Thứ Ba, 7 tháng 5, 2019

LƯƠNG CHÂU TỪ - RƯỢU VÀ NỖI SẦU CHINH CHIẾN


                                                

“Lương Châu” Và “Từ”  

Lương Châu nay thuộc tỉnh Cam Túc, giữa Lan Châu và Vũ Uy, trước đây là nơi hàng bao thế kỷ người Hồ và người Hán đánh nhau. Lương Châu Từ là một điệu hát cổ nói về chuyện trận mạc biên ải. Những điệu hát cổ như: Thượng Chi Hồi, Chiến Thành NamThương Tiến TửuQuân Mã HoàngViễn Như KỳHoàng Tước HànhLạc Mai Hoa, v.v... được các thi nhân thời trước lấy làm đầu đề để sáng tác. (thivien.net/Vương-Hàn/Lương-Châu-từ-kỳ-1/poem) (1)

Từ, nói chung, là một khúc nhạc. Có rất nhiều điệu Từ. Mỗi điệu có một từ phổ, tác giả phải tìm những chữ thích hợp về thanh âm với công thức từ phổ để điền vào. Sáng tác Từ còn gọi là Điền Từ.

Như vậy, có thể nói Lương Châu Từ là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, luật bằng, vần bằng được tác giả khéo léo điền vào ăn khớp với một từ phổ của xứ Lương Châu. Đo đó, Lương Châu Từ còn được gọi là Khúc Hát Lương Châu.

Với thơ thất ngôn tứ tuyệt thì “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”. Tuy nhiên, khi điền từ thì “nhất tam ngũ” nhiều khi cũng không được “bất luận” mà phải “uốn mình” cho hợp với thanh âm của công thức từ phổ.

Đây là bài bình thơ nên tôi chỉ bàn đến khía cạnh văn chương – nghĩa là sẽ đối xử với Lương Châu Từ như một bài thơ. Còn lãnh vực âm nhạc xin mời các cao nhân khác.

LƯƠNG CHÂU TỪ

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
VUONG HÀN (1)


2/ Ba Cách Hiểu – Ba Bản Dịch 


Câu thứ hai của bài thơ

Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi

có 3 cách hiểu.

1/ Muốn uống (mà chưa uống) thì tiếng nhạc của nhóm nhạc công “cỡi ngựa chơi đàn tỳ bà” đã vang lên thúc giục, khuyên mời (uống rượu). Ở đây “tỳ bà mã thượng” được hiểu là nhóm nhạc công chuyên chơi đàn tỳ bà trên lưng ngựa.

2/ Muốn uống (mà chưa uống) thì ngay lập tức tiếng đàn tỳ bà đã vang lên thúc giục, khuyên mời (uống rượu). Ở đây “mã thượng” được hiểu là ngay lập tức, tức thì.

3/ Muốn uống nhưng tiếng đàn tỳ bà đã thúc giục lên ngựa ra đi.

Do câu thứ hai có 3 cách hiểu nên bài thơ có 3 bản dịch khác nhau.

1/

Rượu bồ đào rót vào chén dạ quang, mới dợm uống thì tiếng tỳ bà trên lưng ngựa đã giục giã khuyên mời. Đừng cười ta say vùi năm lăn trên bãi cát, anh nhé, vì xưa nay chinh chiến đã mấy ai sống sót mà về. (Khúc Hát Lương Châu, Chin Shun-Shin, Nguyễn Nam Trân dịch) (2)

2/

Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Mới dợm uống thì đàn tỳ bà đã ngay lập tức giục giã khuyên mời
Nếu có say nằm lăn trên bãi cát xin bạn chớ cười (sa trường là bãi cát, nơi tập họp quân, chờ lên đường)
Bởi xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.
(Tự dịch)

3/

Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười (sa trường là chiến trường)
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.
(Wikisource) (3)                          

Tác Giả Và Bối Cảnh Của Bài Thơ

Tác giả của Lương Châu Từ là Vương Hàn (687 – 735) - tự Tử Vũ, người đất Tấn Dương (nay thuộc thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Thi đỗ Tiến Sĩ, đã từng được Tể Tướng Trương Thuyết mời về kinh đô làm Bí Thư Chính Tự, lo việc thư tịch.

Ông vốn con nhà giàu có, tính tình hào phóng phong lưu, hơi tự cao; khi uống rượu vui chơi thường sánh mình với các bậc vương hầu nên bị nhiều người đố kỵ. Năm 726, Trương Thuyết thất sủng phải giáng làm Trưởng Sử Nhữ Châu, Vương Hàn cũng bị đổi ra Tiên Châu (nay thuộc huyện Tây Phong tỉnh Liêu Ninh) làm chức nhàn quan hữu danh vô thực là Biệt giá. Sau ông lại bị biếm ra Đạo Châu và mất ở đấy.

Bài thơ là cảnh tiễn quân lên đường ra trấn nhậm (và chiến đấu) nơi miền biên ải. Quân thì đã tập họp đông đủ chờ lệnh. Lời thơ là tâm trạng của vị tướng chỉ huy đang nhận chén rượu tiễn đưa kèm những lời dặn dò, khích lệ của cấp trên (có thể là vua hoặc quan chức lớn hơn).

Vì thế, nếu cho rằng “mới dợm uống thì đàn tỳ bà trên lưng ngựa đã giục giã khuyên mời” (cách hiểu 1) hoặc “mới dợm uống thì ngay lập tức tiếng đàn tỳ bà đã vang lên giục giã khuyên mời (uống rượu)” (cách hiểu 2) và sau đó “nếu có say vùi nằm lăn trên bãi cát (nơi quân lính tập họp) xin bạn đừng cười bởi xưa nay chinh chiến mấy ai trở về” thì rõ ràng không hợp với bối cảnh của bài thơ.

Có mấy điểm hơi khó chấp nhận:

1/ Rượu bồ đào hảo hạng và chén ngọc lưu ly là những món quý thời bấy giờ nên khó có đủ để “mời’ cả đoàn quân uống đến mức “say vùi nằm lăn trên bãi cát”.

2/ Chuẩn bị xuất quân mà lại chuốc rượu cho cả tướng lẫn binh sĩ “say vùi nằm lăn trên bãi cát” thì không “thực tế” chút nào.

Tác Giả Có Phải Là Nhân Vật Chính Trong Bài Thơ?

Vương Hàn đỗ Tiến Sĩ, đã từng làm Bí Thư Chính Tự (chuyên về thư tịch) ở kinh đô nên không phải là võ quan - nhân vật chính (speaker) trong bài Lương Châu Từ. Có lẽ từng được chứng kiến nhiều buổi lễ tiễn quân lên đường, trong đó có một số vị tướng ông quen biết đã ra đi không về, nên sự thương cảm chất chứa trong lòng thôi thúc ông viết bài thơ.

Vốn con nhà giàu có, tính tình hào phóng, hay mở tiệc rượu vui chơi nên bài thơ của ông là lời kêu gọi sự thông cảm, bao dung cho những thái độ, hành động “hơi khó coi” của những người phải “bỏ dở cuộc vui” ở hậu phương để lên đường chinh chiến nơi miền biên ải, sống chết khó lường.


 “Lương Châu Từ” Là Bài Thơ Về Rượu Hay Về Nỗi Sầu Chinh Chiến?

Lương Châu Từ chỉ có 4 câu, 28 chữ nhưng nếu đọc lên hoặc ngâm nga thì có đến 16 chữ thấm đẫm hơi men, thơm nồng mùi rượu (câu 1, câu 3 và 2 chữ “Dục ẩm” của câu 2), 12 chữ còn lại (5 chữ sau của câu 2 và cả câu 4) bao phủ một không khí ly biệt, chết chóc, thê lương của chiến tranh. Cả bài thơ là một nỗi buồn sầu bao la, sâu lắng.

Câu hỏi được đặt ra ở đây là “Ý chính của bài thơ là gì? Rượu hay Chiến Tranh?” Tác giả mượn rượu để nói về chiến tranh hay mượn chiến tranh để nói về rượu?

Trong Say Đi Em, Vũ Hoàng Chương mượn rượu để nói đến nỗi tủi nhục, uất ức, buồn sầu (nói chung là thành sầu) của mình trước cảnh quê hương tan nát dưới gót giầy xâm lược của thực dân Pháp.
Nguyễn Bá Trác qua Hồ Trường mượn rượu để bày tỏ tâm trạng bất đắc chí của một sĩ phu yêu nước.

Chúng ta thử cùng xem cách dàn ý của Lương Châu Từ: (Tôi xin được dịch sát và thay đổi thứ tự các ý nhỏ để độc giả dễ phân biệt đâu là ý chính của tác giả và đâu là những ý phụ tác giả mượn để diễn đạt ý chính đó).

Rượu ngon chưa kịp uống (chưa được say) đã có tiếng tỳ bà giục lên ngựa (ra đi) mà chinh chiến thì xưa nay có mấy ai (sống sót) trở về nên nếu có say khướt, nằm dài giữa chiến trường xin bạn thông cảm, đừng chê cười.

Phần chữ in đậm là ý chính và phần chữ nghiêng là những ý mượn.

Như vậy, khác với Say Đi Em và Hồ Trường, Lương Châu Từ mượn chuyện chén rượu ngon chưa kịp uống và sự sống chết bất thường của chinh nhân rồi dùng thủ pháp “xạo nghệ thuật” biện minh và kêu gọi sự bao dung, thông cảm cho việc say khướt đến mức lố bịch ngoài chiến trường.

Cũng xin nói thêm là vào cuộc chinh chiến không phải lúc nào chinh nhân cũng cầm guơm giáo lăn xả vào đâm chém, sống chết với quân địch. Cũng có nhiều khoảng thới gian giữa những trận đánh - có khi rất dài - tướng tá, binh sĩ được thảnh thơi, dưỡng sức, vui chơi. Đó là lúc tìm những cuộc vui nho nhỏ cho qua ngày tháng và cũng có khi “say khướt, nằm dài giữa chiến trường” như đã nói ở trên.

Một điểm đặc biệt trong Lương Châu Từ là không biết vô tình hay cố ý Vương Hàn đã cho “ý mượn” được tiến lên vị trí ngang hàng với ý chính.

1/ Bằng câu “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” ông đã thổi phồng quá lố con số những người ra đi không về đến nỗi nhà phê bình Thu Tứ phải lên tiếng:

“Ờ, mà đi thường cũng nhiều về chớ đâu tới nỗi hiếm. Trận nào đây mà người dự bi quan thế?” (Lương Châu Từ Của Vương Hàn, Thu Tứ, gocnhin.net) (4)

2/ Câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” thuộc phần “ý mượn” nhưng lại được đặt ở cuối bài làm nhiệm vụ của câu kết nên lưu lại ấn tượng mạnh hơn.

Chính vì thế tuy phần nói về chiến tranh chỉ là phụ, là “ý mượn”, nhưng không khí ly biệt, chết chóc của chiến tranh 
trong bài thơ có vẻ như không thua kém hình ảnh “túy ngọa sa trường” tý nào – dù hình ảnh này đã được thủ pháp “xạo nghệ thuật” tô vẽ thêm rất nhiều.

Phương cách có hơi bá đạo (thổi phồng quá lố) nhưng với độc giả của Lương Châu Từ lại đạt hiệu quả cao. Họ rất dễ thông cảm với hành động “tìm những cuộc vui nho nhỏ” ngoài chiến trường dù lắm khi đi đến chỗ “khó coi” như “túy ngọa sa trường”. 

Sau đây là vài khuyết điểm của bài thơ:

Thổi Phồng Quá Lố.

Như đã nói ở trên, “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” là câu thơ hơi “xa sự thật”. Tuy nó đóng góp rất nhiều cho việc vẽ lên bức tranh chết chóc, thê lương một cách đáng sợ của chiến tranh, giúp thuyết phục đám đông độc giả dễ tính thông cảm, chấp nhận hình ảnh “túy ngọa sa trường” của chinh nhân. Nhưng nó cũng để lại một vết ố không nhỏ trong bài thơ dưới mắt những người làm công việc thẩm định giá trị nghệ thuật thơ ca.

Mời độc giả thử để ý câu thơ:

Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu

Câu thơ này có 2 phần. “Tửu phùng tri kỷ” là phần “gốc”, là chỗ dựa, là cái cớ để tác giả vin vào đó mà “xạo tới bến”, “nói một tấc đến giời”.  Thiên bôi thiểu” là phần “ngọn”, là phần “nói một tấc đến giời” đó. Do có “phần gốc” hợp lý, vững chãi làm chỗ dựa nên phần ngọn dù cường điệu hết cỡ, dù “xạo tới bến” vẫn rất dễ được chấp nhận. Uống rượu gặp tri kỷ thì nghìn chén cũng là ít. “Nghìn chén cũng là ít” là quá xa sự thực, quá xạo, quá vô lý. Nhưng cái quá xạo, quá vô lý ấy đã “tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” nên đã làm mới câu thơ và được hoan nghênh nhiệt liệt. Đó là biện pháp tu từ có tên “lối nói thậm xưng” mà trong một số bài viết tôi gọi là “xạo nghệ thuật”.

Cũng vì sự quá lố của câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà thủ pháp “xạo nghệ thuật” trong Lương Châu Từ đã bị giảm hiệu quả khá nhiều.

Cái Kẹt Của Thơ Tứ Tuyệt

Thử tưởng tượng đang xem một pha đá phạt trong bóng đá. Điểm đá phạt ở ngoài nhưng ngay sát vòng 16 mét 50 trước khung thành đối phương. Cầu thủ được huấn luyện viên chỉ định đá phạt cầm bóng đặt vào vị trí. Những cầu thủ khác của cả hai đội cũng tùy nhiệm vụ của mình mà dàn quân. Ai cũng sẵn sàng để nếu bóng bật ra là tìm cách đưa bóng vào khung thành (nếu là đội công) hoặc cản phá (nếu là đội thủ). Thế rồi tiếng còi của trọng tài vang lên, cầu thủ đá phạt - bằng kỹ thuật và kinh nghiệm của riêng mình – sút bóng qua hàng rào người, vào lưới. Tiếng reo hò, vỗ tay của khán giả vang dậy cầu trường.

Nhưng nếu bóng đá mà chỉ toàn những cú đá phạt như vậy thì chán chết. Khán giả sẽ không thấy được tài sắp xếp thế trận của huấn luyện viên, không thấy được khả năng chận bóng, đi bóng, lừa bóng, sút bóng “sống”, cản phá bóng, khả năng phối hợp nhịp nhàng với đồng đội khi lên công, lúc về thủ của cầu thủ. Khán giả sẽ không có những giây phút đứng tim khi đội bóng cao hứng chơi xuất thần, có những đường chuyền “đẹp như mơ”, những cú sút “không thể tin là có thực” đưa bóng vào cầu môn đối phương. Tất cả đã đưa bóng đá lên ngôi “thể thao vua”, thu hút sự yêu mến đến cuồng nhiệt của hảng tỷ người trên thế giới.

Cũng vậy, một bài thơ ngắn cỡ tứ tuyệt không đủ chữ để thi sĩ trổ tài điều binh khiển tướng, sắp xếp đội hình cho một trận đánh có tầm vóc. Đề tài thường rộng, chung chung, không đủ không gian và thời gian đi vào tâm tình riêng tư của nhân vật để cảm xúc có cơ hội dâng lên cao ngất.

Trong Lương Châu Từ, bóng dáng của lý trí vẫn còn rất rõ nét trong từng chữ, từng câu thơ. Tứ thơ không đủ dài để độc giả thấy được sự “vận động” của ngôn ngữ, để cảm xúc có sóng sau dồn sóng trước, lớn mạnh đến mức đẩy lý trí đi chỗ khác chơi, tạo được cao trào cho hồn thơ xuất hiện.

Hai Chữ “Dục Ẩm” Vừa Dở Lại Vừa Hay Tuyệt

Một điểm hơi xa thực tế nữa đến từ hai chữ “Dục ẩm” – trong ngữ cảnh của bài thơ có nghĩa là “muốn uống”, “toan uống”, “chưa kịp uống”. Như đã nói ở trên, bài thơ là khung cảnh tiễn quân lên đường ra trấn nhậm (và chiến đấu) nơi vùng biên ải. Quân thì đã tề tựu đông đủ; tướng thì đang nhận chén rượu tiễn đưa kèm những lời dặn dò của vua hoặc một quan chức lớn hơn.

Nghe dặn dò xong, hớp vội chén rượu, vị tướng bước ra cổng thì đàn tỳ bà trỗi lên thúc giục ông lên ngựa – và cũng thúc giục cả đoàn quân - lên đường. Dốc cạn chén rượu chưa hết một giây nên chuyện “chưa kịp uống” là rất khó xảy ra.  Thêm vào đó, cái cảnh bỏ lại chén rượu cấp trên ban thưởng để lên ngựa dẫn quân ra trận là rất ‘khó coi”. Vội vã như thế không phải lối; vừa bất kính với cấp trên, vừa không hợp với cung cách ứng xử của một vị tướng.

Hơn nữa, người chỉ huy ban nhạc đàn tỳ bà đâu phải “muốn chơi lúc nào cũng được” mà phải trổi nhạc đúng thời điểm đã được căn dặn trước (lúc vị tướng uống rượu xong).

Thấy ra điểm bất hợp lý này nên một nhà thơ, nhà văn, nhà sử học người Anh ông Pierre Stephen Robert Payne (1911-1983), đã dịch bài thơ ra tiếng Anh như sau:
 The Song of Diangchow

The beautiful grape wine, the night-glittering cups
Drinking or not drinking, the horns summon you to mount.
Do not laugh if I am drunk on the sandy battlefield
From ancient times, how many warriors ever returned! 
(Lương Châu Từ, Lý Văn Quý) (5)


trong đó câu thứ 2

Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi” được dịch là “Uống hay không uống, tù và đã giục lên ngựa”.

Tuy nhiên, “Dục ẩm” cũng có cái hay của nó. “Muốn uống”, “chưa kịp uống” nếu hiểu rộng ra còn có nghĩa là “cuộc vui chưa trọn”. Mà cuộc vui trên đời đâu phải chỉ có rượu. “Cuộc vui chưa trọn” còn có thể là ái ân phu thê đứt đoạn, tình yêu lứa đôi dở dang, ơn cha chưa trả, nghĩa mẹ chưa đền, những dự tính, ước mơ chưa thực hiện … và còn muôn ngàn thứ khác nữa.

Lên đường chinh chiến không phải chỉ đem mạng sống của mình “đùa” với giáo gươm, súng đạn mà còn là chấp nhận nhiều mất mát hy sinh khác; đó là chấp nhận giã từ biết bao “cuộc vui chưa trọn” của đời người.

Bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan có nói gì đến chết chóc ngoài chiến trường đâu. Anh chồng chiến binh mới cưới vợ và 3 người anh của vợ cũng đều là bộ đội, vẫn sống nhăn trong khi cô vợ ở hậu phương yên bình thì lại …  chết đuối trong lúc đi giặt quần áo ở bờ sông. (Lời Tự Thuật Của Hữu Loan, Tác Giả Màu Tím Hoa Sim) (6)

Tội ác của chiến tranh trong Màu Tím Hoa Sim không phải là những cái chết của người lính ngoài chiến trường mà là sự chia xa, phải giã từ những “cuộc vui chưa trọn”. Sau đây là vài chi tiết làm quặn thắt lòng người:

1/

Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân

Đám cưới mà cô dâu không có thời gian (và tiền) để may áo cưới. Chú rể mặc đồ lính, đôi giầy vẫn còn vết bùn chưa giặt sạch.

2/

Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi

Được 2 tuần phép nhưng phải để một tuần hâm nóng tình xưa, “tuần sau đó” mới kết hôn. Như vậy, cưới vợ xong, chỉ có một tuần trăng mật; đang mặn nồng đã phải chia tay lên đường ra đơn vị. (6)

3/

Ba người anh được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng

Đám cưới của em gái không được về dự, rồi quan san cách trở đến mức “biết tin em gái mất trước tin em lấy chồng” thì quả là vô cùng đau xót.

Ở đây con người không bị đổ chung vào một thúng kiểu “cá mè một lứa” như Lương Châu Từ mà là một cá thể có tâm trạng và cảm xúc riêng biệt. Hữu Loan đã đủ tài năng và nhạy cảm để qua Màu Tím Hoa Sim, cho độc giả thấy một khuôn mặt khác của chiến tranh, không sặc mùi xương máu, chết chóc mà có vẻ rất hiền lảnh - hiền lành nhưng đã nhẫn tâm cướp đi những thứ quý giá nhất của con người.

Vương Hàn, qua Lương Châu Từ, chỉ với hai chữ “Dục ẩm”, đã bóng gió nói đến những “cuộc vui chưa trọn”, những thứ quý giá nhất đó. Có điều vì thể thơ tứ tuyệt “thiếu quân” nên điều muốn nói không được đậm nét và mãnh liệt như Màu Tím Hoa Sim.

Con người trong hoàn cảnh đó có sống cũng chỉ là cái sống sinh học của thể xác, còn những thứ để con người được sống như một Con Người đã bị chiến tranh cướp mất.

Sống như thế, đến cuối đời nhìn lại, quãng thời gian đó chẳng khác gì mình đã chết.

“Tử Biệt” “Sinh Ly” Trong Cuộc Nội Chiến Bắc Nam

Mới đây, nhân ngày 30 tháng Tư (2019), tôi đọc được đoạn thơ của nhà giáo Thái Bá Tân (qua emails):

Bộ đội Miền Bắc chết
Một triệu một trăm nghìn. 
Số lính Miền Nam chết -
Hai trăm tám hai nghìn. 

19 Tháng Tư, 2019
(Thái Bá Tân, 30 Tháng Tư, 1975)

Tác giả không chú thích nên tôi không biết nguồn gốc của những con số ấy. Nhưng tôi không tin là ông viết bừa, nói bậy. Thứ nhất, vì uy tín của mình; thứ hai, nếu “được hỏi thăm” mà ú ớ, không biết những con số đó xuất xứ từ đâu thì … kẹt lắm - cả về trách nhiệm dân sự lẫn hình sự.

“Một triệu một trăm nghìn” bộ đội chết là con số rất lớn (so với dân số Miền Bắc thời chiến tranh) nhưng đã tương xứng với câu thơ “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” chưa, thì còn tùy độc giả nhận định. Có điều tôi dám xác quyết là nỗi khổ, nỗi buồn “sinh ly” của bộ đội và người dân Miền Bắc so với binh lính và người dân Miền Nam thì khác nhau một trời một vực.

Tôi có ông anh họ ở Kiến An. Cuối năm 1988 tôi về quê tìm đường vượt biên, gặp nhau hắn tâm sự:

Tớ vừa đến tuổi, chưa biết yêu, chưa nếm mùi đàn bà, đã phải lên đường vào Nam. Không nhớ là mấy năm sau, gặp thằng bạn cùng lớp ở rừng Quảng Đức, hỏi thăm chuyện gia đình thì nó vừa cười vừa nói “Tao có khác gì mày. Trời sinh ra cái b. của tụi mình chỉ để đái thôi”.

Chỉ một câu nói đùa nhẹ nhàng mà làm xót xa biết bao nhiêu cõi lòng, làm nhức nhối biết bao nhiêu trái tim. Bởi nếu cái b. chỉ để đái, thế còn “cái ấy” của phụ nữ thì sao? Rồi còn sợi dây tình cảm nối người này với những người khác; chính sợi dây đó làm đời sống tinh thần của con người thêm phần phong phú. Thiếu nó, thiếu chút ít thì còn cố chịu được, chứ thiếu nhiều thì “chất người” sẽ nhạt dần đi, còn vắng bặt nó thì con người sẽ không còn là con người nữa. 

 Những người lính ở Miền Nam cũng đau thương mất mát nhưng không đến nỗi ghê gớm như vậy. Họ được chiến đấu ở “sân nhà” nên hậu phương gần gũi hơn, mất mát về mặt tình cảm ít hơn, nhẹ hơn. Những “cuộc vui dang dở” thường có cơ hội lập lại để “vui trọn đêm nay”. Nhưng mất mát dù có nhẹ hơn chút ít cũng vẫn là mất mát, cũng để lại những vết thương, những nỗi đau sâu đậm trong tâm hồn mỗi người, chữa trị phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.

Tóm Tắt Giá Trị Nghệ Thuật Của Bài Thơ

ƯU ĐIỂM:

1/ Tứ thơ hay: Lương Châu Từ mượn chuyện sống chết bất kỳ của chinh nhân trong chiến tranh để biện minh (xin thông cảm) cho một số thái độ, hành động của người lính ngoài chiến trường. “Túy ngọa sa trường” chỉ là một thí dụ.

2/ Tính nhân Bản: Cái hay tuyệt của bài thơ nằm ở 2 chữ “Dục ẩm” – có ý nói tiệc rượu chưa tàn, nói rộng ra là “cuộc vui chưa trọn”. Chiến tranh là tử biệt, sinh ly (chưa nói đến sự tàn phá về vật chất). Nhưng  người đời thường chú trọng phần “tử biệt” mà coi nhẹ phần “sinh ly”. Chính “sinh ly” đã bóp nghẹt chữ “tình” để con người chỉ còn là những cỗ máy lao vào chém giết. Vương Hàn, bằng 2 chữ “Dục ẩm” đã sử dụng thủ pháp “gợi, không kể” (Show, Don’t Tell) một cách điệu nghệ làm nổi bật chữ “tình” bị bóp nghẹt đó. Tính nhân bản của bài thơ rất sâu đậm.

3/ Mặc dù trong bài thơ, chiến tranh chỉ được mượn để biện minh cho một số thái độ và hành động của người lính ngoài chiến trường nhưng chính hình ảnh chiến tranh lại hiện lên rất đậm nét ở cả 2 mặt “tử biệt” và “sinh ly”. Có người còn đặt tựa cho bài viết của mình về bài thơ này là “Lương Châu Từ và Nỗi Buồn Chiến Tranh” hoặc “Lương Châu Từ - Khúc Bi Ca Thời Chiến”. Tôi cho rằng, trong trường hợp Lương Châu Từ, họ hoàn toàn có quyền làm như vậy.

KHUYẾT ĐIỂM:

1/ Hai chữ “Dục ẩm” (như đã nói ở trên) hơi không hợp lý.

2/ Câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” hơi “xa sự thực”, ảnh hưởng đến thủ pháp “xạo nghệ thuật” và độ khả tín của bài thơ.  Chỉ nên nói đại ý “chinh chiến thì sinh tử bất kỳ”.

3/ Bài thơ nặng về “kỹ thuật” (ngôn ngữ, hình tượng, “gợi không kể”), ít cảm xúc, lại quá ngắn nên không có chỗ cho cảm xúc lớn mạnh để tạo cao trào – không có cơ hội để hồn thơ xuất hiện.

Phổ Biến Rộng Rãi Nhờ Tứ Thơ

Thảm họa của chiến tranh quá khủng khiếp. Nó là nỗi sầu, nỗi lo sợ, nỗi ám ảnh lớn nhất của nhân loại. Mà muốn “phá thành sầu”, muốn quên sợ, muốn trốn ám ảnh thì không gì bằng rượu.  Vì thế Lương Châu Từ là bài thơ khá phổ biến, thỉnh thoảng được đọc trong các tiệc rượu, hoặc những lúc “trà dư tửu hậu” thời chiến tranh. Hơn nữa, nó ngắn, dễ thuộc lại là thơ Hán - Việt nên đọc cũng là một cách “khoe tài”. 

Những nhà Nho Hán rộng, những người có hiểu biết về văn chương, thơ phú thì không nói làm gì; ngay cả các ông một chữ Hán bẻ làm đôi không biết, nói đến thơ phú thì ù ù cạc cạc, cũng ráng học thuộc lòng bài thơ rồi nhờ người giảng giải để ghi nhớ, chờ cơ hội vào bàn nhậu là “trổ tài” góp vui với bà con cô bác. (Tôi đã được hân hạnh giúp vốn cho hơn một chục ông như vậy).

Bài thơ là tâm sự của một vị tướng chỉ huy, nhưng người đọc thơ không phải là tướng tá (sĩ quan) cũng không sao. Đã mặc áo lính là có thể ưỡn ngực với danh hiệu chinh nhân. Mà nếu không phải là chinh nhân cũng đâu có hề gì. Thảm họa của chiến tranh lớn quá. Bàn tay tàn ác, gớm ghiếc của nó – lúc trực tiếp, khi gián tiếp - có thể vươn tới tất cả mọi người, bất kể lính tráng hay dân thường. 

Rồi câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” có quá lố một chút thì cũng có gì mà ầm ĩ? Rạch ròi làm chi cái con số người sống sót trở về! Và như thế, dù là người đọc hay người nghe, rất dễ thả hết tâm hồn vào bài thơ, đồng cảm với tác giả - nghĩa là cũng mở lòng bao dung với thái độ, hành động của người lính ngoài chiến trường (hay khi về phép ở hậu phương) – đôi lúc thái quá, “khó coi” có khi còn hơn cả “túy ngọa sa trường” nữa.

Điểm thành công lớn của bài thơ là ở chỗ đó.



Kết Luận

Xét về nghệ thuật thơ, Lương Châu Từ vẫn còn đôi chỗ lộm cộm, nhưng nhờ tứ thơ hay, đầy tính nhân bản nên đã 13 thế kỷ trôi qua, nó vẫn chưa có dấu hiệu sẽ đi vào quên lãng. Theo tôi, đây là một bài thơ độc đáo. Với những người yêu thích cổ thi Trung Hoa, khi nhâm nhi ly bia, chén rượu, tách trà, nhớ đến nỗi sầu “sinh ly tử biệt” của chiến tranh, Lương Châu Từ rất dễ bước vào câu chuyện để “Mua vui cũng được một vài trống canh.”  

TEXAS 05/2019
PHẠM ĐỨC NHÌ


CHÚ THÍCH

1/

2/

3/

4/

5/

6/


THAM KHẢO


1/ Bài Thơ Lương Châu Từ kỳ 1, Vương Hàn, Thi Viện

2/ Lương Châu Từ, Lý Văn Quý

3/ Về Bài “Lương Châu Từ” Của Vương Hàn, Hà Việt Hùng, Làng Huệ

4/ Lương Châu từ, Wikipedia tiếng Việt

5/ Lương Châu Từ, Nguyễn Hoài Văn

6/ Lương Châu Từ, Khai Phi Hạnh Nguyên

7/ Lương Châu Từ - Khúc Bi Ca Thời Chiến, Lê Quang Đức

8/ Lương Châu Từ Và Nỗi Buồn Chiến Tranh, Hình Phước Liên


Thứ Năm, 21 tháng 3, 2019

"SAY ĐI EM" - MỘT BÀI THƠ "TỚI BẾN"


                    
Mấy Lời Phi Lộ

Tôi không nhớ đã “quen biết” bài thơ Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương ở đâu và khi nào. Nhưng trong danh sách những bài thơ hay để giới thiệu với độc giả thì nó đứng đầu. Đọc để cảm thì sao cũng được – đó là “cái riêng” của mỗi người khi đọc thơ, những người khác ít ai dám xía vào. Nhưng bình thơ thì phải có khen chê - phải có một quan niệm về thơ để làm chỗ dựa cho sự khen chê đó. Mỗi lời khen, tiếng chê - ngoại trừ cái hay, dở của ngôn ngữ thơ - đều phải có lập luận để giải thích, và nếu bị phản bác, để bảo vệ nó.

Say Đi Em là bài thơ khó bình. Tôi đã “ngâm” nó trong kho từ vài năm trước. Mỗi lần mở ra đọc lại thấy ơn ớn. Chỗ mình muốn khen hết lời thì lại có một cây đại thụ về phê bình văn học (Vũ Ngọc Phan) (1) dè bỉu, chê bai. Một số điểm hay khác của bài thơ thì lại … quá lạ, không biết mình nêu lên có gây sóng gió, bão táp gì không?  

Nói vậy để độc giả thông cảm chứ tôi đã ăn ngủ với Say Đi Em cả mấy tháng nay rồi. Đã thuộc, đã nghiền ngẫm từng chữ nên khi viết lời bình cũng có đôi chút tự tin. Tuy nhiên, cái hay, cái đẹp (và cả cái dở) của thơ thì mênh mông như biển cả. Nếu bài viết này có gì sai sót, rất vui vẻ đón nhận mọi phê bình, góp ý.

SAY ĐI EM

1/

Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương...
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?
Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ

2/

Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Âm ba gờn gợn nhỏ
Ánh sáng phai phai dần...
Bốn tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
Tay mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
Còn chưa say hồn khát vẫn thèm men

3/

Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt!
Rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết!
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi...
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời

4/

Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
(Vũ Hoàng Chương)

“Em” Trong Bài Thơ Là Ai?

Theo tôi, câu hỏi đó đã được trả lời một cách kín đáo ở đoạn đầu bài thơ.

Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương

Tác giả nói đến vũ trường, nhạc dập dìu quanh các nàng ca ve son phấn.

Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương
Hoa xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo?

Gặp người quen, cũng là dân “sương gió”; nàng là gái nhảy, chàng là khách làng chơi mê khiêu vũ, xưa đã có một thời mặn nồng, sau đó vì “đầu xanh lận đận” nên nay tình đã héo. Cụm từ “gối xưa kề” đã bóng gió nói đến thời mặn nồng đó.

Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương

Nay tình không còn mặn nồng nữa nhưng vẫn còn khoái món khiêu vũ. Cụm từ “Lòng trót nghiêng” hơi trừu tượng; vừa muốn giải thích lại vừa muốn đưa vào 2 câu lục bát cho ngọt dòng thơ nên ông viết tiếp:

Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ

Lòng đã hết thương nhưng chân còn mê nhảy.

Tóm lại, đoạn đầu có thể hiểu như sau; Vào vũ trường nhảy nhót, uống rượu giải sầu, lại gặp bạn “giang hồ” cũ. Dù tình đã hết cũng xáp lại để có đôi có cặp, để được đối ẩm, khiêu vũ với người “hợp gu”, “hợp rơ”.

Thành Sầu Của Vũ Hoàng Chương
Tập thơ Say của Vũ Hoàng Chương xuất bản năm 1940 – có nghĩa là bài thơ Say Đi Em được viết trước đó.
Nho học đã lụi tàn. Khoa thi Hương cuối cùng là khoa Mậu Ngọ (1918), tổ chức tại trường Thừa Thiên. Sau khoa thi Hương này, ngày 28/12/1918, vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ khoa cử ở Việt Nam. Khoa thi Hội và thi Đình cuối cùng được tổ chức năm 1919. Những người thi đỗ có bằng nhưng không được bổ nhiệm chức vụ gì. (2)

Cha mẹ VHC, cũng như rất nhiều bậc cha mẹ thuộc hàng quan lại, khá giả thời bấy giờ, ở vào thế tấn thối lưỡng nan. Một là, giữ lấy chút tiết tháo kiểu quân tử Tàu, thà để con lông bông chịu dốt chứ không thèm hợp tác với ngoại bang. Hai là, cho con theo Tây học để mở mang kiến thức, có cơ hội thăng tiến trong xã hội mới. Họ, hầu hết, đã chọn con đường thứ hai. Vũ Hoàng Chương nhờ thế, đỗ Tú Tài Pháp ban toán năm 21 tuổi (1937).
Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm thì bỏ, đi làm Phó Kiểm Soát Sở Hỏa Xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh – Na Sầm (Wikipedia). (3)

Vào năm 1935, Hà Nội tuy sống dưới chế độ bảo hộ của thực dân Pháp nhưng có một bộ mặt rất thanh bình, vui vẻ, trẻ trung. Nhà cầm quyền đang cố tình dung túng các cuộc ăn chơi phóng túng để người ta quên đi biến cố đàn áp tàn bạo vừa qua (Năm 1930, Nguyễn Thái Học và mười hai liệt sĩ VN Quốc Dân Đảng khác phải lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, sau đó là chiến dịch lùng sục bắt bớ ở nhiều nơi)đồng thời để ru ngủ thanh niên nên các trà đình, tửu điếm, các tiệm nhẩy đầm, các nhà hát ả đào (còn gọi là hát cô đầu) và các tiệm hút thuốc phiện mọc lên nhan nhản. Người ta đua nhau ăn diện, nhiều cậu công tử Hà Thành diện đúng mốt Paris, tay sách can đi bên cạnh các cô gái tân thời, phấp phới áo dài Lemur Nguyễn Cát Tường. (4)

VHC ngoài việc bắt buộc phải theo Tây học để tiến thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ” của người Pháp. Ông cũng lao vào những thú vui trác táng - rượu, thuốc phiện, nhảy đầm và cả gái nữa. Về điểm này, Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một đoạn khá đầy đủ:

Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn "hơn" cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. (3)

Như vậy, “thành sầu” của VHC là nỗi sầu đất nước bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm tha hóa, băng hoại bằng đủ mọi âm mưu thâm độc. Trớ trêu thay, chính ông lại góp tay, giúp sức cho bộ máy cai trị ấy, chính ông lại lậm vào những cuộc chơi trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn làm gương xấu cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc. Ông cảm thấy tội lỗi, tủi nhục, uất ức và chất ngất buồn sầu. Là người có liêm sỉ, ông đã can đảm nói lên sự thật:

Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận xá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh.
(Phương Xa)

Và thế là năm 1941, ông bỏ Sở Hỏa Xa đi học Cử nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy (tư) ở Hải Phòng (3).

Nỗi tủi nhục buồn sầu đó bắt rễ, ăn sâu rồi cao lớn như một bức tường thành sừng sững trong tâm hồn nhà thơ – đã trở thành điểm mấu chốt trong tứ thơ của thi phẩm Say Đi Em.

“Thành Sầu” Trong “Say Đi Em” Của Vũ Hoàng Chương Có Nỗi “Sầu Tình” Không?

Cha VHC là Vũ Thiện Thuật, một nhà nho bảo thủ, nghiêm khắc, làm Tri Huyện, muốn sau khi VHC học xong sẽ hỏi con gái một quan Bố Chánh, bạn thân của mình, cho ông. Ông không thích kiểu hôn nhân áp đặt nên không đồng ý và đã làm phật lòng cha. Vì thế khi ông yêu cầu đi hỏi Tố Uyển - người yêu của mình - về làm dâu trong gia đình thì cha ông đã từ chối thẳng thừng. (4)

Khoảng tháng 3 năm 1941 song thân của Tố Uyển mới nhận lễ vật dạm ngõ của nhà trai (anh Cử Cương) (4) và mãi đến ngày 12 tháng 6 năm Tân Tỵ (khoảng tháng 7 năm 1941) nàng mới lên xe hoa về nhà chồng. (6) Sau đây là một đoạn trong bài Mười Hai Tháng Sáu ông viết về mối tình tan vỡ của mình:

Tháng Sáu mười hai, từ đấy nhé
Chung đôi, từ đấy nhé lìa đôi.
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa, Tố của Tôi.

Nỗi sầu thất tình của VHC xuất hiện sau năm tập thơ Say ra đời (1940) nên có thể nói chắc rằng nó không ăn nhập  gì đến “thành sầu” của thi sĩ trong bài thơ Say Đi Em.

Tứ Thơ

Trong một đêm đi nhảy ở vũ trường, gặp “bạn nhảy cũ”, tác giả mời nàng đối ẩm, có ý muốn mượn rượu để giải sầu, nhưng uống đến mức “say không còn biết chi đời” mà nỗi sầu vẫn sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.

Bố Cục Và Dàn Ý

Bài thơ có thể chia làm 4 đoạn:

1/ Đoạn mở đầu 10 câu, thiết lập khung cảnh của bài thơ: Đến vũ trường, gặp người tình cũ đang là ca ve ở đấy. Tình đã héo nhưng chân còn “ngứa ngáy” nên xáp lại.

2/ Đoạn hai 16 câu: Cảm giác “Đê mê hồn gửi cánh tay hờ” khi đang dìu em trên sàn nhảy lúc rượu đã ngà ngà.

3/ Đoạn ba 13 câu: Mời em cùng uống cho đến khi “say không còn biết chi đời”.

4/ Đoạn kết 5 câu: Nỗi sầu vẫn còn đó - sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.

Vũ Hoàng Chương viết Say Đi Em không theo lối kể chuyện lớp lang theo trình tự thời gian. Trong một lúc tĩnh lặng nào đó, ông hồi tưởng rồi trải lên trang giấy những hình ảnh, cảm giác, tâm trạng lưu lại trong ông ấn tượng mạnh mẽ nhất, sâu đậm nhất của một đêm đi nhảy, uống rượu ở vũ trường.

Vì thế, ở đoạn 2, có lẽ ông nói đến điệu nhảy sau cùng, nhịp điệu nhanh, tâm trạng phấn khích, hào hứng, có người còn liên tưởng đến những bước “fantaisie” của vũ điệu Tango (cũng điệu Tango 4 phách, chế ra những bước nhảy mới lạ - gọi tắt là nhảy “phăng”).  Trước khi vào đoạn 3 ông đã mấp mé ở ranh giới giữa “ngà ngà” và thật say. Cho nên nâng ly mời cô bạn nhảy “Say đi em! Say đi em!” thì chắc chỉ được vài ly là ông đã “Say không còn biết chi đời”.
Nhưng dù say đến thế nhưng nỗi sầu quá sâu đậm, vẫn như một bức tường thành, không sụp đổ.
                      
Vần Và Dòng Chảy Của Tứ Thơ

Về hình thức, tác giả sử dụng thể Thơ Mới, nhưng không phải lối thơ Trường Thiên (mỗi đoạn 4 câu) mà là thể thơ nhất khí liền mạch – một hơi từ câu đầu đến câu cuối. Nhưng cũng không phải như Nhớ Rừng của Thế Lữ - cứ 8 chữ một câu với vần liên tiếp, đọc lên nghe rất ngán. “Say Đi Em” rất phóng khoáng. Có đôi chỗ ngừng là do tác giả muốn chuyển ý, đổi vần chứ không phải do đòi hỏi của luật thơ. Ông cũng tạo ra một số thay đổi, vừa tránh được trói buộc của luật tắc, vừa có thể nhấn mạnh điểm chính của tứ thơ:

1/ Số câu trong bài không giới hạn, viết hết ý, hết hứng thì thôi.

2/ Số chữ trong câu thay đổi (với biên độ rộng) một cách tùy tiện, tùy hứng. Câu ngắn nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ (Hoa xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo). Nhờ thế, nhịp điệu thơ thay đổi liên tục.

3/ Vần rất đậm, nhưng không có hội chứng nhàm chán vần, đọc lên không thấy ngán. Câu sau nối tiếp câu trước, tứ thơ và cảm xúc cứ thế tuôn chảy thành dòng. Lý do: Nhịp điệu thay đổi cộng với sự giúp sức của mấy đoạn gieo vần gián cách:

Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ

Và:

Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời

Thêm vào đó, để thay đổi không khí, còn có hai câu thơ lục bát mượt mà ở đoạn đầu và sự phối hợp một cách tài tình điệp ngữ, điệp vận với vần ôm ở đoạn kết.

Ở thời điểm trước năm 1940 mà đã sử dụng vần phóng khoáng và điệu nghệ như vậy thì thật đáng nể phục.

Cũng xin nói đến một điểm nổi bật về kỹ thuật thơ của VHC là sự chuyển đoạn ăn khớp, khéo léo - từ ý này bước qua ý khác rất ngọt.

     a/ Đoạn 1 qua đoạn 2
Từ:

Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ.

qua:

Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ.

Vừa nói “hết yêu nhưng còn mê nhảy” đã chuyển qua cảnh ôm em trên sàn nhảy. Sự kết nối thật tương hợp.

     b/ Đoạn 2 qua đoạn 3
Từ:

Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men

qua:

Say đi em! Say đi em!

Đều nói đến rượu, kết nối hợp lý.

     c/ Đoạn 3 qua đoạn 4
Từ:

Say không còn biết chi đời

qua:

Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa

Vừa thú nhận “Say không còn biết chi đời” đã thấy “Đất trời nghiêng ngửa”. Mối liên hệ nhân quả, không một kẽ hở.

Nhờ sự chuyển đoạn khéo léo như vậy nên tứ thơ thông thoáng, bài thơ nhất khí liền mạch, cảm xúc lớn mạnh nhanh chóng.
                      

Điệp Vận Ở Phần Sau Đoạn 3 - Nói Về Cơn Say
                                                                                 
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi...
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời

Có 9 câu thơ ngắn mà đến 6 lần vần ôi (hoặc ơi) - điệp vận đến mức thoạt nhìn qua là đã mất cảm tình. Nhưng thật lạ! Đọc lên không những không thấy ngán mà còn thấy hồn mình như bị dính chặt vào ý thơ - cơn say thực sự, “say không còn biết chi đời” - của tác giả. Với cơn say ở đỉnh điểm như vậy, không còn chỗ cho lý trí và con đẻ của nó là sự dối trá, bám víu. Năm câu sau của đoạn kết đúng là tiếng lòng chân thật.

Điệp vận kiểu ấy, theo tôi, nếu là người làm thơ tỉnh táo, chắc là sẽ tránh xa. VHC, trong lúc lạc lần trí, đã hiên ngang bước vào “bãi mìn” ấy, nhưng nhờ thế, đã tạo được một đoạn thơ độc đáo, có giá trị như một con dấu chứng nhận sự chân thật cho đoạn kết, góp phần hết sức quan trọng vào sự thành công của thi phẩm Say Đi Em.

Đoạn Kết Tuyệt Vời

Sau khi đã uống đếnSay không còn biết chi đời” thi sĩ đã cho tuôn ra đoạn thơ:

Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!

Đoạn thơ hay cả về ngôn ngữ, thi ảnh, cấu trúc, âm điệu và nhịp điệu. Đặc biệt điệp ngữ ở hai cụm từ “em ơi” và “đất trời nghiêng ngửa” cho độc giả như tôi cái cảm giác đang nghe CODA của một bản nhạc, được viết rất khéo bởi một nhạc sĩ tài danh. Thành sầu của ông như đang chịu một trận động đất mạnh đến mức “đất trời nghiêng ngửa” mà vẫn “chưa sụp đổ” và đã chuyển từ chỗ “chưa sụp đổ” – còn chờ đợi, còn một chút hy vọng mong manh - đến chỗ “không sụp đổ” – nghĩa là đã hoàn toàn tuyệt vọng. Nỗi buồn sầu đã dâng lên đến đỉnh điểm. Chữ “không” ở câu cuối “đắt” như kim cương và ẩn dụ của cả đoạn thơ thật tuyệt vời.

Cảm Xúc Dâng Tràn - Hồn Thơ Lai Láng

Cảm xúc tầng 1: Theo tôi, VHC thành công trong việc trao tặng độc giả những cảm giác khoái trá ở tầng 1. Ngôn ngữ thơ của ông chắt lọc, trau chuốt, hình tượng đẹp một cách lộng lẫy, kiêu sa, câu thơ mạch lạc, trong sáng. Nói theo ngôn ngữ bóng đá, kỹ thuật cá nhân của các cầu thủ trong Say Đi Em điêu luyện, thuộc đẳng cấp cao, nhìn qua là thấy có cảm tình và nể phục.

Cảm xúc tầng 2:  Trong Say Đi Em thế trận chữ nghĩa được dàn trải hợp lý, tạo hiệu quả tối đa cho việc chuyển tải tứ thơ. Vần và nhịp điệu giúp dòng chảy của tứ thơ thông thoáng. Độc giả như được xem một trận bóng đá mà đội phe mình công thủ, lên xuống nhịp nhàng, đấu pháp toàn đội kín kẽ, hoàn hảo.

Cảm xúc tầng 3: Là thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ - nếu đến mức dâng tràn, ta có hồn thơ. Để có hồn thơ bài thơ cần mấy điều kiện sau đây:

1/ Tứ thơ không phân mảnh đứt đoạn mà phải được dàn trải sao cho ý này nối tiếp ý kia, không ngừng nghỉ.

2/ Thể thơ phải như con kênh thông thoáng để khi câu chữ từ tứ thơ tuôn xuống có thể thành dòng thơ. Trong Say Đi Em, chỉ mới bước vào đầu đoạn 2 là men rượu đã ngấm, cảm xúc quyện lấy tứ thơ để cùng chảy một dòng.

3/ Thi sĩ phải nổi điên để cảm xúc sôi lên phủ mờ lý trí. Trường hợp Say Đi Em, bắt đầu vào đoạn 3 là lý trí đã trốn chạy khá xa, và đến giữa đoạn 3 thì hoàn toàn mất dạng. Cứ thế cho đến lúc thi sĩ “Say không còn biết chi đời”.

4/ Phải kết hợp để khi cảm xúc lên đến đỉnh điểm (cao trào) thì cũng là lúc thi sĩ tuôn ra điểm cốt yếu của tứ thơ. Đó sẽ là tiếng lòng chân thật của ngài. Ở Say Đi Em là đoạn 3 và đoạn 4.

Nếu thi sĩ cao hứng đến mức nổi điên mà điều kiện 1 và 2 không được thỏa mãn thì dù không có hồn thơ bài thơ cũng có chút ít cảm xúc tầng 3. Đây là thứ cảm xúc cho độc giả cảm giác khoan khoái đặc biệt hơn nhiều so với cảm xúc tầng 1 và 2.

Say Đi Em không những có đủ 4 điều kiện trên mà điều kiện nào cũng đạt đến mức hoàn hảo, hơn nữa, dòng chảy của tứ thơ nhanh và mạnh, nên có thể nói mà không sợ quá lời: Bài thơ có cảm xúc dâng tràn, hồn thơ lai láng. 

So sánh với Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác - một bài thơ được nhiều người khen là “hào khí ngất trời” - cảm xúc của Say Đi Em mạnh hơn nhiều

Những Nét Chính Trong Nghệ Thuật Thơ Của “Say Đi Em”

Say Đi Em là bài thơ có độ dài bậc trung – 44 câu, 283 chữ, mỗi câu trung bình có 6,4 chữ. Nhưng chỉ với số chữ, số câu như thế tác giả đã đưa vào khá nhiều tuyệt chiêu thi ca. Để độc giả không bị phân tâm hoặc sa đà vào những tiểu tiết có tính “kỹ thuật cá nhân” (câu chữ) ở đây tôi chỉ nhắc đến tài thơ của thi sĩ về mặt thế trận và cảm xúc. “Kỹ thuật cá nhân” sẽ được ghi lại ở “Phần Đọc Thêm”

ƯU ĐIỂM:

1/ Vẫn còn vóc dáng, âm điệu của Thơ Mới nhưng có nhiều phá cách độc đáo.

2/ Tứ thơ đáng chú ý: Nỗi lòng phức tạp của tác giả – mặc cảm tội lỗi nhưng đáng thương, đáng kính trọng, đặc biệt là sự can đảm, dám nói lên sự thật.

3/ Bài thơ có tính nhạc cao, nhất là nhịp điệu. Thơ, nhạc, họa hòa quyện lấy nhau thành một khung cảnh vừa sống động, vừa lung linh mờ ảo.

4/ Sử dụng điệp vận nặng tay ở phần sau đọan 3 - cột chặt hồn người đọc vào ý thơ, vào dòng cảm xúc, làm nổi bật ý nghĩa của đoạn thơ.
“Ta quá say rồi … Say không còn biết chi đời”.

5/ Đoạn kết hoàn hảo, để lại ấn tượng sâu sắc.

6/ Vần rất đậm nhưng không có hội chứng nhàm chán vần, đọc lên nghe không ngán, không nhàm, không chán. Không bị đắp mô nên tứ thơ thông thoáng, chảy thành dòng; cảm xúc cũng chảy thành dòng, đưa tứ thơ lên đỉnh điểm, tạo được cao trào.

7/ Lý trí trốn biệt, lời thơ Thật (viết hoa), cảm xúc dạt dào, hồn thơ lai láng.

8/ Đạt được mục đích quan trọng nhất, cao cả nhất của thơ là cho thi sĩ với độc giả, người với người cơ hội được trao đổi tâm tình bằng Tiếng Người Chân Thật. Vũ Hoàng Chương – tác giả của Say Đi Em - xứng đáng có một vị trí danh dự trong Bến Bờ Thi Ca.

KHUYẾT ĐIỂM:

Trong 3 câu

Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương...
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?

Cụm từ “cùng nhớ thương” hơi “chõi” với “tình nay sao héo”. Hai người “cùng nhớ thương” thì sao tình lại héo?


Vũ Hoàng Chương Say Thật Hay “Tỉnh Như Sáo”

Nhà phê bình Thu Tứ dẫn lời của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan về bài thơ Say Đi Em như sau:

Về tập Thơ say (1940) của Vũ Hoàng Chương, trong Nhà văn hiện đại Vũ Ngọc Phan viết “(tác giả) rất chú trọng đến sự gọt dũa lời thơ (...) Ðọc thơ ông người ta thấy ít cảm động (...) Người ta có cái cảm tưởng đó chỉ là những lời nhớ hão, thương hờ.” Riêng về bài sau đây (Say Đi Em), nhà phê bình nhận xét “cái say (của Vũ Hoàng Chương) là cái say phát ra ở điệu thơ, ở nghệ thuật của ông, hơn là ở những tính tình ông thổ lộ.”(1)

Và nhà phê bình Thu Tứ đưa ra cảm tưởng của mình:

Ðọc thơ ông Vũ này, rồi đọc lời bình thơ của ông Vũ kia, thấy phân vân. Có phải Vũ Hoàng Chương “nhớ hão, thương hờ”? Hay thực ra ông nhớ thật, thương thật, chỉ những lời quá trau chuốt của ông gây cảm tưởng kém chân thành?

“Ta quá say rồi”, nhưng lời thơ của ta cứ tỉnh như sáo, rắc rối hình như là ở đó...(1)



Mặc dù rất kính trọng kiến thức rất rộng của hai nhà phê bình Thu Tứ và Vũ Ngọc Phan về Văn Học, tôi không đồng ý với nhận định của hai ông về bài thơ Say Đi Em.

Trong số rất nhiều định nghĩa thơ tôi may mắn gặp được định nghĩa đề cập đến thời điểm thi sĩ cầm bút làm thơ của William Wordsworth:

"Poetry is the spontaneous overflow of powerful feelings: it takes its origin from emotion recollected in tranquility”. 
"Thơ là cm xúc mnh m t đng trào ra, khởi đi từ cảm xúc được hồi tưởng trong sự tĩnh lặng." (5)

Có nghĩa là, trái với suy nghĩ của nhiều người, tuyệt đại đa số thơ được sáng tác, không phải ngay lúc tác giả tiếp cận với cảnh thơ mà là sau đó một thời gian – dài ngắn tùy thi sĩ, tùy “độ lớn rộng” của đề tài, của tứ thơ và độ dài của bài thơ. Đó là thời gian ấp ủ, thai nghén tứ thơ. VHC viết Say Đi Em - một bài thơ bề thế (44 câu, 283 chữ) - không phải lúc say bí tỉ ở vũ trường mà là một lúc tĩnh lặng nào đó khi đã về nhà. Có thể sau đó vài ngày. Có thể vài tuần, vài tháng, và cũng có thể cả năm.

Từ một câu nói, một cảnh tượng hay một cái gì đó tình cờ khơi gợi, kỷ niệm xưa bùng cháy trong tâm khảm và thi sĩ ghi lại bằng sự hồi tưởng của mình.

Câu nói của Thu Tứ 
“’Ta quá say rồi’, nhưng lời thơ của ta cứ tỉnh như sáo, rắc rối hình như là ở đó...”

là nhận xét của một người chưa làm thơ, hoặc làm thơ mà chưa hiểu được, chưa thấy được, chưa ý thức được tiến trình làm thơ của mình.

Ta quá say rồi” không phải là lời của VHC lúc đang say rượu ở vũ trường mà là phát biểu của một VHC khác, ở một nơi khác, đang hồi tưởng, để ghi lại bằng thơ cái tâm trạng của anh chàng VHC say bí tỉ ở vũ trường hôm đó.

Khi thi sĩ cao hứng đến mức nổi điên, con chữ cứ liên tục trào ra ngòi bút. Lúc ấy, tính “xạo” của cái tôi văn hóa (và cái tôi teo chim, nếu có) sẽ biến mất; những gì viết ra sẽ là sản phẩm (không gian dối) của cái tôi đích thực. Tuy nhiên, lời thơ và cả thế trận chữ nghĩa – dù không có sự kiểm soát của lý trí - vẫn mang dáng dấp đẳng cấp của nhà thơ. Ngôn chữ trau chuốt, cao sang không vì thế mà chuyển thành bình thường, dân dã. Câu thơ gọn gàng, trong sáng không vì thế mà thành tối mù, khó hiểu.

Hơn nữa, khi tứ thơ đã dàn trải xong, thi sĩ có quyền quay lại - với sự hỗ trợ của lý trí - để điều chỉnh, sửa chữa, miễn là đừng “đắp mô” cản hoặc làm lệch dòng chảy của cảm xúc. 

Hồn thơ, tức là cái hơi nóng của cảm xúc tầng 3, không phải cứ mò mẫm, nắn bóp từng chữ, từng câu là “bắt” được nó. Cần phải có một tâm hồn nhạy bén, có thể “cảm” được “hận thù đằng đằng”, “đau thuơng chất ngất”, “hào khí ngất trời” … không phải từ con chữ, từ câu thơ, mà từ “giữa những hàng kẻ” để “lấy hồn ta hiểu hồn người” (Hoài Thanh).

Trong bóng đá, không phải lúc nào cầu thủ trên sân cũng tỉnh táo đi bóng, chuyền bóng, sút bóng theo đúng bài bản của huấn luyện viên đưa ra. Đôi khi tình huống xảy ra quá nhanh, không có thì giờ để suy nghĩ tính toán. Lúc ấy cầu thủ phải dựa vào sự nhạy bén, vào giác quan thứ 6 của mình để phản ứng, để chạy, để chuyền, để sút. Rất nhiều khi phản ứng ngẫu hứng như vậy lại sản sinh ra những đường chuyền “đẹp như mơ”, những cú đệm bóng nhẹ nhàng nhưng lại “bẻ gẫy lưng” thủ thành đối phương ghi bàn thắng. Nhiều cầu thủ xem lại khúc phim đá ngẫu hứng của mình cũng lắc đầu, le lưỡi, không hiểu sao mình có thể “tài tình” như thế được. Chính lúc cao hứng, nổi điên, chơi xuất thần, “phi bài bản” như vậy đã tạo nên nét đẹp đặc biệt của bóng đá, mới đưa bóng đá lên hàng nghệ thuật.

Trong Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc, Nguyễn Duy – trong lúc cao hứng đến mức điên tiết – đã viết về những tệ hại của XHCN và con người Việt Nam đúng và thật quá, ngôn ngữ hình tượng mạnh mẽ, sinh động và táo bạo quá. Chính ông sau này cũng phải công nhận “khi viết xong thì chính bản thân tôi cũng bất ngờ bởi vì không nghĩ là mình viết được những câu thơ như vậy.”

Một ông thi sĩ Trung Quốc nào đó, nói về kinh nghiệm của mình trong việc uống rượu đã viết:

Dục phá thành sầu duy hữu tửu

Dịch sát nghĩa:

Chỉ có rượu mới phá được thành sầu.

Câu đó có thể đúng với rất nhiều nguời bầu bạn với Thần Men, nhưng với Vũ Hoàng Chương trong Say Đi Em thì có sự khác biệt; phải chăng là do nỗi sầu của ông quá sâu đậm? Khi đã đến đỉnh điểm của cơn say - “Say không còn biết chi đời” – thi sĩ họ Vũ đã thốt lên: 

Nhưng em ơi
Ðất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Ðất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ, em ơi!

những lời mà theo tôi, hoàn toàn thoát khỏi sự kiềm tỏa của lý trí, và do đó, tuyệt đối không thể là những lời dối trá.

Hai nhà phê bình văn học tiếng tăm, đặc biệt là Vũ Ngọc Phan, mà không cảm được hồn thơ, không nhận ra được sự chân thật trong lời thơ, tứ thơ của Say Đi Em thì kể cũng lạ.


Kết Luận 

Vũ Hoàng Chương, bằng kỹ thuật thơ điêu luyện của mình, đã tạo được dòng chảy thông thoáng cho tứ thơ. Nhờ thế cảm xúc mạnh mẽ trong cơn say cũng chảy thành dòng, sóng sau dồn sóng trước. Khi cơn say lên đến đỉnh điểm, cảm xúc dâng lên cao ngất, cũng là lúc tứ thơ vừa chấm dứt – bài thơ kết thúc ở cao trào, hồn thơ lai láng. Với cảm xúc ở tầng 3 mạnh mẽ như thế, hồn thơ nóng bỏng như thế, lý trí đã bị phủ mờ. Lời thơ lúc ấy – trào ra qua một ngõ ngách nào đó từ vô thức – đích thị là tiếng lòng chân thật của thi sĩ. 

Trong bài thơ Say Đi Em, thi sĩ của chúng ta, nhờ thấm hơi men, đã có thể đưa lý trí của mình “đi chỗ khác chơi” để có một thi phẩm vừa chân thật vừa thấm đẫm hồn thơ. Ông đã làm được điều mà ngay cả những nhà thơ siêu thực – bỏ rất nhiều công sức để nghiên cứu, thử nghiệm, nhằm loại bỏ lý trí (để tìm lời thật) trong thơ – cũng chỉ thành công phần nào về mặt hình thức. Họ tuy tạo được những vần thơ “phi logic”, có “những va đập chói lòa của từ ngữ” (J. Vaché), có khả năng ngăn cản lý trí của người đọc bước vào bài thơ, nhưng đồng thời cũng chặt luôn cây cầu giao cảm giữa tác giả và độc giả (7).

Theo tôi, với bài thơ Say Đi Em, Vũ Hoàng Chương đã xứng đáng được mời vào ngồi một chỗ trang trọng trong Bến Bờ Thi Ca, nơi tụ hội những thi sĩ đã có tác phẩm mà qua đó, nhờ đó, thi sĩ với độc giả được cùng nhau trò chuyện bằng Tiếng Người Chân Thật.

Phạm Đức Nhì

CHÚ THÍCH:



1 / (Vũ Hoàng Chương, Thu Tứ, gocnhin.net)
2/ (Chi Tiết Thú Vị Về Khoa Thi Nho Học Cuối Cùng, Chí Đức, kienthuc.net.vn)
3/ (Vũ Hoàng Chương, Wikipedia.org)
4/ (Thiên Tình Sử Của Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương - Phần 1, Phạm Thị Nhung, Cỏ Thơm)
5/ (William Wordsworth Quotes, Brainy Quote, brainyquote.com)
6/ (Thiên Tình Sử Của Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương - Phần 2, Phạm Thị Nhung, Cỏ Thơm)
7/ Vài câu, đoạn thơ Siêu Thực:
     a/ Bông hoa này của núi rừng đã vàng đi như những giọt lệ của chúng ta (Shéhadé)
     b/ Dây trường xuân / thân thể tôi...
         Đảo / cái bụng của nó...
         (Char)
     c/ Trên cây cầu, vào cùng một giờ
         Cũng vậy hạt sương trên đầu con mèo cái đang tự dối mình.
         (Bréton)
      d/
          Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa 
          Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà 
          Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm 
          Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa 

          Buồn hưởng vườn người vai suối tươi 
          Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời 
          Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu
          Duyên vàng da lộng trái du ngươi 
          (Buồn Xưa, Nguyễn Xuân Sanh, thivien.net)

Phần Đọc Thêm

Nét Đẹp Kiêu Sa Của Ngôn Ngữ Thơ Trong “Say Đi Em”

Ở đây tôi xin tuyển chọn một số chỗ có ngôn ngữ thơ hay, đẹp để thay cho mục Ngôn Ngữ Thơ, lẽ ra phải có, trong bài bình thơ. Mục đích là để bài viết khỏi bị loãng vì những chi tiết chưa đến mức thật quan trọng. Mong những độc giả thích lối bình thơ bài bản thông cảm và lượng thứ.

1/

Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ

Đoạn thơ này chứng tỏ tình của VHC đối với mấy cô ca ve là thứ tình hờ. Chỉ cần hồn ngả, lòng nghiêng là “yêu thương” trôi tuột mất một cách dễ dàng và nhẹ nhàng.
Tôi nhớ đến bài thơ Nghiêng của La Thụy. Nhà thơ, chủ trang web Bâng Khuâng, cho lòng chao nghiêng để hương mê lắng đọng

Chừ hoài niệm
Len lỏi ngoằn ngoèo trong ký ức
Tình xưa hẹn ước
.

Có “chông chênh” thì chỉ “rơi mất ánh trăng thề” chứ tình thì vẫn đầy ắp. Thi ảnh của Nghiêng đẹp hơn, nhưng VHC còn sử dụng 2 câu sau để làm cầu nối với đoạn kế tiếp, và đó là một mặt của tấm bản lề vừa khít. Cho nên xét về thơ thì có thể nói kẻ tám lạng người nửa cân. Còn nói về tâm hồn thì nhà thơ La thụy hiền lành và dễ thương hơn.

2/

Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gởi cánh tay hờ

Ai khoái món khiêu vũ lại thường được nhảy với đào ruột của mình như Vũ Hoàng Chương sẽ dễ thấm, dễ cảm được cái hay của câu thơ “Đê mê hồn gởi cánh tay hờ” này.

3/

Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt

Dùng những cụm từ “lơi lả ánh đèn”, “cung bậc ngả nghiêng” để nói về trạng thái say đã là xuất sắc rồi. Còn say cho “điên rồ xác thịt” thì quá tuyệt.

4/

Năm 1948, trong bài Đôi Bờ của Quang Dũng có 2 câu

Thoáng hin em v trong đáy cc
Nói cưi như chuyn mt đêm mưa

nói về hình ảnh, kỷ niệm xưa ẩn hiện “trong đáy cốc”, đẹp một cách hiền dịu.
VHC viết Say Đi Em trưc đó khong 10 năm cũng có câu

 Có ai ghì hư ảnh sát kề môi”

cũng diễn tả những ảnh hình ẩn hiện ở đáy ly rượu.

Hay, có lẽ cả hai đều hay, nhưng theo tôi, câu thơ của Quang Dũng còn hơi tỉnh (không đủ men say) còn câu thơ của VHC mạnh bạo hơn, cuồng nhiệt hơn.
(Nguồn: Quang Dũng - tác phẩm chọn lọc, NXB Trẻ, 1988)


5/ Chữ “không” ở câu cuối thật “đắt”

“Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ, em ơi.

Xin được lập lại mấy lời về cái “đắt” của chữ “không” này.

Thành sầu của ông như đang chịu một trận động đất mạnh đến mức “đất trời nghiêng ngửa” mà vẫn “chưa sụp đổ” và đã chuyển từ chỗ “chưa sụp đổ” – còn chờ đợi, còn một chút hy vọng mong manh - đến chỗ “không sụp đổ” – nghĩa là đã hoàn toàn tuyệt vọng. Nỗi buồn sầu đã dâng lên đến đỉnh điểm. Chữ “không” ở câu cuối “đắt” như kim cương.

Trong lúc tra cứu để viết bài này tôi có nghe ca sĩ Anh Thư hát Say Đi Em, bài thơ của Vũ Hoàng Chương được Nguyễn Dũng phổ nhạc. Bản nhạc kết thúc ở câu “Đất trời nghiêng ngửa, đất trời nghiêng ngửa, mà thành sầu chưa sụp đổ, em ơi”. Nhạc sĩ Nguyễn Dũng – không biết vì lý do gì – đã bỏ câu “Thành sầu không sụp đổ”. Thật đáng tiếc, anh đã bỏ đi chữ hay nhất, câu thơ hay nhất của bài thơ.

Mời độc giả, nếu muốn, nghe bản nhạc ở link sau đây:

6/ Hai chữ “em ơi” ở câu đầu và câu cuối đoạn 4:

Nhưng em ơi
Ðất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Ðất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ, em ơi!

Về ý nghĩa thì gần như dư thừa, chẳng đóng góp được gì, nhưng được đặt đúng chỗ và kết hợp với nhau một cách khéo léo đã tạo được âm vang tuyệt vời cho đoạn kết.