Thứ Năm, 16 tháng 6, 2016

CẢM XÚC TRONG THƠ


                              CẢM XÚC TRONG THƠ


Từ Môn Thể ThaoTúc Cầu

          Hồi 9, 10 tuổi tôi là thằng bé thích xem đá banh và đá cũng rất khá. Tôi có khả năng đá banh mạnh, đi xa hơn các bạn cùng trang lứa. Và cũng biết lừa banh qua 1 hoặc 2 đối thủ khá dễ dàng. Xóm tôi có 5 đứa, lập thành một đội. Chiều mát thường ra bãi đấu với các xóm khác.

         Trận đấu thật đơn giản. Mỗi bên 5 đứa, một đứa giữ gôn, còn 4 đứa kia thì tìm đủ mọi cách đưa banh qua hai “cột gôn” của đối phương (thường là 2 cái áo hoặc 2 nhánh cây). Có banh trong chân, mạnh đứa nào đứa nấy đá, lừa, cứ thẳng hướng cầu môn đối phương mà tiến, chẳng cần biết đồng đội mình đang làm gì, ở đâu.

         Nhưng lớn lên, được sự chỉ bảo của người lớn và được đi xem đá banh nhiều hơn tôi nhận ra là tự mình dẫn banh thẳng tiến không phải là thượng sách. Chuyền cho đồng đội sẽ vượt qua sự truy cản của đối phương dễ dàng hơn, dẫn đến nhiều cơ hội hơn để ghi bàn thắng. Sau này làm trọng tài điều khiển trận đấu tôi càng thấy rõ tầm quan trọng của đấu pháp - sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cầu thủ, các tuyến trong đội. Chính đấu pháp đã giúp khả năng tấn công (hoặc phòng thủ) mạnh mẽ và hiệu quả hơn gấp bội.

        Trong vòng chung kết Euro 84 có một trận đấu tôi đã xem đi xem lại nhiều lần. Đó là trận bán kết giữa Pháp và Bồ Đào Nha. Trận đấu rất hấp dẫn vì những lý do sau đây:

     1/ Pháp và BĐN ở thời điểm đó đều có trình độ và phong độ cao về môn túc cầu ở Châu Âu và cả thế giới.

     2/ Trận bán kết là trận đấu quyết tử, không có hòa. Thắng: vào chung kết. Thua: khăn gói quả mướp về nhà.

     3/ Tỷ số luôn luôn sít sao: Pháp mở tỷ số trước. BĐN gỡ hòa 1 – 1 rồi dẫn trước 2 – 1. Pháp gỡ hòa 2 – 2, phải đá thêm 2 hiệp phụ. Cuối cùng, chỉ còn vài phút là kết thúc trận đấu, Pháp ghi bàn thắng nâng tỷ số lên 3 – 2.

     4/ Khán giả cổ võ cuồng nhiệt: Lần đầu tiên nước Pháp được vào sâu trong một cuộc tranh tài túc cầu đỉnh cao tại Châu Âu. Trận đấu lại xảy ra ở thành phố Marseille ngay trên nước Pháp (nước chủ nhà đăng cai) nên vì danh dự quốc gia, vì niềm tự hào của dân tộc, vì được báo chí, truyền thanh, truyền hình hết lòng cổ động, người dân Pháp đến xem đông đảo và đã quên mình nồng nhiệt cổ võ.

Túc cầu ở trình độ 1 - chỉ biết phô diễn tài nghệ cá nhân - tạo nên hứng thú, khoái cảm cho khán giả tương đối ít. Lên đến trình độ 2 - đấu pháp, thế trận toàn đội được áp dụng  -  mức độ hứng thú, khoái cảm của khán giả được tăng lên nhiều hơn. Đấu pháp càng mới, sự phối hợp càng nhịp nhàng, đội banh đá càng hay, khán giả càng yêu thích. Dĩ nhiên, trong mọi trường hợp, tài nghệ cá nhân của cầu thủ vẫn có thể tạo khác biệt và luôn được coi trọng.  Trình độ 1 và 2 còn ở mức kỹ thuật, nghĩa là có thể học hỏi, tập luyện mà lên được.

Túc cầu ở trình độ 3 là đá có hồn. Dĩ nhiên đội banh phải có sẵn giàn cầu thủ tài nghệ cá nhân vững vàng, một đấu pháp tân tiến - đã được áp dụng cả trong huấn luyện lẫn các trận đấu thực sự một cách nhuần nhuyễn. Và nếu có thêm một số điều kiện tương tự của đội Pháp trong trận Pháp - Bồ Đào Nha 1984, khán giả sẽ có nhiều cơ hội được xem một trận túc cầu hay. Năm ấy, cả hai đội, nhưng đặc biệt là đội Pháp đá xuất thần, và như một nhà bình luận đã nói “đá hay hơn, đẹp hơn khả năng thực sự của mình rất nhiều”, đã tặng khán giả trên sân cỏ và trước màn ảnh truyền hình trên toàn thế giới một bữa tiệc túc cầu thịnh soạn và đã nâng cái hay, cái đẹp của túc cầu lên hàng nghệ thuật. Nhiều năm sau này nhìn lại, những người am hiểu túc cầu cũng vẫn cho rằng đó là một trong những trận đấu hay nhất trong lịch sử của giải Vô Địch Châu Âu.

Đến Thơ 

Tương tự như túc cầu, mỗi bài thơ cũng có 3 tầng cảm xúc:

1/ Cảm xúc do các đơn vị thành phần của Tứ tạo ra bằng ngữ nghĩa của riêng mình.

2/ Được tăng thêm nhờ thế trận chữ nghĩa của tác giả.

3/ Được tăng thêm nữa với sự xuất hiện của hồn thơ. Hồn thơ có được trong trường hợp tác giả viết lúc cao hứng, lúc lên cơn điên, cơn giận, cháy bỏng yêu thương, rực lửa căm thù … , lúc tâm hồn thoát khỏi sự điều khiển của lý trí. Đây là loại cảm xúc cao cấp nhất, cho người đọc cảm giác sảng khoái nhất.

Thí dụ 1:

             CHẾT

Chết mà vì nước, chết vì dân,
Chết đấng nam nhi trả nợ trần.
Chết buổi Đông Chu, hồi thất quốc,
Chết thời Tây Hán lúc tam phân.
Chết như Hưng Đạo, hồn thành thánh,
Chết tựa Trưng Vương, phách hóa thần.
Chết cụ Tây Hồ danh chẳng chết,
Chết mà vì nước, chết vì dân.

(Phan Bội Châu)

Đây là bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng.

Tứ cũng là ý, nói về những cách chết vì dân vì nước (nên noi theo) của người quân tử.

Mỗi câu thơ là một tứ (ý) nhỏ nói đến cách chết của người quân tử, nhưng vì bài thơ được viết theo lối thủ vĩ ngâm – câu đầu và câu cuối giống nhau - nên 8 câu mà chỉ có 7 cách chết.

Chết là bài thơ chuyển tải nghĩa khí của một nam nhân, một quân tử trước cảnh nước nhà nguy biến. Các cầu thủ của cụ Phan mạnh ai nấy đá, chẳng thế trận, chẳng đấu pháp gì hết nên ở đây không có dòng thơ mà chỉ có những “vũng thơ”. Mỗi câu là một vũng thơ riêng biệt, gợi lên một chút hào khí trong lòng người đọc. Sức gợi cảm (hào khí) của cả bài thơ là tổng số lượng hào khí của 7 câu cộng lại. Thành ra cấu trúc của bài thơ hầu như không có hiệu quả gì trong việc gia tăng sức gợi cảm của toàn bài. Về mặt tổng thể, bài thơ không thành công.

 Thơ nhắm vào điểm, không nhắm vào diện. Ở đây cụ Phan của chúng ta tham quá; bài thơ của cụ bao biện đến 7 kiểu cách chết mà kiểu nào – do giới hạn câu chữ của thể thơ Đường Luật - cụ cũng chỉ nói lướt qua như gió thoảng, chăng khai triển, đào sâu gì nên sức gợi cảm rất ít. Cũng may, cụ là người có lòng với quê hương dân tộc nên nhiệt tình của cụ cũng thấm vào bài thơ nhưng không đáng kể.

Cảm xúc chỉ ở tầng 1; tầng 2 không có tý gì; cảm xúc ở tầng 3 không có.

Thí dụ 2:


Giấc Mơ Anh Lái Đò.


1/ Năm xưa chở chiếc thuyền này
    Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều


2/ Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
   "Tước đay se võng nhuộm điều ta đi
   Tưng bừng vua mở khoa thi,
   Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
   Võng anh đi trước võng nàng
   Cả hai chiếc võng cùng sang một đò."

3/ Đồn rằng đám cưới cô to
    Nhà trai thuê chín chiếc đò đón dâu
    Nhà gái ăn chín nghìn cau
   Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn...


4/ Lang thang tôi dạm bán thuyền
    Có người trả chín quan tiền, lại thôi!

Bài thơ, như cách trình bày ở trên, chia làm 4 ý nhỏ (vì không có ẩn dụ toàn bài nên tứ cũng là ý)

          1/ Xác lập khung cảnh để từ đó mối tình nảy nở.

          2/ Kín đáo thổ lộ với người đọc tình yêu của anh với cô gái.

          3/ Lời đồn về đám cưới linh đình của cô gái với một đại gia giàu có.

          4/ Kiểm lại tài sản của mình và buồn cho mối tình vô vọng.

Trong Giấc Mơ Anh Lái Đò, Nguyễn Bính đã tạo được thế trận chữ nghĩa, có phân công phân nhiệm. Đại đa số các cầu thủ không tự mình dẫn banh lên khung thành đối phương mà chỉ hỗ trợ - chuyền cho đồng đội ở tuyến trên. Cuối cùng chỉ cần một cầu thủ bất ngờ xuất hiện đúng chỗ, đúng lúc – đưa banh vào lưới. Cảm xúc của tầng 2 đầy ắp, rất mạnh, đặc biệt lúc anh lái đò:

          Lang thang tôi dạm bán thuyền

          Có người giả chín quan tiền lại thôi

kiểm lại toàn bộ tài sản của mình thấy chỉ bằng một phần nghìn khoản tiền cheo tiền cưới mà tình địch của mình đem cống nạp cho nhà gái. Vâng, chính lúc ấy nỗi buồn vì mối tình trở nên vô vọng đã như một dòng thác đổ xuống, bao phủ và đè nát trái tim của anh lái đò. Thủ pháp “show, not tell” thành công. Thế trận chữ nghĩa của bài thơ hoàn hảo.

Cảm xúc ở tầng 2 đầy ắp cộng với sự xuất hiện của hồn thơ - cảm xúc ở tầng 3 – khiến người đọc xúc động đến bàng hoàng (nhưng lại rất sảng khoái) vì cảm thương cho nỗi bất hạnh của anh lái đò. Nỗ lực chú tâm theo dõi lời tâm sự của anh đã được trả công hậu hĩ.  Đọc một bài thơ như vậy người đọc sẽ thấy thú hơn, khoái hơn và cảm phục tài năng của thi sĩ nhiều hơn.


Thí dụ 3:

                                           HỒ TRƯỜNG

          Đại trượng phu không hay xẻ gan bẻ cột phù cương thường

hà tất tiêu dao bốn bể luân lạc tha phương

trời nam nghìn dặm thẳm

non nước một màu sương


Học chưa thành, danh chưa đạt

trai trẻ bao lăm  mà đầu bạc

trăm năm thân thế bóng tà dương.


Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi

trời đất mang mang, ai người tri kỷ?

Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.


Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?

          rót về đông phương, nước biển đông chảy xiết sinh cuồng lạn;

rót về tây phương, mưa Tây Sơn từng trận chứa chan

rót về bắc phương, ngọn bắc phong vi vút, cát chạy đá giương;

rót về nam phương, trời nam mù mịt

có người quá chén, như điên như cuồng


Nào ai tỉnh, nào ai say

chí ta ta biết, lòng ta ta hay

nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ

hà tất cùng sầu đối cỏ cây


Kẻ trượng phu sống mà không xẻ gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời

rong chơi bốn biển, luân lạc tha phương

trông về nam, xa mù nghìn dặm! Non nước một mầu sương (mù mờ, ảm đạm)

Học chưa thành, danh chưa đạt, trai trẻ bao lăm mà đầu bạc, đời người đã đến lúc xế chiều.

Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi, đất trời rộng mênh mông, ai là người tri kỷ, lại đây cùng ta cạn bầu rượu này.

Bầu rượu ơi! Bầu rượu ơi! Ta biết rót về đâu.

Rót về phương đông, ngọn biển đông chảy xiết tạo nên những ngọn sóng dữ.

Rót về phương tây, mưa núi tây từng trận chứa chan.

Rót về phương bắc, ngọn gió bấc vi vút cát chạy, đá bay khắp nơi.

Rót về phương nam, giữa trời nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng.

Nào ai tỉnh, nào ai say

chí ta ta biết, lòng ta ta hay

sự nghiệp của nam nhi là theo đuổi chí tang bồng, hồ thỉ

cớ gì mà sụt sùi sầu với cỏ cây.


Đã có nhiều bài viết giải thích, phân tích xuất xứ, ngôn ngữ, chữ nghĩa của Hồ Trường. Ở đây tôi chỉ muốn làm rõ “cái hồn” của bài thơ. Ngoài phần dẫn nhập rất ngắn, bắt đầu từ 2 câu:

          Trời nam nghìn dặm thẳm

          non nước một màu sương

hồn thơ đã nhẹ nhàng xuất hiện. Đến đoạn sau thì tâm sự đã đầy; tâm sự của một “đại trượng phu” trước cảnh “non nước một mầu sương” mà bản thân thì “học chưa thành, danh chưa đạt”, mái đầu đã bạc, cuộc đời đã như “bóng tà dương”, nhìn khắp 4 phương tìm người tri kỷ để cởi mở nỗi lòng. Phép điệp âm ở đây (phương, sương, dương, trường) đã kết chặt những mảnh tâm sự ấy với nhau, tạo thêm sức mạnh cho dòng chảy của thơ.

          Hồ Trường! Hồ Trường! Ta biết rót về đâu?

nỗi lòng bị dồn nén đã bung ra, chí khí, hào khí đã “bốc”, và theo dòng thơ – cũng là dòng cảm xúc, như một dòng sông càng lúc càng chảy xiết – hào khí ở mấy câu sau càng bốc cao hơn nữa. Sau khi hào khí đã lên cao ngất, tác giả hạ giọng xuống như đang thủ thỉ với chính mình:

 Nào ai tỉnh, nào ai say

chí ta ta biết, lòng ta ta hay

nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ

hà tất cùng sầu đối cỏ cây

 Bài thơ kết thúc ở nốt trầm sâu lắng.

 Có rất nhiều người vì yêu thơ mê rượu mà thích cái thi vị hào sảng của bài thơ này. Tôi đã có vài lần ngồi chung với đám bạn bè mê rượu yêu thơ. Khi rượu ngà ngà thường có tiếng đọc thơ. Những lúc đó Hồ Trường thường hay được “tuyển chọn”. Bài thơ tự nó đã “cảm xúc tràn đầy, hồn thơ lai láng”. Trong khung cảnh - không quá đông để xô bồ, ồn ào, không quá vắng để lạc lõng tẻ nhạt - chỉ vừa đủ ấm cúng, thân tình để những lời tâm sự dễ đi vào lòng người. Ôi! Lúc ấy ai nghe cũng thấy máu nóng dồn lên mặt, tỏa ra đôi mắt, thấy hồn chơi vơi bay bổng giữa dòng thơ. Khi bài thơ chấm dứt, có ai đó lên tiếng như muốn đại diện mọi người khen thưởng: “Thật là Hào Khí Ngất Trời!” Nhiều cái đầu gật gù ra chiều đồng ý kèm mấy tiếng nói tuy không đồng nhịp, đồng tông nhưng rất đồng lòng: Hào Khí Ngất Trời! Đúng thế! Hào Khí Ngất Trời.

Hồn thơ trong Hồ Trường chính là hào khí của sĩ phu trước cảnh non nước điêu linh. Đã nói Hào Khí Ngất Trời thì, đối với thơ ca, còn lời khen nào cao hơn nữa?

MỘT CHÚT VÍ VON CHO DỄ HIỂU

Thể thơ: Con mương (kênh, dòng sông).

Ngôn ngữ thơ (chữ, câu) + kỹ thuật thơ ca: Dòng nước luân chuyển trong mương.

Tứ thơ: Con thuyền được dòng nước đưa đi.

Hồn thơ: Gió (xuôi), đẩy con thuyền tứ thơ đi nhanh hơn. Gió không được “sinh ra” từ dòng nước mà đến từ bên trên, bên ngoài dòng nước. Gió càng mạnh tứ thơ trôi càng nhanh, bài thơ càng có hồn.

Bài Thơ Không Hồn Có Cảm Xúc Hay Không?

Dù không có gió con thuyền tứ thơ theo dòng nước vẫn trôi, và có thể cũng trôi tới bến. Trường hợp là thơ, người đọc sành điệu sẽ chê bài thơ không có hồn. Xin quý vị đừng hiểu lầm bài thơ không hồn là không có cảm xúc. Dù không hồn nhưng đã gọi là thơ thì ít nhiều cũng có cảm xúc. Gặp trường hợp này, nếu tác giả yếu tay nghề, bài thơ sẽ khô khốc, đọc chán phèo. Nhưng nếu thi sĩ khéo tay, nhuần nhuyễn kỹ thuật thơ ca thì bài thơ cũng - có chữ “đắt”, câu hay, hình ảnh đẹp, thế trận chữ nghĩa chặt chẽ - có thể khơi dậy một lượng cảm xúc đáng kể trong lòng người đọc. Tuy nhiên, đó chỉ là cảm xúc từ ngôn ngữ thơ, từ kỹ thuật thơ mà tôi gọi là cảm xúc nội tại của bài thơ. Nó khác xa với thứ cảm xúc có được từ hồn thơ. Hồn thơ tươi mát hơn, đằm thắm hơn, gây cảm giác sảng khoái hơn.

Nếu bài thơ không có chút cảm xúc nào ở tầng 3, người ta gọi tác giả của bài thơ đó, không phải là thi sĩ, mà là thợ thơ. Bởi vì cảm xúc tạo được ở tầng 1 và tầng 2 đều do sự “khéo tay” của tác giả (hoàn toàn có tính kỹ thuật) trong việc sử dụng chữ nghĩa, sắp xếp thế trận. Nếu có chút ít cảm xúc ở tầng 3 người ta gọi là bài thơ man mác chất tình. Nhiều cảm xúc hơn chút nữa là bài thơ thắm đượm chất tình. Nhiều hơn nữa là bài thơ có hồn. Cao hơn hết là cảm xúc dâng tràn, hồn thơ lai láng.

KẾT LUẬN

Đọc thơ, ai cũng thích gặp bài thơ chan chứa chất tình, hồn thơ lai láng. Mỗi thi sĩ, đều có cách riêng của mình, réo gọi hồn thơ. Nhưng xin đừng quên kỹ thuật thơ ca - chữ, câu, các biện pháp tu từ và thế trận chữ nghĩa – cũng rất quan trọng. Không có nó thì dù có cao hứng, có “cái gì nhập” đi nữa cũng không thể có bài thơ hay. Tầng 3 chỉ có thể yên tâm phát sinh và phát triển khi nền móng của nó là tầng 1 và tầng 2 vững vàng. Nếu chuyên cần học hỏi, rèn luyện kỹ thuật thơ ca, chú ý lắng nghe tiếng xao động trong tim mình, biết kiên nhẫn đợi chờ, thì nếu may mắn, một lúc nào đó thật bất ngờ, hồn thơ sẽ ập đến.

Galveston, Texas 07/2015

Phạm Đức Nhì



Tham Khảo:

1/ Bài thơ CHẾT

https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7ng_V%C4%83n_B%C3%A1 : theo trang web này thì 2 bài Sống và Chết là của Đặng Văn Bá. Còn hầu hết các trang khác đều ghi là của Phan Bội Châu.




2/ Bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò:

Giấc Mơ Anh Lái Đò: Mối Tình Vô Vọng (Phạm Đức Nhì, t-van.net)

3/ Bài thơ Hồ Trường






Thứ Tư, 15 tháng 6, 2016

LẠI BÀN VỀ TỐNG BIỆT HÀNH


          LẠI BÀN VỀ TỐNG BIỆT HÀNH

           (Trao đổi với nhà văn Châu Thạch)


Cách đây không lâu anh Nguyễn Khắc Phước có thư riêng mời tôi cộng tác với trang web Văn Nghệ Quảng Trị, một trang thuần túy văn học nghệ thuật. Trước khi nhận lời mời tôi có bỏ ra vài buổi dạo qua trang web. Là người làm thơ và bình thơ nên tôi để ý đến những cây bút phê bình văn học và những bài viết của Châu Thạch đã chiếm được cảm tình của tôi với cung cách đứng đắn lịch sự, lời văn hòa nhã.

Hôm nay đọc được bài Đọc Tống Biệt Hành Thơ Thâm Tâm của anh trên Văn Nghệ Quảng Trị (và Văn Đàn Việt) trong đó anh có nhắc đến mấy đoạn trong một bài viết – cũng về Tống Biệt Hành - của tôi nên xin phép được trao đổi với anh trong tinh thần “bạn văn” cùng viết trên một diễn đàn văn học.

Sau đây là những đoạn trong bài viết của tôi được anh đề cập:

     1/ Anh nhắc đến hai đoạn thơ:

          Ta biết người buồn chiều hôm trước
          Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
          Một chị, hai chị cũng như sen
          Khuyên nốt em trai dòng lệ sót


          Ta biết người buồn sáng hôm nay:
          Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
          Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
          Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…


rồi anh viết: Đoạn này có tác giả bình thơ nhận xét rằng “không những tầm thường mà lạ còn hơi ‘sến’ nữa.” Theo anh thì: “Lời thơ kể lể ở đây không phải ‘tầm thường’, không phải ‘sến’ mà nó là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm thét diễn tả nỗi đau trong lòng nhân vật.”  

Theo tôi, hai đoạn thơ đã có những khuyết điểm sau đây:

  • Nói chuyện “chiều hôm trước” mà dùng trạng từ chỉ thời gian “Bây giờ” là  không chính xác. Muốn chính xác, muốn hay, phải dùng từ khác.
  • So sánh “sen nở nốt” với “dòng lệ sót” rất khập khiễng. Những bông sen nở cuối mùa và dòng lệ còn sót lại của mấy người chị vừa khóc vừa khuyên em, hai hình ảnh đó quá xa cách, không tương hợp. Phép “ẩn dụ” không hay.
  • Chữ “dòng” trong cụm từ “dòng lệ sót” giảm giá trị của chữ “sót”.
  • Giời chưa mùa thu tươi lắm thay” là một câu thơ “vô tích sự” bởi nó lạc lõng, thừa thãi, không ăn nhập gì với cả đoạn thơ.
  • Đọc hai câu:
                     Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
                     Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay
    tôi tưởng tượng trước mắt mình một em nhỏ, đôi mắt ngây thơ tròn xoe nhìn người anh sắp đi xa, tay cầm chiếc khăn tay như muốn gói trọn thương tiếc trong lòng mình vào đấy. Ôi! Hình ảnh ấy vừa khô cứng, vừa “cải lương”, lại vừa không thật; ngây thơ đôi mắt biếc như em nhỏ thì biết gì mà thương với tiếc; chữ “tiếc” ở đây hoàn toàn sai.

Trên đây là một vài chi tiết khiến tôi đưa ra nhận xét là hai đoạn thơ “không những tầm thường mà lại còn ‘sến’ nữa.” Anh Châu Thạch cho đó “là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm thét diễn tả nỗi đau trong lòng nhân vật” là quyền của anh. Tôi dành sự phán xét sau cùng cho độc giả.


     2/ Vế chót của bài thơ như sau:

            Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
          Mẹ thà coi như chiếc lá bay
          Chị thà coi như là hạt bụi
          Em thà coi như hơi rượu cay


Có người cho rằng vế thơ này “quá cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình.” Theo anh thì: “Thật ra đây là một vế thơ rất hay, nó cho thấy bút pháp tài hoa của tác giả.”

Tôi không nghĩ như vậy. Trên bề mặt chữ nghĩa 3 câu cuối rõ ràng là cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình. Hơn nữa, đó không phải là tâm trạng, cách suy nghĩ của chính người ra đi nói ra mà chỉ là sự võ đoán của người đưa tiễn. Cho nên nếu nói đến giá trị nghệ thuật thì mấy câu thơ ấy chỉ như là rượu giả, khó làm vừa lòng những tay sành rượu.

      3/ Hoài Thanh không ưu ái với nhà thơ Thâm Tâm mà Hoài Thanh chọn Tống Biệt Hành để đưa vào Thi Nhân Việt Nam với sự công tâm đánh giá nghệ thuật như bao bài thơ của các tác giả khác thời bấy giờ. Uy tín của Hoài Thanh đủ khẳng định cho Tống Biệt hành có giá trị nghề thuật cao.

Tôi đồng ý với anh Châu Thạch là TBH phải hay, phải có giá trị nghệ thuật ở mức độ nào đó, phải hợp “gu” với Hoài Thanh thì mới được ông tuyển chọn đưa vào Thi Nhân Việt Nam. Nhưng được Hoài Thanh tuyển chọn lại là con dao hai lưỡi. Thời gian qua đi, cách nhìn nhận và đánh giá thơ ca thay đổi, uy tín của Hoài Thanh - đặc biệt lúc ông còn sống - khiến người yêu thơ e ngại khi phải đưa ra những ý kiến trái ngược hoặc khác với nhận định của ông. “Sợ” uy quyền của ông cũng có nhưng cái sợ lớn nhất là sợ bước vào một trận chiến không cân sức với một đối thủ quá mạnh. Anh Châu Thạch còn viết rằng: “Truyện Kiều của Nguyễn Du mà còn có người dám chỉnh sửa lại thì Tống Biệt Hành là cái gì mà 75 năm qua mọi người nhắm mắt tán tụng nó theo Hoài Thanh.” Theo tôi, chỉnh sửa một điểm nào đó trong truyện Kiều không khó vì không bị đè nặng bới một sức ép chính trị tâm lý nào. Miễn là anh có kiến thức rộng về văn học, thơ ca và đủ tự tin để viết. “Đụng” vào TBH là “đụng” vào cả một chính sách lớn của nhà nước trong hoàn cảnh chiến tranh, lúc người chống lưng cho nó vừa có văn tài, vừa có quyền uy ngất ngưởng trong lãnh vực bình phẩm văn chương.


        4/ Chình quyền miền Bắc và miền Nam trước 1975 có hàng vạn bài thơ phục vụ cho chế độ mình trực tiếp và cụ thể, đâu cần chi một bài thơ Tống Biệt Hành nói về một sự ra đi vu vơ không mục đích rõ ràng.

Những bài thơ viết để trực tiếp phục vụ chế độ (ở miền nam có một số bản nhạc như vậy nhưng thơ thì không nhiều), đọc lên đã sặc mùi tuyên truyền. Tác giả loại thơ này thường là người nằm trong bộ máy chính quyền, chức vụ không cao, viết vì công việc, vì “cái ghế”, vì miếng cơm manh áo. Cả tác giả lẫn tác phẩm đều bị coi thường, khinh rẻ. Thậm chí đọc phải những bài thơ này có người còn bực bội chửi thề ngay cả trước mặt công chúng. (Con số hàng vạn của anh Châu Thạch tôi e rằng quá lố).

Chỉ có những bài thơ tác giả có tay nghề cao, viết bằng trái tim mình, bày tỏ cảm xúc thật của mình nhưng ý tứ của bài thơ lại tình cờ phù hợp với đường lối, chính sách của chính phủ nên được phổ biến trong quảng đại quần chúng. Vâng! Chính những bài thơ ấy mới hấp dẫn người đọc, mới thôi thúc người đọc đi theo, làm theo tiếng gọi của tứ thơ (hoặc ý thơ). TBH nằm trong số những bài thơ ấy.


       5/ Bài thơ được đưa vào nhà trường tức là được chọn lọc. Thêm một lần nữa khẳng định giá trị nghệ thuật cao của bài thơ. (Điều này không phải lúc nào cũng đúng.) Nhiều năm qua kể từ khi bài thơ được giảng dạy đến nay, không có dư luận nào chê trách việc giảng dạy Tống Biệt Hành. Điều đó chứng tỏ giá trị nghệ thuật của Tống Biệt Hành được đánh giá đúng nên không có sự phản hồi, phản bác, đối nghịch trong công luận.

Vào trường học là có giáo án, thi cử. Thử hỏi có học sinh nào dám đem tương lai của mình để đánh đổi lấy một cơ hội được phản bác điều mình được dạy trong trường lớp? Có thầy, cô giáo nào dám dạy sai giáo án để phí công bao năm đèn sách ở các trường cao đẳng hay đại học sư phạm? Vả lại, nếu người phản bác không có thực tài, không chọn đúng thời điểm có phong trào, có cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca mới, không có sự hỗ trợ của một vài nhân vật có chức quyền trong ngành, những ý kiến phản bác sẽ như muối bỏ bể, rơi vào quên lãng.

Giá Trị Nghệ Thuật Của Tống Biệt Hành

  1/ Khuyết điểm

Ngoài những khuyết điểm ở hai đoạn thơ nói về chị và em TBH còn có những yếu kém sau đây:

  • Câu “Đưa người ta chỉ đưa người ấy” có vẻ ngây ngô và đóng góp rất ít cho bài thơ.
  • Cái dở nhất của TBH, theo tôi, là có nhiều đoạn người ra đi không được bày tỏ trực tiếp mà cảm xúc, tâm trạng của anh ta lại do người tống biệt võ đoán và nói hộ. Độc giả có cảm giác như được Thâm Tâm mời đến thưởng thức món thuốc lá gia truyền rất ngon, nhưng khi gặp nhau thì chỉ được hút một, hai hơi; sau đó là ngồi ngửi khói (hút gián tiếp). Lời khuyên “Làm thơ nên viết ở ngôi thứ nhất” đã bị vi phạm mà không có lý do chính đáng.

  2/ Ưu điểm

Dù vậy TBH cũng vẫn là một bài thơ hay. Chỉ với 4 câu đầu tác giả đã khắc họa một cách tài tình tâm trạng của người đưa tiễn – và với khả năng quan sát tinh tế, đã “bắt” được nỗi buồn của người ra đi:

     Đưa người ta không đưa qua sông

     Sao có tiếng sóng ở trong lòng

     Bóng chiều không thắm không vàng vọt

     Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong

Để tả cảnh chia ly 4 câu thơ này có thể hiên ngang đọ sức với bất cứ câu thơ hay nào của bất cứ tác giả nào trong Phong Trào Thơ Mới.


Cái độc đáo nữa của TBH là Điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi, gân guốc, không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. (1)

Đứng bên cạnh những bài thơ có âm điệu du dương như hầu hết thơ mới thời ấy TBH có dáng dấp độc đáo, gây được sự chú ý ngay từ hình thức bề ngoài của bài thơ.


Cái hay nhất của TBH là - mặc dù nhân vật và khung cảnh khác xa nhau – đã gợi được không khí hào hùng, bi tráng của cuộc chia ly nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa: Thái Tử Đan tiễn Kinh Kha sang sông Dịch để ám sát Tần Thủy Hoàng. Người đọc, đặc biệt là nam nhân, cảm thấy hào khí bốc lên cao ngất, thân này kể bỏ, gia đình (mẹ, chị và em) cũng coi như không có, vì lý tưởng, vì nước quyết ra đi để thỏa mãn chí lớn của người trai.

          Chí lớn không về bàn tay không

          Thì không bao giờ nói trở lại

          Ba năm mẹ già cũng đừng mong.  

Tôi hoàn toàn đồng ý với Châu Thạch khi anh viết:

Đoạn nầy ý nói người ra đi sẽ không quay về khi chí lớn chưa thành, dầu mẹ có chết ba năm sau ngày giáp cử cũng không về để tang mẹ được. Những câu thơ ở vế thơ nầy thật rắn rỏi nêu lên sự quyết tâm của người ra đi vì chí lớn. Lời thơ như hịch xuất quân, như lời thề non nước.


Tóm lại, nếu đặt ưu và khuyết điểm lên bàn cân thì TBH vẫn là một bài thơ hay. Ưu điểm rất độc đáo và gây được ấn tượng sâu sắc nơi người đọc. Có những đoạn thơ thường được ngâm nga trong những buổi họp mặt của thanh niên trước lúc lên đường. Nhưng khuyết điểm cũng không ít trong đó có cả khuyết điểm căn bản trong việc sáng tác thơ ca.



Riêng về tứ thơ thì tôi cho rằng tứ thơ của TBH là một thứ dây leo chùm gởi, phải nhờ vào cái bóng của một “khung cảnh lịch sử” ở tận bên Trung Quốc để có được sức hấp dẫn người đọc như nó đã có. Hơn nữa, như đã phân tích ở trên, rượu trong bữa tiệc thơ TBH là rượu giả; cảm xúc (ngoài hai câu đầu) không phải là thứ  “tông” phát xuất từ chính trái tim người tống biệt mà chỉ là cảm xúc của người ra đi được người tống biệt đoán ra. Khách mời của bữa tiệc TBH tưởng như mình sắp sửa qua sông Dịch để cứu muôn triệu dân lành. Rót rượu đầy ly, nâng cao và hô một tiếng “dzô” thật lớn rồi uống cạn để thấy hào khí trong người mình dâng lên cao ngất. Đến khi tỉnh dậy sau cơn say khướt, thấy nhức đầu một cách khó hiểu nhưng cũng không biết là mình uống phải rượu giả, toàn nước lã pha cồn.


Hồ Trường (Nguyễn Bá Trác) thì hoàn toàn khác. Khung cảnh thật, rượu thật, tâm sự được chính tác giả thốt ra trong lúc ngà ngà say, không có bàn tay “gạn đục khơi trong” của lý trí nên cũng rất thật. Và hào khí, thì dù người đọc có say hay tỉnh, cũng thấy bốc cao ngất trời và nóng bỏng.


Trong trò chơi bình thơ, với tôi, chê lầm một câu (bài) thơ hay hoặc khen lầm một câu (bài) thơ dở là một lỗi nặng, ảnh hưởng đến uy tín của người bình thơ. Tuy nhiên, ở đời ai chẳng có lúc lỗi lầm? Miễn là sau đó mình cố gắng học hỏi và sửa chữa. Nhưng bình một bài thơ mà – vì một lý do nào đó ngoài thơ - thấy một điểm hay mà không dám khen, thấy một điểm dở mà không dám chê thì theo tôi, là một cái tội, tội với lương tâm mình và tội với thơ. Cho nên khi bình thơ, tôi khen chê thẳng thắn đúng với sự hiểu biết và cảm nhận của mình lúc đó. Vì thế bài viết của anh Châu Thạch đã cho tôi cơ hội đọc kỹ lại Tống Biệt Hành và giải thích thêm một số chi tiết mà tôi – vì muốn hướng sự chú ý của độc giả vào những điểm chính – đã bỏ qua. Và chuyện đúng sai xin nhường cho độc giả phán xét.


Với bài thơ TBH anh Châu Thạch và tôi có vài chỗ ý kiến khác nhau. Đó cũng là chuyện thường tình trong bình phẩm thơ ca. Trong Văn Nghệ Quảng Trị anh Châu Thạch có số bài gấp nhiều lần số bài của tôi. Anh là cựu binh, còn tôi là lính mới. Cũng may là trên chốn văn chương nên tôi mới dám mạnh dạn trao đổi với anh. Qua hai bài viết, một của anh và một của tôi, xin được nói riêng với anh Châu Thạch, cả hai chúng ta đều có lợi. Và biết đâu những độc giả đọc bài của chúng ta cũng đang rung đùi, gật gù khoái chí.


Chú thích:

1/ Chữ của Hoài Thanh

Galveston, Texas 10/18/15

PHẠM ĐỨC NHÌ

nhidpham@gmail.com



Phụ Lục:


Châu Thạch

ĐỌC “TỐNG BIỆT HÀNH” THƠ THÂM TÂM

                                              


 TỐNG BIỆT HÀNH


Đưa người, ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?


Đưa người ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình một dửng dưng…

Li khách! Li khách! Con đường nhỏ

Chí nhớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm mẹ già cũng đừng mong


Ta biết người buồn chiều hôm trước

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt

Một chị, hai chị cũng như sen

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót


Ta biết người buồn sáng hôm nay:

Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…


Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu cay ./.

                          Thâm Tâm


Lời Bình: Châu Thạch


Bài thơ “Tống Biệt Hành” được nhà thơ Thâm Tâm sáng tác vào khoảng năm 1940. Kể từ khi ra đời đến nay đã trên 75 năm bài thơ luôn luôn được yêu thích và đã được đưa vào sách giáo khoa của học đường. Hành là một thể thơ cổ, thường được xử dụng để diễn tả một tâm trạng bi phẩn, bi hùng. Bài thơ “Tống Biệt Hành” của Thanh Tâm có hai nhân vật, người đưa tiễn và người ra đi. Tâm trạng của người ra đi được biểu hiện qua lời của người đưa tiễn và ngược lại, tâm trạng của người đưa tiễn cũng là tình cảm của người ra đi.

Vào đề với bốn câu thơ, tác giả đã cho ta nghe sự va đập dồn dập của nhiều âm thanh:


Đưa người, ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?


Vế thơ có nhiều chữ “không” và lạ thay, nội chứa trong chữ “không” đó nẩy sinh chữ “có”: Không sông thì lại có tiếng sóng, không thắm thì có mắt trong, không vàng vọt thì có hoàng hôn. “Không” và “có” là hai từ đối lập nhau, lại hoà hợp trong vế thơ nầy, tạo thành âm thanh biểu hiện nỗi ấm ức trong lòng. Đọc vế thơ ta thấy ngay nhiều nghịch lý xảy ra giử cảnh và người đưa tiễn cũng như người ra đi. “Đưa người, ta không đưa qua sông/ Sao có tiếng sóng ở trong lòng?” là nghịch lý xảy ra đối với người đưa tiễn, và “Bóng chiều không thắm, không vàng vọt/ Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?” là nghịch lý xảy ra đối với người ra đi. Khung cảnh bên ngoài đối chọi với tình cảm trong lòng là một nghệ thuật điêu luyên trong sáng tác. Tác giả dùng phương pháp “tá khách hình chủ” nghĩa là mượn cái nầy để làm nổi bậc cái kia giống như Nguyễn Du đã dùng cái đẹp của Thuý Vân để gần cái đẹp của Thuý Kiều, làm cho Thuý kiều nổi bậc thêm lên. Ở đây Thâm Tâm đã dùng hai sự kiện “không” và “có”, mục đích dùng cái không của không gian để làm nổi cộm lên cái có trong tâm hồn. Cái có ở đây là nỗi buồn ly biệt.

Qua vế thứ hai của bài thơ:


Đưa người, ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình một dửng dưng...

Li khách! Li khách! Con đường nhỏ

Chí lớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm mẹ già cũng đừng mong


Đoạn nầy ý nói người ra đi sẽ không quay về khi chí lớn chưa thành, dầu mẹ có chết ba năm sau ngày giáp cử cũng không về để tang mẹ được. Những câu thơ ở vế thơ nầy thật rắn rỏi nêu lên sự quyết tâm của người ra đi vì chí lớn. Lời thơ như hịch xuất quân, như lời thề non nước.

Qua hai vế thơ kế tiếp như sau:


Ta biết người buồn chiều hôm trước

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt

Một chị, hai chị cũng như sen

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót


Ta biết người buồn sáng hôm nay:

Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...


Đoạn nầy có tác giả bình thơ nhận xét rằng “Không những tầm thường mà còn hơi “sến” nữa”. Thật ra nhà thơ Thâm Tâm rất rành tâm lý. Ở hai vế thơ trên biểu hiện niềm đau quặn thắt trong lòng người đưa tiễn, sự xúc động đã dâng lên cao độ khi thốt lên tiếng kêu đau thương “Li khách! li khách!”. Qua hai vế thơ nầylời thơ trở nên kể lể vì niềm đau đã được nén xuống, hơi thở nhẹ đi, con tim bình tịnh lại.Nỗi đau không còn là ngọn lửa bùng lên nữa mà bây giờ nó là ngọn lửa âm ỉ đốt cháy trong lòng. Lời thơ kể lể ở đây không phải là “tầm thường”, không phải là “sến” mà nó là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm thét diễn tả nỗi đau trong lòng nhân vật.


Vế chót của bài thơ như sau:


Người đi:? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như ly rượu cay


Có người cho rằng vế thơ nầy “Quá cứng cỏi. lạnh lùng và vô tình”. Thật ra đây là một vế thơ rất hay, nó cho thấy bút pháp tài hoa của tác giả. Những điều mà người ra đi phủ nhận trong vế thơ nầy chính là những điều mà người ra đi canh cánh bên lòng.Chữ “thà” ở đây không có nghĩa là “ xem như không có” mà chữ “thà” ở đây có nghĩa là “không bỏ đi được”. Nếu người ra đi ngày ấy xem mẹ như lá, chị như bụi và em như ly rượu cay thì người đó không đáng để đưa vào thơ. Ta hãy đọc một đoạn thơ có chữ “thà” trong bài “Khúc Tình Buồn” của Nguyễn tất Nhiên để hiểu thêm về chữ “thà’ của Thâm Tâm: “ Người từ trăm năm/ về qua sông rộng/ ta ngoắc mòn tay/ trùng trùng gió lộng/ thà như giọt mưa/ vỡ trên tượng đá/ thà như giọt mưa/ khô trên tượng đá/ có còn hơn không...”. Ta thấy rằng, khi người yêu qua sông, Nguyễn Tất Nhiên ngoắc mòn tay gọi người yêu trong vô vọng. Lúc đó nhà thơ càng dùng chữ “thà” thì càng đau đớn gấp bội. Tình yêu lúc đó càng mảnh liệt đến nỗi nhà thơ muốn “Thà như giọt mưa” thì vẫn còn có để đến với em hơn là không chi hết. “Thà” của Nguyễn tất Nhiên và Thâm Tâm là từ ngữ đã vượt ra ngoài nghĩa của cái chữ thường tình. Nó khẳng định một tình yêu mảnh liệt với người yêu trong thơ Nguyễn Tất Nhiên và nó cũng khẳng định một tình yêu mảnh liết với mẹ, với chị, với em trong thơ Thâm Tâm. 


Gần đây có ý kiến cho rằng “Mức độ nổi tiếng của Tống Biệt Hành không tương xứng với giá trị nghệ thuật của nó vì các lý do sau:


-           Được Hoài Thanh là nhà phê bình danh tiếng ưu ái giới thiệu trong Thi Nhân Việt Nam. Do đó người sau vì uy tín của Hoài Thanh và Thi Nhân Việt nam cứ thế ca ngợi, tán dương theo.


-           Được cả chính quyền miền Bắc và miền Nam Việt Nam cần người lên đường phục vụ cho chế độ nên giúp sức phổ biến vì lý do chính trị.


-           Được đưa vào nhà trường giảng dạy nên thầy giáo, học sinh cứ tán tụng, không dám bày tỏ ý kiến đối nghịch vì sợ bị trù dập.”

Nhận xét như thế tôi cho là quá bất công với Tống Biệt Hành vì:


-           Hoài Thanh không ưu ái với nhà thơ Thâm Tâm mà Hoài Thanh chọn Tống Biệt Hành để đưa vào Thi Nhân Việt Nam với sự công tâm đánh giá nghệ thuật như bao bài thơ của các tác giả khác thời bấy giờ. Uy tín của Hoài Thanh đủ khẳng định cho Tống Biệt hành có giá trị nghề thuật cao. Truyện Kiều của Nguyễn Du mà còn có người dám chỉnh sửa lại thì Tống Biệt Hành là cái gì mà 75 năm qua mọi người nhắm mắt tán tụng nó theo Hoài Thanh. Điều đó không thể nếu tự Tống Biệt Hành không có giá trị ngang tầm với danh của nó.


-           Chình quyền miền Bắc và miền Nam trước 1975 có hàng vạn bài thơ phục vụ cho chế độ mình trực tiếp và cụ thể, đâu cần chi một bài thơ Tống Biệt Hành nói về một sự ra đi vu vơ không mục đích rỏ ràng.


-           Bài thơ được đưa vào nhà trường tức là được chọn lọc. Thêm một lần nữa khẳng định giá trị nghệ thuật cao của bài thơ. Nhiều năm qua kể từ khi bài thơ được giảng dạy đến nay, không có dư luận nào chê trách việc giảng dạy Tống Biệt Hành. Điều đó chứng tỏ giá trị nghệ thuật của  Tống Biệt Hành được đánh giá đúng nên không có sự phản hồi, phản bác, đối nghịch trong công luận.


Thật ra với thời gian 75 năm, kịnh nghiệm cho ta thấy có nhiều tác phẩm hời hợt, được vinh danh gượng ép vì một lý do nào đó đã lần lược mai mọt hết với thời gian rồi. Riêng Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, nó vẫn còn sống thắm tươi trên diễn đàn văn học và trong lòng nhiều thế hệ. Nó không chết đâu, và mức độ nổi tiếng của nó rất tương xứng với giá trị nghệ thuật của chính nó vì Tống Biệt Hành là khúc ca tiễn biệt rất hay mà tiễn biệt thì ở thời đại nào cũng có xảy ra ./.


                                                                Châu Thạch