu không lời" của Phạm Trung Dũng, những vấn đề mà nhà phê bình Phạm Nhi thắc mắc tôi thấy anh quá chi li và cảm nhận quá đơn giản theo kiểu máy móc của Toán học, một cộng một phải luôn bằng hai. Đó là sự áp đặt xúc phạm đến sáng tạo cá nhân của nhà thơ Phạm Trung Dũng. Anh đã hiểu hết dụng ý người sáng tác chưa mà phán cho người ta là xạo? Bất kỳ ai khi họ viết một cái gì họ đều đủ trình độ phản biện những ai công kích họ. Tôi nghĩ về điều này nhà thơ Phạm Trung Dũng dư sức trả lời. Và cũng dễ trả lời bởi vì Phạm Trung Dũng rất giỏi về Lý luận văn chương. Hà cớ gì anh Nhi lại xâm phạm quyền tự do sắp xếp bố cục cho bài thơ anh Phạm Trung Dũng rồi bình là thời gian và tình tiết không hợp lý, nói nặng hơn là xạo ? Anh có chủ quan quá không vậy? Anh có nhớ một bài ca dao xưa: "lổ mũi em mười tám gánh lông..." không?
 Trên đời có cái lổ mũi nào như vậy không? Vậy mà thơ cũng có vậy. Chuyện yêu đương thi vị thì phải tạo cho chàng trai ở trọ cạnh nhà cô câm sự ngờ nghệch, trong sáng đến phi lý để dẫn đến tình yêu lãng mạn là một thủ pháp vẽ mây nẩy trăng thôi. Nói vòng vo để tạo chất kịch tính, để thoát ly cái quy trình đời thường là chuyện thường thôi mà...
 
Thứ hai, anh cho rằng tôi dũng cảm khi bình bài thơ xạo là anh lại sai. Tôi yêu cái chất nhân văn của tình yêu không lời và tôi bình. Tôi hoàn toàn biết đó là kịch bản nghệ thuật mà anh. Và có lẽ anh không hiểu được nỗi khổ của người câm nên anh cho rằng bài thơ giống như chuyện yêu đương bình thường, chỉ khác chút nhân vật cô gái bị câm. Tôi từng sống gần người câm một thời gian dài mà không biết họ câm. Tôi dạy ở nhà máy Việt Nam Mộc bài, gặp nhiều cô câm được nhận vào làm. Các cô chỉ cười không nói... đến lúc sau này gọi đứng lên phát biểu thì mới bật ngửa... Họ không có tình yêu vì đâu có ai yêu người câm, dù họ rất đẹp, lại siêng nữa... Nên khi đọc bài thơ, tôi xúc động ở tình cảm thánh thiện của chàng trai. Đưa một người ngố đến với một người câm, sự cách điệu nghệ thuật đã tạo ra một đôi lứa lý tưởng và hoàn hảo.
Vậy nên tôi vẫn khẳng định " Tình yêu không lời " là một bài thơ hay. Trong mắt anh Phạm Nhi có thể tôi bị sập hầm nhưng ngược lại trong mắt tôi thì anh có vẻ ác cảm với bài thơ của Phạm Trung Dũng và nhận xét có gì sai sai..về cách viết của nhà thơ lẫn cô giáo phê bình cho bài thơ " Tình yêu không lời". 
Cảm ơn anh Phạm Nhi đã giúp tôi nhớ lại một bài thơ hay.

Diên Hồng Dương


Thứ Hai, 12 tháng 6, 2017

MỘT KỊCH BẢN THƠ "XẠO"

                                             MỘT KỊCH BẢN THƠ “XẠO”

Kịch Bản Thơ

Có một số bài thơ ngắn, đơn giản, bày tỏ một “mảnh nhỏ” tâm trạng của tác giả trước một khung cảnh, một tình huống nào đó của cuộc sống. Nhưng cũng có những bài thơ dài hơn, bề thế hơn, nói về một “nỗi lòng” phức tạp hơn, nhiều tình tiết hơn. Lúc ấy, bài thơ sẽ như một vở kịch đời và thi sĩ sẽ vừa là biên kịch vừa là đạo diễn, diễn viên … tất tật. 

Vì là thơ nên tác giả sẽ dồn hết sự chú ý vào cảm xúc, những xao động của tâm hồn trước cảnh đời. Cảm xúc muốn có cơ hội phát triển, lớn mạnh cần nương theo dòng chảy của tứ thơ. Và tứ thơ muốn chảy đúng hướng cần phải dựa vào kịch bản của bài thơ. 

Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện. 

Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là một người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy. Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được. 

Chúng ta thử đọc đoạn kết bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:
            Đồn rằng đám cưới cô to
            Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
            Nhà gái ăn 
chín nghìn cau
            Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu 
chín nghìn
            Lang thang tôi dạm bán thuyền
            Có người giả 
chín quan tiền, lại thôi.

Tôi không tin là trong thực tế, con số chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn. Ở đây thủ pháp “bày tỏ, không kể lại” được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời. (1)

Chắc Độc giả cũng đồng ý với tôi sự xê dịch kịch bản chút ít của Giấc Mơ Anh Lái Đò là có thể chấp nhận được.



Nhưng đôi khi có những kịch bản bị xê dịch quá nhiều, đi đến chỗ không hợp tình, hợp lý. Độc giả sẽ cho rằng thi sĩ “xạo”, và bài thơ thất bại.

Xin mời độc giả đọc bài thơ Tình Yêu Không Lời của Phạm Trung Dũng sau đây.
TÌNH YÊU KHÔNG LỜI

Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái nhành tim tím sang nhà em chơi
Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu...

Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi
Lặng yên... Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ.
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao thì cháy hết mình vẫn trao.

Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?
Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy, em ngồi lặng im.
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm.
Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ.

Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi.
(Phạm Trung Dũng)

Thật Hay Xạo?

Lần theo tứ thơ tôi đoán khoảng thời gian từ lúc cô gái đến thuê trọ cạnh nhà chàng trai cho đến khi có cuộc ân ái giữa hai người, ít nhất cũng phải mấy tháng (mấy mùa cây khế trổ hoa) và chàng trai hái hoa sang nhà thăm cô, ngồi uống trà với cô cũng vài ba lần. Thử hỏi từng ấy thời gian, từng ấy cơ hội tiếp xúc mà chàng trai không nhận ra cô gái câm điếc thì thật lạ lùng.

 Rồi còn bà con lối xóm khác, ra vào trông thấy nhau hàng ngày, mà hàng mấy tháng trời, không ai nhận ra cái tật câm điếc của cô gái thì quả là “lạ hết chỗ nói”. Phải chờ đến khi hai người “tò tí” xong, đọc mẩu giấy nàng đưa, chàng trai mới biết được sự tình và ôm cô gái mà bàng hoàng thương cảm, thì thật không thể nào tin nổi.

Khi nhận ra chi tiết chính trong kịch bản của bài thơ không phải chỉ “không hợp tình hợp lý” mà còn xạo một cách trắng trợn, cảm xúc có được qua việc đọc thơ chỉ là thứ cảm xúc giả tạo, độc giả cảm thấy bẽ bàng vì bị xúc phạm. Bài thơ thất bại một cách ê chề.

Kết Luận:

Gặp bài thơ như thế mà dám cầm bút viết lời bình thì cô giáo Diên Hồng Dương (trường Cao Đẳng Sư Phạm Tây Ninh) quả là vô cùng can đảm. Người chuyển bài thơ và lời bình có đoạn giới thiệu rất bay bướm:

Nhiều người nói: “Phê bình nghệ thuật là cây Tầm Gửi sống nhờ cây Sáng Tạo. Tôi không nghĩ vậy. Theo tôi, phê bình nhiều lúc như gió nâng tác phẩm bay lên.”

Trường hợp Tình Yêu Không Lời thì khác. Bài thơ không những không bay lên mà còn kéo người bình thơ xuống hố.

Phạm Đức Nhì

Phụ Lục:

LỜI YÊU TRONG "TÌNH YÊU KHÔNG LỜI"

Lần đầu tiên đọc thơ anh, tôi may mắn gặp ngay đề tài mình thích. Đề tài này ít người viết, ấy vậy mà vẫn rất thơ trong cõi thiếu thơ.

"Tình yêu không lời” của nhà thơ Phạm Trung Dũng là một khúc hát đồng quê, gợi hương nồng nàn, tim tím màu hoa khế của một mối tình hy hữu. Ngay nhan đề “ Tình yêu không lời” đã có sức gợi, kích thích sự tò mò, khám phá của người đọc về một nét mới, cách nhìn mới trong thơ tình: Khoảng lặng ngôn ngữ tình yêu giữa trùng trùng những lời nói có cánh, những ồn ào, sến sẩm khi đôi lứa bày tỏ cảm xúc trái tim trong những cung bậc âm thanh thơ nhạc.

Giao thoa với tự sự, bài thơ kể lại một kỷ niệm đẹp - mối tình trong sáng và thuần khiết của một chàng trai với cô hàng xóm dễ thương. Nàng ấy xuất hiện với nét đẹp của một cô gái không lời. Chính cái không lời, e ấp ban đầu là sức hút kỳ lạ đưa hai tâm hồn nên thơ tiếp cận, hữu duyên.

Câu chuyện thơ vào đề gợi nhớ môtip mở đầu của bài thơ " Cô hàng xóm" của Nguyễn Bính: " Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn". Nhưng ở đây hoàn cảnh khác, không gian khác, và cách xưng hô cũng khác, chỉ có cái hồn chung thú vị là dư ba ngọt ngào ngàn đời trong cách phối thanh của luật thơ lục bát:
" Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái chùm tim tím sang nhà em chơi"

Em và tôi, tuy gần mà xa. Không gian đâu có ngăn cách vậy mà trong " tôi" có cảm nhận giữa hai người là hai thế giới. Em chân quê, quen thuộc với hương mộc mạc của đồng nội ướp trong hơi thở của gió làm " tôi" ngất ngây. Nhưng em thu mình lại trong một khoảnh trời. Và "tôi " chỉ cảm nhận được em qua hơi thở xa xôi, mang máng, mát lành như cơn gió chợt đến, chợt đi... rất mơ hồ ! Câu thơ " Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa" là câu thơ đẹp và lạ, minh chứng cho nguồn thơ lục bát của tác giả dồi dào. Đồng thời cho thấy thể thơ lục bát tuy cổ điển, nhưng vẫn mênh mông khoảng trời sáng tạo cho nhiều cung bậc cảm xúc của người đương đại.

Thơ Phạm Trung Dũng rất cô đọng. Chỉ mới đọc khổ đầu, độc giả đã có thể mở ra trong suy tưởng những hình ảnh, những ý tình sâu sắc. Tình yêu là chuyện muôn đời nhưng nói về tình yêu, mỗi nhà thơ có điểm tựa riêng. Phạm Trung Dũng chọn điểm tựa mộc mạc, chân quê, gắn với mạch nguồn của dân tộc nhưng hồn thơ sắc sảo và hiện đại. Hình ảnh cây khế mấy mùa trổ hoa và "hái chùm tim tím" làm cớ sang chơi nhà nàng vừa cụ thể nhưng vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nó không chỉ gợi nhắc, khái quát tâm lý mà dân gian đúc kết: " giả đò mua khế bán chanh...", mà còn cho thấy thời gian "em" đến thuê trọ vẫn chưa quá lâu: "Chanh chua thì khế cũng chua/ Chanh chỉ một mùa, khế có cả ba". Tâm lý của tình yêu thường bắt đầu bằng sự rụt rè. Tác giả cũng không ngoại lệ. Anh đã tạo một lực nén cho câu thơ và sức nén đó khiến người đọc thấy thú vị khi tiếp cận thơ Phạm Trung Dũng.
Bài thơ dẫn người đọc đi vào câu chuyện một cách tự nhiên, lời kể liền mạch theo cấu trúc lục bát:
" Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im.
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu.”

Những từ : " hào phóng", " thông thái" hoàn toàn là ngôn ngữ thành thị kết hợp với những cụm từ bình dị "pha trà rót nước", "nằm im trong đầu" rất hài hòa, có chút ngộ nghĩnh, phóng túng trong cách diễn đạt. Thế mà hay, cái hay của một hồn thơ không câu nệ, cũng không cần màu mè trang nhã để thi vị hóa tình yêu. Bản chất tình yêu vốn đẹp. Và trong tình yêu, con người càng chân thật thì càng đẹp bởi cái đẹp là sự gắn kết hài hoà của Chân- thiện - mỹ. Điều thú vị chính là: trong cách diễn đạt tự nhiên vẫn tồn tại những ánh trăng lung linh huyền ảo, ẩn sâu nhiều điều không lời. Người đọc rất thích lối ví von: " hồn tôi như mảnh trăng chìm". Hình tượng "mảnh trăng chìm " đẹp mong manh và tạo cảm giác " chới với" khi đắm mình trong biển tình. Còn hơn bị sét đánh. Nó khiến trái tim hoảng loạn đến nỗi mất luôn ngôn ngữ, mất sự thông thái. Và có lẽ chính sự im lặng đã tạo nên mối đồng cảm cho tình yêu của em? Câu chuyện tình dễ thương cứ hút người đọc. Và tiếp tục hấp dẫn cho đến khi tình huống bất ngờ xẩy ra trong không gian đặc nén, mọi việc tưởng như bế tắc: 

"Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi"

Hành động quá bất ngờ. Không chỉ nhân vật "anh" trong bài thơ, mà người đọc cũng thấy vậy. Cái tình cảm bùng lên như lửa rơm ấy liệu có bền được không? Sẽ dẫn đến đâu? Người con gái ấy sao hành động khác lạ vậy? Tình yêu và tình dục đôi khi rất khó phân biệt ranh giới. Nó vừa bản năng vừa lý trí; vừa thánh thiện vừa hoang dại. Tác giả đã mô tả khéo léo quy luật phát triển tâm lý cái phần "người" và phần "con" trong những câu thơ tiếp:

"Lặng yên. Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao dẫu cháy hết mình vẫn trao". 

Thơ mà cứ như tiểu thuyết! Rất hấp dẫn trong lối kể, cách tả. Tác giả dắt người đọc đi vào chuyện tình bằng những rung động hồn nhiên, chân thực và cuốn hút mạnh. Nếu cách đây một thế kỷ mà viết như vậy thế nào cũng bị người đời đóng cho con dấu: " Dâm thư". Nhưng đến thời điểm này mà kể chuyện yêu chỉ như vậy thì quá trong sáng, tế nhị. Cách diễn đạt đẹp, vừa cổ điển, vừa hiện đại. Tác giả không tả những hình ảnh cụ thể mang vẻ đẹp nhục cảm của em mà người đọc cảm nhận em rất đẹp trong bài thơ rất đời, rất người qua các hình ảnh gợi rất sâu: " làn môi khóa chặt làn môi", " bồng bềnh...", "sông mê- bến lú- thuyền tình", " cháy hết mình"... Dường như ở đây có một chút " lạc trôi" trên sông mê, bến lú mất rồi...

Tôi thích câu : “ Đã trao dẫu cháy hết mình vẫn trao" bởi nó mang ngữ điệu của một tính cách quyết liệt. Tình yêu thật sự là cháy bỏng, đam mê, trao dâng và bất chấp, dẫu biết thuyền tình chông chênh, đầy trắc trở trên bến lú sông mê nhưng nếu không cháy, không phiêu hết mình, có lẽ đó chỉ là nửa vời, sống không thật lòng với chính mình và với người yêu. Có thể bản năng con người khi yêu phải vậy, nhưng không hẳn, ai sống trong bản năng cũng biết cháy đúng nghĩa. Nhận phần “cháy” cho mình, quả là yêu đương thật mãnh liệt!
Sau cơn mưa tình ái, một khoảng lặng vô thanh xuất hiện. Cái nhu cầu được trao đổi bằng ngôn từ để sẻ chia, gắn kết trở nên hết sức cần thiết. Thế mà, chờ đợi mãi, em vẫn im lặng. Im lặng đến khó hiểu:
"Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?"
Hai chữ "người ơi" chưa hẳn đã là trách móc, hờn dỗi. Nhưng khao khát đợi chờ được nghe, được xác tín thì đã rõ. Thật bất ngờ:
"Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy em ngồi lặng im
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm".

Bốn câu thơ chỉ 28 chữ mà chứa bao tâm trạng, cảm xúc như những đợt sóng ngầm trong tâm hồn hai trái tim yêu. Nó dẫn dắt người đọc từ cực này sang cực khác. Chưa kịp hiểu vì sao "em" khóc, lại phải đặt câu hỏi trong mẩu giấy ấy nàng viết gì mà chàng trai buồn đến vậy? Chẳng lẽ không có tình yêu? Chàng trai vừa khát khao được nghe "em" nói đến cháy lòng, đã chuyển sang khẳng định: "Lời vô nghĩa hết!". Sự diễn biến tâm lý mang đầy kịch tính: Thắt - mở, mở - thắt, được đẩy lên tới cao trào trước một sự thật nghiệt ngã, bất ngờ:

"Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ".

"Tình yêu không lời" đã được lý giải, nhưng không dừng lại ở nhục cảm tầm thường. Hai câu vĩ thanh mới là điểm nhấn, thông điệp chính của bài thơ, giống như tiếng đàn Thạch Sanh vang lên hóa giải sự ngăn cách giữa tình yêu của người không lời và người nói được mà phải nghẹn lời bằng hai câu thơ đẹp và đằm sâu:

"Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi".

Hình ảnh “Trần nhà cánh nhện buông tơ” vừa ước lệ, tượng trưng vừa phác họa một bức tranh tả thực của không gian tĩnh lặng. Cảm xúc tình yêu dâng lên tuyệt đỉnh trong giờ phút giao hoan là nước mắt. Tôi yêu những giọt nước mắt hạnh phúc của sự cho và nhận. Động từ "ghì" được tác giả sử dụng đúng chỗ, đúng thời điểm, vì vậy nó có sức lan toả, truyền cảm, tạo nên điểm sáng mang tính hài hoà, đồng điệu giữa tình yêu và lòng nhân ái. 

Bằng chất liệu lục bát, ngôn từ giản dị mà tinh tế, "Tình yêu không lời" của nhà thơ Phạm Trung Dũng đã gửi đến người đọc một thông điệp đầy tính nhân văn, mở cho ta một góc nhìn sâu trong cuộc sống. Giữa vô vàn những cuộc tình có hương hoa sắc lá, có tiếng chim mê đắm của vườn xuân thánh thót, ta vẫn bắt gặp những tình yêu lạ và đẹp. Trong cái lặng thầm của thế giới không lời là cả một bầu trời vô ngôn đầy ắp thương yêu.

Diên Hồng Dương



Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

ĐỨNG TRƯỚC "CĂN PHÒNG BÍ MẬT" CỦA TRẦN HẠ VI

                        
                                                                                            
Tôi đã chọn và đưa Căn Phòng Bí Mật của Trần Hạ Vi vào danh sách những bài thơ sẽ bình từ khá lâu. Những lúc rảnh rang hoặc đầu óc trống vắng tôi lại đem bài thơ ra nhâm nhi, nghiền ngẫm. Tôi cũng mường tượng một vài bài viết khác – liên quan đến thơ - lấy ý tứ của CPBM làm điểm tựa. Có thể nói đây là bài thơ “làm phiền” tôi nhiều nhất. Có độ tôi đã “ăn ngủ” với nó cả mấy ngày liên tiếp để cố gắng tìm ra thế trận hợp lý, có hiệu quả cho bài bình của mình. Nhưng rồi vẫn thấy chưa vừa ý – duyên chưa đến - nên lại cho qua.

Hôm nay, ngồi ở sau nhà thả hồn theo những đám mây bay rồi lẩm nhẩm đọc lại CPBM, chợt thấy cái duyên ngầm của nó, bèn hứng chí chạy vào nhà mở máy gõ mấy lời bình để mời bạn đọc cùng bước vào một góc của thế giới thơ Trần Hạ Vi.

CĂN PHÒNG BÍ MẬT

Có những điều sẽ chẳng nói ra

cho dù chúng ta

có yêu nhau đến thế nào chăng nữa

mấy ngàn ngày.
..
và có thể mấy vạn ngày tiếp lửa

chuyện anh

chuyện em

vẫn ẩn chứa bí mật của mỗi người


Có những góc tối ở trong hồn

của riêng ta

không bao giờ chia sẻ

chẳng phải vì niềm tin không vẹn vẽ

nhưng vì đó là căn phòng bí mật

chẳng nên mở bao giờ


Con yêu tinh ngày xưa có một yêu cầu đơn sơ

cô gái sẽ sống mãi trong bạc vàng nhung gấm

chỉ đừng bao giờ mở cánh cửa cấm

ai cũng cần một góc nhỏ cho riêng mình (1)


Chúng ta ân ân ái ái

tan chảy ân tình

nhưng mỗi người chỉ có thể là riêng một

một anh

một em

dù ngọt ngào chung hưởng

đắng cay chia sớt

nhưng em là em

và anh vẫn là anh


Phòng chứa bí mật của phù thủy vẫn sẵn dành (2)

để chúng ta cất giữ những ước mơ ngông cuồng hoang dại nhất

tình yêu này sẽ luôn luôn có thật

khi em được là em

và anh được là anh

với căn phòng bé nhỏ của riêng mình.


27.08.2016/THV
#thotranhavi

(1) Truyện cổ tích
(2) Harry Potter và phòng chứa bí mật

Thơ Hay Là Vè?

CPBM bàn đến một đề tài rất lớn và khó hiểu (a). Dùng thơ để mô tả, chuyển tải một ý niệm trừu tượng, nặng tính triết học, rất dễ đi đến chỗ khô khan, làm người đọc chán ngán. Nếu không khéo “thơ” sẽ biến thành vè một cách dễ dàng. Bởi vậy, việc đầu tiên phải chẩn đoán xem nó có vượt qua được cửa ải “vè” chưa? Nếu chưa thì đành xếp bút, đưa bài thơ khác lên bàn mổ chứ ai lại đi bình một bài vè. 

Cũng may, Trần Hạ Vi đã tạo ra một khung cảnh thơ hợp lý. Đọc hết bài thơ tôi có cảm tưởng chị đang tâm sự với người yêu của mình lúc được yêu cầu trải tất tật lòng ra với nhau khi đã thực sự yêu. Chị không đồng ý và lời lẽ phản đối của chị nhẹ nhàng nhưng quyết liệt. Ở đây tâm đã đối cảnh và đã có cảm xúc, đã là thơ.

Tứ Thơ

Bài thơ không có phép ẩn dụ toàn bài nên tứ với ý là một: Tác giả dùng hình ảnh “căn phòng bí mật” để nói đến những góc tối trong tâm hồn không thể sẻ chia dù với người thân yêu nhất.
Thụy Khuê, khi bàn về trường phái Siêu Thực, cũng có nhắc đến CPBM, nhưng với cái tên thật của nó.

“Freud chia hoạt động tâm thần làm ba khu vực: Vùng vô thức tức là cái đó (le ça trong tiếng Pháp, Es tiếng Đức) chứa đựng toàn bộ những nhu cầu bản năng bị dồn nén, cấm kỵ không được phát lộ ra ngoài. Vùng ý thức tức cái tôi (le moi, ego), hay ý thức xã hội, cái tôi xã hội, chứa đựng những gì đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội, sẵn sàng trình làng. Và cái siêu ngã (le sur moi) có trách nhiệm kiểm duyệt.

Theo Freud, cái vô thức mới là bộ mặt thật, là cái tôi đích thực của con người. Nó chi phối mọi hoạt động. Còn cái tôi ý thức chỉ là bộ mặt bề ngoài, giả dối và ngụy tạo.”(b)

Nhưng cái tôi ý thức – mà trong một vài bài khác tôi gọi là cái tôi văn hóa - mới chính là cuộc sống thực tế của con người. Con người tương tác, giao tiếp với nhau hoàn toàn bằng cái tôi văn hóa. Cái tôi đích thực bị “cầm tù” trong vùng vô thức mà Trần Hạ Vi gọi là CPBM. 

Nếu vì một lý do gì đó CPBM bị bung khóa, những góc tối của tâm hồn lộ ra giữa thanh thiên bạch nhật, thì con người sẽ không còn niềm tin vì nhìn đâu cũng thấy dối trá, lừa lọc. Lúc ấy vô số thần tượng sẽ sụp đổ, trật tự sẽ đảo lộn, xã hội sẽ rối loạn. 

Con buôn gian dối thì không nói làm gì, vì đó là “chuyện thường ngày” của họ. Nhưng các bậc mô phạm mặt cũng khắc đầy những chữ “xạo” to tổ bố. Các đấng Quân Vương của thời đại mới - Tổng Thống, Chủ Tịch Nước, Thủ Tướng - “xạo” thì cũng thường tình, vì có thế họ mới có thể mị dân, giữ ngai vàng, giữ ghế. 

Nhưng ngay cả những vị chức sắc cao nhất của các tôn giáo – khi “những ước mơ ngông cuồng hoang dại nhất” từ “những góc tối của tâm hồn” lúc còn thơ trẻ hiển hiện trước mắt người đời – ít ra, chắc cũng sẽ ngượng ngùng cúi mặt. 

Kỹ Thuật Thơ

    1/ Thể Thơ: tác giả viết theo thể thơ mới, số chữ trong câu tùy tiện, không theo một nguyên tắc bó buộc nào.

    2/ Vần Và Dòng Chảy Của Tứ Thơ: vần liên tiếp, khá đều đặn, nhưng không có hội chứng nhàm chán vần. Có lẽ do có vài chỗ thoát vận và nhịp điệu khác lạ nhờ những cụm từ:
          a/ chuyện anh/ chuyện em (đoạn 1)
          b/ một anh/ một em,  nhưng em là em/ và anh vẫn là anh (đoạn 4)
          c/ khi em được là em/ và anh được là anh (đoạn 5)

Dòng chảy của tứ thơ trơn tru, nhẹ nhàng, thoải mái.

    3/ Ngôn Ngữ Thơ: tương đối đẹp, có một số hình tượng khá độc đáo:

cho dù chúng ta
có yêu nhau đến thế nào chăng nữa
mấy ngàn ngày...
và có thể mấy vạn ngày tiếp lửa

Cụm từ “tiếp lửa” lạ và hay

Có những góc tối ở trong hồn

của riêng ta

không bao giờ chia sẻ

chẳng phải vì niềm tin không vẹn vẽ

Tĩnh từ “vẹn vẽ” vừa rất “bắc kỳ” vừa đắt.


Chúng ta ân ân ái ái

tan chảy ân tình

là câu thơ có sức “gợi”mạnh, rất hợp với khung cảnh đoạn thơ.


    4/ Thế Trận: hợp lý, hoàn thành nhiệm vụ chuyển tải tứ thơ.

Cảm Xúc:

    1/ Tầng 1: người đọc thả tâm trí theo dòng chảy của tứ thơ, có cảm tình với cái đẹp văn chương (ngôn ngữ, hình tuợng) và mới chỉ khám phá được một phần ý tứ của tác giả nên cảm xúc nếu có, cũng không nhiều.

    2/ Tầng 2: ở cuối bài, khi thế trận của chữ nghĩa đã phát huy hiệu quả, tác giả đã dồn hết sức mạnh của tình yêu và lời thơ của mình vào đoạn cuối, bài thơ đã được đẩy đến cao trào với rất nhiều cảm xúc.

    3/ Tầng 3: hồn thơ không có.

Sự Trùng Lặp Hay Một Cách Nhấn Mạnh Khéo Léo.

Ở lần đọc bài thơ đầu tiên tôi có cảm giác tác giả đã phạm một lỗi lớn: ý tưởng trùng lặp quá nhiều. Bài thơ có 5 đoạn mà đoạn nào tác giả cũng - bằng cách này hay cách khác - cắt nghĩa, giải thích vai trò của CPBM đối với con người.

Đến khi đọc hết bài rồi lại đọc thêm vài lần nữa tôi mới nhận ra dụng ý của sự lập đi lập lại ấy. THV đã lỡ “yêu” phải một tứ thơ quá cứng. Trước năm 1975, ở lớp cao nhất của bậc trung học (Đệ Nhất) học sinh mới bắt đầu làm quen với Triết Học trong đó Vô Thức là một ý niệm khó nhai và khó nuốt nhất. 

Sau đó nếu không học Văn Khoa hoặc Đại Học Sư Phạm Văn, ngay cả những người học thức, khi bàn đến “những góc tối của tâm hồn” cũng không ai dám nhận là đã hiểu đến nơi đến chốn. 

Tôi có cảm tưởng chị đã mời 5 “tay búa” tập trung đập vào một khoảnh nhỏ trên bức tường ngăn cách giữa thi sĩ và người đọc. Chỉ có một khoảnh tường nhỏ nhưng 5 tay búa thì, từ vóc dáng đến cách quai búa, mỗi người một vẻ khác nhau. 

Và với 2 nhát búa mạnh mẽ sau cùng, bức tường ngăn cách đã ngã đổ và chị đã tuôn ra được những điều đáng nói nhất với người yêu của mình: Căn phòng bí mật là nơi “cất giữ những ước mơ ngông cuồng hoang dại nhất”


“tình yêu này sẽ luôn luôn có thật...
khi em được là em
và anh được là anh
với căn phòng bé nhỏ của riêng mình

Chị muốn nói với người yêu bằng tất cả sự tự tin và tình yêu tha thiết từ trái tim:
“Chỉ khi cánh cửa CPBM luôn đóng kín thì – không phải lo cái tôi đích thực của mình bị lộ ra - em được là em và anh được là anh (trong bộ áo của cái tôi văn hóa) - vâng, chỉ lúc ấy tình yêu mới trở thành hiện thực và có cơ đứng vững.”

Độc giả không cảm thấy chán ngán dù phải gặp hình tượng CPBM đến mấy lần là vì thế. Và chức năng truyền thông của bài thơ, có thể nói, đã thành công.

Nhận Xét Chung Cuộc

Trước khi bình bài thơ này của THV, theo thói quen, tôi đã đọc hầu hết thơ của chị trên FB. Chị cũng gởi cho tôi một số những bài thơ tuyển mà chị rất tâm đắc. Không hiểu sao tôi lại chọn CPBM. Một thằng bạn cũ cũng chơi FB, khi được hỏi ý kiến đã phán “Mày tinh mắt đấy! Bài này trội nhất. Những bài khác (của THV) không sai phạm chỗ này cũng sơ xuất chỗ kia.” Tôi chỉ dám nhận là mình may mắn, đã “phải lòng” một bài thơ không tệ.

Có thể nói CPBM khá tròn trịa, “đẹp” ở nhiều mặt. Tứ thơ hay, biểu lộ cái nhìn sâu sắc của tác giả về con người, cuộc sống. 

Kỹ thuật thơ khá vững. Cách sử dụng vần khéo léo, đúng liều lượng, tạo vị ngọt vừa phải, giúp dòng chảy của ý tưởng, cảm xúc suôn sẻ, không có những mô gò làm người đọc khựng lại, mất hứng. 

Thế trận hơi lạ nhưng rất hiệu quả, dẫn đến đoạn kết đầy ấn tượng. Nhờ vậy cảm xúc ở tầng hai khá mạnh, đặc biệt ở hai đoạn cuối. Tuy vậy, chưa thấy xuất hiện hồn thơ.

Kết Luận

Trần Hạ Vi đã đứng về phía đại đa số những người ủng hộ lối sống Phương Tây. Đó là lối sống rất nhiều nước trên thế giới đã chấp nhận hoặc đang học hỏi để “bắt chước”. 

Nhưng cũng có nhiều triết gia ở chính Phương Tây cho rằng lối sống ấy đã làm cho con người “vong thân” (đánh mất chính mình) (c), làm nô lệ cho một “kẻ xa lạ” (d) đang chiếm hữu thân xác mình vì đã để cái tôi văn hóa che khuất cái tôi đích thực. 

Dĩ nhiên mỗi người có quyền có quan niệm sống riêng của mình. Qua CPBM, Trần Hạ Vi đã ra sức biểu dương cái tôi văn hóa. Và theo tôi - bằng kỹ thuật thơ và nhiệt tình cháy bỏng - chị đã làm rất đông người đọc mỉm cười mãn nguyện vì cảm thấy và tin rằng sự lựa chọn của mình là đúng.

CHÚ THÍCH:

   a/ Tôi không biết tác giả “mượn” hình tượng Căn Phòng Bí Mật từ đâu - từ Harry Potter, từ một truyện cổ tích nào đó, hay từ trải nghiệm rút ra trong quá trình đọc của mình? Ở đây tôi không làm công việc truy tìm nguồn gốc ý tưởng mà chỉ “bàn” một chút về khả năng đưa ý tưởng ấy vào thơ.
   b/ (http://thuykhue.free.fr/stt/s/breton.html)
  
c/ Jean Paul Sartre.
   d/ Albert Camus

Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com





Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2017

LỤC BÁT




Lục bát, cho đến khi tôi viết những dòng chữ này, có thể nói, là thể thơ “trẻ mãi không già”, rất thích hợp để chuyển tải tâm trạng, cảm xúc nhẹ nhàng nhưng thâm thúy, ý nhị. Non tay, thi sĩ sẽ đẻ ra những bài lục bát nếu không à ơi như vè thì cũng tẻ nhạt, không gây chút ấn tượng nào cho người đọc. Nhưng bên cạnh vô số những bài lục bát nhạt nhẽo, mờ nhạt lặng lẽ đi vào quên lãng ấy thỉnh thoảng vẫn có những bài xuất sắc. 

Nhờ đặc tính “trẻ mãi không già” đó, lục bát, dù được xếp vào loại thể thơ truyền thống, không bị chi phối bởi luật đào thải trong tiến trình vận động của thi ca.



Lục bát sử dụng cả yêu vận lẫn cước vận nên nếu bài thơ hơi dài (khoảng trên 20 câu) mà tình tiết không liên tục hấp dẫn thì đọc sẽ … ngán. Với thơ lục bát hội chứng nhàm chán vần luôn luôn rình rập, sơ hở một tý là “ầu ơ” ngay.



Gặp thơ lục bát tôi thường đọc lớn để nghe độ ngân, độ vang vọng của nhạc trong thơ. Nếu nhạc đơn điệu, tẻ nhạt mà tứ thơ không đặc sắc, tình tiết không lôi cuốn thì cho qua. 

Nếu bài lục bát ngắn, nên đọc chậm để khám phá ý tứ thâm trầm, sâu lắng. Nếu bài thơ trung bình (khoảng 20 câu) mà đọc hết cũng chưa thấy ngán thì nên đọc lại. Bài thơ chắc chắn có “cái gì đó” đặc biệt - hoặc là tứ thơ hay, tình tiết hấp dẫn, hoặc là cảm xúc dạt dào, nóng bỏng. 

Nếu bài lục bát quá dài thì khoảng từ câu thứ 20 trở đi, giọng ầu ơ đã xuất hiện, càng về cuối đọc càng ngán.

Nên tránh 2 cách gieo vần sau đây:

1/ Vần Ngang Câu Bát

ĐỜI

Đắng cay này gửi vào thơ
Để đêm chia bóng, ngày chờ ước 
Tằm ơi! Sao chẳng nhả 
Cho ta vá lại hồn thơ nát nhàu!
(Trần Trọng Giá, FB Lục Bát Việt Nam)

Đây là bài thơ mà câu bát của cặp đầu tiên có chữ thứ 6 và chữ thứ 8 ăn vần với nhau (vần ngang câu bát) (chờ). Tôi không nghĩ là tác giả chủ ý tạo cặp vần này. Nó tuôn ra theo dòng chảy của tứ thơ và vì “không phạm luật” nên ngài không để ý. Rồi chữ “chờ” vần với chữ “thơ” ở câu lục trên, chữ “” vần với chữ “” ở câu lục kế tiếp và dính líu, dây nhợ với chữ “thơ” ở câu bát dưới.

 Hậu quả là độc giả phải nghe âm điệu của một chuỗi 5 chữ (thơ chờ mơ tơ thơ) từ 4 câu thơ liên tiếp trùng vần – mà lại toàn là chính vận mới đáng sợ. Vần quá ngọt. Có một tô chè mà nêm đến mấy lạng đường, ngọt lợ đến gắt cổ.

 

 2/ Vần Quẩn

Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: Trong Thánh trạch dồi 
dào,

Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
Bình thành công đức bấy lâu,
Ai ai cũng đội trên đầu xiết 
bao
Ngẫm từ gây việc binh 
đao
Đống xương Vô định đã 
cao bằng đầu.
Làm chi để tiếng về sau
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng 
Sào!
Sao bằng lộc trọng quyền 
cao
Công danh ai dứt lối 
nào cho qua?    

(2488- 2498)

 

Đây là loại vần “đi dăm phút đã về chốn cũ” - mới đổi qua vần khác một lần đã quay lại vần cũ. Trong 14 câu Kiều ở trên Nguyễn Du đã phạm lỗi vần quẩn rất nặng – quay đi quẩn lại đến 3 lần. Đọc lên là ngán ngẩm.

 

Tóm lại, lục bát, do hình thức của thể thơ, có độ ngọt rất cao. Bài thơ có hội chứng nhàm chán vần hay không? Câu trả lời sẽ cho phép người bình thơ nâng hoặc giảm giá trị bài thơ một cách đáng kể.





Thứ Bảy, 3 tháng 6, 2017

THƠ ĐƯỜNG LUẬT


Đường luật thất ngôn bát cú là một thể thơ có nhiều nguyên tắc khắt khe; vần đối niêm luật với những trói buộc của nó khiến thi sĩ luôn phải xoay ngang trở dọc đối phó nên ít có cơ hội chăm chút cho phần cảm xúc, hồn thơ. Dĩ nhiên, năm thì mười họa cũng có những bài thơ hay, nhưng ngay cả những bài thơ hay đó cũng có vẻ khô cứng so với thơ đương đại.


Giờ đây Nàng Thơ đã có bộ mặt mới. Các thi sĩ đã cố công tìm tòi, thể nghiệm nhiều thể thơ “mới”, sao cho vừa giữ được vị ngọt của thơ ca, vừa cởi trói cho người làm thơ khỏi những luật lệ quá khắt khe, gò bó. Đâu là thể thơ tối ưu của thi ca đương đại? Công cuộc chọn lựa, tranh cãi còn chưa ngã ngũ. Nhưng chắc chắn đã có rất nhiều thể thơ, ở mức độ khác nhau, cho phép người làm thơ thời nay được thoải mái hơn, tự do hơn, thể hiện tứ thơ của mình, và nhờ đó, có thể dễ dàng đưa cảm xúc của mình, thả tâm hồn của mình vào thơ.


Thơ Đường luật bỗng trở thành cô gái lỡ thì, thân hình khô cứng lại kênh kiệu, khó tính, bị những chàng trai trẻ ngoảnh mặt làm ngơ. Họ nhìn về hướng khác để tìm những cô gái đang xuân, vóc dáng, trang phục hợp thời hơn, hấp dẫn hơn, tính tình cởi mở hơn, gần gũi hơn với cái “gu” thẩm mỹ của thời đại mới.


Đối với những vị chuộng thơ Đường luật, đã “quen” với thơ Đường luật, thích thù tạc xướng họa thơ Đường luật, thì chẳng việc gì mà phải từ bỏ cái thú vui tao nhã ấy. Xin cứ tiếp tục làm thơ để góp cho đời những bông hoa tươi đẹp. Xin cứ tiếp tục đọc thơ Đường luật để thưởng thức những cảm nghĩ, những rung động nhẹ nhàng, thanh thoát của người xưa.


Những quý vị làm thơ Đường luật, theo tôi, như võ sĩ lên võ đài, rất ương ngạnh và oai hùng, chấp nhận chịu trói cả 2 tay, 2 chân để đấu với đối thủ. Khi bị bươu đầu sứt trán, hoặc nằm thẳng cẳng đo ván thì (dù không nói ra) thường cho là tại bị gò bó, trói buộc. Những quý vị đó quên rằng chính họ đã tình nguyện lên võ đài với tư thế ấy.


Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2017

CHỌN THỂ THƠ

                  

Làm thơ, có người chuyên về một thể loại, thí dụ lục bát. Có người thể thơ nào cũng “thử” một đôi bài nhưng khi cao hứng gặp được tứ thơ hay thì sẽ chọn thể thơ mình thích nhất. Đọc thơ, tôi thường nghe những câu đại loại như “Tạng tôi không hợp với thơ ‘ông này’ mà gần với thơ ‘bà kia’ hơn.”

Khi mới tập làm thơ thầy giáo dạy Việt Văn, khi được hỏi ý kiến nên chọn thể thơ nào, đã cho tôi lời khuyên: “Thấy thích, hợp thể thơ nào thì cứ chọn thể thơ đó; có thích, có tự tin thì làm thơ mới hay. Hơn nữa, đó là quyền tự do của thi sĩ”. Sau này góp nhặt thông tin từ các bài bình thơ, các cuộc tranh luận về thơ, cộng với kinh nghiệm làm thơ của chính mình tôi đi đến kết luận:

Trên trang thơ của mình, đồng ý, thi sĩ là vua, có toàn quyền quyết định mọi thứ, nhưng đối với thể thơ, nếu cứ lẽo đẽo ở phía sau, không vươn lên cùng thời đại thì chính thi sĩ sẽ không được hưởng cái thoải mái tự do khi phóng bút mà bài thơ khi xuất xưởng sẽ bị giới thưởng ngoạn nhìn với đôi mắt thiếu thiện cảm.

Chọn thể thơ nên lưu ý một số điểm sau:

1/ Số chữ trong câu có thể tùy tiện, thoải mái, không bị luật lệ bó buộc.

2/ Không bị hội chứng nhàm chán vần nhưng cũng nên có vần thoang thoảng, tạo vị ngọt thơ ca vừa phải.

3/ Nếu bài thơ hơi dài, tránh thể thơ trường thiên vì tứ thơ sẽ bị phân mảnh, đứt đoạn, chọn cách gieo vần để bài thơ nhất khí, liền mạch.

4/ Đường Luật rất gò bó; song thất lục bát sẽ “giúp” bài thơ chết sớm; lục bát là con dao hai lưỡi: coi chừng thành vè hoặc “ầu ơ”; thơ mới vần liên tiếp dễ “ầu ơ”; thơ mới trường thiên: tứ thơ phân mảnh, đứt đoạn, nếu trên 4 đoạn cũng dễ “ầu ơ”; thơ kiểu văn xuôi không vần: trúc trắc, khó đọc, tứ thơ gập ghềnh, khi đọc lý trí phải làm việc cật lực, mất cơ hội để tâm hồn giao cảm