VẦN QUẨN TRONG TRUYỆN KIỀU
Đọc kỹ Truyện Kiều vài lần tôi ghi nhận được 121 đoạn vần quẩn. Đoạn ngắn nhất 7 câu, đoạn dài nhất
15 câu. Tổng Cộng 937 câu.
Vậy vần quẩn là gì?
Mở Đầu Bằng
Một Đoạn Kiều Có Vần Quẩn
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Lựa chi những bậc tiêu tao
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người
Rằng: Quen mất nết đi rồi
Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!
Lời vàng vâng lĩnh ý cao,
Họa dần dần bớt chút nào được không!
(Câu 490 đến 496)
Chuỗi vần
“nào tao nao” mới chuyển qua “nguời rồi trời” đã quay lại “sao cao nào”, nghĩa là mới “đi dăm phút
đã về chốn cũ”. “Dăm phút” ở đây là khoảng cách một cặp lục bát. Âm vang của vần
loãng đi ít nhiều sau khoảng cách đó nên, khác với vần ngang câu bát, 4 cặp vần
quẩn (6 chữ) phải toàn là chính vận mới tạo được cảm giác nhàm chán vần tương đối
rõ nét.
Nhưng
không phải lúc nào 6 chữ tạo vần quẩn cũng ăn vần chính vận. Sự thay đổi từ 6
chữ đó, cộng với một số chi tiết khác, làm độ nhàm chán của đoạn vần quẩn thay
đổi. Tùy độ nhàm chán, tôi chia vần quẩn làm 5 loại: Nhàm chán rõ rệt, mấp mé nhàm chán rõ rệt, nghiêng về phía nhàm chán, nằm trên đường biên và không
nhàm chán.
Trước
khi đi vào chi tết của từng loại vần quẩn tôi xin đưa vào 8 cái links dẫn đến
những tư liệu về Vần Quẩn Trong Truyện Kiều để độc giả khỏi mất công đọc cả văn
bản 3254 câu để lục tìm.
1/ 121 Đoạn
Vần Quẩn Trong Truyện Kiều Theo Thứ Tự
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/121-oan-van-quan-trong-truyen-kieu-theo_3.html
2/ 121 Đoạn
Vần Quẩn Trong Truyện Kiều Đã Phân Loại
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/121-oan-van-quan-trong-truyen-kieu-phan.html
3/ 16 Đoạn
Vần Quẩn Nhàm Chán Rõ Rệt
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-nham-chan-ro-ret.html
4/ 20 Đoạn
Vần Quẩn “Mấp Mé” Nhàm Chán Rõ Rệt
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-map-me-nham-chan-ro-ret.html
5/ 22 Đoạn
Vần Quẩn Nghiêng Về Phía Nhàm Chán
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-nghieng-ve-phia-nham-chan.html
6/ 58 Đoạn
Vần Quẩn Tạo Cảm Giác Nhàm Chán (Tổng số 3 loại vần quẩn nhàm chán).
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-tao-cam-giac-nham-chan-van.html
7/ 29 Đoạn
Vần Quẩn Nằm Trên Đường Biên
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-nam-tren-uong-bien.html
8/ 33 Đoạn Vần Quẩn
Không Gây Hội Chứng Nhàm Chán Vần
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-nhung-khong-nham-chan.html
Ngoài ra còn có một đoạn
tác giả vướng vào vần quẩn để làm nổi bật một thủ pháp nghệ thuật. Vì chỉ có một
đoạn nên xin được đưa lên đầu để khỏi bị lạc.
Thủ Pháp Nghệ Thuật Vô Hiệu Hóa Hội Chứng Nhàm Chán Vần
Trong Truyện Kiều có một đoạn vần quẩn đáng chú ý:
Bước vào, vừa rắp thị hùng
ra tay
Nàng rằng: Trời nhé có hay!
Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai?
Đem người dẩy xuống giếng khơi
Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!
Còn tiên Tích Việt ở tay
Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai?
Lời ngay, đông mặt trong ngoài
Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương!
(Câu 1178-1186)
Trong đoạn này 3 câu bát có
vần ngang kết hợp với 3 lần vần quẩn tạo nên 4 chuỗi liên tiếp 12 chữ “cùng vần”; vì thế hội chứng nhàm chán vần rất nặng. Nhờ thủ pháp nghệ thuật – làm nổi bật
cảnh Thúy Kiều vạch mặt và sỉ vả Sở Khanh – nên hội chứng nhàm chán vần đã được
“trung hòa”.
Nhàm Chán Vần Rõ Rệt
Điều kiện
cần là cả 6 chữ tạo vần quẩn đều ăn vần chính vận. Cũng có truờng hợp ngoại lệ
(nhưng rất hiếm) nếu có một số chi tiết khác xuất hiện. (Mời xem giải thích ở
thí dụ số 4).
Trong số
121 đoạn vần quẩn,
theo tôi, 16 đoạn có
hội chứng nhàm chán vần rõ rệt. Sau đây là vài thí dụ:
1/
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Dở dang nào có hay gì,
Đã tu tu trót quá thì thì thôi!
Trùng sinh ân nặng bể trời,
Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
Ông rằng: Bỉ thử nhất thì,
Tu hành thì cũng phải khi
tòng quyền
(Câu
3046-3052)
Ngoài 6
chữ ở vị trí gieo vần (chi gì thì đi thì
khi) – toàn là chính vận - còn thêm 2 chữ thì (màu xanh) đi lang thang nhưng âm vang cũng “dính líu” làm độ ngọt của vần
tăng lên.
2/
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây
Những là phiền muộn đêm ngày
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
Chế khoa gặp hội trường văn
Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày
Cửa trời rộng mở đường mây
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần
Chàng Vương nhớ đến xa gần
Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền
Tình xưa ân trả nghĩa đền
Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần
Chàng từ nhẹ bước thanh vân
Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương
(Câu 2856-2868)
Chỉ cần
7 câu dưới là độ ngọt của vần đã đủ chán. Thêm 5 câu kế (phía trên) – dù có chữ “xuân” là thông vận gần - âm điệu ầu ơ cũng gia tăng. Rồi còn
âm vang của chuỗi vần “đây ngày thay
ngày mây bay” khiến hội chứng nhàm chán vần càng thêm trầm trọng.
3/
Khéo vô duyên ấy là mình với ta.
Đã không duyên trước chăng mà
Thì chi chút ước gọi là duyên sau
Sắm xanh nếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa
Trải bao thỏ lặn ác tà
Ấy mồ vô chủ, ai mà
viếng thăm!
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu
sa
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là
lời chung
Phũ phàng chi bấy hoá công
Ngày xanh mòn mỏi má hồng
phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta
Khéo thay thác xuống làm ma
không chồng.
(Câu 74-88)
Mặc dầu có chữ “hoa” ở câu thứ 5 là “thông vận gần”
với vần “a”, nhưng vì lực lượng tạo vần quá đông - quẩn đi, quẩn lại đến 3 lần,
mà lại toàn là chính vận - nên hội chứng nhàm chán vần vẫn rất nặng.
4/
Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.
Thẹn mình đá nát vàng phai
Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
Nàng rằng: Chiếc bách sóng đào
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may
Chút thân quằn quại vũng lầy
Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
Cũng liều một giọt mưa rào
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay
Xót vì cầm đã bén dây
Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta
(Câu 1954-1964)
Chỉ cần một lần vần quẩn với 6 chữ “sao đào nào sao rào vào” cũng đủ tạo hội chứng nhàm chán
vần. Thêm hai lần quẩn với 9 chữ “ai
phai lời may lầy rày hay dây ngày” càng làm cảm giác chán ngán sâu đậm thêm.
Giả sử có chữ vần “au”
nào đó thay vào một trong 6 chữ vần “ao”, đoạn
thơ vẫn được coi là có hội chứng nhàm chán vần rõ rệt. Lý do: Có âm vang của 3
chuỗi vần (9 chữ) hỗ trợ.
Dưới đây là 16
đoạn vần quẩn đã tạo cảm giác nhàm chán vần rõ rệt:
Câu 74-78, 286-296, 490-496, 1108-1114,
1686-1692, 1696-1710, 1954-1964, 2104-2110, 2430-2436, 2488-2498, 2570-2580,
2856-2868, 2950-2956, 2974-2982, 3046-3052, 3064-3070.
Độc giả có thể đọc - mà không phải lục tìm trong
văn bản Truyện Kiều – theo link số 3 ở trên.
Mấp Mé “Nhàm Chán Rõ Rệt”
Nếu
thay vì 6 chữ tạo vần quẩn đều là chính vận (như ở trên), đoạn thơ chỉ có 5 chữ
- chữ còn lại là thông vận gần hoặc thông vận – thi nó được xếp vào loại “mấp mé nhàm chán rõ rệt”.
Thí dụ:
1/
Một nhà huyên với một Kiều
ở trong
Nhìn càng lã chã giọt hồng
Rỉ tai nàng mới giải lòng thấp cao
Hổ sinh ra phận thơ đào
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
Lỡ làng nước đục bụi trong
Trăm năm để một tấm lòng từ đây
(Câu 874 đến 880)
Chữ “hồng” là thông vận gần với vần “ong”nên độ chán ngán của đoạn thơ cũng
không xa mức “rõ rệt” bao nhiêu. Vì thế, theo tôi, nó cũng đủ ngọt để được xếp
vào loại “mấp mé nhàm chán vần rõ rệt”.
2/
Ngụ tình tay thảo một
thiên luật Đường
Nàng rằng: Vâng biết lòng chàng
Lời lời châu ngọc hàng
hàng gấm thêu.
Hay hèn lẽ cũng nối điêu
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang
Lòng còn gửi áng mây vàng
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay
(Câu 1314-1320)
Mặc dù chữ “đường” là thông vận (không phải thông vận gần), 5 chữ
chính vận (ang) cũng tạm đủ, lại thêm
2 chữ “hàng ngang” (ở ngoài vị trí gieo vần)
cũng xía vào đóng góp chút âm vang nên đoạn thơ càng dễ dàng bước vào hàng “mấp
mé”.
3/
Để ai trăng tủi hoa sầu vì
ai
Phủ đường nghe thoảng vào tai
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây
Sụt sùi chàng mới thưa ngay
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân
Nàng đà tính hết xa gần
Từ xưa nàng đã biết thân có rày
Tại tôi hứng lấy một tay
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi
(Câu 1436-1444)
Chuỗi 5 chữ vần “ay” đã tạm đủ, lại thêm 4 chữ thông vận
ở trên (ai tai lời tây) giúp đoạn thơ ung dung trụ ở hàng “mấp mé”
Theo ghi nhận của tôi thì
trong số 121 đoạn vần quẩn của Truyện Kiều có 20 đoạn “Mấp Mé Nhàm Chán Vần Rõ Rệt”:
460-466, 546-552, 830-836, 840-846,
874-880, 1304-1310, 1314-1320, 1436-1444, 1606-1612, 1792-1798, 1802-1808,
1920-1926, 2078-2084, 2292-2298, 2482-2488, 2522-2528, 2624-2630, 2684-2694, 2874-2880,
3082-3088.
Độc giả có thể đọc cả 20 đoạn theo link
số 4 ở trên.
Nghiêng Về Phía Nhàm Chán.
Nếu độ
ngọt của vần ít hơn loại “mấp mé nhàm chán vần” chút ít – nghĩa là phải có ít
nhất 4 chữ chính vận và một hoặc vài chi tiết khác hỗ trợ - đoạn thơ sẽ được xếp
vào loại “Nghiêng Về Phía Nhàm Chán”.
Xin mời
đọc 2 thí dụ sau đây:
1/
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già
Từ nghe vườn mới thêm hoa
Miệng người đã lắm tin nhà thì không
Lửa tâm càng dập càng nồng
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa
Ví bằng thú thật cùng ta
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên
(Câu 1534-1540)
Chỉ có
4 chữ chính vận (già nhà ta là) lại
có đóng góp của 2 chữ “hoa” là thông
vận gần, có âm vang không khác vần “a” bao nhiêu, nên tôi xếp đoạn thơ vào loại
“nghiêng về phía nhàm chán”
2/
Ra vào một mực nói cười như không
Đêm ngày lòng những dặn lòng
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên
Lời tan hợp nỗi hàn huyên
Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng
Tẩy trần vui chén thong dong
Nỗi lòng ai ở trong lòng
mà ra
(Câu 1566-1572)
Có 3 chữ vần “ong”(lòng dong lòng) và 3 chữ vần “ông” (không hồng nồng) âm vang không được gần
nhau như “a” với “oa” nhưng nhờ có 3 chữ vần “ong” (lòng thong lòng) đi lang thang
cũng đóng góp đáng kể cho âm vang của của vần “ong” nên tôi có thể mạnh dạn xếp
đoạn thơ vào loại “nghiêng về phía nhàm chán”
Theo cách nhìn nhận của tôi, trong
Truyện Kiều có 22 đoạn vần
quẩn thuộc loại “nghiêng về phía nhàm chán”:
450- 456, 466- 472, 710-716, 758-766, 792-798,
964-970, 1256-1268, 1268-1274, 1352-1362, 1378-1384, 1534-1540, 1566-1572,
1580-1594, 1884-1890, 1938-1944, 2042-2052, 2052-2058, 2212-2218, 2630-2636,
2648-2654, 2982-2988.
Độc giả có thể đọc 22 đoạn này theo
link số 5.
Cả 3 loại vần quẩn trên đây (độ ngọt
cao thấp khác nhau) đều ít nhiều cho độc giả cảm giác nhàm chán. Tôi xếp chúng
vào chung một khu có tựa “58 Đoạn Vần Quẩn
Tạo Cảm Giác Nhàm Chán” để độc giả dễ
dàng tham khảo theo link số 6.
Nằm Trên Đường Biên
Có một số đoạn vần quẩn mà độ ngọt nhiều
hơn sự cần thiết chút ít (để làm trơn dòng chảy của ý tứ) nhưng chưa đủ để xếp
vào loại “nghiêng về phía nhàm chán” và cũng không thể xếp vào loại “không có hội
chứng nhàm chán vần”. Nó là những đoạn vần quẩn “nằm trên đường biên”.
Sau đây là 2 thí dụ:
1/
Ơn lòng quân tử sá gì của rơi.
Chiếc thoa nào của mấy mươi
Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!
Sinh rằng: Lân lý ra vào
Gần đây nào phải người nào xa xôi.
Được rày nhờ chút thơm rơi
Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!
(Câu 308-314)
Đoạn thơ có 5 chữ “mươi người rơi rơi xôi” ăn vần thông vận,
có âm vang không được gần gũi lắm (chữ “tài”
xa quá), may nhờ chữ “người” ở vị trí không
gieo vần “ké” vào làm độ ngọt của đoạn thơ gia tăng chút xíu để được nằm trên đường biên giữa một bên có nhàm chán vần
(3 hạng bậc) và bên kia không có.
2/
Còn vầng trăng bạc còn lời
nguyền xưa
Quả mai ba bảy đương vừa
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì
Dứt lời nàng vội gạt đi
Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
Một lời tuy có ước xưa
Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều
(Câu 3074-3080)
Bốn chữ vần “ưa” (xưa vừa xưa mưa) bị chia cách nhưng kết
hợp với hai chữ “tơ giờ”, cũng có ít
nhiều độ ngọt để có thể được xếp vào loại “nằm trên đường biên”
Và đây là 29 đoạn vần quẩn nằm trên đường biên:
54-60, 308-314, 348-354,
394-400, 530-536, 610-616, 766-780, 906-914, 1034-1040, 1040-1046, 1118-1126,
1224-1230, 1460-1466, 1480-1486, 1514-1520, 1554-1560, 1664-1670, 1810-1816, 1836-1842,
2384-2390, 2422-2428, 2466-2472, 2512- 2518, 2612-2618, 2762-2768, 2856- 2862, 2992-2998,
3036-3042, 3074-3080.
Độc giả có thể đọc 29 đoạn “nằm trên đường biên” này ở link số 6.
Vần Quẩn Nhưng Không Tạo Hội Chứng Nhàm Chán Vần:
Nếu những đoạn
vần quẩn mà 6 chữ “quẩn” là thông vận (hoặc thông vận xa) với nhau (theo thứ hạng
chính vận, thông vận gần, thông vận, thông vận xa,
cưỡng vận và lạc vận) thì chúng thuờng không có hội chứng nhàm chán vần.
Nếu có 2 hoặc 3 chữ ăn vần
chính vận với nhau thì chúng cũng bị ngăn cách bởi những chữ thông vận hoặc thông
vận xa. Có trường hợp có 3 chữ ăn vần chính vận ở cùng một chuỗi nhưng ở chuỗi
khác cả 3 chữ đều là thông vận hoặc thông vận xa với 3 chữ kia - nhiều khi một
chữ còn là thông vận với hai chữ còn lại của cùng một chuỗi – nên âm vang kết hợp
không đủ độ ngọt để tạo sự nhàm chán dù rất ít.
Thí dụ:
1/
Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang
Đem tin thúc phụ từ đường
Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề
Liêu Dương cách trở sơn khê
Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang
Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình Ok 7
(Câu 530-536)
Âm vang chính của đoạn thơ là 3 chữ vần “ang”
nhưng “mỗi chữ một phương” nên rời rạc.
2/
Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh
Khuôn thiêng dù phụ tấc thành
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời
Lượng xuân dù quyết hẹp hòi
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!
(Câu 340- 346)
Chuỗi vần đầu tiên là 3 chữ
chính vận (ai hai bài) nhưng chuỗi vần
sau lại “lạc quẻ” (đời hòi thòi), đọc
lên rất “trơn”, không có chút gì nhàm chán.
Trong Truyện Kiều có 33 đoạn vần quẩn loại
này:
30-36, 340-346, 502-508,
566-572, 670-676, 718-724, 806-812, 952-958, 996-1002, 1078-1088, 1126-1132,
1192-1198, 1212-1218, 1344-1350, 1368-1374,
1678-1684, 1714-1722, 1776-1782, 1872-1878, 2004-2010, 2136-2142, 2142-2148,
2162-2172, 2172-2178, 2240-2246, 2274-2280, 2306-2312, 2352-2358, 2414-2420, 2444-2450, 2500-2506, 2846-2852, 3030-3036.
Độc giả có thể đọc tại
link số 8.
Vài Lời Phân Bua
Như đã trình bày ở trên,
chỗ dựa chính để phân định 5 loại vần quẩn là số lượng những “chữ quẩn” ăn vần
chính vận với nhau trong đoạn thơ. Nhưng còn nhiều chi tiết khác nữa.
a/ Chúng nằm liền nhau hay bị phân cách?
b/ Chúng nằm chung một chuỗi hay chữ ở chuỗi
này, chữ ở chuỗi kia?
c/ Những chữ ngăn cách chúng là thông vận
gần, thông vận, thông vận xa hay cưỡng vận? Âm vang của chúng gần gũi hay xa cách
tới mức nào đối với nhóm chữ ăn vần chính vận? (Nhiều chữ Việt có “độ thân cận”
của âm vang giữa 3 loại thông vận và chính vận rất khác nhau).
d/ Có những chữ không nằm ở vị trí gieo vần
nhưng ăn vần chính vận (hoặc âm vang gần gũi) với nhóm chữ chính vận trong 6
“chữ quẩn” cũng có thể làm cán cân “nghiêng” trong việc phân định các loại vần
quẩn.
e/ Không thể chỉ dựa vào mặt chữ mà phải đọc
lên để nghe âm vang.
Trong bài viết, giữa một bên
là 58 Đoạn Vần Quẩn Tạo Cảm Giác Nhàm Chán (gồm 3 hạng bậc) và bên kia là 33 Đoạn
Vần Quẩn Không Gây Hội Chứng Nhàm Chán Vần có 29 Đoạn Vần Quẩn Nằm Trên Đường
Biên làm trái đệm. Nhưng không phải vì thế mà có thể nói chắc rằng đoạn vần quẩn
nào cũng nằm đúng
vị trí của nó. Sự sai sót
thế nào cũng có.
Tóm lại, việc phân định các
loại vần quẩn trong thơ lục bát nói chung, và Truyện Kiều nói riêng, không phải
đơn giản – và do đó - khó tránh được tính chủ quan của người làm công việc phân
định. Nhưng đó là thứ chủ quan dựa trên logic chứ không phải quyết định hoàn toàn
cảm tính.
Kết Luận
Lục bát là thể thơ rất nhiều
vần mà lại toàn là vần bằng, gieo cùng một vị trí trên mỗi câu thơ nên âm điệu
du dương nhưng đều đặn, tẻ nhạt. Đọc khoảng 20 câu mà nếu tình tiết của tứ thơ
không hấp dẫn là đã ầu ơ, chán ngán. Truyện Kiều có 3254 câu trong đó 121 đoạn,
937 câu thuộc hàng ngũ vần quẩn. Trong số đó 58 đoạn 499 câu đã tạo cảm giác nhàm
chán vần.
Lấy cách nhìn nhận thơ ca đương
đại để đánh giá một tác phẩm đã sống trong lòng dân tộc từ mấy trăm năm thì quả
có hơi bất công. Tuy nhiên, việc “không khéo” để đám vần quẩn ngang nhiên quậy
phá một vườn hoa ngôn ngữ tươi đẹp như Truyện Kiều thì theo tôi, chủ nhân của nó cũng có
phần đáng trách.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
phamnhibinhtho.blogspot.com