Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2016

TRÁI TIM RAO BÁN - BÀI THƠ ĐẦY BẢN SẮC

                       

        

Gặp Tác Giả Trên Facebook

  Tôi đua đòi chơi trò viết lách đã khá lâu. Mấy bài thơ con cóc, tạp bút, bình thơ - nhờ internet - được bạn đọc chuyển đi khắp bốn phương trời Á Âu Mỹ Úc. Nhưng với Facebook thì tôi là anh lính mới tò te, như người chơi cờ “chưa sạch nước cản”. Có người bạn văn nhắn “Anh cứ vào trang FB của tôi là có đủ”. Tôi không biết trang FB của bạn nằm ở đâu và làm sao vào được nên lặng lẽ tảng lờ. Tôi tự mò mẫm nên cả mấy tháng trời quay đi quẩn lại cũng chỉ có mấy người bạn lèo tèo.
Một tối tình cờ trên trang facebook của mình, dưới tiêu đề People You May Know (những người bạn có thể biết) thấy khuôn mặt một phụ nữ đeo kính cận trông rất hiền và buồn tôi có cảm tình ngay, bấm vào “mutual friends” (bạn chung) thấy có tên một người quen, tôi mừng quá đưa mũi tên vào Add Friend (thêm bạn) bấm mạnh rồi hồi hộp chờ đợi.

Ngay tối đó Đinh Thị Thu Vân chấp nhận lời mời kết nối và chúng tôi trở thành bạn FB. Sau khi giới thiệu tên tuổi, chỗ ở, nghề nghiệp, gia đình … bằng “bút đàm” qua phương tiện nhắn tin, tôi, vì lớn hơn mấy tuổi, được chị gọi là anh xưng em rất ngọt. Một buổi sáng cuối tuần thấy chị xuất hiện trên fb tôi xáp vô tán chuyện. Tôi nhớ có hỏi chị một câu vô duyên hết biết:
“Thế em viết văn hay làm thơ hả Vân?”

“Thì anh vào trang fb của em đi” Chị (chắc đang cau mày) nhưng vẫn lịch sự trả lời.
Tôi quê một cục lặn mất. Hôm sau tôi mang laptop vô phòng con gái nhờ chỉ cách vô trang fb của cô ĐTTV đeo kiếng. Có lẽ nhờ “thông minh vốn sẵn tính trời” nên con nhỏ chỉ một, hai thao tác là tôi “bắt” được ngay. Trò chuyện với chị bằng tin nhắn vài lần tôi đâm “ghiền” vì chị rất lanh lợi, nhạy bén. Dù nội dung tin nhắn liên quan đến thơ hay chỉ là chuyện đời thường chữ nghĩa của chị dùng cũng rất gọn, chính xác, tượng hình, nhiều màu sắc … nghĩa là rất thơ. Và từ đó tôi với chị – nếu gặp nhau trên fb – thường tán chuyện thơ và đủ chuyện trên trời dưới đất

Cái Tôi Văn Hóa Của Nhà Thơ
Năm đầu đại học tôi yêu một cô gái người miền nam, gia đình nề nếp. Một buổi chiều, được cho phép đi chơi, lúc chỉ có riêng hai đứa trong vườn trái cây ở Lái Thiêu, tôi bắt chước Kim Trọng trong Kiều của Nguyễn Du:

Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
thì được nàng nghiêm khắc ngăn lại. Sau này viết về kỷ niệm đó tôi có bài thơ trong có 4 câu:

Còn nhớ không? Có lần anh lấn tới

Cũng một buổi chiều, em vẽ một lằn ranh

Đây là biên giới

Đừng bao giờ vượt quá nghe anh!

Lần này gặp ĐTTV tôi cũng bị “sao quả tạ” chiếu. Mặc dầu tôi với chị đã quá cái tuổi “thuận nhĩ”, hai người lại ở hai đầu trái đất, cách nhau mấy chục ngàn cây số nhưng chị cũng không ngần ngại “vạch đường biên giới” mỗi khi lời lẽ của tôi có vẻ vượt quá lằn ranh.

 Nhớ đến câu thơ của chị

làm sao cho em vài tích tắc
vài tích tắc thôi mà
vài tích tắc
vùi thương trên vai xa...
(Nhớ)

tôi đem bờ vai của mình ra ngỏ ý “cho mượn” thì chị lờ đi. Đến khi tôi đùa “Số anh lận đận; có bờ vai (rất êm ái) cho em mượn mà cũng bị từ chối” thì chị trả lời “Dựa bờ vai không phải của mình mà khóc có thể cũng sẽ bớt buồn nhưng khi bờ vai đi mất thì nỗi buồn càng lớn hơn, càng sâu hơn. Khóc trên vai người yêu thì mới là đẹp nhất, và phải là người có thể yêu lâu dài sâu đậm, chứ lớt phớt thì ai lại khóc.”

Rồi chị nói tiếp “Em là người cầu toàn. Trong tình yêu thì ‘hoặc là tất cả hoặc không có gì’” (all or nothing). Biết tôi sắp về Việt nam và trên đường đến Cần Thơ thăm bạn muốn ghé Tân An, chị vui vẻ trả lời “Em sẽ nghỉ việc ở nhà để đón tiếp anh.” Nhưng khi tôi hỏi “Nhà em có gần sông không? Buổi chiều đi dạo dọc bờ sông nghe thơ hoặc nói chuyện thơ cũng hay lắm chứ, phải không?” Chị từ chối nhưng bằng lời lẽ rất nhẹ nhàng: “Hình ảnh anh đang dệt đẹp lắm. Nhưng em không quen với những lãng mạn kiểu này đâu!”  Sau này đọc và tìm hiểu thêm tiểu sử và thơ của chị tôi đi đến kết luận “Với cách ứng xử như vậy nhà thơ đã vô tình xây trước cửa trái tim mình một bức tường dầy - rồi sẽ mỏi mòn nằm ôm trái tim rạn nứt đó để thưởng thức cái thú đau thương của kẻ lụy tình.”   

Đọc Thơ Đinh Thị Thu Vân
Đọc mấy bài thơ chị gởi qua mail, cộng với thơ của chị đăng đều đặn trên Facebook và rất nhiều trang mạng tôi nhận ra ngay chị đang ôm một khối tình sầu rất nặng. Tôi có ấn tượng sâu sắc với Chiều Cuối Năm 2015 qua lần đọc đầu tiên:

     CHIỀU CUỐI NĂM 2015
chiều nay tôi muốn đi hoang quá
xé vụn mình ra để nhạt nhoà
chiều nay tôi muốn men hồn gió
tung đời tan tác phía mây xa

chiều nay tôi khóc tôi tàn tạ
tôi khóc tình yêu vỡ đắp bồi
chiều nay hoa mảnh phai vào lá
tôi xoá bao giờ cho hết tôi?
(Trong tập thơ Đừng Trôi Nữa Tình Yêu Mang Phận Cỏ)

Lời thơ đẹp quá! Hình ảnh lung linh quá! Nỗi buồn thống thiết làm người đọc cũng muốn vỡ tim theo. Và để bài thơ đẹp hơn nữa, tôi đã có đề nghị như sau:
“Ở đoạn đầu em nên thay “chiều nay” bằng 2 chữ khác để “gói” cả đoạn thơ lại làm một. Hai câu in nghiêng ở đoạn sau không “ăn” với 2 câu dưới – mà 2 câu dưới thì “tuyệt cú mèo”. Em có thể viết lại 2 câu in nghiêng được không?
Chị trả lời:

“Những nhắc nhở của anh em đã cảm thấy nhưng chưa chắc lắm. Giờ thì xác định được rồi, em rất cảm ơn. Biết là rất khó nhưng em sẽ tập trung vì anh nói đúng quá””

Để có đủ tự tin viết những dòng chữ này tôi lên mạng đọc thêm mấy chục bài thơ nữa. Thơ của chị những năm sau này hình như bài nào cũng buồn, bài nào cũng phủ một màu tím ngắt. Trong số những bài thơ đậm nước mắt ấy tôi chọn được một bài để viết lời bình. Tôi thích Trái Tim Rao Bán (1) vì nó là bài thơ tương đối mới. Hình thức mới. Tứ thơ là tâm trạng của người phụ nữ “đau tình” – cũng là tâm trạng thật của chị trong cuộc sống. Hơn nữa, tuy là bài thơ ngắn, TTRB lại có rất nhiều chỗ cho người phê bình mổ xẻ phân tích để làm rõ một số điểm quan trọng liên quan kỹ thuật, nghệ thuật thơ.

Trái Tim Rao Bán
có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán


một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau - niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán

một ngày
mõi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!

chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh...


Hình Thức
Mới liếc mắt nhìn bài thơ tôi đã có cảm tình với hình thức, vóc dáng của nó. Không dính dáng gì đến các thể thơ truyền thống. Ngay cả thơ mới nó cũng khác xa. Số chữ trong câu thay đổi tùy thích, thoải mái, số câu trong bài không lệ thưộc bất cứ một quy luật nào - viết hết ý thì thôi.

Riêng việc sử dụng vần thì, theo tôi, rất đặc biệt. Tác giả, qua mấy đoạn đầu, không gieo vần nhưng dòng thơ vẫn lững lờ chảy. Và độc giả tò mò theo dòng chảy đó để tìm biết lý do tại sao “một ngày nào đó nàng sẽ rao bán trái tim mình”. Chỉ đến đoạn kết nàng mới đưa vào một chút “vị ngọt của thi ca”, cho 3 nhóm chữ “một chút tình” đi kế tiếp nhau vần với câu cuối “cho bớt chông chênh”.

Điệp ngữ rất khéo, vần chỉ thoang thoảng nhưng âm vang thì không chê vào đâu được. Tôi có cảm tưởng đang nghe đoạn cuối một bản nhạc buồn cung Thứ mà dòng nhạc vừa bước qua hợp âm Trưởng bậc 5 để trở về Chủ Âm tạo một giai kết hoàn toàn rất ngọt. Nhạc điệu của đoạn thơ thật tuyệt vời.
Tứ Thơ

Không có ẩn dụ toàn bài nên tứ cũng là ý: tác giả lên tiếng báo là sẽ rao bán trái tim mình rồi hé mở cho biết lý do, và sau cùng là giá cả - rất đặc biệt.

Ngôn Ngữ Thơ
Lời thơ bình dị, dễ hiểu, những cụm từ mù khơi hạnh phúc, biền biệt tình yêu, mỏi mòn trong ảo vọng đã diễn đạt thành công một cách xuất sắc tâm ý của tác giả mà không phải dài dòng biện giải, từ chông chênh tượng hình và đắc địa về cả nghĩa lẫn âm.

Cấu Trúc Thơ
Thế trận chữ nghĩa tương đối mạch lạc, hợp lý, chức năng truyền thông thành công.

 Cảm Xúc
Dòng chảy của tứ thơ rất chậm. Người đọc có thời gian để hiểu, cảm nhận cái lý do khiến tác giả phải rao bán trái tim mình:

mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu

mỏi mòn trong ảo vọng

có vẻ như 3 nhưng thật ra là một. Mù khơi hạnh phúcmỏi mòn trong ảo vọng chỉ là hệ quả tất yếu của tình trạng biền biệt tình yêu. Khi đã thấm, đã đồng cảm với nỗi đau, nỗi buồn và tâm trạng khao khát tình yêu thì dòng thơ lại dẫn người đọc đến một bất ngờ đến độ sững sờ: “bảng giá” của Trái Tim Rao Bán:
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!

chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!

một chút tình
cho bớt chông chênh...


Điều kiện mua bán thật dễ dàng: chỉ là một chút tình, dẫu là thương hại.
Đọc mấy đoạn trên độc giả có thể mường tượng tác giả đang khao khát tình yêu nhưng mức độ khao khát thì chưa biết rõ. Đến khi thấy “bảng giá” của trái tim rao bán thì độc giả mới giật mình nhận ra. Thiếu tình yêu khiến chị mất thăng bằng trong cuộc sống – như một ngôi nhà chông chênh có thể ngã đổ bất cứ lúc nào. Cho nên chị khao khát lắm, khao khát đến điên cuồng, cháy bỏng tâm can, khao khát đến độ sẵn sàng dâng hiến trái tim cho người đem đến một chút tình, dẫu là thương hại.  
Đã có sự đồng cảm trọn vẹn của người đọc thơ với người làm thơ. Thủ pháp Show, Not Tell (2) – cho riêng cường độ của sự khao khát - đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ.   

Tại sao một người có lối sống nề nếp, nghiêm túc đến từng chi tiết như ĐTTV lại đi rao bán trái tim một cách “khờ dại” như vậy. Tôi xin phép được hơi dài dòng để giải thích hiện tượng có vẻ trái nghịch giữa nhân cách của tác giả và tứ thơ.
Lan Man Về Cái Tôi

Để có thể hội nhập và thích ứng với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều. Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có hai cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: cái tôi đích thực và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là cái tôi văn hóa. Tuổi đời càng cao cái tôi văn hóa càng mạnh, càng rõ nét và cái tôi đích thực càng yếu kém, mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia. Lúc ấy, nói như Jean Paul Sartre (3) thì con người là một “kẻ vong thân” (đánh mất chính mình). Còn nói như Albert Camus (3) thì con người đích thực đã bất lực - để một “kẻ xa lạ” đến chiếm hữu thân xác mình.
……………………..

Khi thi sĩ thật cao hứng, lên cơn điên vì yêu, hận (giận), vui sướng, buồn bã, ghen ghét, ham muốn cảm xúc sẽ sôi lên phủ mờ lý trí, “cái tôi đích thực” sẽ vùng dậy đẩy “cái tôi văn hóa” vào bóng tối để dành quyền “đạo diễn” bài thơ của mình. Thi phẩm viết ra trong tâm cảnh ấy sẽ chẳng màng đến chính kiến, lập trường, truyền thống, đạo đức, lễ giáo, thước đo giá trị của người đời … mà chỉ là những gì tuôn trào ra ngòi bút bởi “cơn điên” của thi sĩ đang thôi thúc trong lòng. Lúc ấy kỹ thuật thơ vẫn mang dáng dấp đẳng cấp của thi sĩ nhưng lời thơ, tứ thơ – không còn bị chi phối bởi cái tôi văn hóa - sẽ là tâm tình chân thật của “cái tôi đích thực”. (4) Vâng! Đó là trường hợp của bài thơ Trái Tim Rao Bán.

Khuyết Điểm Của Bài Thơ
Bài thơ có một lỗi chính tả (mỏi dấu hỏi, không phải dấu ngã) và vài chữ có thể bỏ đi cho câu thơ gọn, chắc và hay hơn. Bỏ chữ rồi (dòng 11), chữ đem và chữ đi (dòng 15), và chữ để (dòng 18). Đây là những lỗi nhỏ do bất cẩn, không ảnh hưởng đến sự chuyển động của tứ thơ.

 Hương Hoa Còn Đọng Lại
Tóm lại, dù Trái Tim Rao Bán chưa phải là toàn bích (những lỗi kỹ thuật không đáng có) nhưng trong số thơ của ĐTTV mà tôi đọc được, tôi thích nó nhất. Tứ thơ nhân bản – nhấn mạnh đến sự quan trọng của tình yêu, nhu cầu thiết yếu của con người; hình thức thơ phóng khoáng, cho phép tác giả được thoải mái, tự do phóng bút; điệp ngữ khéo, kết hợp với vần tạo âm vang tuyệt vời cho đoạn kết; thủ pháp Show, Not Tell điêu luyện, chỉ cần nhìn “bảng giá” của trái tim rao bán người đọc sẽ cảm nhận được nỗi khao khát tình yêu đến cháy bỏng tâm can của tác giả và – qua liên tưởng - sẽ “thấm” và thông cảm nỗi bất hạnh to lớn của nàng. Đặc biệt là cảm xúc thơ, hồn thơ nằm sâu dưới những con chữ, đến cuối bài mới trỗi dậy khuấy động làm người đọc cũng thấy lòng mình xiêu vẹo, chông chênh.  

Trình Diện Nhân Cách Trong Thơ?  
Tên khác của cái tôi văn hóa là nhân cách. Có nhân cách cao đẹp và nhân cách thấp hèn. Nhìn vào uy tín, cách sống của ĐTTV có thể nói cái tôi văn hóa của chị là một nhân cách cao đẹp. Tôi xin phép được không đồng ý với nhà thơ Luân Hoán khi ông nói: “nhà thơ (ĐTTV) (5) bày tỏ lòng mình như trình diện một nhân cách.” (6)

Chắc chắn trong thơ, không ít thì nhiều, cũng ẩn chứa nhân cách của thi sĩ. Và thi sĩ làm thơ lúc chưa thực sự cao hứng, chưa thực sự “lên cơn điên”, cảm xúc dâng lên chưa đủ cao, đủ mạnh để phủ mờ lý trí, lúc đầu óc còn tỉnh táo, tai còn thính, có thể nghe được từ chỗ sâu kín nào đó trong tâm hồn, tiếng mời gọi, lời dụ dỗ làm chuyện không đẹp, không xứng với danh vị Nhà Thơ – sẽ vô tình hay cố ý khoe khoang thái quá hoặc đánh bóng nhân cách của mình, nhiều lúc bằng cả những thủ thuật thiếu lương thiện. Vì thế làm thơ, theo tôi, mà “bày tỏ lòng mình như trình diện một nhân cách” thì sẽ … giết chết thơ. Nguyên cái ý nghĩ “trình diện nhân cách” đã làm người đọc mường tượng ra những câu thơ ngả nghiêng xiêu vẹo. Thì cứ bày tỏ lòng mình chân thật đi. Nhân Cách (viết hoa) của cái tôi đích thực sẽ kín đáo bước vào trong thơ và người đọc tinh ý sẽ nhận ra ngay, đâu cần phải trình diện.

Trái Tim Rao Bán độc đáo ở chỗ nó là một bài thơ “phi văn hóa”, “vô nhân cách”. Nỗi cô đơn, nỗi đau tình của ĐTTV mênh mông quá, lòng khao khát tình yêu của chị dâng cao quá nên chị đã nổi điên lên được, đã đạp đổ nhân cách của mình được, vùng thoát khỏi cái tôi văn hóa, phóng bút cống hiến cho đời một thi phẩm thấm đẫm hồn thơ.

Xin Chúc Mừng Và Cảm Ơn Nhà Thơ Đinh Thị Thu Vân
Cái tôi văn hóa cũng là con người nhưng tim đã khô cứng bởi những quy luật, cung cách ứng xử của xã hội văn minh; họ rất hòa nhã, lễ phép, lịch sự nhưng rất “lạnh”, đang dần dà biến thành những người máy vô cảm. Cho nên Thi Sĩ, nếu may mắn sáng tác được một bài thơ Có Hồn có nghĩa là Ngài đã ban cho nhân loại một ân huệ lớn, tặng họ một công cụ để học nói thứ tiếng Chân Thật (viết hoa) của con người. (7) Theo tôi, nhà thơ Đinh Thị Thu Vân với Trái Tim Rao Bán đã làm được việc đó. Nhân danh một con người trong cộng đồng nhân loại – yêu thơ – xin chúc mừng và cảm ơn Nhà Thơ.

Kết Luận
Khi tôi viết những dòng chữ này ĐTTV đã không còn trẻ nữa nhưng khuôn mặt chị vẫn lanh lợi, nhiều nữ tính, giọng nói nam bộ vẫn ngọt ngào, dáng người vẫn nhẹ nhàng thanh thoát, và trái tim vẫn tha thiết nồng nàn. Đọc thơ chị và qua trao đổi tâm tình tôi đã viết bài thơ có đoạn:

Người đời biết 

và anh cũng biết

cây vườn em đang héo úa khô cằn

qua những vần thơ

em thổ lộ:

Mong một trận mưa cho cây lại tươi xanh

(Xin Đừng Vô Tình Xua Mây Đi, PĐN, chưa phổ biến)

Theo tôi, chị quan tâm đến việc giữ gìn, bảo vệ cái tôi văn hóa cao đẹp của mình quá kỹ nên nhiều khi vô tình làm nản lòng, “chùn cánh” những đám mây muốn bay đến tụ hội để làm mưa. Cá nhân tôi rất mong nhà thơ mà tôi yêu mến sớm có thêm một cái tên thân yêu để đề tặng những bài thơ của mình (mượn ý của Luân Hoán). Nếu mưa đến kịp thời thì “cây vườn em” sẽ lại tươi xanh một thời gian khá dài nữa. Cuộc đời sẽ có thêm hai người hạnh phúc và thế giới thi ca sẽ có thêm nhiều bài thơ chan chứa thương yêu.

Phạm Đức Nhì


phamnhibinhtho.blogspot.com

CHÚ THÍCH:

1/ Đừng Trôi Nữa Tình Yêu Mang Phận Cỏ, Đinh Thị Thu Vân, NXB Hội Nhà Văn, 2015

2/ Bày tỏ, không kể lại – Không kể (tóm tắt) mà cung cấp những sự kiện (facts) như lời nói, cảm giác, ý tưởng, cảm xúc, hành động để người đọc tự hình dung ra câu chuyện.

3/ Đều là đại diện của Chủ Nghĩa Hiện Sinh

    Tác phẩm tiêu biểu:

     Jean Paul Sartre:  La Nausée (Buồn Nôn)

     Albert Camus: L’Étranger (Kẻ Xa Lạ)

4/ Một Cách Nhìn Khác Về Vai Trò Của Vần Trong Thơ, Phạm Đức Nhì, t-van.net

5/ Chữ của PĐN thêm vào

6/ Dòng Thất Tình Ca Bất Tận Trong Thơ Đinh Thị Thu Vân, Hà Khánh Quân (Luân Hoán), Facebook Đinh Thị Thu Vân

7/ Hồn Thơ Nơi Người Được Làm Người, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com

 

 

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016

BÀN THÊM VỀ THƠ THÁI BÁ TÂN


                      BÀN THÊM VỀ THƠ THÁI BÁ TÂN

 

Đọc Thơ Thái Bá Tân

 Mấy năm gần đây thỉnh thoảng bạn bè bốn phương lại gởi cho – có khi một bài, có khi vài bài – thơ của Thái Bá Tân, với hình của tác giả đã quá cái tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” (sinh 1949) nhưng vẫn còn quắc thước, tinh anh, có vẻ đạo mạo của một thầy giáo già đáng kính. Là một người làm thơ và thỉnh thoảng cũng bình thơ tôi nhận ra ngay cái nét sắc sảo trong lời thơ của nhà giáo về hưu này. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào nội dung và khả năng về ngôn ngữ thơ để tán dương mạnh miệng như lời khen từ những người chuyển thơ (và một số người “bình thơ” ông sau này) thì tôi thấy không được “ổn” lắm.
Nhưng vào thời điểm ấy mỗi bài thơ của ông đều nhắm đúng vào một yếu huyệt của chế độ mà “nắn bóp” và được cư dân mạng cùng đám đông “thấp cổ bé miệng” hết lòng hưởng ứng, cổ vũ. Trong cái không khí như vậy mà xía vào nói chuyện về kỹ thuật thơ, về thế trận chữ nghĩa, hồn thơ … rồi lại khen chỗ này, chê chỗ kia thì có nước đưa đầu ra lãnh cà chua, trứng thối. Thế nên tôi đành nhắm mắt bước qua, tìm đến những đề tài khác, hẹn thầm trong lòng sẽ trở lại nói chuyện thơ Thái Bá Tân khi hoàn cảnh thích hợp. 

 Thế rồi tình cờ đọc được bài Thái Bá Tân Và Những Vần Thơ 5 Chữ của Mặc Lâm (RFA) thấy có vài điểm hơi khác với với cách nhìn của mình tôi đã định lên tiếng nhưng vì “vào mùa làm ăn” bận rộn nên lại thôi. Và thơ Thái Bá Tân với tôi lúc ấy lại được gác qua một bên.
Sau khi viết lời bình cho 3 bài thơ phản kháng (Tạ Lỗi Trường Sơn, Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc và Bánh Vẽ) và sau đó là bài So Sánh Ba Bài Thơ Phản Kháng (t-van.net) tôi nhận được khá nhiều ý kiến khen chê trong đó có vài emails trách “Sao không đưa những bài thơ của Thái Bá Tân vào danh sách Những Bài Thơ Phản Kháng?”

Để có thể trả lời bạn đọc một cách thỏa đáng tôi mày mò tìm đọc lại thơ Thái Bá Tân. Không ngờ vào Internet đụng ngay Đôi Lời, tác giả viết để trả lời một số người gán cho ông cái tiếng “nâng bi bác Trọng và chế độ”. Ngay sau đó có mấy bài tranh biện của Võ Văn Tạo, Nguyên Đại, Đỗ Trường, An Chiến … và một bài có tính tổng hợp của Mặc Lâm có tựa Hiện Tượng Thái Bá Tân.
Tôi xin đưa Đôi Lời – nguyên nhân của “lời qua tiếng lại” – vào bài viết để bạn đọc dễ thông cảm hoàn cảnh và tâm tình của nhà thơ được rất nhiều người yêu mến. Còn những bài tranh biện như:

Đôi Lời Cùng Bác Thái Bá Tân – Võ Văn Tạo
Về “Đôi Lời” Của Ông Thái Bá Tân – Nguyên Đại

Thái Bá Tân – Không Thể Sống Trong Im Lặng - Đỗ Trường
Về Nguyên Nhân Khiến “Người Đốt Đền” Thái Bá Tân Thay Đổi – An Chiến

và khá nhiều bài khác nữa, độc giả nếu muốn, có thể tìm đọc trên Internet. Riêng Ghi Nhận (thơ) và Cải Chính (văn) sẽ được xếp vào phần Phụ Lục ở cuối bài.

Đôi lời

Bực mình một bác vừa rồi bảo tôi nâng bi bác Trọng và chế độ.
Nói rõ thế này nhé.


Cuộc sống đa dạng, con người cũng đa dạng, không ai, không cái gì xấu cả hoặc tốt cả. Cách đánh giá cũng da dạng như vậy. Bất chấp nguy hiểm cho bản thân, tôi lên tiếng phản biện, có khi nặng lời. Nhưng cái gì tôi tin là đúng thì tôi khen. Chưa nói chuyện đúng sai, nhưng đó là quan điểm và quyền của tôi. Không đồng ý thì thôi, sao phải thóa mạ? Nhiều bác lề trái đôi khi nói thái quá, tôi đọc đấy, biết đấy và im lặng. Đó là thái độ tôn trọng người khác.
Nhân tiện:


1. Tôi tin bác Trọng là người liêm khiết. Làm quan thời bây giờ như thế là tốt lắm rồi. Còn có cái này cái nọ thì lại chuyện khác.

2. Tôi tin lãnh đạo ta không bán nước cho Tàu.

3. Bất chấp tham nhũng và sự bất tài của một số lãnh đạo, tôi tin đất nước ta sẽ phát triển về kinh tế, và dần dần sẽ đổi mới hơn nữa và tiến bộ hơn về chính trị. Hình ảnh “chìm tàu” tôi nhắc đến chỉ là một kiểu phúng dụ, nói quá, của văn chương. Mà ta đã tiến bộ và đổi mới lắm rồi đấy.

4. Tôi tin con người Việt Nam ta về cơ bản vẫn tốt chứ không hoàn toàn u ám như nhiều bác mô tả.

5. Tôi không thích cộng sản, nhưng vẫn ghi nhận, thậm chí biết ơn những gì chế độ đã làm cho đất nước từ ngày đổi mới. Chúng ta từ một nước cực nghèo mà được thế này là quá tốt rồi. Tất nhiên vẫn muốn tốt hơn nữa. Tôi thấy bộ máy chính phủ vận hành được. Bác thủ tướng chỉ đạo quyết liệt. Bác Thăng năng nổ và dám nói, dám làm.

6. Tôi tin sớm muộn đất nước mình sẽ có dân chủ và tự do thực sự. Tạm thời chưa có được cái đích tốt đẹp ấy thì tạm hài lòng với những gì đã có, và chung sức cùng đồng bào đấu tranh (một cách xây dựng) để đạt được điều ấy. Tóm lại, về đại cục mà nói, tôi thấy tình hình không phải xấu đi mà đang tốt lên, trừ vụ nợ công và thâm hụt ngân sách mà tôi không rõ lắm.

Tôi nghĩ như thế đấy. Và chính niềm tin này đã tiếp sức cho tôi trong việc phản biện và thơ phú giúp lớp trẻ sống có ích, có ý nghĩa cho mình và cho đất nước.

Tôi yêu Việt Nam. Tôi cũng yêu cả các bác. Không yêu, đã chẳng thèm nói, chẳng thèm dạy học và chẳng thèm viết.

Hơi thật thà quá. Xin lỗi.

T.B.T.


Lý Do Khiến Thơ Thái Bá Tân Được Yêu Thích

Thái Bá Tân là một trí thức được hưởng lộc khá hậu hĩ của triều đình nên có thể nói ông là người của chế độ. Thấy một số cảnh bất công, ngang tai trái mắt, là kẻ sĩ chẳng lẽ lại nhắm mắt làm ngơ nên ông dùng kiến thức của mình, qua thơ, “phù thế giáo một vài câu thanh nghị”, (1) đánh động lương tâm những kẻ cầm quyền để họ nghĩ đến lẽ phải, đạo lý mà đổi thay, tạo phúc cho dân lành.

Những bài thơ “phản biện” của ông được rất nhiều độc giả trong và ngoài nước tìm đọc, hưởng ứng và dĩ nhiên, không ít lời khen ngợi. Sau đây (theo tôi) là một số lý do:

     1/ Với đôi mắt sắc bén của người hiểu biết và từng trải vì đã từng đi nhiều (có cả nước ngoài) ông nhìn đúng vào chỗ có “vấn đề”, nhận ra những yếu huyệt của chế độ và chĩa mũi dùi vào thẳng từng chỗ một.

    2/ Lời thơ không trau chuốt, câu chữ bình dân, nôm na, dễ hiểu, có vần có điệu như một thứ “vè” hiện đại (2)

    3/ Thơ của ông biểu lộ thái độ của một bậc trưởng thượng, hiểu biết, lời lẽ, giọng điệu rất từ tốn, điềm đạm, phân tích mạch lạc, hợp lý, từng bước dẫn dắt người đọc đến chỗ chấp nhận giải pháp hay cách ứng xử - hoặc ít nhất cũng đồng tình với nỗi băn khoăn lo lắng - của ông trước mỗi “ung nhọt” của chính quyền, đất nước.
   4/ Mỗi bài ông chỉ nhắm vào một “vấn đề” nên có rộng chỗ để phân tích, lý giải cặn kẽ.

   5/ Vào thời điểm ông viết những bài thơ ngũ ngôn - nhờ internet - những thông tin về sai lầm, thối nát của chế độ lan tỏa rất nhanh đến mọi ngõ ngách của cuộc sống. Chính quyền dù cố bưng bít, che dấu nhưng cũng chỉ như “xòe quạt che trời”. Vì thế Thái Bá Tân có thể “sờ nắn” đến nhiều chỗ nhạy cảm hơn Đỗ Trung Quân, Nguyễn Duy, Chế Lan Viên khi họ viết những bài thơ phản kháng. 

 6/ Những người dân đang oằn lưng chịu đựng bao nỗi bất công, chèn ép của chế độ mà vì thấp cổ bé miệng, ít hiểu biết lại sợ sệt bàn tay thô bạo của cường quyền trù dập nên đành im lặng mà lòng sôi sục căm hờn. Nay có một bậc thầy can đảm lên tiếng, nói hộ mình những điều uất ức – mà lại nói đến đầu đến đũa, hợp tình hợp lý – nên ai cũng “sướng cái bụng”

  7/ Có thể nói mỗi bài thơ của ông là những suy tư về một sai lầm, bất công của chế độ, xã hội, được soạn thảo bởi một giáo sư nhiều kinh nghiệm sư phạm rồi đưa vào cái khuôn “ngũ ngôn trường thiên” để có vần, có nhịp giúp người đọc dễ hiểu, dễ tiếp nhận. Ghép chung tất cả những bài thơ ngũ ngôn của ông lại sẽ thành một bức tranh tổng hợp, nhiều đường nét, góc cạnh, màu sắc rất u ám của đất nước.

Tứ Thơ:

TBT có đôi mắt sắc bén nên nhìn ra được những thối nát, bất công, sai lầm của chế độ. Vì thế đề tài ông chọn để làm thơ rất “thời sự”, bắt kịp nhịp sống của xã hội. Ông thích chọn phương cách tiếp cận đề tài kiểu “trực diện đối đầu”, nói thẳng vào vấn đề cần nói, không bóng gió, không ẩn dụ toàn bài nên Tứ cũng là Ý. Riêng bài Vô Lương sử dụng ẩn dụ nhưng so sánh không hợp lý, hợp tình:

Và dẫu không biết khóc,
Lũ chó sói rống lên,
Thương đồng loại bị giết.
Nước mắt ngập thảo nguyên.

Rồi quay sang chúng trách
Bầy cừu ác, vô lương.
Rằng kẻ ăn thịt chúng
Chết mà không chịu thương.


Thậm chí không ít đứa
Còn nhảy lên mừng rơn.
Đúng là vô lương thật.
Hơn thế, còn vô ơn.


Bao nhiêu năm mặc định
Chính quyền và nhân dân
Phải đoàn kết, gắn bó,
Như một cuộc hôn nhân.


Trong hôn nhân, ta biết,
Quan hệ phải hai chiều.
Một bên mà lếu láo,
Thì bên kia không yêu
.
đến giữa bài thì lại vụng về nói toạc ra, ẩn dụ mất hiệu quả.

 Kỹ Thuật Thơ

 1/ Thể thơ: ngũ ngôn trường thiên, mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu 5 chữ; mỗi đoạn thường là một ý nhỏ độc lập, nối kết với nhau bằng mạch lý luận của tứ thơ.

 2/ Chuyển vận sau mỗi đoạn: đoạn trước và đoạn kế tiếp không nối vần.

 3/ Vần: gieo vần bằng gián cách ở cuối câu 2/4, các cặp 1/3 thường không hiệp vận; tuy vậy, ở những bài thơ dài hội chứng nhàm chán vần khá rõ, nhịp thơ (5 chữ) rất đơn điệu.

Với cách gieo vần ấy đoạn thơ sau thường “mất liên lạc” với đoạn thơ trước vì đã thoát vận và chuyển ý. Tác giả cố nối các đoạn thơ với nhau bằng tiến trình phân tích, giải thích (mạch suy luận) nên tứ thơ không hoàn toàn bị phân tán nhưng bài thơ vẫn chỉ là tập hợp những vũng thơ chứ không phải là dòng thơ nhất khí liền mạch như những bài thơ gieo vần liên tiếp. 

Có lúc thơ tvũng này loang đến vũng kia (rất yếu) nhưng không phải do tác giả muốn phá cách mà vì là trường hợp bất khả kháng: “ý” hơi “quá khổ” không đủ chứa trong một đoạn thơ. 

Giao cộng sản quản lý
Sa mạc Sahara,
Thì năm năm sau đó,
Hay thậm chí chỉ ba,

Sa mạc sẽ hết cát.
Vì sao, vì anh này
Lãng phí và thất thoát
Là vô địch xưa nay.

(Những Câu Nói Nổi Tiếng Về Cộng Sản)

Có khi hết ý rồi mà vẫn còn thừa chỗ nên tác giả phải nhét vào mấy nhóm chữ “xà bần” cho đủ một đoạn.

Vậy là hắn, thằng ấy
Thằng chồng của cô này
Hoặc rượu chè, cờ bạc
Hoặc vũ phu hàng ngày

Câu thơ đầu gồm 2 nhóm chữ “Vậy là hắn” và “thằng ấy” hoàn toàn vô tích sự, đưa vào đoạn thơ rất vụng về, gượng gạo.
Về Kỹ Thuật Thơ, có thể nói, TBT đã bị cầm tù trong chính thể thơ mình yêu thích, đôi chỗ bộc lộ lỗi rất sơ đẳng. Ông chọn đối đầu trực tiếp với các ý niệm, “vấn đề” chính trị - phương cách hạ sách trong sáng tác thơ - rất ít sử dụng các biện pháp tu từ nên thơ đơn giản đến mức khô cứng, thiếu những “đường cong nghệ thuật” tạo nên chất thơ. Ông cũng thử phép ẩn dụ một lần (Vô Lương) nhưng quá vụng và thất bại.

Chân Thật Và Cảm Xúc Trong Thơ Thái Bá Tân

Để bạn đọc mới (chưa đọc những bài bình thơ khác của tôi) tiện theo dõi, xin được nhắc lại đôi điều – theo cách nhìn của tôi - về cảm xúc trong thơ.

Mỗi bài thơ có thể có 3 tầng cảm xúc:

  1/ Cảm xúc do các đơn vị thành phần (chữ, câu) của Tứ tạo ra bằng ngữ nghĩa của riêng mình.
  2/ Được tăng thêm nhờ kỹ thuật thơ ca, nhờ thế trận chữ nghĩa của tác giả.

  3/ Được tăng thêm nữa với sự xuất hiện của hồn thơ. Hồn thơ có được trong trường hợp tác giả viết lúc cao hứng, lúc lên cơn điên, cơn giận, cháy bỏng yêu thương, rực lửa căm thù … , lúc tâm hồn thoát khỏi sự điều khiển của lý trí. Đây là loại cảm xúc cao cấp nhất, cho người đọc cảm giác sảng khoái nhất. (3)

Cảm Xúc – cùng với Tứ Thơ và Kỹ Thuật Thơ - là 3 tiêu chí để thẩm định giá trị một bài thơ. Nhưng ở đây tôi xin tách riêng để có rộng chỗ bàn cho cặn kẽ. Như phần đông nhà văn nhà thơ dưới chế độ toàn trị, lúc đầu tôi đoán Thái Bá Tân – dù dũng cảm - cũng phải mon men, dọ dẫm để thơ của mình không vượt quá lằn ranh nguy hiểm. Sau đây là một đoạn thơ do dẫm ông thêm vào cuối bài Một Sự Thật Đau Lòng:

Tôi nhận hưu nhà nước
Cũng đã mấy năm nay.
Hy vọng còn được nhận
Sau bài thơ ngắn này.

có ý gài chính quyền vào một tình thế khó xử. Nhẹ tay thì nó lấn tới, còn nặng tay thì mang tiếng là bóp nghẹt tiếng nói phê bình chính đáng.

Đến khi đọc Đôi Lời và Ghi Nhận thì tôi nghĩ rằng có lẽ chính ông đã tự vẽ ra lằn ranh đó và trong một thời gian khá dài, rất khéo léo giữ đôi chân của mình ở bên này lằn ranh.

Trong bài Thái Bá Tân Và Những Vần Thơ 5 Chữ, Mặc Lâm viết:

Cái bí ẩn làm thơ Thái Bá Tân sống và thở hào hễn với đủ các cung bậc là sự thật thà, hồn nhiên không làm dáng, không trau chuốt. (4)
Lời nhận xét của Mặc Lâm về thơ Thái Bá Tân ở trên có 2 từ thật thàhồn nhiên tôi thấy cần phân tích rõ thêm để khỏi hiểu lầm.. Để xem thơ Thái Bá Tân thật thà hồn nhiên đến mức nào tôi xin dài dòng một chút về những mức độ Chân Thật Trong Thơ.

Thi sĩ, khi làm thơ, hay bị cám dỗ phạm tội gian dối. Cầm bút lên – vì sĩ diện - thường muốn vơ cái hay, cái đẹp về mình. Nhà thơ nào cũng vỗ ngực là yêu nước, thương dân, hiếu thảo với cha mẹ, tình nghĩa với anh chị em, chung thủy với vợ (chồng), hết lòng vì con, tốt bụng với bạn bè. Ngay cả khi kể một vài điều “không tốt” về mình cũng là muốn chứng tỏ mình thành thật. Có nhiều mức độ dối trá trong thơ:

1/ Nói Dối Trắng Trợn:
Yêu biết mấy nghe con học nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin
Và:

Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một thương ông thương mười. (5)

Đây là mấy câu thơ trong bài Đời Đời Nhớ Ông của Tố Hữu khóc Stalin. Không cần tra cứu, kiểm chứng cũng biết nhà thơ của chúng ta nói dối vì nó xạo một cách trắng trợn. Những câu thơ này đã làm nhem nhuốc cả môt gia tài thơ đồ sộ của Tố Hữu.
2/ Nói Dối Để Lừa Những Người Ở Xa, Không Biết

 Có em nhỏ nghịch, ra xem giặc
Nó bắt vô vườn, trói gốc cau
Nó đốt, nó cười... em nhỏ hét:
"Má ơi, nóng quá, cứu con mau!" (5)
(04/07/1962)

Đây là một đoạn thơ trong bài Lá Thư Bến Tre, cũng của Tố Hữu, chỉ có thể lừa được những người ở miền bắc vì xa xôi cách trở và đang lúc chiến tranh. Với dân miền nam, những cư dân ở Bến Tre hoặc những người đã từng làm việc, có người thân ở Bến Tre (như kẻ viết bài này) thì đều biết đó là những câu thơ xạo.
3/ Cường Điệu, Phóng Đại

Trong Bài Học Đầu Cho Con Đỗ Trung Quân đã cho đứa bé hỏi mẹ 2 câu hỏi với giọng rất ngây thơ về một ý niệm khá trừu tượng: quê hương.

Quê hương là gì hở mẹ

Mà cô giáo dạy phải yêu?

và:

Quê hương là gì hở mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

Người đọc có thể nhận ra ngay là nhà trường đã cố nhồi nhét quá sớm cái ý niệm “khó hiểu, khó cảm” ấy vào đầu óc ngây thơ của đứa bé mà không thành công. Vì thế đứa bé về nhà hỏi mẹ và người mẹ đã được tác giả nhờ cậy giải thích ý niệm về Quê Hương cho đứa bé. Và bà đã giải thích rất hay, rất tuyệt. Dựa vào ngôn ngữ từ 2 câu hỏi tôi đoán đứa bé đang học một lớp nào đó ở bậc tiểu học. Như vậy lời giải thích của bà mẹ - rất hay, rất tuyệt ấy – có vẻ hơi cao, hơi xa so với tầm hiểu biết của đứa bé. Nhưng để ý đến cái tựa bài thơ thì tôi giật nẩy mình. “Bài Học Đầu Cho Con” có nghĩa là đứa bé mới học bài học đầu tiên, mới vào lớp vỡ lòng, còn thấp hơn mẫu giáo một bậc.

Ở tuổi ấy làm sao có thể đặt một câu hỏi “nặng ký” như thế được. Rõ ràng câu hỏi của đứa bé đã được tác giả ngụy tạo một cách khá vụng về, và câu trả lời - tuy bà mẹ có thể đang nhìn thẳng vào mắt con để nói - đâu phải để giải thích cho đứa bé ngây thơ máu thịt của mình mà tâm hồn của bà đang nghĩ đến, nhắm đến những đối tượng khác, với mục đích khác.

Thơ là tiếng lòng, tiếng thổn thức của con tim mà ngay từ những giây phút ban đầu, từ cái tựa của bài thơ thi sĩ đã cho lý trí  bước vào đạo diễn một kịch bản “ba xạo” thì thật là “không tâm lý” chút nào. Chắc người đọc có thể thấy ngay là cái tựa không thật đó đã kéo độ khả tín của bài thơ xuống gần mức Zero.

Tôi xin phép được lên tiếng “ca” cố nhạc sĩ Giáp Văn Thạch một câu. Khi phổ nhạc ông đã sáng suốt và tài tình bỏ cái tựa Bài Học Đầu Cho Con và bỏ luôn đoạn thơ có 2 câu hỏi của một “cụ non” nào đó mà thi sĩ Đỗ Trung Quân đã nặn ra để lấy cớ đưa vào bài thơ những bức tranh quê tuyệt đẹp. Bản nhạc phổ thơ của ông - với cái tựa Quê Hương – nghe “đã” hơn bài thơ gốc nhiều. Tiếc rằng đoạn cuối “bị biên tập” nên có cái giọng xấc xược, bố láo làm bực mình rất đông người Việt hải ngoại. (6)

4/ Nói Dối Trong Thơ Bị Lộ Tẩy
Tôi có thằng bạn có bà chị cả là dược sĩ lấy ông chồng thương gia giầu có. Hai vợ chồng không con sống trong một ngôi nhà lớn, có người giúp việc, ở Sài Gòn. Nhân dịp 2 đứa cùng về phép nó dẫn tôi đến nhà chị chơi. Ông anh rể chỉ 4 câu thơ được khắc rất đẹp trên mặt gỗ treo trên tường khoe với tôi:

Anh mới làm tuần trước đấy. Cậu xem có được không?
Tôi đưa mắt đọc và thấy 4 câu thơ oách thiệt:

Anh để tim anh đập tự do
chẳng cần giả dối, chẳng quanh co

cứ ngay thẳng nhìn vào sự thật
dù biết đau thương sẵn đợi chờ.

Tôi gật gù khen hay cho phải phép xã giao.
Bỗng nghe tin hai vợ chồng chị nó ly dị. Té ra anh chàng dối vợ, dan díu với một phụ nữ khác, có với nhau một đứa con từ hồi nào không biết (trước khi sáng tác 4 câu thơ). Như vậy có nghĩa là khi làm thơ “tim anh đã đập rất quanh co”. Gặp lại nó và đến thăm bà chị sau đó, tôi để ý thấy “bài thơ trên gỗ” đã không còn ở trên tường nữa. Hỏi thì được biết “Khi lộ chuyện đứa con chị đã chẻ vụn vứt vào thùng rác rồi”

5/ Phản Bội Lời Hứa Của Mình Trong Thơ
Một thi sĩ có vai vế ở hải ngoại viết một bài thơ khá hay có tựa Tiết Tháo với ý chê trách những người Việt về thăm quê hương. Bài thơ có 4 câu nhưng tôi chỉ nhớ 2 câu cuối đầy nghĩa khí:

Không thể cam tâm về với giặc
Dù trĩu đôi vai một mẹ già.

Lúc ấy tôi chỉ mới qua Mỹ được vài năm, còn bà mẹ già và một lũ em, lũ cháu nheo nhóc ở Việt Nam. Đọc bài thơ, tuy không đồng ý với tác giả nhưng rất cảm phục ông và trong lòng buồn não nuột. Tôi nghĩ thầm “kiểu này làm sao có thể muối mặt về thăm mẹ già và các em, các cháu được”. Bẵng đi một thời gian, tình cờ tôi đọc được bài thơ Sài Gòn Bây Giờ - cũng của tác giả đó - tả những cảnh nhố nhăng, ngang tai trái mắt ở Saì Gòn dưới chế độ mới. À! Thì ra ông thi sĩ này “xạo tổ”; ông đã “về với giặc”; tiết tháo của ông là tiết tháo dởm. Lúc ấy hơi bực mình tôi gọi điện thoại hỏi chuyện thì được biết ông về quê hương là vì một lý do rất chính đáng (xin miễn nêu ra đây). Tôi không trách việc ông về Việt Nam nhưng bài thơ Tiết Tháo – thơ hứa một đàng, ngoài đời làm một nẻo - sẽ là một vết đen không nhỏ trong sự nghiệp văn chương của ông.

 6/ Hợp Lý, Hợp Tình, Không Có Dấu Hiệu Gian Dối
Thơ Thái Bá Tân lúc mới hoàn thành, chưa qua sự cọ xát của thời gian, có thể xếp vào loại này.

Thí dụ:
MẮNG CON

Mày láo, dám khuyên bố
Mai không đi biểu tình.
Chuyện ấy có nhà nước,
Không liên quan đến mình.


Mày nói y như đảng.
Không liên quan thế nào?
Nước là của tất cả,
Của mày và của tao.
Mày bảo có nhà nước.
Nhà nước hèn thì sao?
Mà ai cho nhà nước
Quyết việc này thay tao?


Chính vì khôn, “biết sống”
Tức ngậm miệng, giả ngây,
Mà thế hệ của bố
Để đất nước thế này.
Ừ, bố già, lẩn thẩn,
Nhưng vẫn còn là người.
Mà người thì biết nhục,
Biết xấu hổ với đời.


Mai biểu tình, thế đấy.
Bố không bắt con đi,
Nhưng cũng đừng cản bố.
Cản cũng chẳng ích gì. (4)
Rõ ràng lời thơ có vẻ rất thực vì không có dấu hiệu của sự dối trá. Nhưng người đọc không “thấy” được cái hơi nóng của cảm xúc tỏa ra từ mỗi con chữ do tác giả nổi điên vì giận, vì đam mê say đắm. Tác giả Mng Con nhưng lại quá tỉnh táo, điềm đạm, phân tích có đầu, có đuôi, hợp tình hợp lý. Ông thành công một cách đáng nể phục trong cương vị của một người cha, người thầy, người làm truyền thông – lời Mắng Con của ông đã làm không khí biểu tình chống Trung Quốc lúc ấy như được thêm lửa (ý của Mặc Lâm) - nhưng theo tôi, ông đã thất bại trong cương vị của một nhà thơ.

Mắng Con nói riêng và thơ ngũ ngôn của ông nói chung lời lẽ sắc bén, lý luận khúc chiết nên cảm xúc ở tầng 1 khá mạnh nhưng do bị tù túng trong thể thơ ngũ ngôn trường thiên nên một số thủ pháp trong kỹ thuật thơ không phát huy hết hiệu quả, do đó, cảm xúc ở tầng 2 rất ít. Đặc biệt ông viết về đề tài chính trị, bằng một cái đầu quá tỉnh táo, “vừa ‘ấy’ lại vừa run” nên cảm xúc ở tầng 3 biệt tăm biệt tích, phẩm chất quý giá nhất trong thơ là Hồn Thơ, hoàn toàn thiếu vắng.
Đọc thơ ngũ ngôn trường thiên của Thái Bá Tân tôi có cảm giác như xem một trận bóng đá toàn những pha đá phạt (bóng chết), câu thủ không có cơ hội chơi bóng sống để phô diễn khả năng đi bóng, lừa bóng và phối hợp toàn đội nên không có hứng, đá không có hồn. Cuối cùng cũng có kẻ thắng người bại nhưng trận đấu tẻ nhạt, không hấp dẫn.

Cũng làm thơ nên tôi đã trải nghiệm và nhận ra một điều: lời thơ thật thà chưa chắc thi sĩ đã thật lòng. Xin được phép không đồng ý với Mặc Lâm; sự thật thà, hồn nhiên chỉ xuất hiện khi vắng bóng những toan tính vị kỷ của lý trí. Đọc thơ TBT tôi thấy điều ấy rất khó xảy ra. Không có sự thật thà, hồn nhiên mà cho rằng thơ Thái Bá Tân sống và thở hào hễn với đủ các cung bậc thì, theo tôi, điều đó chỉ có trong tưởng tượng.

7/ Chân Thật Vì Cao Hứng, Nổi Điên
Hồn thơ không đến từ câu chữ và kỹ thuật thơ ca trong bài thơ mà đến từ trạng thái rung động mãnh liệt của thi sĩ khiến chàng (nàng) như cuồng, như điên; cuồng điên vì quá vui, giận, yêu, ghét, đau thương, sung sướng, sợ hãi, cuồng điên vì tham ái trong lòng: tham đẹp, tham ngon, tham dâm … đã dâng cao đến đỉnh điểm.

Trong trạng thái phấn khích, cuồng nhiệt, hứng khởi đó, tác giả đưa vào, thổi vào bài thơ một luồng hơi nóng bỏng, một luồng cảm xúc đặc biệt, khác hẳn với thứ cảm xúc nội tại đến từ câu chữ và kỹ thuật thơ ca. Vâng, luồng hơi nóng bỏng ấy chính là hồn thơ. Người đọc không thể nắm bắt, nhận biết nó bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận bằng tâm hồn. (7)
Nếu bạn đã đọc qua Tạ Lỗi Trường Sơn của Đỗ Trung Quân sẽ thấy cái hay nhất, cái tuyệt vời của bài thơ là cảm xúc. Hơi thơ tỏa nhiệt ngay từ những câu đầu, dẫn người đọc đi một lèo tới đích. Cảm xúc từ câu chữ tỏa ra đã khá mạnh, rồi do - bài thơ nhất khí liền mạch – sóng sau dồn sóng trước nên cảm xúc đến từ thế trận của toàn bài dâng lên cao ngất. Hơn nữa tác giả viết trong lúc đang lên cơn - lửa giận phừng phừng –  thoát khỏi sự can thiệp của lý trí, nên không còn biết sợ, chữ nghĩa cứ hàng hàng lớp lớp tuôn ra khiến hơi thơ rất mạnh và nóng bỏng, hồn thơ lai láng. (8)

 Bài NTXTQ của Nguyễn Duy cũng thế, cũng được viết trong lúc nhìn về quê hương mà lòng đau quặn tắt, rồi bực dọc, rồi nổi điên, câu chữ cứ như từ trên trời rơi xuống.

Trong một cuộc phỏng vấn của Mặc Lâm , nhà thơ Nguyễn Duy cho biết : Bài thơ “Nhìn TXaTổ Quốc”, khi viết xong thì chính bản thân tôi cũng bất ngờ bởi vì không nghĩ là mình viết được những câu thơ như vậy…
Bây giờ đọc lại mình cũng không hình dung được là hồi đó mình viết được những câu thơ như vậy. Bây giờ thì không viết nổi… (9)

Viết trong trạng thái như thế thơ mới Thật Với Lòng và mới có Hồn.

Tại Sao Không Xếp Thơ Thái Bá Tân Vào Danh Sách Những Bài Thơ Phản Kháng?

Nếu đặt bất cứ bài thơ ngũ ngôn nào của Thái Bá Tân (phê phán chính quyền) mà tôi được đọc (danh sách ở phần chú thích) bên cạnh Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh của cô giáo Trần Thị Lam tôi vẫn thấy yêu thích bài thơ của cô giáo Lam hơn. Thơ của Thái Bá Tân lời lẽ như dao sắc, bố cục chặt chẽ, tứ thơ được phân tích, diễn giải mạch lạc, đánh đúng vào chỗ hiểm, chỗ yếu của chế độ nhưng quá nặng chất trí tuệ nên khô cứng. Ngay cả đoạn thơ sắc nét nhất, hay nhất của ông:
Vứt mẹ cái khẩu hiệu
“Còn đảng là còn mình”
Thế mai kia đảng chết,
Không lẽ mày quyên sinh?


cũng do kiến văn rộng, lời thơ đắt - tức là từ cái đầu – mà có chứ không phải từ sự rung động mãnh liệt của con tim.
Thơ của cô giáo Lam có đôi chút hơi non tay về kỹ thuật nhưng rất đậm chất tình, nhiều cảm xúc. Với những người yêu thơ, phải chăng cảm xúc – và cao hơn một bậc là hồn thơ – là tiêu chí quan trọng nhất để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ?

Tôi đã chọn TLTS, NTXTQ và Bánh Vẽ là ba bài thơ phản kháng - đại diện và chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử, giai đoạn chế độ XHCN bị áp đặt trên toàn cõi Việt Nam. Thơ ngũ ngôn của Thái Bá Tân – xét về Nghệ Thuật Thơ - còn đứng sau ba bài thơ đó một khoảng cách rất xa.

Kết Luận
Là người Việt Nam tôi rất mong muốn đất nước thay đổi theo chiều hướng Dân Chủ Tự Do để người dân sớm được hưởng ấm no hạnh phúc. Theo nhận định của tôi – thơ ngũ ngôn của Thái Bá Tân – dù nghệ thuật thơ còn yếu kém - vẫn là những bài thơ phản biện. Nay dù ông vì lý do nào đó mà “đang ngược dòng bỗng lại trôi xuôi” (10) – thì tài năng của ông cũng vẫn đáng được ghi nhận, nể phục - và thơ của ông, dù muốn dù không, đã và đang đóng góp không nhỏ cho phong trào đấu tranh chung của dân tộc. Dĩ nhiên, nếu không có Đôi Lời, và sau đó Ghi Nhận và Cải Chính, thì đối với TBT, bên cạnh sự nể phục, bạn đọc còn có thêm sự kính trọng và lòng yêu mến. Ông có quyền và đã chọn lựa thái độ, thế đứng của mình. Tôi hoàn toàn tôn trọng sự lựa chọn đó, Đụng chạm đến những đề tài chính trị kẻ bênh người chống là chuyện bình thường. Nội dung của Đôi Lời đã khơi lên một cuộc tranh cãi khá gay gắt. Tôi xin phép được đứng ngoài cuộc tranh cãi đó. Tôi bỏ công sức viết bài này chỉ vì yêu Thơ, muốn nói mấy lời công đạo cho Nàng Thơ.

Làm thơ mà lập trường kiên định - vạch ngăn ta địch rạch ròi, lằn ranh quốc cộng phân minh – thì thơ sẽ rất đậm màu chính trị:
màu này thật dễ thương

còn màu đó “thấy mà ghê”
Ôi! Đẹp quá phe mình

còn phe bên kia
phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu

(Yêu Thơ Nên Phải Hết Lòng Với Thơ, Phạm Đức Nhì, t-van.net)
Nếu được phong danh hiệu “Nhà Thơ Chiến Sĩ” thì còn tệ hại hơn - mỗi câu thơ, bài thơ sẽ là viên đạn, lằn tên chỉ biết nhắm mắt lao mình về hướng quân địch.

Bình thơ mà cũng mang tâm thế như vậy thì giống như vài quý vị tham dự vào cuộc tranh luận về thơ Thái Bá Tân – chú tâm hết mực đến ý tứ, nội dung của bài thơ nhưng lại không để ý đến 2 tiêu chí quan trọng khác để thẩm định giá trị một bài thơ là kỹ thuật thơ và hồn thơ. Bình thơ kiểu ấy sẽ không “ra” được cái hay cái dở của thơ. Kết quả là nhiều khi dè bỉu, chê bai bài thơ có giá trị nghệ thuật cao nhưng lại ầm ĩ tung hô – có khi còn trao vòng nguyệt quế cho – bài thơ không xứng đáng.

Phạm Đức Nhì


phamnhibinhtho.blogspot.com

Chú Thích:

 

1/ Kẻ Sĩ, Nguyễn Công Trứ

2/ Mượn ý của Hà Định Văn

3/ Cảm Xúc Trong Thơ, Phạm Đức Nhì, t-van.net


5/ Tố Hữu, thivien.net

6/ Lời Bình Ngắn tập 3, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com

7/ Gặp Hồn Thơ: Người Được Làm Người, Lời Bình Ngắn, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com

8/ Tạ Lỗi Trường Sơn – Bài Thơ Ngược Dòng Nóng Bỏng, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com


Những bài thơ đã đọc để tham khảo:

Nói Thẳng, Trí Thức, Khẩu Hiệu, Những Câu Nói Nổi Tiếng Về Công Sản, Ngủ Dậy Xem Đại Hội Đảng Nghĩ Vẩn Vơ, Một Thực Tế Đau Lòng, Hỗn, Nhường Cho Chính Quyền, Tiếng Chuông Cảnh Tỉnh, Vô Lương, Võ Nguyên Giáp, Phạm Thanh Nghiên – Thay Cho Lời Chúc Mừng Ngày Cưới, Tự Bạch, Hùynh Thục Vy, Ghi Nhận, Mắng Con, Ông Tướng Bạn Học Cũ Gọi Diện Nói Chuyện Chơi, Phản Động, Nghịch Cảnh Nước Ta, Thông Điệp Hôm Nay, Khôn Và Dại, Hai Mặt, Năm Trăm Triệu, Luật Quốc Sỉ, Những Người Ở Lại, Lại Phim Hăm Mốt Tỉ, Dân Đại Bái Chơi Đẹp

PHỤ LỤC
Ghi Nhận

Các bác thử tưởng tượng,
Nếu đảng ta trước đây
Không mở cửa, đổi mới,
Sẽ thế nào hôm nay?
Hôm nay ta chắc chắn
Như dân Bắc Triều Tiên.
Không được nói, được chửi,
Không cơm ăn, không tiền.


Không có internet,
Không được đi nước ngoài,
Không có chiếc xe đạp,
Không có cả chiếc đài.

Không được mặc quần xoọc,
Cắt tóc theo ý mình.
Không khách sạn, nhà nghĩ,
Không có cả ngoại tình…

Chắc chắn là như thế.
Các bác cứ tin đi.
Nếu đảng không đổi mới,
Hỏi ta biết làm gì?

Định vùng lên lật đổ
Rồi thoát khỏi thằng Tàu?
Đừng đùa với cộng sản.
Không có chuyện ấy đâu.

Cho nên chửi cứ chửi,
Nhưng cũng phải phân minh.
Biết lượng sức mà tiến,
Biết người và biết mình.

Đảng có gì không đúng
Thì nói, ta, người dân
Việc mình làm thật tốt
Để mọi cái tốt dần.

Tôi không ưa cộng sản,
Cả xưa và cả nay.
Nhưng đảng đã đổi mới
Thì ghi nhận việc này

 

CẢI CHÍNH

28-8-2016

Tự nhiên thành “Hiện tượng Thái Bá Tân” mới lạ.

Chính thức và nghiêm túc nhé: Tôi không hề bị an ninh hay ai đó gây áp lực cả. Nói thế là oan cho người ta. Xưa nay tôi vẫn thế, cái gì chưa được thì nói, một cách đàng hoàng và xây dựng. Cái gì hay thì khen, nhỏ cũng khen, thậm chí còn cố tìm cái tốt để khen.

Tôi thực sự vui mừng vì đất nước đã đổi mới, đời sống người dân khá hơn xưa, có thể nói đổi đời. Trong chừng mực nào đó người dân đã có tự do và dân chủ. Cả nhân quyền. Đảng lãnh đạo đất nước thì có vai trò lớn trong việc này và phải ghi nhận. Còn tham nhũng, tiêu cực này nọ là chuyện khác, chuyện nghiêm trọng, và tôi sẽ tiếp tục phản biện về chuyện này.

Vì biết không còn cách nào khác, tôi chỉ mong đảng đổi mới hơn nữa. Tôi lên tiếng với hy vọng đảng và nhà nước nhận thấy vấn đề và có chính sách thích hợp.

Tôi viết thơ con nít và thơ Phật để giúp người trẻ là chính. Lề trái chỉ khi bức xúc lắm mới viết.

Nhân tiện: Tôi biết nhiều lắm đấy, có khi còn hơn nhiều bác, mà biết từ lâu nhưng xưa không được nói. Bây giờ cho nói thì cảm ơn chứ sao. Nhiều bác lề trái cực đoan và một chiều quá. Còn chửi lung tung. Quyền các bác, nhưng tôi thấy điều ấy chẳng hay chút nào. Đóng gop cho sự nghiệp tiến bộ quan trọng là việc làm chứ không phải lời nói thóa mạ.

Thế là rõ nhé. Tôi là thế, sẽ luôn như thế. Ai thích thì đọc, không thì thôi và đừng nặng lời. Tính tôi không thích người ta nói đến. Thề luôn. Không thích cả khen thưởng, giải này giải nọ. Tôi chỉ muốn lặng lẽ làm việc không ngừng nghỉ với cường độ cao như bốn, năm chục năm nay, cố làm được cái gì tốt cho đời thì làm.

Thế nhé. Chấm hết nhé. Chào!

Thái Bá Tân